VĂN CÚ KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

SỐ 1718

QUYỂN 08

Đời Tùy, Thiên Thai Trí Giả Đại sư thuyết

(Phần Thượng)

Từ “Dần dần đầy đủ đạo Bồ-tát” trở xuống, là thọ ký. Văn chia làm bảy:

  1. Nhân viên.
  2. Từ “Qua vô lượng” trở xuống: Quả mãn.
  3. Quốc độ rộng lớn thanh tịnh.
  4. Tên của quốc độ kiếp số .
  5. Thọ lượng của Phật.
  6. Pháp trú nơi Đại thừa lâu xa.
  7. Sau khi Phật diệt độ cúng dường xá lợi.

– Phần ba: Quốc độ rộng lớn thanh tịnh. Lại chia làm năm:

1. Quốc độ rộng lớn nghiêm tịnh. “Đất bằng phẳng như bàn tay”, kinh đặc biệt nói “như bàn tay” mà không nói cánh tay. Vì cánh tay không bằng phẳng thì không thể dẫn dắt được. Đáy biển có loại đá gọi là “bàn tay”, đá này không có một chút đất bám, đều bằng phẳng, đúng là loại như “bàn tay biển”. Lại, kinh Hiền Kiếp nêu như bàn tay Phật, chẳng dẫn bàn tay người.

2. Toàn là đường thiện.

3. Nhân thiên phước tuệ đầy đủ. Kinh Nguyệt Tạng quyển chín nói “pháp thực, hỷ thực, thiền thực”. Kinh văn đây nói chung “pháp hỷ thực và thiền duyệt thực”. Phân biệt nên có ba thứ khác nhau.

4. Chúng Bồ-tát Thanh văn số rất nhiều.

5. Tổng kết. Kinh Nguyệt Tạng quyển năm nói: Không sát sinh thì được mười thứ công đức: Thứ nhất: Đối với tất cả chúng sinh được vô sở úy (không sợ), cho đến Thứ mười: Khi mạng chung sinh vào đường thiện sau được làm Phật. Nước của Phật đó không có công cụ binh khí để giết hại, người trong nước sống lâu. Không trộm cắp được mười thứ công đức: Thứ nhất: Quả báo đầy đủ mà lớn (đại), làm việc quyết đoán không có khó khăn ngăn ngại, cho đến Thứ mười: Chết sinh vào đường thiện, sau làm Phật, nước của Phật ấy hoa báu trang nghiêm đầy khắp. Không dâm dật thì được mười thứ công đức: Thứ nhất: Các căn luật nghi, làm việc quyết đoán cho đến Thứ mười: Chết sinh vào đường thiện, sau làm Phật, nước của Phật ấy không có người nữ. Không vọng ngữ thì được mười thứ công đức: Thứ nhất: Chúng sinh tin lời nói của người ấy, cho đến Thứ mười: Chết sinh vào đường thiện, sau làm Phật, cõi của Phật ấy không hôi hám, thường đầy hoa báu. Không lưỡng thiệt (nói hai lưỡi) thì được mười thứ công đức: Thứ nhất: Thân không bị hoại, cho đến Thứ mười: Chết sinh vào đường thiện, sau làm Phật, cõi của Phật ấy ma không làm hại được quyến thuộc. Không ác khẩu thì được mười thứ công đức: Thứ nhất: Lời nói êm diệu cho đến Thứ mười: Chết sinh vào đường thiện, sau làm Phật, nước của Phật ấy pháp âm vang khắp. Không ỷ ngữ (nói thêu dệt) thì được mười thứ công đức: Thứ nhất: Được trời người thương kính, cho đến Thứ mười: Chết sinh vào đường thiện, sau làm Phật, chúng sinh cõi ấy ghi nhớ lâu không quên mất. Không tham thì được mười thứ công đức: Thứ nhất: Thân căn không thiếu khuyết, cho đến Thứ mười: Chết sinh vào đường thiện, sau làm Phật, cõi nước của Phật ấy không có ác ma ngoại đạo. Không sân thì được mười thứ công đức: Thứ nhất: Xa lìa tất cả sân, cho đến Thứ mười: Chết sinh vào đường thiện, sau làm Phật, người ở cõi nước của Phật ấy đều đắc Tam-muội. Không tà kiến thì được mười thứ công đức: Thứ nhất: Tâm tánh nhu thiện, cho đến Thứ mười: Chết sinh vào đường thiện, sau làm Phật, người ở cõi của Phật ấy có chánh tín.

Kệ có hai mươi mốt hàng rưỡi, tụng Phát tích Thọ ký bên trên. Chia làm hai phần : 1. Mười bốn hàng, tụng Phát tích. 2. Bảy hàng rưỡi, tụng Thọ ký.

Tụng Phát tích lại có hai: 1. Bảy hàng, tổng phát tích Thanh văn, tụng ý “chúng con” bên trên. 2. Bảy hàng, tụng phát tích Mãn Nguyện bên trên.

Trong Tổng Phát tích chia làm năm: 1. Một hàng, tổng nêu: Phật tử vì thực hành khó nghĩ bàn, đã chứng đắc pháp thùy tích. 2. Từ “Biết chúng ưa pháp nhỏ” trở xuống một hàng, nêu nguyên do phát tích. 3. Từ “Dùng vô số phương tiện” trở xuống hai hàng, nêu lợi ích của thùy tích. 4. Từ “Trong ẩn hạnh Bồ-tát” trở xuống, hai hàng, nêu bên trong ẩn chứa Đại đạo, ngoài hiện lầm lỗi của Tiểu thừa. 5. Từ “Ta nghe nói đủ cả”. trở xuống, một hàng, chỉ lược ức chế rộng. “Tiểu dục”: cầu Tiểu thừa, “giãi đãi” : thoái Đại thừa. Không ngững thị hiện làm Thanh văn, mà còn làm ngoại đạo và làm phàm phu với ba độc. Thân-tử hiện sân, Nan-đà hiện tham, Điều-đạt hiện si v.v…

Từ “Nay Phú-lâu-na đây” trở xuống, bảy hàng tụng phát bản tích của Mãn Nguyện. Văn trên có ba, nay lược tụng hai: 1. Năm hàng: tụng hiển Bản quá khứ. 2. Từ “Đời sau cũng cúng dường” trở xuống, hai hàng: tụng hành nhân ở nơi ba đời chư Phật, lược không tụng bảy đức Phật và Phật hiện tại.

Từ “Cúng dường chư Như Lai” trở xuống, bảy hàng rưỡi: tụng Thọ ký. Văn trên có bảy, nay tụng bốn: 1. Nửa hàng đầu, tụng nhân viên. 2. Nửa hàng, tụng quả mãn. 3. Từ “Nước đó tên Thiện Tịnh” trở xuống, ba câu: tụng tên nước, kiếp. 4. Từ “Chúng Bồ-tát rất đông” trở xuống, năm hàng ba câu: tụng quốc độ rộng lớn thanh tịnh. Lược không tụng thọ mạng, pháp trụ, sau khi diệt xây tháp.

Phần thứ hai: Thọ ký một ngàn hai trăm vị. Văn chia làm ba phần: 1. Niệm thỉnh. 2. Thọ ký. 3. Lãnh giải. Phần Niệm thỉnh: như văn. Phần Thọ ký có trường hàng và kệ tụng. Trường hàng có ba phần: 1. Tổng chấp nhận thọ ký cho một ngàn hai trăm vị. 2. Biệt thọ ký cho Kiềutrần-như, Trần-như là người đầu tiên ngộ đạo, Thượng tọa đứng đầu, cho nên biệt thọ ký. 3. Biệt thọ ký cho năm trăm vị. Năm trăm vị tên đồng, nên phải biệt thọ ký.

Hỏi: Chỉ thấy năm trăm vị được thọ ký, sao không thấy một ngàn hai trăm?

Đáp: Năm trăm đây tức là số một ngàn hai trăm. Trong phần kệ tụng, một hàng rưỡi cuối là tổng thọ ký cho bảy trăm, cho nên nói một ngàn hai trăm.

Lại, Phẩm Trì nói: “Ta trước nói chung tất cả hàng Thanh văn đều đã thọ ký” tức là chỉ một hàng rưỡi đó, chẳng phải chỉ thọ ký cho bảy trăm Thanh văn thôi.

Kệ tụng có mười một hàng chia làm hai: 1. Chín hàng rưỡi, tụng thọ ký Kiều-trần-như và năm trăm vị. 2. Một hàng rưỡi, tổng thọ ký hết thảy Thanh văn.

Văn nói về năm trăm vị lãnh giải có Trường hàng và Kệ tụng. Phần Trường hàng chia hai phần: 1. Kinh gia trình bày hoan hỷ. 2. Tự trình bày lãnh giải.

Phần Kinh gia trình bày, chia làm hai phần: 1. Vui mừng: nay được hiểu cho nên hoan hỷ. 2. Hổ thẹn vì xưa không hiểu, cho nên tự trách. Trong phần Vui mừng lại có hai : Một : trong tâm vui mừng; Hai : bên ngoài thì cung kính. “Ăn năn lỗi mình mà tự trách”: tức là hổ thẹn vì xưa không hiểu.

Từ “Thế Tôn! Chúng con” trở xuống, là phần hai: Tự trình bày lãnh giải. Có hai phần: 1. Pháp thuyết. 2. Thí thuyết.

Trong Pháp thuyết lại có hai: 1. Hối hận vì được Tiểu trí cho là đủ. 2. Trách mình căn độn khó ngộ. Từ “Thế Tôn” cho đến “diệt độ” là: Hối hận tự trách lúc trước mình mê, được Tiểu mà cho là đủ mà không biết cầu Đại. Từ “Nay mới biết” là Trách căn độn bắt đầu ngộ không biết sớm hơn. Nay biết Tiểu thừa chẳng phải cứu cánh, Đại thừa là chân thật.

Trong Thí thuyết có hai: 1. Lược; 2. Chánh nêu thí dụ. Từ “Như người vô trí” trở xuống, là Lược nêu Thí dụ để so sánh. Từ “Vì sao?” trở xuống: giải thích ý vô trí.

Thí thuyết có hai:

1. Thí dụ Say rượu: Ví như “tự hối hận, được Tiểu mà cho là đủ, không biết cầu Đại” trong phần Pháp thuyết bên trên; lãnh hội được ý “trong đời trước thiết lập quyền” ở phần Pháp thuyết trước.

2. Thí dụ Bạn thân giác ngộ cho: Ví như “tự trách căn độn khó ngộ, nay mới biết” trong phần Pháp thuyết bên trên; lãnh hội được ý “trong đời trước hiển thật” ở phần Pháp thuyết trước.

Thí dụ đầu lại có ba ý: 1. Cột châu trong áo, lãnh hội ý trên: “vương tử kết duyên”. 2. Say nằm không biết gì, lãnh hội ý trên: “gặp kia thoái Đại thừa”. 3. Say xong dậy đi đến nước khác, lãnh hội ý trên: “dùng Tiểu để dẫn dắt”.

Ý thứ nhất: Cột châu trong áo. “Ví như có người”: người hàng nhị thừa. “Bạn thân”: vị vương tử thứ mười sáu ngày trước. “Nhà”: Đại thừa giáo là nhà. “Say rượu mà nằm”: Lúc bấy giờ đại cơ bỗng phát sinh, vô minh tạm thời bị hàng phục. Được nghe kinh thì trong tâm hiểu chút ít, do vô minh nặng cho nên mê lầm trở lại. “Say” có hai nghĩa: 1. Say nặng, hoàn toàn không biết gì. 2. Say nhẹ, hiểu biết chút ít, có tư duy thô đối với sự lý rồi thì quên mất, cũng gọi là không biết. Tuy có hai nghĩa cuối cùng vẫn thành tựu nghĩa buộc châu vào áo như dụ “Tiếng trống độc”(độc cổ). “Người bạn thân có việc quan phải đi”: vương tử vì ở chỗ khác có cơ duyên thích hợp đến ứng, cho nên nói “phải đi”. Hoằng pháp giáo hóa chúng sinh, đây chẳng phải việc riêng, cho nên nói “việc quan”. “Châu báu vô giá”: Nhất thừa thật tướng, chân như trí quí báu. “Cột trong áo”: là tàm quí nhẫn nhục có thể ngăn ngừa sân nhuế và phòng ác bên ngoài tức là “áo ngoài”; trong tâm tín ưa là thiện căn bên trong, tức là “áo trong” (lót). Lúc ấy nghe pháp, có chút tin hiểu ưa muốn, tức liễu nhân trí nguyện chủng tử.

Ý thứ hai : “Say nằm không biết gì”. Vô minh tâm khó suy lường, có tư duy thô đối với sự lý rồi lại không nhớ, đây là lãnh hội ý “giữa đường biếng nhác thoái lui, không thọ Đại pháp”.

Ý thứ ba “Say xong dậy đi dạo đến nước khác”: lãnh hội ý: “giữa đường dùng Tiểu dẫn dắt, thọ giáo hóa Tam thừa bên trên”. Thiện căn muốn phát, chán khổ cầu vui, cho nên nói “sau khi dậy đi dạo”. Do vô minh che lấp, không hiểu biết hướng bản xứ cầu cơm áo Đại thừa, cho nên nói: “hướng đến nước khác cầu cơm áo Tiểu thừa”. Nếu ma Phật đối nhau, thì cõi ma sinh tử là “nước khác”, Phật pháp Đại Tiểu đều là “nước mình”. Nếu căn cứ Tiểu Đại đối nhau, thì Tiểu thừa chưa thoát khỏi sinh tử, cũng là “nước khác”, Đại thừa vĩnh viễn thoát sinh tử, chính là “nước mình”, cuối cùng cũng trở lại cội nguồn. Rõ ràng trái với nước Đại thừa hướng đến nước Tiểu thừa, là không biết lấy hạt châu để tự nuôi, mà đi làm thuê làm mướn tự nuôi thân, nhận lấy tiền công từng ngày được chút ít cho là đủ.

Từ “Về sau người bạn thân gặp lại” trở xuống, là thí dụ Bạn thân giác ngộ cho, lãnh hội ý “vì bản nhân duyên đó, nay thuyết Pháp Hoa, đồng ban cho xe lớn” bên trên. Đây chia làm ba phần: 1. Quở trách. 2. Chỉ bày hạt châu. 3. Khuyên đem đổi sử dụng. Quở trách: dụ cho “động chấp sinh nghi” bên trên. Chỉ bày hạt châu: dụ cho nhân duyên đời trước. Khuyên đổi sử dụng : dụ cho được thọ ký làm Phật. Ba vòng đều có ba ý này. Trong Pháp thuyết ta khiến thoát khổ phược, tức là Quở trách. Chương năm đức Phật tức là Chỉ bày hạt châu, Thân-tử được thọ ký tức là Khuyên đem đổi sử dụng. Trong Thí thuyết : “Ta trước không nói đều là Bồ-đề ư ?”, là Quở trách. Ba xe một xe, tức là Chỉ hạt châu. Hàng trung căn được thọ ký, tức là Khuyên đem đổi sử dụng. Lại nữa, nói về Nhân duyên đời trước của hàng hạ căn: “Các ông khéo lắng nghe”, tức là Quở trách. Lại giảng kết duyên trở lại vì họ mà thuyết Đại thừa, tức là Chỉ bày hạt châu. Hạ căn được thọ ký, tức là Khuyên đem đổi sử dụng.

Đối chiếu ba ý trong dụ “Buộc châu trong áo” với ba vòng thuyết pháp, như sau: Ban đầu đức Phật ngồi dưới gốc cây dự định dùng Đại thừa để hóa độ tức là “Buộc hạt châu”. Không có cơ duyên, thôi hóa, tức là “say nằm”. Suy lường thiết lập phương tiện, tức là “đứng dậy đi”. Trong các thí dụ trước: Ở nơi hai vạn ức Phật, tức là “Buộc hạt châu”. Sai người đuổi theo, mê ngã xuống đất, không nhận, tức là “say nằm”. Ba xe dẫn đắc, tức là “đứng dậy đi”. Trong phần nói về Nhân duyên: Ở chỗ Phật Đại Thông Trí Thắng, tức là “buộc hạt châu”. Giữa đường biếng nhác thoái lui, tức là “say nằm”. Dùng Tiểu tiếp dẫn, tức là “đứng dậy đi”. Những thứ này, đều gọi là lãnh hội Quyền. “Ngày tháng năm đó”: là chỉ ở nơi đức Phật Đại Thông Trí Thắng.

Từ “Đức Phật cũng như vậy” trở xuống, là Hợp thí. Thí vốn có hai, nay đều có ba ý. Hợp thí dụ trươc : Từ “Giáo hóa chúng con” trở xuống, hợp ý thứ nhất “buộc hạt châu”. Từ “Mà chúng con liền bỏ quên” trở xuống, hợp ý thứ hai “Say không biết gì”. Từ “Đã đắc La-hán” trở xuống, hợp ý thứ ba “đứng dậy đi du hành”. Từ “Tất cả trí nguyện” trở xuống, hợp thí dụ sau: Bạn thân giác ngộ cho. Trên có ba ý, đây cũng có ba. Từ “trí nguyện chẳng mất” trở xuống, là hợp ý thứ nhất : Quở trách. Từ “Ta từ lâu đã khiến các ông” trở xuống, hợp ý thứ hai “Chỉ hạt châu”. Từ “Chúng con nay mới biết” trở xuống, hợp ý thứ ba “Khuyên đem đổi sử dụng”.

Phần Kệ tụng tiếp mười hai hàng rưỡi, chia làm hai phần: Phần một : Một hàng rưỡi, tụng trong tâm được hiểu ; lại gồm có hai ý: 1. Một hàng, tụng ý vui mừng. 2. Nửa hàng, tụng ý hối hận tự trách.

Phần hai: Từ “Trong Phật báu vô lượng” trở xuống, mười một hàng, tụng tự trình bày lãnh giải. Trên văn có hai ý. Đây thì : Nửa hàng đầu, tụng hối hận tự trách được chút ít cho là đủ. Lược không tụng “khó ngộ, nay mới biết”. “Như người ngu vô trí” trở xuống nửa hàng tụng lược nêu thí dụ, “Bèn tự cho là đủ” tụng giải thích ý vô trí. Tiếp mười hàng, tụng thí thuyết khai hợp. Sáu hàng đầu tụng khai, bốn hàng sau tụng hợp. Phần Khai bên trên có hai ý.Đây cũng có hai: 1. Bốn hàng đầu, tụng Bỏ báu mà không biết. 2. Hai hàng sau, tụng Bạn thân giác ngộ cho. Phần còn lại văn dễ hiểu.

Phẩm Thứ 9: THỌ HỌC VÔ HỌC NHÂN KÝ

Nghiên cứu Chân đoạn Hoặc, gọi là “Học”. Chân đến tột cùng, Hoặc đoạn trừ hết, gọi là “Vô học”. Nghiên cứu tu chân lý, hâm mộ cầu tri kiến thù thắng gọi là “Học”. Học vị tại ba quả, bốn hướng chân vô lậu tuệ. Quả A-la-hán thì nghiên cứu lý đã cùng, Thắng kiến đã rốt ráo, không còn học nữa nên gọi là “Vô học”. Căn cứ giáo giải thích tên phẩm: Phân tích pháp, nghiên cứu Chân, gọi là Hoặc tận, Chân cùng, thì gọi là “Vô học”. Đây là ý của Tam tạng giáo. Lĩnh hội pháp, nghiên cứu Chân, gọi là “Học”. Không có Chân không có Hoặc, gọi là “Vô học”. Đây là ý của Thông giáo. Nghiên cứu từ cạn đến sâu, gọi là “Học”, thông biệt Hoặc tận, Quyền Thật lý cùng, gọi là “Vô học”. Đây là ý Biệt giáo. Nghiên cứu cùng tận Như Lai tạng hữu học vô học, pháp tánh thật tướng phi học phi vô học, mà học mà vô học v.v… Chính hai ngàn người này, hoặc là người học, hoặc là người vô học, đồng là một hạng, một thời thọ ký đồng một danh hiệu, cho nên riêng làm một phẩm. Phẩm này là đoạn thứ hai trong văn Thọ ký.

Văn phẩm này chia làm hai: 1. Thỉnh ký. 2. Thọ ký. Trong thỉnh ký lại có hai: 1. Hai người thỉnh. 2. Hai ngàn người thỉnh. Hai người thỉnh ký lại có hai: 1. Im lặng suy nghĩ. 2. Phát lời thỉnh ký. Phát lời thỉnh ký lại có hai: 1. Dẫn theo lệ cũng nên có phân chia. 2. Dẫn vọng. Hai người rất thân là đối tượng mà chúng trong pháp hội bấy giờ hướng về. La-vân là con của đức Phật khi còn ở đời rất thân trọng, A-nan hộ trì pháp tạng trong đạo rất thân nhiều, hai người rất thân, trọng mà không được biệt ký, thì chúng không đủ để trông mong.

Hỏi: Hoặc trọng hoặc thân hơn lẽ ra đồng bậc thượng, vì sao lại ở đây? Nếu như nêu số chúng hai người ở trong số đứng đầu được thọ ký sao lại ở dưới?

Đáp: Tổng cùng một ngàn hai trăm người được thọ ký, hai người đã đồng hạng ở trên, nay lại thọ ký riêng thôi.

Hai ngàn người thỉnh ký chỉ có mặc niệm dẫn theo lệ, hai ý đồng cho nên nói như sở nguyện của A-nan. Không phát ngôn: Là các việc không trọng không thắng… Thọ ký lại có hai: Trước thọ ký hai người, sau thọ ký hai ngàn người. Trong phần A-nan được thọ ký lại có năm: 1. Trường hàng. 2. Kệ tụng. 3. Tám ngàn Bồ-tát sinh nghi. 4. Như Lai phát tích giải thích nghi. 5. A-nan hiển bản thuật tán thán.

Nghi: Chung nghi Thanh văn ngày nay phát tâm liền nhờ Phật thọ ký ở nước thanh tịnh như đây. Trước trong Phương Đẳng thọ ký các Bồ-tát, trải qua vô lượng kiếp tu hành mới được Phật thọ ký, đức Phật liền phát tích giải thích nghi. Ngày xưa cùng ta đồng phát đại tâm, tức là đồng học, do ta tinh tấn nên siêu vượt trước làm Phật, còn kia thì đa văn nên hộ trì kinh, Tích môn thì làm thị giả (A-nan), Bản địa thì như đây. Nay thọ diệu ký, sao đủ để nghi? Thọ ký các vị khác, thảy đều như văn.

Phẩm Thứ 10: PHÁP SƯ

Phẩm này có năm hạng Pháp sư: 1. Thọ trì. 2. Đọc. 3. Tụng. 4. Giải thuyết. 5. Thư tả (sao chép). Trong Đại luận nêu sáu hạng pháp sư, Tín lực cho nên “Thọ”, Niệm lực cho nên “Trì”, xem văn là “Đọc”, không quên là “Tụng”, tuyên truyền là “Thuyết”, kinh sách thánh nhân khó hiểu cần phải “Giải thích”. Sáu hạng Pháp sư, kinh này hợp Thọ trì làm một, hợp Giải thuyết làm một, chia Đọc tụng làm hai, và Sao chép, tổng cộng là năm. Nói theo Biệt giáo thì: bốn người tự hành, một người hóa tha. Đại kinh phân ra chín hạng: bốn người trước không giải thích, là địa vị đệ tử, năm người sau có giải thích là địa vị Thầy. Nói theo Thông giáo thì: Nếu tự tuân theo hành năm pháp, thì pháp thì là Pháp sư tự hành. Nếu dạy người khác năm pháp, thì là Pháp sư hóa tha. Tự mình tuân theo hành, thì Thông giáo gọi là đệ tử. Hóa tha, thì Thông giáo gọi là Pháp sư. Nay theo nghĩa của Thông giáo, cho nên gọi là Phẩm Pháp Sư. Nếu giảm số mà nói, thì tóm lược năm làm bốn, tức Bốn An lạc hạnh như sau nói. Nếu tóm lược bốn làm ba, thì”thọ” thì là ý nghiệp, “đọc, tụng, thuyết” là khẩu nghiệp, “Sao chép” là thân nghiệp. Nếu theo Biệt giáo thì khẩu nghiệp là hóa tha, thân ý nghiệp là tự hành. Theo Thông giáo thì: ba nghiệp tự tuân theo, tức là Pháp sư tự hành; ba nghiệp dạy bảo, tức là Pháp sư hóa tha; cho nên nói “Phẩm Pháp Sư”.

Lại, chính tam môn hành năm pháp này: Chỉ có tự huân tu, tức là Phước đức môn. Hoằng tuyên năm pháp, rộng làm lợi ích, tức là Hóa tha môn. Tự tu làm lợi ích chúng sinh, đều thuận với Phật giáo, tức là Báo ân môn. Nói theo Biệt giáo thì: Tự tu báo ân gọi là tự hành, lợi ích chúng sinh tức hóa tha. Nói theo Thông giáo thì: Tự tuân theo, khiến người khác tuân theo đều gọi là Pháp sư, cho nên nói Phẩm Pháp Sư. Lại, đọc tụng sao chép là hành ở ngoài, tức áo Như Lai. Thọ trì là hành ở trong, tức tòa Như Lai. Giải thuyết làm lợi ích cho người khác là nhà Như Lai. Nói theo Biệt giáo, thì Nhà Như Lai là làm thầy của người khác. Áo, tòa Như Lai là làm thầy của chính mình. Nếu nói theo Thông giáo thì không như vậy. Từ bi che chở chúng sinh, trí tuệ sắc bén trở về mình gọi là nhà Như Lai. Ngăn ngừa ác kia, che chắn khiến mình không xấu hổ, gọi là áo Như Lai. Tự mình đã an tâm nơi Không thì mới có thể an tâm người khác; an người an mình gọi là tòa Như Lai. Đây là tự tuân theo ba pháp, cũng gọi là Pháp sư. Muốn làm lợi ích chúng sinh thì phải dùng tâm từ bi để vào nhà Như Lai làm đầu tiên, trải qua sự nhẫn nhục làm nền tảng, cứu giúp người, dùng quên bản ngã làm gốc, năng hành ba pháp tuyên thông giáo pháp Đại thừa, tức là thế gian y chỉ, cho nên gọi là Pháp sư. Lại, tóm lược làm hai, nghĩa là : Tự hành và hóa tha, đây thì dễ hiểu không kể ra. Lại, tóm lược làm một, nghĩa là Như Lai hành đầy đủ tất cả hạnh. Bi tâm cứu hết thảy khổ, nghĩa là các thứ khổ của bốn đường, ba cõi, Nhị thừa, Bồ-tát v.v… Từ tâm ban tất cả vui, nghĩa là các thứ vui của nhân, thiên, Niết-bàn, thường trú v.v… Áo nhu hòa ngăn tất cả xấu ác, là ngăn tứ trụ vô tri vô minh… xấu ác. Tòa “Không”: quên tất cả tướng, nghĩa là hữu tướng, vô tướng, phi hữu tướng phi vô tướng, đây là ý của Thông giáo. Ý của Biệt giáo: “Từ bi” sinh tất cả thiện, “nhu hòa” ngăn tất cả ác, Tòa Không làm hết sạch tất cả tướng. Lại, Từ và Nhẫn lập tất cả phước đức. Tòa “Không” thành tựu tất cả trí tuệ. Trí tuệ là mắt, gọi là ngũ nhãn, phước đức thì đủ cái gọi là Lục độ. Lại, từ bi thắng tất cả Thanh văn Duyên giác, nhu hòa thắng hết thảy phàm phu ngoại đạo. Tòa “Không” thắng Bồ-tát Tích, Thể, thiên v.v… cho nên Kinh Tịnh Danh nói : “Ví như thắng oán thì mới có thể gọi là dũng cảm”. Lại, Từ bi phá thiên ma, nhu hòa phá ấm ma, tòa “Không” phá phiền não, tử ma. Kinh Đại Phẩm nói: “Hóa tất cả chúng sinh, quán hết thảy là Không, thì ma không thể hại….” Lại, Từ bi và Nhẫn nhục cho nên năng vấn, “Không” tòa cho nên năng đáp, đủ hai thứ trang nghiêm. Lại, quán Không cho nên năng vấn. Từ và Nhẫn cho nên năng đáp. Từ và Nhẫn cho nên năng gieo trồng, năng lập, năng nuôi dưỡng. Không tuệ cho nên năng nhổ, năng phá, năng dẫn dắt. Lại, Từ bi cho nên đâu có ngăn cách, nhu hòa cho nên đâu có chướng ngại, tòa “Không” cho nên đâu có tranh luận. Vượt xuất tam đế, cho nên gọi là Thắng Tràng. Bao hàm phổ nhiếp, gọi là Ma-ha-diễn. Vì chính Như Lai hành, cho nên nói là Tam-muội vương. Kinh dạy: “Tất cả thiện pháp thì Từ làm căn bản, Nhẫn nhục là đệ nhất đạo vô tướng tối thượng”. Nếu luận về hành theo Viên giáo, thì nói không thể hết…

Hỏi: Vì sao dựa theo ba pháp, để nêu Pháp sư ?

Đáp: Theo sự mà luận thì ắt phải lên nhà, chỉnh y phục, ngồi tòa mới có thể rộng diễn bày, cho nên dựa vào ba pháp.

Lại, sự lý hợp luận: Mê hoặc thì không ngoài ba thứ: 1. Dựa vào khổ quả khởi Hoặc. 2. Dựa vào kết nghiệp khởi Hoặc. 3. Dựa vào đế lý khởi Hoặc. Cho nên dùng ba môn mà khai thị dẫn dắt. Lại, theo lý: Do mê chân mà đoạ vào khổ, cho nên dùng Từ bi môn. Do mê thế tục mà chìm đắm trong Không, thọ lạc, cho nên dùng Hòa nhẫn môn. Do ở trong mê mà thành chướng trí, cho nên dùng Không môn…

Pháp là phép tắc, Sư là bậc thầy giáo huấn. Pháp tuy có thể làm

phép tắc qui chế, mà không thể tự nó mở rộng; lưu thông là do người. Năm cách để lưu thông kinh điển, mở rộng Phật pháp đều được gọi là “Sư”. Nêu pháp thành tựu tự hành, đều lấy diệu pháp làm thầy (Sư). Sư đối với diệu pháp, tự hành thành tựu, cho nên gọi “Pháp Sư”. Lại, năm hạng người có thể dùng diệu pháp làm bậc thầy huấn dạy người khác, cho nên nêu pháp coi là Sư, nên gọi là Phẩm Pháp Sư. Hoặc là tự mình tuân theo pháp, hoặc là pháp là bậc thầy dạy người khác, đều gọi là Pháp sư ; thì đây là giải thích tên phẩm theo nghĩa Nhân duyên. Phàm có nhiều cách giải thích, đều căn cứ pháp môn Viên giáo mà giải thích tên phẩm.

Ba vòng trước là Chánh thuyết, Lãnh giải, Thọ ký của Tích môn đã xong. Từ đây trở xuống năm phẩm là phần Lưu thông của Tích môn. Chẳng những làm lợi ích cho đương thời mà còn muốn phổ biến thấm nhuần cho đời sau, cho nên nói năm phẩm Lưu thông. Hai phẩm Pháp Sư và Bảo Tháp, hoằng kinh công sâu phước nặng, lưu thông thì chưa truyền ra Đại thừa lợi ích to lớn. Một phẩm Đề-bà-đạt-đa dẫn việc trước: hoằng kinh ta người đều lợi ích, để chứng minh công đức sâu nặng. Phẩm Trì nêu tám vạn đại sĩ do sức nhẫn mà thành tựu, ở cõi này hoằng kinh, mới được thọ ký ở cõi khác hoằng kinh. Một phẩm An Lạc Hạnh, người xưa nói: “Lưu thông tiếp dẫn người thoái lui”. Có lẽ nên như đây, chưa hẳn hoàn toàn như thế. Bồ-tát Thập tín (ngoại phàm) sơ tâm ưa thích phước thù thắng này, thấy Thanh văn sợ hãi, nghe Bồ-tát nhẫn nhục ruồng bỏ tất cả, ngoái nhìn lại mình sức yếu đuối không làm lợi ích gì được cho mình và người khác, liền sinh thoái lui, đức Phật vì hạng người này thuyết hạnh an lạc, y pháp hoằng truyền không lo nguy khổ. Lại, phẩm Pháp Sư đức Thích Tôn tự thuyết công phước hoằng kinh, bảo xem phần lưu thông. Phẩm Bảo Tháp thì Đa Bảo phân thân vừa chứng minh vừa trợ khuyên xem phần lưu thông. Phẩm Pháp Sư phần văn trường hàng kệ tụng đầu: khen ngợi năm loại Pháp sư và người năng trì pháp, phần trường hàng kệ tụng sau: tán thán pháp sở trì.

Lại chỉ bày phép tắc lưu thông kinh, lại có hai: 1. Theo đạo là đệ tử môn, công sâu phước nặng. 2. Truyền đạo là Sư môn, công sâu phước nặng.

Phần Đệ tử môn lại có hai: 1. Đệ tử lúc Phật còn tại thế. 2. Đệ tử sau khi Phật diệt độ.

Đây là phần một của Đệ tử môn. “Nhân Bồ-tát Dược Vương để bảo tám vạn Đại sĩ”. “Nhân” là căn cứ vào để truyền đạt, muốn đem diệu pháp căn cứ vào Dược Vương mà truyền đạt khiến cho đại chúng được lãnh thọ. “Bảo với các Đại sĩ”: đều thuộc lưu thông. Chỉ vào mọi người và hỏi : “Có thấy trong đại chúng đây chăng?”: chỉ bày người trì kinh được phước.

Đức Phật còn tại thế lại có hai: 1. Từ “Phật bảo Dược Vương” trở xuống, là chọn lựa ra loại người. 2. Từ “đều ở trước Phật” trở xuống, là chọn lựa đưa ra người có duyên được thọ ký. “Nhiều loại như thế ở trước Phật” là chúng đương cơ diệu ngộ, là chúng đa văn hiểu sâu gồm 2500 vị, đều đã hiện tiền được Phật thọ ký chung riêng xong. Đây loại được lựa chọn, hoặc là loại Bát bộ, hoặc là loại tứ chúng Tam thừa, đều ngồi trong hội Pháp Hoa. “Đều ở trước Phật” là nêu thời tiết gặp Phật tại pháp hội. “Một câu một kệ” là nghe pháp rất ít. “Cho đến một niệm” là thời gian rất ngắn. “Ta đều thọ ký sẽ đắc đạo Bồ-đề”: chúng kia nghe pháp rất ít, có công tùy hỷ trong thời gian rất ngắn, thì cuối cùng đều đắc Phật quả, huống chi được nghe đầy đủ suốt đời thọ trì, năm thứ lưu thông, ba nghiệp cúng dường… “Nghe một câu một bài kệ” là loại nghe ít hiểu cạn, nay đều thọ ký, ít mà còn thọ ký huống là nghe nhiều hiểu sâu. Do ít huống chi nhiều rộng khắp như đây. Vòng sau đã như vậy, thì vòng giữa và vòng trước cũng vậy, có thể dùng ý mà hiểu không cần phải nói lại. Kinh Kiến Thực Tam-muội: “Riêng thọ ký cho Tứ thiên vương đồng tên Hoả Trì, Tam thập tam thiên đồng tên Nhânđà-la Tràng Vương, Câu-dực đồng tên là Vô Trước. Diễm thiên đồng tên Tịnh Trí, Đâu-suất đồng tên Thích Pháp Vương. Hai cõi trời trên cũng thọ ký chung, không hiển rõ tên riêng, Phạm Thiên tên là Đại Trí Lực”. Đó là hạng nghe nhiều hiểu sâu . Đây thọ ký cho hạng nghe ít hiểu cạn. Xưa nói: “Bích-chi-phật, Bồ-tát không được thọ ký” Văn này nói tam thừa đều được thọ ký, không cần nghi ngờ.

“Một bài kệ một câu”: Tăng Nhất Tập nói: Tùy chọn kệ cốt yếu trong kinh như loại tứ đế. Luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa nói: Ác tiện gọi là “chán”, không cầu mong gọi là “không muốn”, tâm vô cấu gọi là “giải thoát”, bỏ gánh nặng xuống gọi là “Niết-bàn”, ác tiện đối với Tập, không cầu đối với Khổ, vô cấu là Đạo, bỏ gánh xuống là Diệt. Lại nói: Phật dạy Mãn Túc, Ta có bốn câu là nói Tứ đế Tứ niệm xứ… Theo

Quán tâm: Dùng mỗi một câu dùng mỗi một kệ, không câu không kệ mà không phải một… Nếu chọn câu chủ yếu về khai thị ngộ nhập trong tích môn, thì như là : “Ngồi xe báu này dạo chơi khắp bốn phương”, “Bốn an lạc hạnh khuyến phát bốn ý” v.v…

“Nhất niệm tùy hỷ”: Tự chưa có hành, chỉ tùy hỷ pháp và người,

mà công báo đáp còn nhiều, huống chi hành đạt đến! Tâm tùy hỷ có hai: Nếu nghe khai quyền hiển thật, thì trong tâm nhất niệm, hiểu sâu lý phi quyền phi thật, tin tri kiến Phật. Lại, có thể hiểu cả hai Quyền Thật sự lý viên dung. Tuy đầy đủ phiền não tánh mà năng biết tạng bí mật của Như Lai. Đây là luận về tùy hỷ theo chiều dọc. Lại, nếu nghe ý khai quyền hiển thật, thì đối với nhất tâm, rộng hiểu là hết thảy tâm và tất cả pháp đều là Phật pháp, không có chướng ngại, Nếu muốn phân biệt, thì biện thuyết không cùng, có thể một tháng, bốn tháng, một năm xoay quanh cũng chưa hết. Tuy chưa đắc chân thật mà tâm tùy hỷ có thể hiểu như đây. Pháp đã như thế, người cũng như thế. Đây là căn cứ theo chiều ngang luận về tùy hỷ, tức ngang mà dọc, tức dọc mà ngang. Cho nên Đại kinh nói : “Thà nguyện nghe ít, hiểu nhiều”, nghĩa vị tức là ý đây vậy, sau sẽ lại nói.

Từ “Phật bảo Dược Vương! Lại sau khi đức Như Lai diệt độ” trở xuống, là nêu đệ tử sau khi Phật diệt độ, cũng chia làm hai: Thứ nhất, nêu loại đệ tử, lược nêu đối với người, theo như trên có thể biết. Thứ hai, từ “ta cũng thọ ký” trở xuống, công báo như trước đã giải thích.

Từ “Nếu lại có người” trở xuống, là phần thú hai: Sư môn, có văn trường hàng và kệ tụng. Trường hàng có hai: Trước biệt, sau tổng. Biệt: người, bàn về hạng thượng hạ, thời hiện tại và vị lai. Tổng: không bàn về thượng hạ và hiện tại vị lai, mà nêu chung nghịch đắc tội, thuận được phước. Phần Biệt lại có hai: 1. Hiện đời. 2. Đời sau. Phần Hiện đời lại có hai: Một: Hạ phẩm Sư. Hai: Thượng phẩm Sư. Phần Hạ phẩm Sư lại có hai: Một: Tướng của Sư. Hai: Công báo của Sư.

Tướng của Sư: năm hạng pháp Sư, mười thứ cúng dường.

Từ “Dược Vương nên biết! Các ngươi như trên đã từng cúng dường” trở xuống, nêu Công báo của hạ phẩm Sư. “Từng cúng dường” là nhân đời trước sâu, “vì thương chúng sinh mà sinh vào nhân gian” là đời nay công lớn. Từ “Nếu có người hỏi” trở xuống, nêu báo trọng ở đời vị lai.

Từ “Huống lại là người hết sức thọ trì” trở xuống, nêu Thượng phẩm Sư, cũng có hai: Thứ nhất, so sánh, nêu Tướng của thượng phẩm Sư. Từ “Dược Vương nên biết! Người đó tự bỏ nghiệp báo thanh tịnh” trở xuống, nêu Công báo của thượng phẩm Sư, Từ “Nếu người thiện nam tử, thiện nữ nhơn, sau khi ta diệt độ có thể riêng vì một người nói kinh Pháp Hoa” trở xuống, nêu Sư sau khi Phật diệt độ, cũng có hạ phẩm, thượng phẩm. Hạ phẩm cũng có hai: 1. Trước nêu ra người hạ phẩm, tức là chỉ được ý kia theo chiều dọc, có trí tuệ mà vô văn, chỉ kham nói riêng, chưa thể nói trước chúng, cho nên gọi là Hạ phẩm Sư. “Riêng vì một người nói một câu”: tuy được hiểu một câu, nhưng đã không nghe rộng học nhiều các nghĩa khác, cho nên không thể ở trong chúng mà nói. Hết thảy nạn vấn có chỗ không thông, thì khiến chánh lý không được tuyên bày rộng. Như Thích luận nói: Rõ ràng người có trí tuệ mà vô văn, ví như mưa nhỏ không có sấm, nếu muốn trình bày một câu kinh này chánh ngôn, thì phải riêng nói mà thôi! “Phải biết người ấy là sứ giả của Như Lai”: là nêu rõ Công báo của hạ phẩm Sư. Kinh thì từ Như trí thuyết, thuyết về Như lý. Ngày nay hành nhân nương giáo Như này mà tuyên thuyết Như lý, tức là “sứ giả của Như Lai”. “Làm việc của Như Lai”: Như trí chiếu như lý là “sự” (việc). Ngày nay hành nhân nương giáo Như mà hành lý Như, tức là làm việc của Như Lai. Nhất Như trí nhất Như lý hóa độ chúng sinh tức là “sư”. Ngày nay hành nhân có tâm Đại bi, đem lý chân như trong kinh này, vì chúng sinh mà thuyết, khiến họ được lợi ích, cũng gọi là “làm việc của Như Lai”.

Giải thích theo Quán tâm : “Sứ giả của Như Lai”: Trí tâm quán cảnh, cảnh tức chân như, cảnh đến phát sinh trí, trí là sứ giả của Như Lai. “Như Lai sở khiển”: Quán trí từ trong “Như” đến. “Làm việc Như Lai”: Có kinh nghiệm với tất cả pháp đều là chân như, chân như tức Phật sự.

Từ “Huống là ở trong Đại chúng” trở xuống: là thượng phẩm Sư, lược không nêu Công báo, ý đây có thể biết.

Từ “Nếu có người ác” trở xuống, là tổng nêu năm hạng Pháp sư: Nghịch thì đắc tội, thuận thì được phước. Trong đây tội phước không luận về phước điền có tốt, xấu; mà chỉ căn cứ tâm từ đầu đến sau để rõ sự khinh, trọng. Người sơ tâm học đạo bởi vì còn đủ thứ phiền não, nếu thêm chướng ngại thì họ sẽ phế bỏ việc làm và học, cho nên đắc “tội nặng”. Phật thì bình đẳng, việc ác không hề hấn gì, há có thể làm chướng ngại, cho nên nói “tội nhẹ”. Cúng dường cũng như vậy. Người đó còn trong phân biệt đối đãi, nếu được cúng dường, thì sự tu thành tựu cho nên người bố thí được phước thù thắng. Đức Phật thì đã dứt đối đãi, các sự đầy đủ, mặc dù hiến cúng mà Phật không thêm lợi ích, cho nên nói báo kém. Ví như Vương tử trong thời có nạn đói khát mà cúng dường những thứ cần dùng cho đức Phật, thì công đức kia rất lớn. Nếu hủy báng Vương tử kia thì tội chẳng nhẹ, cho nên tội phước đều nặng. Nếu có người hiến cúng y thực cho đại vương làm việc trọng yếu hoặc vi tế, thì ông muốn xâm tổn người đó cũng không thể đến làm tổn hại được, cho nên tội phước đều nhẹ.

Từ “Dược Vương” trở xuống, nêu “đọc tụng” như “trang nghiêm của Phật” tức là thuận thì được phước, Phật dùng định tuệ để trang nghiêm, “người đó” có thể tu định tuệ. “Gánh được cái gánh trên vai Như Lai” tại lưng là “mang”, tại vai là “gánh”. Tu cái thể của pháp thân chẳng Quyền chẳng Thật là “mang được cái mà Như Lai mang trên lưng”. Dùng được hai trí năng Quyền năng Thật, tức là “gánh được cái mà Như Lai gánh trên vai”. “Người đó đến đâu mọi người nên hướng theo làm lễ”, trên nêu coi pháp là thầy (Sư), nay nêu kham làm thầy của chúng sinh. Người ấy có thú hướng đều cùng thật tướng tương ưng, đều đáng kính thuận. Thuận tức là hướng theo, kính tức là làm lễ. Kính và thuận cho đến khởi việc cúng dường…

Kệ có mười sáu hàng chia làm ba: 1. Hai hàng đầu, không tụng văn trường hàng, riêng nêu khuyên tự hành và lợi tha. 2. Mười ba hàng, tụng Sư môn, ý riêng và chung bên trên. 3. Một hàng, tán thán kinh. Trong phần tụng Sư môn biệt tổng lại có hai: 1. Bảy hàng tụng Biệt. 2. Sáu hàng tụng Tổng.

Biệt môn bên trên có hiện tại và vị lai. Đây bốn hàng đầu, tụng hiện tại ; ba hàng sau, tụng vị lai. Hiện tại vị lai, mỗi Sư bên trên đều có thượng hạ.

Đây nói về Biệt môn, từ “Nếu người hay thọ trì” trở xuống, một hàng tụng hạ phẩm, trong đó nửa hàng trên nêu pháp sư. “Nên biết là sứ Phật”… nửa hàng, nêu công báo. Từ “Những người hay thọ trì” trở xuống, ba hàng: tụng hiện tại thượng phẩm Sư, trong đó nửa hàng đầu nêu thượng phẩm Sư. “Xả bỏ cõi thanh tịnh” trở xuống, hai hàng rưỡi: tụng công báo. Từ “Đời ác, sau ta diệt” trở xuống, ba hàng: tụng vị lai, trong đó hai hàng đầu tụng vượt qua phần so sánh nêu ra thượng phẩm, chia làm hai: Một: nửa hàng đầu: tụng pháp Sư. Hai : từ “Phải chắp tay kính lễ” trở xuống, một hàng rưỡi: nêu công báo. Trong trường hàng vốn thiếu công báo, nay kệ thì có. Từ “Nếu người ở đời sau” xuống một hàng, tụng hạ phẩm Sư. Trong đó, nửa hàng đầu nêu người, nửa hàng sau tụng công báo.

Từ “Nếu ở trong một kiếp” trở xuống, sáu hàng tổng tụng Tổng môn bên trên, chia làm hai: 1. Hai hàng, tụng người nghịch đắc tội. 2. Từ “Có người cầu Phật đạo” trở xuống, bốn hàng, tụng người thuận được phước.

Từ “Dược Vương! Nay bảo ông” trở xuống, một hàng, tán thán kinh tôn quý vi diệu.

Từ “Lúc bấy giờ đức Phật lại bảo ngài Dược Vương” tán thán

pháp sở trì và phương pháp hoằng kinh. Pháp sở trì là tự tuân theo phép tắc, phương pháp hoằng kinh là phép tắc cho người. Có Trường hàng và kệ tụng. Trường hàng có hai: 1. Tán thán kinh pháp. 2. Phương pháp hoằng Kinh.

Tán thán chia làm năm: 1. Tán thán pháp cũng cách lượng tán thán. 2. Tán thán người. 3. Tán thán xứ. 4. Nhân tán thán. 5. Tán thán quả. Pháp vi diệu cho nên người quí, người quí cho nên xứ tôn kính, xứ tôn kính cho nên nhân tròn đầy, nhân tròn đầy nên quả cùng cực.

Tán thán pháp: “Trong vô lượng kinh điển mà ta đã nói, hiện nói, và sẽ nói, thì kinh này rất là khó tin khó hiểu”. Có Sư giải thích rằng: “Đã nói” là Bát-nhã, “sẽ nói” là Niết-bàn, trước Pháp Hoa thì Tiểu Đại cách nhau, Pháp Hoa về sau thì đã được hội giống nhau. Kinh này chính là bắt đầu hội tam, bắt đầu qui nhất, cho nên nói đệ nhất. Kinh tán thán rằng Pháp Hoa ở ngoài “đã, hiện, sẽ”. Sư ấy thiếu một chi tiết. Nay ban đầu nói “đã”: các thuyết tiệm đốn từ kinh Đại phẩm về trước. “Hiện”: Đồng trong một pháp hội, nghĩa là Kinh Vô lượng Nghĩa. “Sẽ”: các kinh

Niết-bàn. Đại Phẩm… tiệm đốn, đều mang phương tiện, dễ tin. Nay đây Vô lượng nghĩa, một sinh vô lượng, vô lượng chưa trở lại một, thì cũng dễ tin. Ở đây Pháp Hoa, luận về pháp thì hết thảy pháp sai biệt dung thông quy về một pháp, luận về người thì thầy trò bản tích đều lâu xa. Hai môn đều ngược lại với xưa, cho nên “ khó tin, khó hiểu “. Ngay sự khó hàng đầu đó, nói Kinh Pháp Hoa rồi sau mới thuyết Niết-bàn, thì dễ có thể tin. “Tạng bí yếu”: Ẩn mật mà không thuyết gọi là “bí”, tổng quát tất cả gọi là “yếu”, chân như thật tướng bao hàm ẩn chứa gọi là “tạng”. “Không thể phân bố”: Pháp vi diệu khó tin, chỉ nên trao truyền cho người có trí tuệ. Nếu trao cho hạng vô trí, thì càng thêm tội, cho nên không thể vọng thuyết. “Từ xưa đến nay chưa từng hiển thuyết”: Trong thời Tam tạng không nói Nhị thừa thành Phật cũng không nêu thầy trò bản tích. Thời Phương Đẳng Bát-nhã tuy nói ẩn chứa thật tướng cũng không nói Ngũ thừa làm Phật, cũng chưa phát Tích hiển Bản. Các kinh đốn tiệm đều chưa dung hợp, cho nên gọi là bí. Kinh này thuyết đủ bí pháp xưa, tức là khai bí mật tạng, cũng chính là bí mật tạng, bí mật như đây chưa từng thuyết bày. “Khi Như Lai đang ở đời, vẫn có nhiều kẻ oán ghét”: Hơn bốn mươi năm không thể thuyết, nay tuy muốn thuyết mà năm ngàn người bèn thoái lui. Đức Phật đang hiện đời mà còn như vậy huống chi đời vị lai, theo lý rất khó giáo hóa.

Từ “Sau khi Như Lai diệt độ, người nào có thể biên chép thọ trì” trở xuống: Tán thán người. Pháp này tại người, thì người tôn quí. “Như Lai lấy y trùm cho”: tu học đại nhẫn là y, như văn bên trên nói : “Như Lai trang nghiêm”. “Được chư Phật hộ niệm” : thật tướng làm Phật, thật trí làm con, tôn sùng thật tướng, phát sinh thật trí, tức “được chư Phật hộ niệm”. Tứ tín làm “tín lực”, Tứ hoằng làm “nguyện lực”, đại trí làm “thiện căn lực”. Tín thì tin lý, lý tức Pháp thân. Chí nguyện là lập hạnh, hạnh tức giải thoát. “Thiện căn”: căn kiên cố, khó chuyển động, đây tức Bát-nhã, phải biết Tam lực tức là Tam đức là bí mật tạng. Hàng sơ tâm nhờ vào đây mà cùng Phật không khác, cho nên nói: “cùng Như Lai ở chung”. Lại, tín lực tu Tất cánh Không Như Lai trí. Như Lai nương Tát cánh Không làm nhà, người này tín lực cũng học Tất cánh Không, cho nên “cùng Như Lai ở chung”. “Được Như Lai lấy tay xoa đầu”: Người này dùng nguyện lực thiện lực tự hành quyền thật, coi đó là cơ cảm, cơ cảm gọi là “đầu”, Như Lai dùng hóa tha quyền thật nhị trí gọi là “tay”. Khai phát người trước tự hành quyền thật tức là “đầu”, cảm ứng đạo giao cho nên nói “xoa đầu”. Xoa đầu tức thọ ký vậy.

Từ “Nơi nơi chốn chốn” trở xuống: Tán thán xứ: Pháp này ở nơi nào, tức nơi ấy tôn quí. Những nơi Phật đản sinh, đắc đạo, chuyển pháp luân, nhập Niết-bàn và cả nơi Pháp vương du hóa đều nên xây tháp. “Kinh này” là nơi Pháp thân sinh trưởng, nơi đạo tràng đắc đạo, là thể chính của pháp luân, là chứa đựng đại Niết-bàn, cho nên nói “chỗ có quyển kinh này đều nên xây tháp cúng dường”. “Chẳng cần để xá lợi”: Thích luận nói: “Xương vụn là sinh thân xá-lợi, kinh quyển là pháp thân xá-lợi”. Không cần để lại sinh thân xá-lợi. Sinh thân và Pháp thân đều có xá-lợi toàn vẹn (toàn thân) và vụn nhỏ (toái thân), có thể hiểu.

Từ “Nếu có người xuất gia” trở xuống: Tán thán nhân. “Chưa khéo hành đạo Bồ-tát”: Hành theo ba giáo trước, tức là Pháp thân xálợi toái thân, chưa có thể khéo độ. Nếu nhập Viên giáo tức là xá-lợi toàn thân thì khéo độ. Khóe độ là “khéo hành”.

Từ “Có chúng sinh nào” trở xuống: Tán thán quả. Văn chia làm năm phần: 1. Nêu quả gần. 2. Khai thí. 3. Hợp thí. 4. Giải thích gần. 5. Nêu cái sai.

Nêu quả gần: “Nên biết người đó được gần đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác”. Trong phẩm An Lạc Hạnh gọi là “Cận xứ”, đây là quả Bồ-đề. Phật trí Phật nhãn tri kiến xứ làm thể thì có hai thứ: 1. Sơ tâm Bồ-đề. 2. Hậu tâm Bồ-đề. Đây nói “gần”, chính là gần Sơ trụ Bồđề. Lại, hướng về Viên quả mà tu Viên nhân, đắc tương tự giải thoát, gọi đó là “gần”. Trong phần Tán thán nhân bên trên, là tu Thông Biệt nhân, tức là “chưa khéo”, thì cách xa Viên quả. Nếu tu Viên nhân, tức là “Khéo hành”, thì cách gần Viên quả. Đây dùng Viên như thật trí làm nhân, rồi lại dùng làm quả. Chân như Đạo tiền, tức là chánh nhân. Chân như Đạo trung, tức là duyên nhân, cũng gọi là liễu nhân. Chân như Đạo hậu, tức là viên quả. Cho nên, kinh Phổ Hiền Quán nói: “Nhân Đại thừa tức là thực tướng, quả Đại thừa cũng là thực tướng”. Thích luận nói: “Bắt đầu quán thật tướng gọi là nhân, quán xong gọi là quả”. Luận theo lý, thì chân như thực tướng không có nhân quả hiện tại, cũng không có trước sau. Nếu căn cứ chúng sinh tu hành, thì có trước sau và nhân quả.

Từ “Thí như có người” trở xuống: là phần hai: Khai thí. Có hai cách giải thích: 1. Theo Quán môn. 2. Theo Giáo môn.

1. Giải thích theo Quán môn: Tâm chúng sinh đầy đủ các phiền não, gọi là “cao nguyên” (gò cao), tu tập quán trí gọi là “khoét đào”; mới chứng vị lý, ví như được nước trong. Theo Thông quán: Can tuệ địa như “đất khô”, tánh địa như “đất bùn ướt”, Kiến đế là được nước trong. Theo Biệt quán: từ Giả nhập Không, chỉ thấy Không mà chẳng thấy bất Không, đoạn Tứ trụ như “đào đất khô cách nước còn xa”. Từ Không xuất Giả, trước biết chẳng phải Giả, nay biết chẳng phải Không. Do hai phép quán này mà được nhập Trung đạo. Năng hàng phục vô minh thì ví như “Chuyển sang thấy đất ướt”, cách nước gần. Theo Viên quán: trung đạo phi Không phi Giả mà chiếu Không, Giả ví như như “dần đến bùn”, tức Tứ trụ đã tận, vô minh đã hàng phục, đã đắc Trung đạo, tương tự viên giải, cho nên nói “như bùn”. Nếu nhập Sơ trụ, phát khởi chân tánh sẳn có của chính mình, hiểu biết Trung đạo, thì phá vô minh ví như bùn được lắng lóng cho trong, được thấy Trung đạo thì ví như “thấy nước trong”. Pháp Hoa luận nói : “Nước Phật tánh phải biết thứ lớp”.

2. Giải thích theo Giáo môn: “Đất” dụ cho Kinh giáo, “nước” dụ Trung đạo, giáo giải thích Trung đạo, ví như “đất bùn chứa nước”. Tam tạng giáo môn chưa giải thích Trung đạo, ví như “đất khô”. Phương Đẳng Bát-nhã nương nơi phương tiện thuyết nghĩa Trung đạo, ví như “thấy đất ướt”. Pháp Hoa giáo chánh trực hiển lộ thuyết Vô thượng đạo, ví như “thấy bùn”. Do giáo Pháp Hoa mà sinh Văn Tư Tu, tức ngộ Trung đạo, thật sự thấy Phật tánh. Trí tuệ chân thật phát sinh không còn dựa vào văn, ví như thâu hoạch nước trong, không còn tướng đất. Cho nên, kinh Hoa Nghiêm nói: “Hàng Thập trụ Bồ-tát có tuệ thân, không do người khác mà ngộ”. Có người nói: “Sơ giáo như gò cao đất khô, Đại Phẩm như đất ướt, Pháp Hoa như bùn, Phật quả như nước”. Có người nói: “Các kinh Duy-Ma Tư-Ích như đất khô, Vô Lượng Nghĩa như đất ướt, Pháp Hoa như bùn, Phật quả như nước”. Có người nói: “Đại Phẩm như đất khô, Vô Lượng Nghĩa như đất ướt, Pháp Hoa như bùn, Phật quả như nước”. Cả ba kinh gia này đều có nói ngũ thời. Sinh sư nói: “Thọ trì Pháp Hoa cầu Phật đạo, muốn được thì phải như người khát nước tìm nước. Tam thừa thì đối với Nhất thừa khó tin, nơi Pháp Hoa cầu tìm hiểu thì ví như “gò cao”, thọ trì đọc tụng ví như “đào”, chưa thể như nghe mà hiểu, vì chưa nghe nên như “đất khô”, năng hiểu ví như “đến đất bùn”; đồng với các nhà chú thích kinh. Có người nói: “Đây một giải thích cách xa Phật, một giải thích cách gần Phật”.

Vị sư đầu tiên trong ba kinh gia trên, thì nêu các giáo cách Phật xa, Pháp Hoa cách Phật gần; hai giải thích sau thì chỉ trong Pháp Hoa luận xa gần. Dựa vào kinh ứng với hai nghĩa: 1. Nêu kinh khác Pháp Hoa để nói xa gần. 2. Căn cứ Pháp Hoa mà luận xa gần. Các sư lầm ý chỉ kinh.

Hỏi: Kinh khác vì sao cách Phật xa?

Đáp: Vì chưa khai quyền, người cầu Phật chưa quyết định. Pháp Hoa chỉ có một, không có ba, vĩnh viễn vượt ngoài thoái tâm, cho nên cách Phật gần. Văn nói: “Quyết định rõ ràng pháp Thanh văn”.

Hỏi: Kinh Bát-nhã vì sao cách Phật xa?

Đáp: Chưa trừ bỏ giới hạn của pháp Quyền, thì xa; mới hành Bồtát, không biết Bát-nhã bí mật giáo hóa giao phó tài vật, thì đối với kia là xa.

Xét rằng Phương tiện Bát-nhã và Thật tuệ Bát-nhã là phụ mẫu pháp thân của Phật ba đời. Người cầu Phật ví như người già bệnh, nếu được cả hai phò trợ mạnh thì có thể đi xa khắp, nên biết Bát-nhã rất thù thắng. Pháp Hoa khai Quyền không khác Bát-nhã hiển Thật. Chẳng phải ngoài Bát-nhã mà riêng có Pháp Hoa. Pháp Hoa là tên khác của Bát-nhã đó thôi! Do vì các sư giải thích khác, cho nên ghi chép ra.

Từ “Bồ-tát cũng lại như thế” trở xuống, là phần ba: Hợp thí. Ở trong Pháp Hoa, thâu hoạch Văn Tư’ Tu tức là Viên quán Tam tuệ, thì mới có thể gần quả; chẳng phải Văn Tư Tu khô ướt… trong các giáo.

Từ “Vì sao vậy?” trở xuống, là phần bốn: Giải thích ý được gần. “Hết thảy Bồ-tát”: các nhân Quyền. “Tam Bồ-đề”: hết thảy quả Quyền. Nhân Quyền quả Quyền đều nhiếp thuộc kinh này, ví như đất khô đất ướt đều y nơi nước, cho nên nói thuộc về. “Khai phương tiện môn, thị chân thật tướng”: Ngài Quang Trạch nói: “Xưa vào thời Lộc Uyển, vì căn cơ lẫn lộn cho nên thuyết đủ Tam tạng mà chưa nêu Nhất lý, bấy giờ dùng Quyền mà ẩn Thật. Nhất lý bị Quyền giáo làm bế tắc. Nay tại thành Vương xá thuyết pháp cho Đại căn cơ, tức hiển bày pháp chân thật. Chân thật đã hiển bày thì trừ bỏ giáo xưa. Giáo xưa bị bỏ, cho nên phương tiện môn khai. Nhất lý đã lộ rõ, thì tướng chân thật hiển bày”. Theo ý riêng thì giải thích như vậy chính là phá phương tiện, không phải khai mở phương tiện! Ngài Đạo Lãng đất Hà Tây nói: “Nói thẳng ba là phương tiện, tức là mở cửa phương tiện. Xưa không nói ba là phương tiện, cho nên cửa phương tiện đóng. Nay gọi ba là phương tiện, tức chỉ bày một là chân thực”. Theo ý riêng thì kiểu giải thích này phù hợp với kinh văn. Có người giải thích: “Khai hai phương tiện Giáo Thân thị hai chân thật Giáo Thân; ba đời chư Phật chỉ có hình tiếng Quyền Thật”. Theo như khai thị này thì mười hai bộ kinh, tám vạn đại sĩ rõ ràng đều là phương tiện! Theo ý riêng thì hai sư trước dựa vào Giáo mà khai thị, người sau thêm Thân vào, đây là trộm nghĩa của ngài Long Ấn mà làm giải thích của mình, tức trở lại là ý phá phương tiện, chẳng phải nghĩa khai!

Hỏi: Đương thể của phương tiện là môn, hay vì thông suốt thật tướng, cho nên gọi là môn?

Đáp: Theo ý riêng đều là đầy đủ cả hai nghĩa. Gọi thật tướng môn, thì có thể hiểu. Đương thể là môn, như Thiện Tài đồng tử trong kinh Hoa Nghiêm tìm học với thiện tri thức, đắc các thứ pháp môn như: tính hạt cát, quán v.v… Hai môn này đều có đóng mở: Xưa không nói ba là phương tiện, cho nên cửa kia đóng kín; nay nói ba là phương tiện, cho nên cửa kia khai mở. Xưa không nói một là chân thật, cho nên cửa chân thật đóng kín; nay nói một là chân thật, cho nên cửa chân thật khai mở. Cả hai phương tiện đều thông thật tướng, cho nên tam thừa phương tiện là nhất thừa môn. Thật tướng cũng có hai nghĩa: 1. Đương thể hư thông, cho nên gọi là “môn”, như Bất nhị môn trong kinh Tịnh Danh, Pháp giới môn trong kinh Hoa Nghiêm v.v… 2. Năng thông phương tiện làm môn. Ngài Lưu Cầu nói: “Công thông suốt chính là do “một” đều nhau, cho nên “một” là phương tiện môn. Công hiệu của sự dẫn dắt phần nhiều nương tựa vào ba, cho nên ba là chân thật tướng. Nói chẳng phải ba, thì phương tiện môn được khai mở ; nói duy nhất, thì tướng chân thật được chỉ bày”.

Có người nói: Luận đủ thì có ba nghĩa: 1. Dùng ba làm phương tiện, một làm chân thật. 2. Ba và một, đều là phương tiện; không phải ba và không phải một, là chân thật. 3. Ba và một, là nhị, không phải ba không phải một, là bất nhị. Nhị và bất nhị đều là Quyền. Không phải nhị không phải bất nhị, là Thật. Ba chương này được hỗ tương làm môn.

Như lấy tam làm nhất môn, thì đây là dùng Quyền để thông Thật. Nếu dùng nhất làm tam môn, thì đây là dùng Thật khởi Quyền. Cho đến nhị và bất nhị, cũng xen lẫn như vậy được, gọi là môn, cũng xen lẫn được gọi là tướng. Chỉ không được xen lẫn làm quyền thật đó thôi! Riêng cho rằng: Dùng tam làm nhất môn, thì hàng tam thừa có thông thật tướng không? Nếu không thông, thì không phải môn. Cần phải khai tam, mới được gọi là môn. Nếu khai tam, thì chẳng phải lại là tam; vì sao dùng tam làm thật tướng môn? Lại, tam chẳng phải Phật nhân, sao được gọi là thật tướng môn? Phá một nghĩa này, thì hai nghĩa còn lại theo lệ cũng bỏ đi.

Hỏi: Phương tiện và chân thật xen lẫn được làm môn; vậy thì phương tiện làm phương tiện môn, thật tướng làm thật tướng môn được chăng?

Đây có bốn câu: Hai câu đầu, như trên. Câu ba: Thật tướng làm thật tướng môn. Câu bốn: Phương tiện làm phương tiện môn. Như danh làm nghĩa môn, nghĩa làm danh môn. Do phương tiện danh mà hiển bày phương tiện nghĩa, cho nên danh làm nghĩa môn. Do phương tiện nghĩa ứng với phương tiện danh, cho nên nghĩa làm danh môn. Thật tướng cũng vậy. Tựa Trung luận nói: Thật mà không có danh thì không thể ngộ. Cho nên, ký thác trong đó để tuyên diễn việc kia.

Hỏi: Có được dùng tam hiển tam, dùng nhất hiển nhất không?

Đáp : Đây cũng có bốn câu: Hai câu như trên. Dùng tam hiển tam, tức là nói xưa tam khác với nay nhất, tam này ở ngoài nhất, nay nhất khác với tam xưa, nhất này ở ngoài tam. Cho nên, nhất không phải nhất của tam, tam không phải tam của nhất, đều là chấp kiến. Phá bệnh này, cho nên đối với nhất Phật thừa phân biệt nói thành tam. Cho nên, tam là tam của nhất. Các ông hành đạo Bồ-tát, cho nên nhất là nhất của tam. Tam nhất không khác nhau, là nghĩa nhân duyên. Dùng nhân duyên tam nhất để hiển bày tự tánh tam nhất, cũng dùng tự tánh tam nhất để hiển bày nhân duyên tam nhất. Cho nên, nói dùng tam hiển nhất, dùng nhất hiển tam. Có người dẫn mười lăm chỗ để nêu môn: Phẩm Phương Tiện có hai, phẩm Thí dụ có sáu, Phẩm Tín Giải có ba, Phẩm Hóa thành Dụ có hai, Phẩm Pháp Sư có một, Phẩm Quan Âm có một.

Phẩm Phương Tiện có hai: Trí tuệ môn, Quyền trí làm Thật trí môn. Sinh Sư nói: “Ngôn giáo làm môn, ngôn giáo thuyết Thật trí cho nên ngôn giáo là Thật trí môn”, Pháp Hoa luận đồng ý kiến này. Tiếp nói: Dùng các thứ pháp môn tuyên bày Phật đạo, đây là dùng Đại thừa giáo làm môn. Phẩm Thí Dụ có sáu: 1. Nhà kia rộng lớn chỉ có một cửa, vẫn dùng Đại thừa giáo làm môn. 2. Nói cửa bị thiêu cháy, đây là căn cứ bờ cõi ranh giới của tam giới làm môn, như gọi nhà là môn. 3. Chỉ có một cửa mà lại hẹp nhỏ, vẫn là Đại thừa giáo làm môn. 4. Ba xe ở ngoài cửa, vẫn dùng tam giới làm môn. 5. Dùng Phật giáo môn để vượt khổ ba cõi, đây là dùng Tiểu giáo làm môn. . Đứng ở ngoài cửa, y Đại thừa dùng giới hạn của hai thứ sinh tử làm môn. Tiểu thừa cũng xuất ngoài tất cả phiền não, chánh sử và tập khí đã tận gọi là đứng ở ngoài cửa. Phẩm Tín Giải có ba: 1. Đứng ở bên cửa Đại thừa lý giáo làm môn. 2. Nói còn ở ngoài cửa, cũng như trên. 3. Nói Trưởng giả ở trong cửa, như trên.

Phẩm Hóa thành có hai : 1. Thỉnh khai mở cửa cam lộ, cũng là giáo môn Đại, Tiểu. Nhiều lớp cửa, lầu gác cao, cũng dùng Tiểu thừa tam không môn. 2. Phương tiện môn, giải thích như trên. Phẩm Quán Âm, cũng dùng Đại thừa làm môn. Nay giải thích “khai phương tiện môn”: Những điều xưa đã không nói, thì nay đều nói. Xưa nói sự sinh hoạt hàng ngày và nghề nghiệp sinh nhai của tất cả thế gian, có bao giờ là phương tiện đâu? Nay đều khai đó chính là thật tướng, không chống trái nhau. Xưa nói Tiểu thừa phương tiện như Tiểu thừa quả. Tiểu thừa quả mà còn chẳng phải Thật tướng môn, huống chi Tiểu phương tiện mà sẽ là môn! Nay đều khai đó chính là thật tướng. Việc các ông làm là đạo Bồ-tát, quyết định bỏ pháp Thanh văn, là vua của các kinh.

Xưa nói Nhị thừa là phương tiện môn. Nay đều khai đó chính là thật tướng, đâu là môn nữa, đều khiến cho chúng sinh khai thị ngộ nhập tri kiến Phật. Nhất sắc nhất hương thảy đều là Phật pháp. Hoặc môn hoặc phi môn, thảy đều khai nó để thị tướng chân thật, hiển bày nước Phật tánh. Nếu không khai nó, thì “sâu xa kiên cố thâm diệu không người nào đạt đến được”, mà nay khai nó thì được thấy nước, không phải đất khô.

Lại giải thích theo Tam tuệ thì “tất cả đều thuộc kinh này”, tức Viên Văn tuệ. “Kinh này khai phương tiện” tức Viên Tư tuệ. “Thị chân thật tướng” tức Viên Tu tuệ. Ba thứ này sâu xa mầu nhiệm, đức Phật nay khai thị liền được thấy chân thật.

Từ “Dược Vương! Nếu Bồ-tát nào nghe kinh Pháp Hoa” trở xuống là phần năm: Nêu cái sai: “Nếu Bồ-tát nghe thuyết kinh này mà kinh nghi sợ sệt,… Thanh văn tăng thượng mạn”, đều là “đất khô”, còn chẳng phải đất ướt, huống chi là thấy được nước ư !?

Từ “Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn nào, sau khi đức Như Lai diệt độ“ trở xuống, là lược nêu phương pháp hoằng kinh, lại chia làm hai: 1. Phương pháp. 2. Lợi ích.

Phương pháp lại chia làm ba: 1. Nêu chương môn. 2. Giải thích. 3. Khuyên tu. Tu “nhà Như Lai là đại từ bi”: Nếu căn cứ đồng thể tức Pháp thân. Nếu căn cứ chúng sinh được gia bị tức Giải thoát, năng khiến cho chúng sinh hợp với đồng thể tức là Bát-nhã. Tu “y áo Như Lai”: Nếu căn cứ cái được che trùm, tức Pháp thân. Nếu căn cứ năng che trùm trang nghiêm thân, tức Tịch diệt nhẫn. Nếu căn cứ hòa quang lợi vật, tức Giải thoát. Tu “tòa Như Lai” Nếu căn cứ năng tọa, tức Bát-nhã. Nếu căn cứ sở tọa, tức Pháp thân. Thân tòa minh xứng ( xứng hợp mà mắt thịt con người không thể thấy biết được) tức Giải thoát. Lại, “Đại từ” an lạc tức giúp đỡ thành tựu, “nhu hòa” là hàng phục sân, đoạn Hoặc tức quán chiếu, “ngồi tòa” tức Pháp thân. Phẩm An Lạc Hạnh lại rộng nêu ba pháp này. Văn trên nói: “trang nghiêm của Phật” tức là “áo Như Lai” Trên nói “Cõng và gánh được cái gánh nặng trên lưng và vai Như Lai”, tức là “ngồi tòa Như Lai”. “Đảm” (gánh vác) tức gánh vác, vận chuyển, chính là “vào nhà Như Lai”.

Từ “Bấy giờ ta ở nước khác” trở xuống: nêu năm việc lợi ích, khuyến khích lưu thông. 1. Sai khiến hóa nhân. 2. Sai khiến hóa bốn chúng. 3. Sai khiến Bát bộ. 4. Thấy thân Phật. 5. Cùng tổng trì. Nếu hàng sơ tâm chưa thuần, thì chỉ có thể sai khiến hóa nhơn, chưa thể sai hóa tứ chúng Bát bộ. Nếu thấy thiên long, thì họ bèn dựa vào đây mà tự cao ngạo, làm ngăn ngại tổn hại đạo kia, cho nên không thể để cho họ thấy, huống chi thấy Phật. Nếu tâm không ỷ dựa chấp trước, thì có khả năng thấy Phật, huống chi thấy thiên long, huống chi đắc tổng trì tự chứng lợi ích!

Kệ có mười tám hàng rưỡi, chia làm ba: 1. Một hàng đầu, tổng khuyên, không tụng trường hàng. 2. Mười sáu hàng rưỡi, tụng trường hàng trên. 3. Một hàng kết khuyên.

Trên trong phần Tán thán quả văn chia làm năm: 1. Một hàng rưỡi đầu, tụng khai thí. 2. Từ “Dược Vương! Ông nên biết” trở xuống, hai hàng rưỡi, tụng hợp thí. Lược không tụng ba thứ còn lại, cận quả, giải thích lựa, nêu cái sai. Trong phương pháp lưu thông kinh bên trên có hai: Phương pháp và Lợi ích. Nay mười hai hàng rưỡi tụng cũng chia làm hai: Thứ nhất: ba hàng rưỡi, tụng Phương pháp. Trên trong đó có ba, đây cũng tụng ba ý. Thứ hai : từ “Ta trong muôn ức cõi” trở xuống, chín hàng tụng Lợi ích: một hàng đầu tổng nêu rõ ý Như Lai dùng năm việc lợi ích, chính do ứng thân biến khắp mười phương, có thể làm năm việc giữ gìn bảo hộ người hành trì. Từ “Sau khi ta diệt độ” trở xuống, một hàng rưỡi tụng sai khiến tứ chúng. Từ “Dẫn dắt” trở xuống, một hàng rưỡi tụng: sai người hóa. Từ “Nếu người thuyết Pháp Hoa” trở xuống, hai hàng tụng khiến đắc tổng trì. Từ “Nếu người đủ đức này” trở xuống, một hàng, tụng khiến được thấy Phật. Từ “Nếu người ở chỗ vắng” trở xuống, hai hàng tụng sai khiến Bát bộ…

(Phần Hạ)

Phẩm Thứ 11: KIẾN BẢO THÁP

Tiếng Phạn gọi Tháp-bà hoặc nói Du-bà, Trung hoa dịch Phương phần cũng gọi là Linh miếu, lại nói là Chi-đề, thì không có cốt thân. Tháp này vì có thân toàn vẹn không tan rã, cho nên không gọi là Chi- đề. Kinh A-hàm nêu rõ “tứ chi trưng” (chứng tích) nghĩa là bốn chỗ xây tháp: những nơi Phật đản sinh, đắc đạo, chuyển pháp luân, nhập Niếtbàn. Bốn chỗ xây tháp, nay bảo tháp là chứng tích Phật trước nhập diệt. Kinh dạy: Ba loại thân Phật đều từ kinh này mà sinh trưởng. Chư Phật ở đây mà tọa đạo tràng, chư Phật ở đây mà chuyển pháp luân, chư Phật ở đây mà bát Niết-bàn. Chỉ kinh Pháp Hoa này, chính là tứ chi trưng của chư Phật ba đời. Chư Phật quá khứ đã ở, chư Phật hiện tai đều ngồi, chư Phật vị lai cũng vậy. Tháp này xuất hiện nêu rõ việc này, bốn chúng đều thấy, cho nên gọi là phẩm Kiến Bảo Tháp.

Trong kinh Anh Lạc, ngài Thiện Cát hỏi: “Sinh thân, toàn thân, toái thân công đức bằng nhau ư?” Đức Phật dạy: “Không đồng. Bởi vì sắc thân thì ngôn giáo hóa, huấn, ba nghiệp đầy đủ thanh tịnh khiến chúng sinh được đến đạo tràng. Xá-lợi toàn thân hoặc toái thân, chính là khả năng uy thần sáng suốt, cúng dường thì được phước. Cho nên, không đồng”. Lại hỏi: “Đảnh Vương Như Lai trải qua mười hai na-do- tha kiếp thuyết pháp giáo hóa, xá-lợi cũng vậy, thế thì phải đồng?” Phật dạy: “Đều do thần lực của Đảnh Vương Như Lai tạo ra”. Kinh đó cho rằng xá-lợi toàn thân và toái thân đều do sinh thân Phật lực. Kinh này cho rằng Xá-lợi của sinh thân dù toàn thân hay toái thân, xá-lợi của pháp thân dù thiên hay viên, đều từ kinh này mà ra, hiển bày công đức của kinh này lực hoằng trì sâu rộng. Từ đất vọt lên để chứng minh việc này, bốn chúng đều thấy, cho nên nói Phẩm Kiến Bảo tháp.

Bắc Địa sư nói: “Khi đức Phật vì Thân-tử mà thuyết kinh, thì bảo

tháp đã hiện để chứng minh. Nếu thuyết kinh xong mới đến, thì làm chứng những gì? Vì kinh gia theo thứ lớp xếp đặt sau ba vòng”. Đây chính là tình người thì không thể tin! Nay y theo Kinh Tát-Vân PhânĐà-Lợi nói: “Đức Phật thuyết kinh Pháp Hoa vô số kệ, có tháp bảy báu từ đất vọt lên, trong tháp có giường vàng, trên giường có Phật. Chữ Bào-hưu-lan-la, Hán dịch là Đại bảo, tán thán đức Thích Tôn, nói vì ta mà đến cúng dường, nguyện ngồi giường vàng của ta, lại vì ta mà thuyết Tát-Vân Phân-Đà-Lợi.” Y kinh này chứng minh, tức là sau khi thuyết ba vòng, lại thỉnh Thọ lượng. Văn nêu rõ thánh thuyết mà không chịu dụng, người xuyên tạc đâu có thể theo ư ?! Tháp này chính làm chứng, trước đã được thỉnh, sau mới từ đất vọt lên. Bốn chúng đều thấy cho nên nói phẩm Kiến Bảo Tháp. Địa Sư nói: “Đa bảo là pháp thân Phật”.

Thích Luận nói: Đa Bảo thệ nguyện hóa thân đến chứng minh kinh. Văn đây cũng vậy. Sư (Thiên Thai Trí Giả) nói: Pháp thân không đến không ra, báo thân nguy nga đường đường, Ứng thân ứng khắp tất cả, hoặc tức đây gọi là tam Phật, chưa nói hết thể của ba Phật, chỉ là biểu thị mà thôi. Đa Bảo tiêu biểu pháp thân, Thích Tôn tiêu biểu Báo thân, phân thân tiêu biểu Ứng thân Phật. Tam Phật tuy ba mà không khác một. Nên nói như thế , tin hiểu như thế. Đây là bốn phen giải thích thấy Đa bảo theo Tứ Tất-đàn.

Tháp hiện ra có hai việc: 1. Phát âm thanh để chứng minh trước, 2. Mở tháp để khởi dẫn việc sau. Việc thứ nhất: Chứng trước, chứng ba vòng thuyết pháp đều là chân thật. Nếu lược nói chân thật, thì đều cùng thật tướng tương ưng. Nếu rộng nói chân thật, thì ly tứ cú, tuyệt bách phi. Nếu nói theo lý Trung đạo, thì “bát bất” gọi là chân thật. Tháp từ đất vọt lên, chỉ bày Bất diệt. Phân chia tòa, cùng ngồi, tiêu biểu Bất sinh. Nhập tháp, tiêu biểu Bất thường. Hiện tháp, chỉ bày Bất đoạn. Phân thân, chỉ bày Bất nhất. Toàn thân, chỉ bày Bất dị. Đa bảo nhường tòa, chỉ bày Bất lai. Đức Thích-ca ngồi nửa tòa, chỉ bày Bất xuất. Bát bất hiển nhiên cho nên gọi chân thật. Lại, chứng minh phần lưu thông tích môn, trì kinh công sâu, hoằng tuyên lực lớn, đều chân thật. “Đại tuệ bình đẳng” cùng Bát-nhã như thế nào? Thích Luận quyển bảy mươi chín nói: “Bát-nhã là Diệu pháp của ba đời chư Phật, như một cửa thành thì bốn phương đều vào được, nên biết Bát-nhã cũng gọi là Diệu pháp, kinh này gọi là “bình đẳng đại tuệ”. Hai danh đồng chỉ ý kia có thể biết. Việc thứ hai: Phát khởi việc sau: “Nếu muốn mở tháp, thì cần phải tập hợp phân thân” là nêu sự phó chúc mầu nhiệm. Âm thanh thông suốt hạ phương mời đệ tử “Bản môn” về để luận nghĩa thọ lượng. Tháp lâu xa từ đất vọt lên, khai thần thông lực tự tại, hiển bày lợi ích chúng sinh đời quá khứ. “Phát âm thanh lớn” : phát ra lực Sư tử phấn tấn, hiển hiện tại mười phương khai quyền hiển thật. Có thệ nguyện lớn: “Chư Phật đời vị lai nếu thuyết kinh này, thì bảo tháp của ta đều đến nơi ấy để chứng minh”, tức khai đại thế lực oai mãnh, hiển hiện thường trú bất diệt đời vị lai. Lại, tháp giữa hư không cũng là chứng trước khởi sau. Hạng người Thất phương tiện thì ẩn tàng chưa khai mở vì bị vô minh che, ví như tháp ở dưới đất. Nghe ba vòng khai tam hiển thật, thì khai tri kiến Phật, hiển xuất pháp thân, ví như tháp vọt lên hư không, đây tức chứng trước. Tu đắc pháp thân đã rõ ràng từ lâu như tháp giữa hư không không thể mở, là tiêu biểu bản địa đã thành tựu lâu rồi mà chúng không biết. Nếu phát tích hiển bản, liễu đạt không nghi ngờ, thì đây là khởi việc sau. Nếu “tháp từ đất vọt lên” là tiêu biểu pháp thân hiển bày, thì các kinh cũng đồng cũng khác. Bồ-tát hiển bày pháp thân thì đồng, Nhị thừa hiển bày pháp thân thì khác. Nếu “tháp tại hư không, mở cửa thấy Phật” là tiêu biểu phát tích hiển bản, thì cùng các kinh vĩnh viễn khác. Nếu tháp đến chứng minh việc trước, thì quá rõ ràng không nghi nữa. Nêu tháp đến phát khởi việc sau, thì mật có ý chúng chưa biết. Nay chọn nghĩa sau dự liệu giải thích đây cũng lại không có lỗi.

Giải thích theo Quán tâm: Nương kinh tu quán, cùng Pháp thân tương ưng thì cảnh trí ắt hợp, như tháp đến chứng minh kinh. Cảnh trí đã hợp thì đại báo viên mãn, ví như Thích-ca và Đa Bảo đồng ngồi một tòa. Do đại báo viên mãn, cho nên tùy căn cơ ứng hiện, ví như phân thân đều tập hợp. Do Đa Bảo xuất hiện nên tam Phật được hiển bày, do trì Kinh tức đủ tam thân. Kinh Phổ Hiền Quán nói: “Ba loại thân Phật từ Phương Đẳng sinh”, tức nghĩa đây vậy. Có người cho rằng từ phẩm này xuống mười một phẩm, là thần thông thân luân khai bản tích; từ “Di-lặc hỏi” trở xuống, là thuyết pháp khẩu luân khai bản tích. Ý bản tích chưa rõ ràng, từ đây phân văn thì quá sớm.

Phẩm này có trường hàng và kệ tụng. Trường hàng có ba phần: 1. Tháp Đa bảo vọt hiện. 2. Phân thân từ xa tập hợp. 3. Đức Thích-ca kêu gọi khuyến mộ.

Đây là phần một, văn có sáu: 1. Tướng tháp hiện. 2. Chư thiên cúng dường. 3. Đa Bảo tán thán. 4. Thời chúng kinh nghi. 5. Đại Nhạo Thuyết hỏi. . Như Lai đáp.

– “Tháp bằng bảy báu”: Pháp thân địa do tánh mà đắc “bảy báu” thất giác thất thánh tài; “tháp” là cảnh thật tướng, chỗ pháp thân nương ở. “Cao năm trăm do tuần”, là hai vạn dặm, theo chiều dọc nêu vạn hạnh trong nhân, vạn đức trong quả. “Rộng hai trăm năm mươi do tuần” tức là một vạn dặm, theo chiều ngang dùng vạn điều thiện trang nghiêm. “Địa”: Là vô minh tâm địa, dùng vô sở phá để phá vô minh, dùng vô sở trụ dể trụ đệ nhất nghĩa Không. “Các món vật báu” là rất nhiều định tuệ dùng trang sức. “Bao lơn” là tổng trì. “Ngàn vạn phòng nhà”, là nhà vô lượng từ bi, cũng là nhà vô lượng Không. “Tràng phan” là tướng thần thông thù thắng. “Chuỗi ngọc báu rủ xuống”: là công đức của bốn mươi địa, trên trang nghiêm pháp thân, dưới cứu độ chúng sinh. “Vạn ức linh báu”: Là bát âm bốn biện tài. “Bốn mặt thoảng hương thơm”: là gió đạo tứ đế thổi hương thơm bốn đức. “Cao đến cung trời Tứ thiên vương” là cùng tột lý tứ đế.

Từ “Tam thập tam thiên trời Đao lợi” trở xuống, là phần hai: Chư thiên cúng dường: Giải thích sự có thể biết. Nếu căn cứ lý, thì ba mươi tâm là ba mươi, Thập địa là một, Đẳng giác là một, Diệu giác là một, hợp thành ba mươi ba, đồng nương cảnh thật tướng. “Rưới thiên hoa Mạn-đà-la”: Hàng sơ tâm cũng đủ công đức của bốn mươi hai địa, hàng hậu tâm cũng như vậy đều dùng công đức của bốn mươi địa làm hoa nhân, hướng về pháp thân. Từ “Các trời khác và rồng” trở xuống: tức là nội phàm ngoài phàm… cũng y thật tướng hướng quả hành nhân.

Từ “Bấy giờ trong tháp báu” trở xuống, là phần ba :Đa Bảo tán thán. Chánh chứng minh trước khai quyền hiển thật không hư dối. “ Bình đẳng đại tuệ “ tức là trí tuệ chư Phật, như nghĩa trước bước đi bình chính. Bình đẳng có hai: 1. Pháp bình đẳng, tức lý trung đạo. 2. Chúng sinh bình đẳng, hết thảy chúng sinh đồng đắc Phật tuệ. “Đại” như nghĩa cao rộng ở trước. Căn cứ vào Quán tâm: Không quán: bình đẳng theo chiều dọc. Giả quán: bình đẳng theo chiều ngang. Trung quán: bình đẳng theo chiều dọc và ngang. Bình đẳng song chiếu tức là “bình đẳng đại tuệ”. “Đúng thế! Đúng thế!” (Như thị ! Như thị !) 1. Như pháp tướng thị; 2. Như căn tánh thị. “Đều là chân thật” vì như pháp tướng thuyết, cho nên “chân thật”.

Từ “Bấy giờ bốn chúng thấy” trở xuống, là phần bốn: Thời chúng kinh nghi: Văn có hai: 1. Đắc pháp hỷ. 2. Nghi điều kỳ lạ.

Từ “Bấy giờ có vị Bồ-tát” trở xuống, là phần năm: Đại Nhạo Thuyết nhân nghi nên thỉnh hỏi. Nếu hướng về ý đáp bên dưới thì có ba câu hỏi: 1. Hỏi do nhân gì mà có tháp này? 2. Hỏi vì sao tháp từ đất nổi lên? 3. Vì sao phát ra âm thanh ấy?

Từ “Lúc đó Phật bảo” trở xuống là phần sáu: Như Lai đáp. Đây có ba phần: 1. Đáp câu hỏi thứ hai: Đức Phật đây có nguyện là chứng

Pháp Hoa, cho nên từ đất vọt lên. Từ “Khi đức Phật thành đạo” trở xuống, là đáp câu hỏi thứ nhất: Do theo mệnh lệnh của đức Phật ấy mà tạo tháp này. Từ: “Đức Phật đó dùng nguyện lực thần thông” trở xuống, là đáp câu hỏi thứ ba: Để làm chứng minh, cho nên phát ra âm thanh như vậy.

Thích luận nói : “Đức Phật Đa Bảo không cần phải thuyết pháp, mà chọn diệt đo”. Sư giải thích không như vậy. Vì Đức Phật ấy bảo các Tỳ-kheo; Tỳ-kheo tức là người thọ nhận sự giáo hóa, thì sao nói không thuyết? Nên biết Đa Bảo cũng cần phải khai tam mà không cần phải hiển thật, cho nên Thích luận nói “không cần phải thuyết pháp” đó thôi. Do vì nghĩa đây cho nên mặc dù diệt độ mà nơi nào chỗ nào có thuyết kinh Pháp Hoa thì đều tùy hỷ làm chứng.

Từ “Đại Nhạo Thuyết do sức thần của Như Lai” trở xuống, là phần thứ hai : Phân thân từ xa tập hợp. Đây chia làm bảy đoạn: 1) Nhạo Thuyết thỉnh cầu thấy Đa Bảo. 2) Ứng tập phân thân. 3) Nhạo Thuyết thỉnh vân tập. 4) Phóng quang xa gọi. 5) Chư Phật đồng đến. ) Trang nghiêm thanh tịnh cõi nước. 7) Dữ dục mở tháp.

Giải thích đoạn một, thỉnh nói “Nương thần lực Phật”: muốn mở tháp phải tập hợp chư Phật. Chư Phật vân tập thì phó chúc, phó chúc tức gọi các phương dưới, phương dưới xuất hiện thì nên khai cận hiển viễn. Đây là do đại sự, đâu chẳng phải thần lực chư Phật khiến hỏi? Các đoạn khác như văn.

Từ “Lúc bấy giờ đức Phật phóng hào quang” trở xuống, là đoạn bốn: Phóng quang xa gọi đến. Ba lần biến cõi thanh tịnh. Đây chính do Tam-muội. Tam-muội có ba: 1) Biến cõi Ta-bà: là “Bối xả” có thể biến uế thành tịnh. 2) Biến hai trăm Na-do-tha : là “Thắng xứ” chuyển biến tự tại. 3) Biến hai trăm Na-do-tha: là “Nhất thiết xứ” đối cảnh không ngăn ngại. Lại, lần biến tịnh đầu tiên: biểu thị tịnh trừ Tứ trụ. Lần biến tịnh thứ hai : tiêu biểu tịnh trừ Trần sa. Lần biến tịnh thứ ba, tiêu biểu tịnh trừ Vô minh.

Từ “Khi ấy chư Phật đều ngồi tòa Sư tử” trở xuống, là đoạn bảy: Dữ dục mở tháp. Lại chia làm năm phần: 1) Sứ của chư Phật hỏi thăm và thuyết dục khai tháp. 2) Thích-ca mở tháp. 3) Bốn chúng đều đồng thấy nghe. 4) Hai đức Phật phân tòa mà ngồi. 5) Bốn chúng thỉnh thêm. Đây là phần một : “Chư Phật dữ dục khai tháp”, giống như ý trong đại chúng tăng “tác pháp dữ dục”. Kinh Đại Tập nói: “Bao nhiêu Phật dữ dục”. Kinh Hoa Nghiêm nói : “Mười phương bao nhiêu Phật đồng thuyết Hoa Nghiêm”. Kinh Đại Phẩm nói : “Ngàn Phật đồng thuyết Bát-nhã”. Đều không nói là Thích-ca phân thân. Chuẩn theo kinh này, thì phải là phân thân. Vì các kinh kia mang phương tiện, cho nên trong thời ấy không nói rõ. Kinh này chẳng những nói “số nhiều” mà còn nói thẳng là “phân thân đều đến và đều dữ dục”. Từ “Lúc bấy giờ đức Thích-ca thấy” trở xuống, là phần hai: đức Thích-ca mở tháp. “Khai tháp” tức là khai quyền, “thấy Phật” tức là hiển thật, cũng là chứng trước, lại sẽ khai sau. “Như tháo khóa chốt”: tháo bỏ chướng, căn cơ chuyển động.

Từ “Dùng đại âm thanh” trở xuống, là đức Thích-ca đề xướng chiêu mộ tìm người lưu thông kinh, lại chia làm ba: 1. Dùng đại âm thanh diễn xướng chiêu mộ. 2. Từ “Như Lai không bao lâu” trở xuống, nêu đến thời phó chúc. 3. Từ “Đức Phật muốn đem Kinh Pháp Hoa”: nêu “phó chúc hữu tại”. “Hữu tại”: nếu đức Phật tại thế, thì tùy cơ lợi vật, tự thuyết chánh pháp không đợi người khác. Nay cơ duyên hóa độ của Phật đã hết, muốn khiến pháp này lợi ích vô cùng, cho nên phải phó chúc lưu thông. “Phó chúc hữu tại”(Những người được phó chúc), có hai ý: 1. Gần thì phó chúc cho tám vạn hai vạn xưa đã trụ vị Bồ-tát, hoằng tuyên cõi này. 2. Xa thì phó chúc cho các đệ tử của mình ở hạ phương ngàn cõi nhiều như vi trần, khiến lưu thông khắp xứ, và cũng phát khởi nghĩa thọ lượng.

Về kệ có bốn mươi tám hàng, chia làm ba phần tụng ba ý trên: 1. Ba hàng rưỡi, tụng đức Đa Bảo diệt độ. 2. Tám hàng rưỡi, tụng phân thân vân tập. 3. Ba mươi sáu hàng, tụng đức Thích-ca phó chúc. Hai phần trước như văn. Phần ba: từ “Bảo cùng hàng Đại chúng” trở xuống, lại chia làm hai: 1. Tám hàng rưỡi, nêu ba đức Phật để khuyến lưu thông. 2. Hai mươi bảy hàng rưỡi, nêu pháp khó trì để khuyến lưu thông.

Tám hàng rưỡi, có ba ý: 1. Một hàng rưỡi, là khuyến mộ tìm người lưu thông. 2. Từ “Đức Phật Đa bảo kia” trở xuống, ba hàng, chánh nêu ba đức Phật vì khuyên trì kinh. 3. Từ “Có ai hay hộ trì” trở xuống, bốn hàng, nói năng trì Kinh này tức là cúng dường ba đức Phật cho đến thấy được ba đức Phật. Vì giải thích ý khuyên.

Từ “Các thiện nam tử này” trở xuống, hai mươi bảy hàng rưỡi, nêu pháp khó trì để khuyên lưu thông, lại chia làm hai: 1. Hai mươi hàng, chính nêu khuyên. 2. Bảy hàng rưỡi, giải thích ý khuyên.

Hai mươi hàng lại có ba: 1. Một hàng, răn khuyên. 2. “Bao nhiêu kinh điển khác” trở xuống, mười bảy hàng, chính nêu pháp khó trì để khuyên lưu thông. 3. “Ta vì hộ Phật đạo” trở xuống, hai hàng, giải thích ý khó trì. Nếu có người năng trì tức trì thân Phật, ý đây đâu dễ?!

Từ “Các thiện nam tử này, sau khi ta diệt độ” trở xuống, bảy

hàng rưỡi, nêu năng trì khó trì năng thành đức thù thắng để giải thích ý khuyên. Đây lại chia làm ba: 1. Một hàng rưỡi, lại khuyến mộ người trì kinh. 2. “Kinh pháp đây khó trì” trở xuống, một hàng rưỡi, nêu trì được pháp khó trì thì chư Phật hoan hỷ tán thán. 3. “Đó là rất dũng mãnh” trở xuống, bốn hàng rưỡi, nêu năng trì khó trì liền thành thắng hạnh. Thắng hạnh có tự có tha. “Ở trong đời kinh sợ”: Thiên Trúc gọi Sa-bội, Trung hoa dịch “kinh sợ”. Thiên trúc gọi Bạt-đà Trung hoa dịch Hiền Hộ, là tên khác vậy thôi.

Phẩm Thứ 12: ĐỀ BÀ ĐẠT ĐA

Đề-bà-đạt-đa là âm tiếng Phạn. Trung Hoa dịch là Thiên Nhiệt. Lúc ông sinh ra đời thì chư thiên cảm thấy tâm nóng nảy bứt rứt, nhân đây mà đặt tên, tức theo Nhân duyên mà giải thích tên. Nhân hạnh nghịch mà lý thuận, tức là ý của Viên giáo, chẳng phải ý của các giáo khác. Bản địa vốn thanh lương, Tích thì thị hiện Thiên Nhiệt, đồng bệnh với chúng sinh.

Kinh Bảo Xướng nói: Kinh Pháp Hoa gồm có bốn bản dịch, nay chỉ còn lại hai bản, hai bản đã thất lạc. Ngài Đàm-ma-la-sát, Trung hoa gọi ngài Pháp Hộ, vào đời Tây Tấn ở Trường An, dịch gọi là kinh Chánh Pháp Hoa. Ngài Pháp Hộ nhiều lần diễn giảng rộng, rất ổn định nhiều người nương theo. Cưu-ma-la-thập, Trung hoa dịch Đồng Thọ, ngài là nguời nước Qui Tư, ngày 23 tháng 4 niên hiệu Hoằng Thủy thứ năm đời Nguỵ Tần, ở vườn Tiêu Diêu Trường An ngài dịch xong kinh Đại Phẩm. Đến mùa hạ năm thứ tám, ngài ở chùa Thảo Đường dịch kinh Diệu Pháp Liên Hoa này, sai học trò là Tăng Duệ giảng giải. Tăng Duệ chia làm chín vần, đương thời là hai mươi tám phẩm, người trong cung Trường An thỉnh phẩm này lưu giữ lâu ở nội cung, nên lưu truyền ở Giang Đông chỉ được hai mươi bảy phẩm. Đời Lương có Pháp sư Mãn giảng kinh một trăm lẻ tám biến, ở quận Trường Sa thiêu thân, vẫn dùng phẩm này để trước phẩm Trì, bản kinh ấy chỉ lưu hành nội bộ, chưa truyền ra thiên hạ. Đời Trần có ngài Nam Nhạc Thiền sư sắp xếp phẩm này sau phẩm Đa Bảo, sau dùng bản Chánh Pháp Hóa đối chiếu thì rất tương ưng. Đến nay đã bốn lần sắp xếp thay đổi, hiện đang giống bản cũ ở Trường An, cho nên biết hai sư hiểu sâu được ý kinh.

Đề-bà-đạt-đa cũng gọi là Đạt Đâu, Trung hoa dịch Thiên Nhiệt. Ông là người phá tăng, đem năm trăm Tỳ-kheo đi, ngài Thân-tử phục cho ngủ say, ngài Mục-liên vận thần thông dùng bàn tay đem họ trở về. Đề-bà ngủ dậy phát nguyện báo thù này, nên bưng ba mươi tảng đá to lớn để ném Phật, có thần núi dùng tay ngăn cản, đá nhỏ rơi rớt làm tổn thương chân Phật chảy máu, rồi xui khiến vua A-xà-thế thả voi say dẵm lên Phật, đánh Tỳ-kheo-ni Hoa Sắc chết. Để độc trong mười móng tay rồi đến lễ chân Phật, làm tổn thương Phật, đó là tội ngũ nghịch. Nếu tội tam nghịch thì xúi vua, để độc trong móng tay đều là làm hại Phật, do đó nên gọi là hành nghịch. Lúc ông ra đời thì tâm chư thiên tâm nóng nảy, từ đó mà đặt tên gọi là Thiên Nhiệt, đây là giải thích theo Tích môn vậy.

Nêu giải thích theo Bản môn, thì chúng sinh phiền não cho nên Bồ-tát cũng thị hiện nhiệt, đồng với hạnh bệnh của chúng sinh để độ thoát họ. Dụng ý của phẩm này là dẫn việc xưa, hoằng truyền kinh điển, làm lợi ích chúng sinh chẳng lầm lẫn. Chứng minh sự truyền bá giáo hóa này có hiệu nghiệm không hư dối. Nêu xưa khuyên nay, khiến lưu thông. Văn chia làm hai: 1. Từ đâu đến “Nếu sinh ở trước Phật, thì từ hoa sen hóa sinh”: ngày xưa Đạt-đa thông kinh để đức Thích-ca thành đạo. 2. Từ “Bấy giờ, ở hạ phương vị Bồ-tát theo hầu đức Đa bảo Như Lai” trở xuống: ngày nay Văn-thù thông kinh thì Long nữ thành Phật. Vâng thọ giáo pháp mà còn như vậy, huống chi truyền bá lưu thông kinh, mà công ích sao không lớn ư?! Cho nên Đề-bà-đạt-đa được thọ ký, Văn-thù có thể dùng ý mà hiểu…

Phần thứ nhất, gồm có ba phần nhỏ: 1. Nêu tướng thầy trò trì kinh thuở trước. 2. Kết hợp xưa nay. 3. Khuyến tín.

Phần một: nêu rõ tướng thầy trò, có văn trường hàng và kệ tụng. Trường hàng có bốn đoạn: 1. Nêu thời tiết cầu pháp. 2. Từ “Ở trong nhiều kiếp” trở xuống: chính nêu cầu pháp. 3. Từ “Khi ấy có vị tiên nhân” trở xuống: nêu cầu được pháp sư. 4. Từ “Vua nghe lời vị tiên nhân” trở xuống: nêu thọ pháp phụng hành.

Đoạn một: như văn. Đoạn hai: Chính nêu cầu pháp, lại có hai: 1. Nêu phát nguyện. 2. Từ “Vì muốn đầy đủ” trở xuống: nêu Tu hành. Trong Tu hành lại có hai: 1. Nêu muốn đầy đủ sáu pháp Ba la mật cần phải siêng năng hành bố thí, như văn. 2. Từ “Thuở đó nhân dân trong đời” trở xuống: nêu vì đầy đủ Bát-nhã tìm cầu diệu pháp.

Kệ có bảy hàng rưỡi, tụng phần trường hàng bên trên. 1. Hai câu đầu tụng Thời tiết cầu pháp. 2. Từ “Dầu làm vị quốc vương” trở xuống, một hàng rưỡi, tụng Chính cầu pháp. 3. Từ “Giờ có tiên Trường Thọ” trở xuống, một hàng rưỡi, tụng Cầu được pháp sư. 4. Từ “Khi vua nghe tiên nói” trở xuống, hai hàng rưỡi, tụng Thọ pháp phụng hành. 5. Từ “Cũng không vì thân mình” trở xuống, một hàng rưỡi, tụng Kết chứng khuyên tin.

Từ câu: “Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Thuở ấy vua đó” trở xuống là phần thứ hai: kết hợp xưa nay, lại có hai phần nhỏ: 1. Chánh kết hợp xưa nay như văn. 2. Từ “Do Đề-bà-đạt-đa” trở xuống: công báo của thầy trò đều mãn, trong đó chia làm hai đoạn.

1. Nêu đệ tử nhân báo đã mãn. 2. Từ “Đức Phật bảo tứ chúng” trở xuống: nêu diệu quả của Pháp sư sẽ thành.

Trong đoạn Đệ tử nhân báo, lại có ba phần: 1. Nêu nhân mãn. 2.

Từ “Ba mươi hai tướng” trở xuống: nêu quả mãn. 3. “Đều là nhân Đềbà-đạt-đa cả” là kết chứng do thông kinh mà được lợi ích.

Đây là phần một: “Đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật”: Độ có nghĩa rất nhiều. Như Đại luận nói: xả bỏ y và chính, gọi là “thí”, phòng chỉ thất chi, gọi là “giới”, bị đánh đập mắng chửi mà không báo thù, gọi là “nhẫn”, làm việc từ trước đến sau là “tinh tấn”, Tứ thiền Bát định, gọi là “thiền”, phân địa dứt tránh gọi là “Bát-nhã”. Lại, nếu lược mười điều thiện làm sáu, thì từ không sát đến không vọng ngữ, gọi là thí, không lưỡng thiệt gọi là giới, không ác khẩu là nhẫn, không ỷ ngữ là tiến, không tham sân là thiền, không tà kiến là Bát-nhã. Kinh Bồ-tát Thiện Giới nói: Sáu Ba-la-mật có ba thứ: 1. Đối trị, nghĩa là xan, ác, sân, đãi, loạn, si… 2. Tương sinh nghĩa là bỏ nhà trì giới gặp nhục phải nhẫn, nhẫn rồi tính tấn, tấn rồi điều hòa ngũ căn, căn điều hòa tức tri pháp giới. 3. Quả báo, nghĩa là giàu có đầy đủ sắc lực, thọ lâu, an ổn, biện tài. Lại các kinh khác nói: Bố thí quả báo giàu có, trì giới quả báo vào đường thiện, nhẫn nhục quả báo đoan chánh, tinh tấn quả báo thần thông, thiền định báo sinh lên cõi trời, trí tuệ quả báo phá phiền não. Như vậy là nêu tướng lục độ theo Tam tạng giáo. Nếu người thí, người nhận và tài vật, ba thứ đều không, thì gọi là đàn. Không thấy có trì có phạm, gọi là giới. Năng nhẫn và sở nhẫn đều không thể được, gọi là nhẫn. Thân tâm bất động, gọi là tinh tấn. Bất loạn bất vị, gọi là thiền. Phi trí phi ngu gọi là Bát-nhã. Đó tức là tướng lục độ trong Thông giáo. Nếu nói Thí có mười lợi ích: Hàng phục xan tham phiền não xả tâm tương tục cùng ban cho chúng sinh của cải tài sản sinh trong gia đình giàu có đời đời bố thí tâm hiện tiền, bốn chúng thương mến không sợ hãi, tiếng tốt vang khắp tay chân mềm mại, cho đến đến nơi đạo tràng thường gặp thiện tri thức. Giới có mười lợi ích: Đủ nhất thiết trí sở học như Phật, trí tuệ không hủy thệ nguyện không thoái an trú nơi hạnh, xả bỏ sinh tử ái mộ Niết-bàn tâm không trói buộc đắc Tam-muội thù thắng không thiếu tín tài. Nhẫn có mười lợi ích: Lửa đao nước độc đều không thể hại, loại phi nhân hộ trì thân tướng trang nghiêm, đóng chặn đường ác sinh vào Phạm thiên, ngày đêm thân thường an không lìa hỷ lạc. Tinh tấn có mười lợi ích: Người khác không thể chiết phục, được Phật hộ nhiếp, phi nhân ủng hộ, nghe pháp không quên, những điều chưa nghe sẽ được nghe, tăng trưởng biện tài, đắc tánh Tam-muội, ít bệnh tật phiền não tùy theo ăn gì cũng tiêu, tăng trưởng như hoa Ưu bát. Thiền có mười lợi ích: An trú nơi nghi thức, hành nơi cảnh giới từ bi, không hối hận bức não, giữ gìn các căn đắc hỷ lạc vô thực (không ăn uống) lìa ái dục tu thiền bất không, giải thoát ma quyến an trú nơi cảnh giới Phật thành tựu giải thoát. Bát-nhã có mười lợi ích: Không chấp tướng thí, không dựa vào giới, không trú sức nhẫn, lìa thân tâm tinh tấn, thiền vô sở trụ ma không thể nhiễu loạn, người khác luận bàn không làm lay động, thông đạt cùng tận sinh tử, khởi lòng từ tăng thượng, không ưa địa vị Nhị thừa.

Bốn việc nên tu thí: 1. Người tu đạo phá xan tham. 2. Trang nghiêm quả Bồ-đề. 3. Tự tha đều lợi ích. Lúc muốn thí, lúc đang thí, thí cho rồi đều hoan hỷ, gọi là tự lợi. Đói khát của người khác được trừ, gọi là lợi tha. 4. Được quả đại thiện trong đời sau: đời sau được đại tôn quí, tài vật dư đầy. Bốn việc nên trì giới: Tự tu thiện pháp diệt trừ giới ác, trang nghiêm Bồ-đề thu nhiếp chúng sinh, ngủ thức yên ổn không hối hận, đối với chúng sinh không có tâm hại, đời sau thọ báo nhân thiên được vui Niết-bàn… Bốn việc nên tu nhẫn: Tu nhẫn trừ bất nhẫn, trang nghiêm Bồ-đề thu nhiếp chúng sinh, lìa hết thảy sợ hãi, đời sau không sân hận quyến thuộc không hoại không thọ khổ não, được quả báo an vui nhân thiên Niết-bàn. Bốn việc nên phải tu tinh tấn: Tấn phá giải đãi trang nghiêm Bồ-đề thu nhiếp chúng sinh, tăng thiện pháp là tự lợi, không não loạn người khác là lợi tha, đời sau được đại lực đạt đến Bồ-đề. Bốn việc nên tu thiền định: Định phá loạn tâm, trang nghiêm Bồ-đề thu nhiếp chúng sinh, thân tâm tịch tĩnh là tự lợi, không não loạn chúng sinh là lợi tha, sau thọ thân thanh tịnh, an ổn đắc Niết bán. Bốn việc nên tu Bát-nhã: Trí tuệ phá vô minh, trang nghiêm Bồđề thu nhiếp chúng sinh, trí tuệ tự an lạc là tự lợi, năng giáo hóa chúng sinh là lợi tha, năng hủy hoại phiền não và trí chướng… là đại quả, theo lệ như đây là Biệt giáo nêu rõ tướng lục độ.

Kinh Nguyệt Tạng quyển thứ nhất nói: “Nếu chúng sinh chỉ nương đọc tụng cầu đạo Bồ-đề, người ấy còn chấp đắm thế tục, còn không thể điều phục phiền não của mình thì làm sao điều phục phiền não cho người, người ấy còn chấp đắm tật đố danh lợi phú quí, tâm tự cao khinh mạn hủy báng người, còn không được thiện căn cõi Dục giới, huống chi thiện căn cõi Sắc, Vô sắc, huống chi Nhị thừa Bồ-đề, huống chi vô thượng Bồ-đề, như lửa nóng sao Trời không thể làm khô cạn biển cả, như miệng thổi không thể chuyển động núi, tơ sen không thể sánh núi Thái Sơn. Vì sao thế tục không thể mãn nguyện Bồ-đề? Sao gọi là đệ nhất nghĩa! Nghĩa là tạo tất cả việc phước. Nếu tu thân tu tâm tu tuệ dùng đệ nhất nghĩa huân tu thì mau đủ lục Ba-la-mật, hoặc đi hoặc ngồi xả tưởng “phan duyên”, gọi là Đàn, xả phan duyên, không hủy phạm gọi là Thi. Đối cảnh giới không sinh ghê tởm, là Nhẫn, không xả đối với lìa, là Tinh tấn, đối với trong sự việc không phóng dật, gọi là Thiền, đối các pháp thể tánh không sinh, là Bát-nhã. Lại nữa, xả ấm gọi là Đàn, không chấp niệm ấm là Thi, đối với ấm không ngã tưởng là Nhẫn, đối với ấm khởi oán tưởng, gọi là Tấn, đối với ấm không đốt cháy gọi là Thiền, đối với ấm rốt ráo xả bỏ gọi là Bát-nhã. Đối với giới xả gọi là Đàn, đối giới không nhiễu trược gọi là Thi, đối giới xả nhân duyên là Nhẫn, đối giới thường thường xả là Tấn, đối giới không khởi tưởng gọi là Thiền, đối giới như huyễn tưởng gọi là Bát-nhã. Các thứ như vậy gọi là Đệ nhất nghĩa đế là pháp yếu thiện xảo phương tiện thậm thâm vi diệu, năng đầy đủ lục Ba-la-mật, do pháp đây tự lợi lợi tha, ba đời Bồtát đều tu pháp ấy mà thành Bồ-đề, cho nên không phải thế tục. Pháp này năng dứt phiền não đạo khổ đạo cho chúng sinh, an trí đạo Bồ-đề. Hoa Nghiêm Thất địa mới nói rõ niệm niệm đầy đủ Thập Ba-la-mật tu tập hết thảy Phật pháp để cầu thiện căn Phật đạo cho tất cả chúng sinh gọi là Đàn, năng diệt tất cả phiền não nhiệt gọi là Thi. Đối với tất cả chúng sinh không làm tổn hại gọi là Nhẫn, cầu thiện không nhàm chán gọi là Tấn, tu đạo tâm không tán loạn thường hướng đến nhất thiết trí là Thiền, nhẫn các pháp bất sinh môn là Bát-nhã, năng khởi vô lượng trí môn là Phương tiện, cầu chuyển thắng trí là Nguyện, tà ma không thể cản trở là Lực, đối với tất cả pháp tướng như thật thuyết là Trí, là đầy đủ Thập Ba-la-mật. Tứ nhiếp đạo phẩm, Tam giải thoát, tất cả pháp trợ Bồ-đề, ở trong mỗi một niệm đều đầy đủ, các địa niệm niệm đều đầy đủ, địa đây thù thắng hơn, theo như đây là tướng lục độ của Viên giáo.

“Ba mươi hai tướng” là nêu quả viên mãn. Ba mươi hai tướng: Dưới bàn chân bằng phẳng như đáy hộp, mu bàn chân nổi cao như lưng rùa, hai tướng do chung tu một hạnh bố thí kiên cố. Dưới bàn chân có xoáy tròn như hình bánh xe chỉ vì tu một hạnh an ủi và khủng bố, Gót chân tròn trịa tay chân thon dài thân thể ngay ngắn, ba tướng cùng do tu một hạnh bất sát. Lòng bàn chân bàn tay hai vai và trên đỉnh đầu, bảy chỗ ấy đều đầy đặn cùng tu một hạnh thường làm thí chủ, tay chân mềm mại, hợp khít hai tướng do tu tứ nhiếp. Gót chân thẳng mắt cá chân không lồi ra, lông hướng về bên phải, ba tướng cùng tu một hạnh thường dùng thiện pháp làm lợi ích chúng sinh, bắp tay và ruột như tướng Lộc vương nhất tướng, dùng Kinh sách dạy người không tiếc, da mỏng và mịn không dính bụi dơ do tu một hạnh: như hỏi mà đáp, sắc tướng thân thể sáng chói như vàng do tu hạnh nhẫn nhục bố thí, y tốt tướng nam căn ẩn kín do tu hạnh hòa hợp sự tranh luận và tướng thân viên mãn phạm hạnh, tay quá đầu gối hai tướng do cùng tu, tâm Từ v.v… giáo hóa dẫn dắt, hai vai tròn đều, đỉnh đầu phát sáng, ngực như ức Sư tử ba tướng cùng tu hạnh: thường khiến bố thí được tăng trưởng phước, tướng chữ “Vạn” do tu hạnh không não loạn chúng sinh, mắt xanh biếc lông mi như ngưu vương, hai tướng do cùng tu: không nhìn yêu, ghét chúng sinh, trên đỉnh đầu có cục thịt nổi cao như hình búi tóc, hai tướng do cùng tu: các công đức tại người trước. Một lổ một sợi lông trắng, hai tướng do chung tu hạnh không vọng ngữ, có bốn mươi răng, trắng đều đặn, hai tướng do chung tu: không lưỡng thiệt, lưỡi dài rộng âm thanh vang như Phạm thiên, hai tướng do chung tu: không nói lời thô ác, hai bên má cao đầy đặn như sư tử do hạnh không ỷ ngữ, bốn răng cửa trắng lớn do tu lìa tà mạng. Hết thảy công đức chúng sinh bằng được một sợi lông của đức Phật, công đức các sợi lông của đức Phật bằng được một vẻ đẹp, các vẻ đẹp bằng được một tướng, các tướng bằng được tướng bạch hào, nhục kế, bạch hào nhục kế trăm ngàn trăm ngàn vạn ức kiếp mới thành tướng Phạm âm. Ba mươi hai tướng, nhân tuy có mỗi mỗi khác, mà nhân tu hành phải nói thực sự chính xác như: Trì giới tinh tấn, tinh tấn mà không có giới còn không được làm thân trời người, huống chi các tướng khác ư! Đây là bản tướng của Tam tạng giáo. Không vô sinh là bản tướng của Thông giáo. Đạo chủng trí là bản tướng của Biệt giáo. Thật tướng là bản tướng của Viên giáo.

“Tám mươi vẻ đẹp”: Hai mươi ngón tay ngón chân tiêu biểu bên trong, tám chỗ đầy đặn bằng phẳng, mắt cá xương đùi, rắn chắc sáu chỗ tròn đẹp; vai, cổ tay, khủyu tay đẹp sáu chỗ đầy đặn, hai bên xương sườn và xương sống: ba chỗ tròn đẹp, hai bên xương mông và nam căn kín đáo nhất, hai đùi và eo lưng rún đầy tròn đẹp. Sườn, nách, vú: sáu vẻ đẹp. Ngực, lưng, bụng, cổ: bốn vẻ đẹp. Răng trên, dưới, môi trên, dưới, hàm trên, dưới xinh xắn. Hai gò má, hai nơi râu tóc, hai mắt, hai mi, hai lỗ mũi, hai bên trán, hai tai, và đầu đều viên mãn… tròn đẹp. Nếu phân biệt nghĩa bốn đẹp căn cứ ở tướng có thể biết.

Từ “Phật bảo hàng tứ chúng” trở xuống: nêu Pháp sư diệu quả sẽ thành. Trong đó lại có ba:

1. Nêu chánh quả thành: Kinh Phân-Đà-Lợi nói: “Điều-đạt làm Phật hiệu là Đề-hòa-la-da, Hán dịch là Thiên Vương, nước tên là Đềhòa-việt, Hán dịch là Thiên địa.

2. Từ “Lúc đó đức Phật Thiên Vương trú ở đời hai mươi trung kiếp” trở xuống: nêu hóa độ.

3. Từ “Sau khi đức Phật Thiên Vương nhập Niết-bàn” trở xuống: nêu lợi ích sau khi Phật diệt độ.

Từ “Đức Phật bảo các Tỳ-kheo” trở xuống: khuyên tu, như văn.

“Hoa sen hóa sinh”: Kinh Bồ-tát Xử Thai nói: “Hoa sen sinh: Chẳng phải là hóa sinh của thai, noãn, thấp, hóa. Không phải hóa mà nói hóa đó thôi. Thực ra không như loài hóa sinh trong Tứ sinh”. Kinh Thỉnh Quan Âm nói: “Hoa sen hóa sinh là cha mẹ”. Kinh Vô Lượng Thọ Quán nói: “Ở lâu trong đài sen là thai sinh, thật ra không phải thai”. Theo lệ, “Hoa sen sinh” cũng gọi là thấp sinh noãn sinh, mà chẳng phải là thấp noãn…

Từ “Bấy giờ, ở hạ phương vị Bồ-tát theo hầu đức Đa Bảo Như Lai” trở xuống: nêu ngày nay Văn-thù thông kinh lợi ích, lại có hai phần: 1. Nêu Văn-thù thông kinh. 2. Từ “Văn-thù-sư-lợi nói: Ta ơ trong biển” trở xuống: nêu lợi ích.

– Phần một lại chia năm phần:

1. Nêu Trí Tích thỉnh thoái: Kinh Phân-Đà-Lợi nói: “Hạ phương có vị Bồ-tát theo Phật Đa Bảo tên là Bát-nhã-câu-la”, Trung Hoa dịch là Trí Tích.

2. Từ “Đức Thích-ca” trở xuống: nêu đức Thích-ca giữ lại để chờ chứng minh lợi ích của việc thông kinh. Trí Tích thỉnh Phật Đa Bảo làm chứng kinh, cho nên xuất hiện. Khuyên chúng sinh lưu thông đã xong, cho nên xin trở về. Đức Thích-ca giữ Trí Tích bảo đợi khoan về, là tuy việc Tích môn đã xong mà Bản môn chưa nêu rõ, cho nên nhờ ngài Văn-thù lưu giữ đức Đa Bảo. Đây là mật ý của Phật, mà Bồ-tát không thể biết được.

3. Từ “Lúc bấy giờ Văn-thù-sư-lợi” trở xuống: nêu Văn-thù tìm đến.

4. Từ “Trí Tích Bồ-tát” trở xuống: Trí Tích hỏi “Số chúng sinh được hóa độ bao nhiêu”, như văn.

5. Từ “Văn-thù Sư Lợi nói” trở xuống, là Văn-thù đáp: “Chẳng thể nói hết”.

– Phần này chia làm bảy:

1. Đáp lợi ích rất nhiều.

2. Từ “Ngài Văn Thù nói chưa dứt lời” trở xuống: các vị được lợi ích vân tập để chứng minh.

3. Từ “Các vị Bồ-tát đây” trở xuống: đều do Văn-thù hóa độ.

4. Từ “Vốn là người hàng Thanh văn” trở xuống: vốn hàng Thanh văn, trước vâng lãnh Quyền giáo, trụ nơi đạo Nhị thừa. Kinh Phân-Đà- Lợi nói: “Hoa sen mọc lên từ ao, nếu xưa phát tâm Bồ-tát, thì hoa kia giữa hư không thuyết Ma-ha-diễn sự. Nếu xưa phát tâm Thanh văn, thì hoa giữa hư không chỉ thuyết việc đoạn sinh tử”.

5. Từ “Nay đều tu hành” trở xuống: nay nghe Thật giáo, đều an trú nơi pháp Đại thừa.

6. Từ “Văn-thù nói với Trí Tích rằng” trở xuống: Văn-thù tổng kết sự lợi ích.

7. Từ “Lúc bấy giờ Trí Tích” trở xuống: Trí Tích nói kệ tán thán.

Từ “Văn-thù nói : Ta ở trong biển” trở xuống, phần hai : nêu lợi ích. Văn chia làm chín phần: 1. Văn-thù tự trình bày. 2. Trí Tích hỏi. 3. Đáp. 4. Trí Tích chấp Biệt giáo, là nghi ngờ. 5. Long nữ nêu Viên, giải thích nghi. 6. Thân-tử dựa Tam tạng Quyền giáo mà nạn vấn. 7. Long nữ dùng Nhất thật trừ nghi. 8. Chúng bấy giờ nghe thấy được lợi ích. . Trí Tích Thân-tử im lặng tin phục.

Phần năm: Long nữ nêu Viên, giải thích nghi : ban đầu là văn trường hàng, trình bày sự cung kính. Tiếp đến là kệ, có ba hàng rưỡi, chia làm ba: 1. Nửa hàng, nêu trì kinh được giải. 2. Hai hàng, nêu thành tựu hai thân. 3. Một hàng, dẫn Phật làm chứng.

“Tội phước”: Căn cứ Thất phương tiện truyền tác, kệ này “thâm đạt” (thấu rõ) vô tội vô phước, nhập nhất thật tướng, gọi là “thâm đạt”. “Mười phương” tức mười pháp giới, đồng dùng thật tuệ chiếu sáng cho nên nói “biến chiếu”. “Đủ ba mươi hai tướng” thâm đắc lý Pháp thân, tức đầy đủ tướng hảo. Như kinh Đại Phẩm nêu: “Muốn đắc tất cả pháp thì phải học Bát-nhã, như được ngọc như ý”. Nhị thừa chỉ đắc Không, Không thì chẳng có tướng hảo…

Phần sáu: Thân-tử nạn vấn: Trước tổng nêu việc khó tin, sau giải thích nêu ra năm chướng ngại.

Phần bảy: Long nữ hiện thành chứng minh, lại có hai: 1. Hiến châu là tiêu biểu đắc Viên giải, viên châu là tiêu biểu tu đắc Viên nhân, “dâng lên Phật” là đem nhân được quả, “Thế Tôn nạp thọ mau” là thâu hoạch quả nhanh, đây tức nhất niệm tọa đạo tràng, thành Phật không hư dối. 2. Chánh nêu bày nhân viên quả mãn. Bồ-tát Xử Thai kinh nói: “Ma, phạm, Thích, nữ đều không xả thân không thọ thân, đều hiện thân được thành Phật”. Kệ nói: “Pháp tánh như đại hải, không nói có thị phi (phải trái)”. Hàng phàm phu Hiền Thánh bình đẳng không cao thấp, chỉ ở tâm cấu, diệt, thủ chứng như lật bàn tay.

Phần tám: Từ “Khi ấy trong cõi Ta bà” trở xuống, nêu Chúng thấy nghe được lợi ích, lại có hai: 1. Nêu thấy nghe. 2. Nêu Nhân, Thiên hoan hỷ, kia đây được lợi ích. Phương nam, duyên thuần thục nên dùng tám tướng thành đạo để truyền bá. Cõi này duyên chưa thuần thục, cho nên chỉ dùng Long nữ giáo hóa. Đây là sức phương tiện khéo léo, được một thân tức tất cả thân, được Tam-muội phổ hiện sắc thân.

Phẩm Thứ 13: TRÌ

Hai vạn Bồ-tát phụng mệnh hoằng kinh này, nên gọi là phẩm Trì, lại khuyên tám mươi vạn ức na-do-tha người hoằng kinh, cho nên gọi là phẩm Khuyến Trì.

Hỏi: Vì sao như vậy?

Đáp: Hai vạn là số ban đầu được lệnh riêng trong phẩm Pháp Sư nên phụng chỉ thọ trì; tám mươi vạn ức na-do-tha đồng với trước nhưng không được lệnh riêng, chỉ là chung tìm kiếm. Nay Phật nhãn thấy, khiến họ phát thệ nguyện lưu thông kinh ở cõi này. Sự lưu thông kinh chứng minh ý Phật rất sâu xa có hiệu nghiệm, cho nên ân cần khuyến trì. Thế nên nhờ khuyên mà hoằng kinh, vốn có hai ý. Văn chia làm hai phần: 1. Thọ trì. 2. Khuyến trì.

Phần Thọ trì chia làm ba: 1. Hai vạn Bồ-tát phụng mệnh ở cõi này trì kinh. 2. Năm trăm La-hán, tám ngàn Thanh văn phát nguyện ở cõi khác lưu thông. 3. Chư ni thỉnh Phật thọ ký.

Hỏi: Các Thanh văn này đã thành Đại sĩ, vì sao không thể ở cõi này hoằng kinh?

Đáp: Do vì dẫn hàng sơ tâm mới hành đạo Bồ-tát, chưa thể ở trong đời ác khổ hạnh lưu thông kinh, lại muốn khai mở phẩm An Lạc Hạnh.

Phần Khuyến trì có trường hàng và kệ tụng. Trường hàng có năm ý: 1. Phật nhãn nhìn thấy. 2. Bồ-tát muốn được phép lưu thông kinh. 3. Đức Phật im lặng. 4. Bồ-tát biết ý. 5. Phát thệ nguyện lưu thông kinh. “Đức Phật chỉ nhìn im lặng khuyên mà không nói”, nghĩa là “hãy làm” từ trước đến nay tuy không ra lệnh cụ thể, mà nêu công đức trì kinh sâu dày, dẫn chứng rõ ràng. Đức Đa Bảo và phân thân từ xa đến khuyến phát. Đây là sự ân cần, nghĩa đã đủ. Có muốn tức ứng với ra lệnh truyền bá, liền phát nguyện không phiền nói lại. Lại, nguyện sẽ hộ trì hàng Thanh văn ở phương khác, cho nên không nêu lên.

Kệ có hai mươi hàng: thỉnh hộ trì kinh, chia làm bốn phần, không cần phân chia nhỏ hơn, theo văn có thể hiểu. 1. Mười bảy hàng, tụng: Mặc áo Nhẫn hoằng truyền kinh. 2. Một hàng, vào nhà hoằng kinh. 3. Một hàng, ngồi tòa hoằng kinh. 4. Một hàng, tổng kết thỉnh Phật biết. Kinh Trung A-hàm quyển sáu nói: “A-lan-nhã” Trung hoa dịch Vô sự. “Đầu-đà”, Trung hoa dịch Đẩu Tẩu. Kinh Bảo Vân quyển sáu nói: “Tỳ-kheo ở chỗ A-luyện-nhi thấy vua, con vua, Bà-la-môn và tất cả mọi người đến, Tỳ-kheo nói: “Lành thay! Có thể ngồi đây”. Các vị kia đến liền cùng ngồi, nếu họ không ngồi thì Tỳ-kheo cũng không

ngồi, vì họ thuyết pháp khiến họ hoan hỷ. Sau khi Phật diệt độ, ở đời ác, Tỳ-kheo không giữ đúng pháp. Tuy thuyết giới pháp mà là để được vật thực. Đối với giới pháp thì không ưa hành trì, thứ đến năm phần pháp thân và hết thảy đạo pháp khác cũng như thế. Như người ngạt mũi, nói gỗ chiên-đàn thơm, tự mình không ngửi được hương thơm mà cũng không tự biết gỗ chiên-đàn. Thiên, nhân long, thần, Cưu-bàn-trà mãi mãi không cúng dường người không trì giới. Bốn phần còn lại cũng nói như vậy. Không có ai đem diệu pháp đến, vì không có tịnh giới sinh khởi. Bốn phần còn lại cũng như vậy. Giả sử có người sắp chết, bệnh rất nặng, đau đớn khổ não bức bách không thoát khỏi được. Niệm Phật Tam-muội bình thường cũng không xả bỏ được tất cả khổ. Tâm mình quyết định tất cả. Người kia nếu tự hiểu pháp ấy, thì biết tất cả pháp Không.

Mặc áo giáp nhẫn nhục: Kinh Trung A-hàm quyển năm nói: “Có vị Tỳ-kheo tên Hắc Sỉ mách với đức Phật: Xá-lợi-phất mắng con, chửi con.” Đức Phật liền gọi ngài Xá-lợi-phất đến, hỏi “thật có mắng chửi vị kia không?”. Xá-lợi-phất thưa: “Bạch Thế Tôn! Người tâm không định thì đôi khi có mắng chửi, tâm con đã định thì sao có thể mắng chửi, như con trâu đã bị bẻ gãy sừng thì không thể húc quấy rầy con người, như trẻ con tàn tật hổ thẹn thì không làm phiền não người. Tâm con ví như đất, dù cho nước, gió, lửa, tịnh hay bất tịnh, đại tiểu tiện lợi, nước miếng, khạc nhổ thì đất đều thọ nhận mà không mắng chửi. Tâm như chổi quét, tịnh bất tịnh đều quét. Lại nữa, như cái bát nứt đựng sáp để giữa trời nắng, thì từng giọt từng giọt luôn rơi xuống, con tự quán sát chín lỗ thường chảy bất tịnh, thì tại sao con lại mắng chửi người khác? Lại, như xác rắn, chó chết… buộc vào cổ sạch của trẻ con, xấu hổ tự thẹn thì chẳng mắng chửi người khác”.

Đức Phật hỏi: Đối với người ác như thế, ông quán thế nào?

Đáp: Người có năm hạng: 1. Đối với người mà thân thiện, khẩu ý bất thiện, thì ta chỉ nghĩ đến thân thiện của người ấy, mà không nghĩ đến khẩu ý bất thiện của người ấy. Như Tỳ-kheo may y, thấy tấm lụa rách nơi đống phân dơ, tay phải cầm lên, tay trái căng ra, cắt bỏ chỗ dơ lấy chỗ sạch mà dùng. Nghĩ đến dùng thân thiện của người đó, để trau giồi thân mình. Xả bỏ khẩu ý bất thiện kia để răn bảo khẩu ý mình. 2. Đối với người khẩu thanh tịnh, thân ý bất tịnh, thì con chỉ nhớ đến khẩu của họ và bỏ thân ý kia, như người khát nóng mà gặp ao nước đầy cỏ, dùng tay mang cỏ nhúng nước rưới lên thân cho mát đỡ khát. 3. Ý tịnh, thân khẩu bất tịnh, thì cũng niệm ý kia không niệm thân khẩu, như người đi bộ nóng khát, chỉ có ít nước ở dấu chân trâu nếu ta dùng tay vốc lên thì nước đục, nghĩ vậy nên hai chân quỳ xuống hai tay chống đưa miệng hớp uống để trừ nóng khát. 4. Có người nếu ba nghiệp đều bất tịnh, nếu không thể dùng nên nghĩ đến nổi thống khổ của họ, như giữa đường thấy người bệnh bèn để nằm yên ổn, lại nghĩ bất tịnh đây khiến được gặp thiện tri thức trị lành ba nghiệp kia chớ khiếp, đoạ lạc vào ba đường. 5. Cả ba nghiệp đều tịnh: Thường niệm người này để huấn thị bản thân mình huống chi người ấy hoàn thiện, lại càng mong cứu giúp, như ao nước trong mát có hoa cỏ, người nóng khát vào trong đó nghĩ ngơi thoả thích. Thường niệm cảnh giới để xả bỏ ác của tự thân, đây là ý trong Tam tạng dùng khổ, vô thường, bất tịnh, vô ngã, Không, làm áo giáp vậy.

Luận Tỳ-Bà-Sa quyển tám nói: “Nghĩ đến mắng là một lời nói, còn ngoài ra là tiếng kêu gọi, suốt ngày tiếng kêu gọi ấy đối với ta có nghĩa gì? Lại lời nói phương đây là thấp kém xấu xa, phương khác là lời xưng tán. Nếu ta nghĩ đây là lời thấp kém, thì không có chỗ nào vui. Lại nên quán chữ “mắng” đây như đảo ngược, thì chữ này liền thành lời tán thán. Lại mắng là một chút ít phần của “giới”, một chút phần của “nhập”, một chút phần của “ấm”. Mắng là phần ít, không mắng thì nhiều. Lại ai thành tựu mắng? Người mắng đã thành tựu. Thành tựu tự nơi người ấy thì đối với ta là gì? Lại “mắng” là một chữ, một chữ không thành mắng, hai chữ thành mắng, không thể một lúc mà nói hai chữ, khi nói chữ sau, thì chữ trước đã mất. Lại năng mắng (chủ thể) và sở mắng (khách thể) nhất thời đồng một sát na đều diệt, ở ta là gì ? Các thứ như vậy đều dùng “Không” làm áo giáp. Quyển mười bảy nói: “Phàm, Thánh đều có ba loại thọ, khác biệt thế nào? Phàm phu thì đối với khổ thọ có hai: 1. Thân thọ khổ. 2. Tâm thọ ưu bi, như mũi tên tam độc, mất vui thì giận, được vui thì mừng không khổ không vui thì si. Hàng Thánh nhân thì chỉ có thân thọ mà không có tâm thọ, đối với khổ thì không sân, đối với vui thì không tham ái, đối với cảnh không khổ không vui thì không si, ba sử không thể sai khiến, đối với sử được giải thoát. Cho nên giữa phàm và Thánh có sai khác”. Các thứ như đây bình đẳng có không sai khác với nhau, đây là dùng Biệt giáo làm áo giáp. Kinh này nêu áo giáp, là dùng niệm Phật làm áo giáp, là niệm pháp Phật Đệ nhất nghĩa, vì Phật tức là pháp. Văn nói: “Niệm (nghĩ) lời Phật dạy bảo, tức là Pháp vậy. Phật tức là Tăng, Tăng tức sự lý đều hòa, tức Tỳ-lư-giá-na Phật biến khắp tất cả chỗ. Như thế mặc một áo giáp này, tức mặc tất cả áo giáp, là áo giáp Viên giáo vậy”.

Phẩm Thứ 14: AN LẠC HẠNH

Giải thích tên phẩm này theo ba cách: Y sự, phụ văn, pháp môn.

1. Y sự: là thân không nguy hiểm nên “an”, tâm không ưu não nên “lạc”, thân an tâm lạc cho nên năng tiến “hạnh”.

2. Phụ văn: mặc y Như Lai thì Pháp thân “an”, vào nhà Như Lai cho nên giải thoát tâm “lạc”, ngồi tòa Như Lai cho nên Bát-nhã dẫn “hạnh” tiến. Đây là phụ văn phẩm trên giải thích. Trụ nhẫn nhục địa cho nên thân “an”, mà không bộc phát cho nên tâm “lạc”, quán thật tướng các pháp cho nên “hạnh” tiến.

3. Pháp môn: “An” gọi là bất động, “lạc” gọi là vô thọ, “hạnh” gọi là vô hành. Bất động: đối với lục đạo sinh tử, nhị thánh Niết-bàn đều không thể động, vì không duyên nhị biên thì thân không lay động. Văn trên nói: Thân thể và tay chân yên lặng an ổn bất động, tâm kia thường chẳng động, chưa từng có tán loạn, thì an trú bất động như đảnh Tu-di, thường trú pháp môn bất động. “Lạc”: diệu dụng rộng lớn của Tam-muội không tho. Không thọ năm thọ của phàm phu, cho đến trong Viên giáo năm thọ sinh kiến cũng đều không thọ. Vì có thọ thì có khổ, không thọ thì không khổ, không khổ không lạc thì mới gọi là đại lạc. Vô hành: nếu có sở thọ thì có sở hành, không thọ thì không sở hành. Không hành hạnh phàm phu, không hành hạnh Thánh hiền, cho nên nói vô hành, mà hành Trung đạo, cho nên gọi là hành, tức pháp môn vậy.

Đây lại giải thích rộng theo sự: “An lạc”, tức Đại Niết-bàn, từ quả đặt tên. “Hạnh” tức đạo Niết-bàn, từ nhân mà đặt tên. Các nhân quả khác đều khổ. Như hạng ngoại đạo chấp thường kiến, hành khổ hạnh, lại đắc quả khổ. Hoặc nhân lạc quả khổ, như hạng ngoại đạo chấp đoạn kiến, buông lung tình ý, hưởng lạc, sau đắc báo khổ. Hoặc nhân khổ quả lạc, như nhị thừa chiết phục pháp, vô thường vụng độ gia công khổ đến tột bực rồi mới nhập Niết-bàn. Nay nói “An lạc hạnh” là nhân quả đều lạc, tức là như thật khéo độ trong kinh Đại Phẩm. Đại Kinh nói: “Quyết định khổ mà tu hành, gọi là phàm phu; khổ vui tu hành là Thanh văn Duyên giác, quyết định vui mà tu hành, là các Bồ-tát”. Nêu thất phương tiện thô nhân thô quả, đều không phải An lạc hạnh. Riêng chỉ diệu nhân, diệu quả, gọi là “An lạc hạnh”.

Lại rộng Phụ văn giải thích: “An lạc hạnh” là đạo Niết-bàn, Niếtbàn có ba nghĩa, gọi là ba đức bí tạng. “Hạnh” có ba nghĩa, gọi là Chỉ hạnh, Quán hạnh, Từ bi hạnh. Chỉ hạnh: ba nghiệp nhu hòa, trái ngược với cái từ trước đến nay, đêu vắng lặng tức là thể Pháp thân hạnh, tức văn trên nói “mặc áo Như Lai”. Quán hạnh: Trí tuệ nhất thật tướng vô phân biệt quang, tức thể Bát-nhã hạnh, tức là văn trên nói “ngồi tòa Như Lai”. Từ bi hạnh: bốn hoằng thệ nguyện rộng độ hết thảy, là thể Giải thoát hạnh, tức văn trên nói “vào nhà Như Lai”. Tổng quát ba hạnh này là đạo Niết-bàn, tổng ba đức là cảnh của hạnh. Cảnh gọi là “An lạc”, đạo gọi là “hạnh”.

Đại luận nói: “Bồ-tát từ khi sơ phát tâm thường quán Niết-bàn, khi hành đạo nhân thì dụng ba hành pháp này dẫn dắt ba nghiệp làm hạnh. Ba nghiệp tịnh tức là tịnh sáu căn. Sáu căn nếu tịnh thì phát sinh tương tự giải và được nhập chân. Quả khi ấy gọi là Phật nhãn nhĩ… Nhân gọi là Chỉ hành, quả gọi là Đoạn đức. Nhân gọi là Quán hạnh, quả gọi là Trí đức. Nhân gọi là Từ bi hạnh, quả gọi là Ân đức. Lại nữa, nhân gọi là tam nghiệp, quả gọi là tam mật. Nhân đó là từ bi dẫn dắt ba nghiệp lợi tha, quả đó gọi là tam luân hóa độ bất tư nghì. Khi quán như vậy, thì không còn phân biệt, trong tất cả pháp đều có tánh an lạc. Hết thảy chúng sinh tức đại Niết-bàn, không thể lại diệt, hành ở phi đạo mà thông đạt Phật đạo, đây tức tuyệt đãi mà nêu An lạc hạnh. Hạnh này hợp nghĩa Niết-bàn. Kia nói: “Lại có một hạnh là Như Lai hạnh, Như Lai là người, an lạc là pháp. Như Lai là người an lạc, an lạc là pháp của Như Lai. Tóm lại mà nói thì nghĩa kia không khác, nghĩa riêng cũng không khác. Đây nêu pháp Tịch diệt nhẫn, tòa Không, nhà Như Lai. Kia nêu cây báu vàng bạc, cây báu tức rừng báu vô lậu. Vô lậu hợp với Không, Tịch diệt nhẫn. Cát bằng vàng ở sông lớn chảy thẳng vào biển Tây, tức nhất thật tuệ hợp với các pháp Không. Nữ nhân đắc đạo thì không còn siểm khúc, đây là vô duyên đại từ hợp với nhà Như Lai. Kia gọi là nghĩa vô dư, đây gọi là vô thượng đạo. Lại, năm nghĩa của hạnh cũng cùng hợp với ý “áo, tòa, nhà của Như Lai”.

Hỏi: Đại kinh nêu như người thân cận phụ giúp quốc vương cầm cung mang tên để hàng phục người ác, Kinh này thì nói: Bồ-tát xa lìa nhà hào thế, khiêm hạ từ thiện. Sự cương nhu trái ngược, vì sao không khác?

Đáp: Đại kinh thiên luận về sự chiết phục trụ ở giai vị “Nhất tử địa” (thương chúng sinh như đứa con duy nhất của mình), có bao giờ không nhiếp thọ đâu? Kinh này thiên nói nhiếp thọ, ban đầu phá bảy phần không phải không có chiết phục, đều nêu lên một đầu mối thích hợp thời mà thôi. Về lý ắt đầy đủ Tứ Tất-đàn: làm sao thích ứng thời xứng hợp, tức là ý Thế giới Tất-đàn, nhiếp thọ tức ý Vị nhân, chiết phục tức ý Đối trị, ngộ đạo tức ý Đệ nhất nghĩa Tất-đàn.

Rộng giải thích theo pháp môn: Đáng lẽ nêu Bất động môn, Bất thọ môn, Bất hành môn, mà lược không ghi chép. Phẩm đây là ý thứ tư trong phần Tích môn lưu thông. Nếu hai vạn, tám mươi ức na-do-tha Bồ-tát nhận sứ mệnh hoằng kinh, hiểu sâu quyền thật, rộng biết tiệm đốn. Lại, thấu đạt cơ duyên, thần lực tự tại, đời ô trược não loạn cũng không ngăn chướng việc lưu thông kinh, Không cần đợi lại thêm chỉ bày phương pháp. Nếu ban đầu nương vào sơ tâm, muốn tu viên hạnh, vào đời ô trược hoằng truyền kinh điển, bị ô trược làm não loạn, tự hành không vững cũng không có công hóa độ, thì vì hạng người này mà chỉ bày phương pháp nói rõ hạnh an lạc, cho nên có phẩm này. “An lạc hạnh” này có thứ lớp gì? Tuy nhiên, Pháp Hoa là viên hạnh, một hạnh là vô lượng hạnh, bất khả tư nghì, làm gì có định trước sau? Nay tạm nêu một mối, phẩm Pháp Sư lược nêu hoằng kinh, thì lấy sự lợi ích cho người khác làm căn bản. Như ánh sáng vào nhà, trong đây phân rõ đời ác hoằng kinh an ổn, không bức não. Trước mặc áo Như Lai, tức trước sau xen nhau hiện đó thôi! Nếu căn cứ thứ lớp của các hạnh, thì “các pháp từ xưa nay, tướng thường tự tịch diệt”. Nếu khởi tướng trái ngược tịch diệt, thì nên trước dùng Bát-nhã mà dẹp sạch mọi liên lụy, tức là ban đầu ngồi tòa các pháp không sinh, mà Bát-nhã sinh đồng thể từ bi, vì thương xót chúng sinh mà hành đạo, tức tiếp theo là “vào nhà Như Lai”. Vì dùng từ bi hóa độ chúng sinh ắt phải tiếp xúc nghịch cảnh đi theo, quyết phải an nhẫn, tức tiếp “mặc áo Như Lai”. Tuy nói “tiếp theo” như thế nhưng đây chẳng phải thời gian của hành vi, vì khi vào nhà Như Lai tức đầy đủ tất cả pháp, huống chi là từ bi nhẫn nhục ư? Bốn hạnh an lạc:

– Xưa nói:

  1. Giả thật nhị không làm thể.
  2. Thuyết pháp làm thể.
  3. Lìa lỗi làm thể.
  4. Từ bi làm thể.

– Sư Cơ nói:

  1. Không.
  2. Lìa kiêu mạn.
  3. Trừ tật đố.
  4. Đại từ bi.

– Sư Long nói:

  1. Thân xa lìa các việc ác, dần dần gần lý Không.
  2. Trừ lỗi của miệng.
  3. Trừ ý tật đố.
  4. Khởi từ bi.

– Sư Nam Nhạc nói:

  1. Không chấp đắm chánh tuệ.
  2. Miệng không nói lỗi.
  3. Kính trên nhường dưới.
  4. Đại từ bi.

– Sư Thiên Thai nói: Chỉ, Quán, Từ bi dẫn dắt ba nghiệp và thệ nguyện. Thân nghiệp có Chỉ, cho nên lìa thân nghiệp thô, có Quán cho nên không đắc thân, không đắc thân nghiệp, không đắc năng ly. Vì không sở đắc, cho nên không rơi vào phàm phu, có Từ bi nên siêng tu thân nghiệp, rộng làm lợi ích tất cả chúng sinh không rơi vào nhị thừa. Có Chỉ hạnh cho nên “mặc áo nhẫn nhục”, có Quán hạnh cho nên “ngồi tòa Như Lai”, có Từ bi cho nên “vào nhà Như Lai”. Chỉ hạnh lìa lỗi, tức thành Đoạn đức. Quán hạnh không chấp, thì thành Trí đức. Từ bi lợi tha, tức thành Ân đức. Ân đức giúp thành Trí đức, Trí đức năng thông đạt Đoạn đức, đó gọi là thân nghiệp an lạc hạnh. Khẩu nghiệp, ý nghiệp, thệ nguyện cũng lại như vậy”.

Văn của phẩm này có hỏi có đáp. Trong câu hỏi thì trước tán thán các vị Bồ-tát trong phẩm trước hành sâu hạnh Bồ-tát có thể hoằng truyền kinh như thế, sau mới hỏi các Bồ-tát hành hạnh Bồ-tát còn nông cạn vào đời ác tuyên thuyết kinh này như thế nào?

Từ “Phật bảo” trở xuống, là phần đáp, lại chia làm ba phần:

  1. Nêu chương hành bốn hạnh.
  2. Giải thích phương pháp tu hành.
  3. Tổng nêu tướng hành thành tựu.

Phần một: Nêu chương, như văn. Từ “Một, an trụ” trở xuống, là phần hai: Giải thích phương pháp, tức là bốn loại riêng.

– Văn lại chia làm hai:

  1. Giải thích phương pháp tu hành.
  2. Kết hạnh thành.

Phần phương pháp tu hành có trường hàng và kệ tụng. Trường hàng lại có hai:

  1. Nêu Hành xứ, Cận xứ.
  2. Từ “Văn-thù” trở xuống: giải thích Hành xứ, Cận xứ. Phần Nêu: như văn.

Phần Giải thích, lại chia làm hai: Hành xứ, Cận xứ. Hoặc nói nội phàm ban đầu hành, gọi là “Hành xứ”. Nếu từ lâu đã tu tập thuần thục, dần dần có thể gần lý, thì gọi là “Cận xứ”, dẫn “hành cận quả” trong phẩm trước làm ví dụ. Hoặc nói Hành xứ căn cứ nhân, Cận xứ căn cứ quả; Hành xứ nêu trí, Cận xứ nêu cảnh. Sư Dao nói: “Thất trụ trở lên, tâm thể ở nơi lý”, gọi là “Hành xứ”. Đã vượt qua Phần đoạn, từ đây đã trở lại vô sinh, nhưng chưa có thể hiện tiền, dần dần gần với lý, gọi là “Cận xứ”. Đồng là phân đoạn, hai thứ này là hạnh ban đầu chung làm một an lạc hạnh. Theo ý riêng, thì nhà sư đầu tiên giải thích coi Hành xứ là cạn, như Đại kinh nói: “Hàng Thập địa Bồ-tát dùng Hành xứ, cho nên thấy không rõ ràng”. Nên biết Hành xứ thì không cạn. Nhà sư sau giải thích coi Cận xứ là cạn. Như kinh Tịnh Danh nói: “Cận trí tuệ Phật tự tại vô đẳng đẳng”. Đây thì Cận xứ lại thành sâu. Nếu hai hạnh đều sâu, thì thành hạnh hoằng kinh của Bồ-tát ở phẩm trước mà không liên quan đến phương pháp của hàng sơ tâm. Nếu hai hạnh đều cạn, thì sở hành của người thất phương tiện đâu có liên quan gì đến phương pháp Viên hành, cho nên không thể căn cứ thiên lệch vào sâu cạn. Nhưng “hành” gọi là tiến thú, “cận” gọi là gần gũi làm quen. Gần gũi làm quen cho nên tiến thú, tiến thú cho nên gần gũi làm quen, thì có gì là cạn với sâu?!

Lại nữa Hành xứ và Cận xứ là phương pháp bậc thượng. Hành xứ là áo Như Lai. Cận xứ là tòa Như Lai. Tòa áo đã không sâu cạn, thì Hành xứ cận xứ đâu được hơn kém. Lại, nhẫn nhục ắt bên trong thì ôm ấp chí lý, trải duyên thì nhẫn nại mọi sự; gọi đó là “Hành xứ”. Tòa Không, ắt thể nghiệm thấu đạt ngoại duyên, dừng lại nghỉ ngơi ở chân cảnh; gọi đó là “Cận xứ”. Bởi sự lý hỗ tương hiển hiện, thì có gì sâu cạn? Nếu vậy, vì sao phân biệt Hành xứ và Cận xứ? Vì đến lý lược thuyết, gọi là Hành xứ, phụ thêm sự rộng thuyết, gọi là Cận xứ. Thuyết thì có rộng lược, lý thì không có sâu cạn.

Dưới đây là ba cách giải thích Hành xứ:

– Thứ nhất: Trực duyên nhất đế, nhất đế làm chỗ quay về của tất cả, làm nguồn gốc cho tất cả mà cùng khắp không phân biệt. Chỗ quay về của tất cả: tức “Nhẫn nhục địa”. Địa tức trung đạo, các pháp đều trở về đó, cho nên gọi là “địa”. Các hành dừng nghỉ, cho nên gọi là “nhẫn nhục”, đây tức là hạnh “hành mà bất hành”. Làm nguồn gốc cho tất cả: như vạn vật từ đất mà sinh trưởng, các hạnh đắc lý mà thành. Nếu đắc lý bản, thì ở cương mà năng nhu, ở nghịch mà năng thuận, ở bạo mà năng trị, ở kinh sợ mà năng an ổn. Vô lượng công đức từ địa Trung đạo mà sinh. Địa vô sở sinh mà sinh công đức, tức hạnh “bất hành mà hành”. Cùng khắp không phân biệt: tức không phân biệt tướng sai biệt giữa bất hành và hành, cho nên nói: “Lại nữa, không hành là không phân biệt…” tức là phi hành phi bất hành, không có ba hành mà ba hành, cho nên gọi là “hành”. Đồng nhất thật đế, cho nên gọi là “xứ”. Hành xứ như thế thì hợp với văn kinh bên trên. Dừng nghỉ các hành, thì hợp với áo Như Lai. Tùy sinh công đức, thì hợp với nhà Như Lai. Cùng khắp không phân biệt, thì hợp với tòa Như Lai. Đây là căn cứ một pháp mà giải thích “Hành xứ” là phương pháp hoằng kinh.

– Thứ hai: Căn cứ hai pháp, tức Sinh nhẫn và Pháp nhẫn, hai nhẫn tức Sinh không và Pháp không. Hai Không này khác với Nhị thừa. Vì sao? Vì Nhân không và Pháp không của Nhị thừa thì căn cứ chân tục giả thật. Ở đây hai Không, hai Nhẫn đều kiến Trung đạo, cho nên không đồng Nhị thừa. Nếu lại khai, thì là bốn nhẫn. Nếu làm năm nhẫn, thì chỉ chữ “thiện” làm Tín nhẫn. Nếu làm sáu nhẫn, thì chỉ chữ “hòa” làm Hòa tùng nhẫn. Nếu đối địa, thì chia làm bốn mươi hai nhẫn. Một địa vẫn có công đức của bốn mươi mốt địa kia, thì một nhẫn sao lại không có pháp của bốn mươi mốt nhẫn kia? Nay tạm căn cứ bốn nhẫn để giải thích văn, đó là Phục nhẫn, Thuận nhẫn, Vô sinh nhẫn, Tịch diệt nhẫn. Bốn nhẫn đây khác với Biệt giáo; hai nhẫn trước ở giai vị Sinh nhẫn, là cạn; hai nhẫn sau ở giai vị Pháp nhẫn, là sâu. Nay theo Viên giáo, thì Sinh, Pháp đều thông, bốn nhẫn cũng thông. Vì sao? Vì lý nhị Không tức là Trung đạo. Hàng Sơ trụ tu bốn nhẫn vào Trung đạo kiến lý nhị Không cho đến hàng Hậu tâm cũng cùng tột lý nhị Không. Đại kinh nói: “Phát tâm và Tất cánh, cả hai không có sai biệt”. Nếu căn cứ cạn sâu mà xét bốn nhẫn, thì: Từ sơ phát tâm, viên phục ngũ trụ phiền não cho đến Kim cang đỉnh, đều gọi là Phục nhẫn. Từ đầu đến cuối đều không trái với thật tướng, gọi là Thuận nhẫn. Từ đầu đến cuối đều không khởi tâm nhị biên, gọi là Vô sinh nhẫn. Từ đầu đến cuối đều thôi dứt các hành, gọi là Tịch diệt nhẫn. Nghe sinh tử mà không vội bộp chộp sợ khổ, nghe Niết-bàn mà không vội bộp chộp chứng lạc, nghe đức Phật nói thường và vô thường, nhị thừa thành Phật, không thành Phật, nghe sinh tử Niết-bàn khác và không khác, nghe Phật đạo lâu mau, dài ngắn, khó dễ, không dài không ngắn, chẳng khó chẳng dễ… mà đều không kinh sợ. Hành hạnh này, từ đầu đến cuối dùng lý nhị Không, nhẫn các pháp, tức là mặc áo Như Lai. An trú lý nhị Không, tức là ngồi tòa Như Lai. Thương xót chúng sinh, tức là vào nhà Như Lai. Nhị không và bốn nhẫn, gọi là “Hành”, lý tức là “xứ”. Đây là căn cứ hai pháp mà giải thích “Hành xứ” là phương pháp hoằng kinh.

– Thứ ba: Căn cứ ba pháp. Ba pháp tức Tam đế bất tư nghì, trụ Nhẫn nhục địa mà tổng luận tam đế, như có địa có thể căn cứ thì mới năng nhẫn nhục. “Nhu hòa khéo thuận”: Khéo thuận chân đế, năng nhẫn hư vọng kiến ái lạnh nóng…, cho nên nói “khéo thuận”. “Mà không bộp chộp, không ngang ngược, tâm không kinh sợ”: An nơi tục đế, nhẫn các căn duyên, xứng thích cơ nghi, cho nên nói “không bộp chộp, không ngang ngược”. Vì thể nghiệm được sự nhẫn khi gặp cảnh trái ngược, cho nên “tâm không sợ”. “Đối với các pháp không còn sở hành”, tức an ở Trung đế, năng nhẫn nhị biên, cho nên nói “không còn sở hành”. Chánh trụ Trung đạo, cho nên nói “quán thật tướng”. Cũng không đắc trung thật, cho nên nói “không phân biệt”. Đây là căn cứ vào địa của tam đế, gọi là “xứ”, nhẫn nhục ngũ trụ gọi là “hành”.

Hành cũng có ba:

1. Chỉ hành: tức hành mà bất hành.

2. Quán hành: tức phi hành phi bất hành.

3. Từ bi hành: tức bất hành mà hành, hợp với nghĩa áo, tòa, nhà Như Lai bên trên. Đây gọi là căn cứ ba pháp mà giải thích “Hành xứ” là phương pháp hoằng kinh.

Sư Long nói: “Trú Nhẫn nhục địa, tổng nêu Sinh Pháp hai nhẫn”. Tức dưới phân rõ nhị nhẫn. “Nhu hòa khéo thuận” là nêu thân nghiệp. “Mà không vội vàng” là nêu khẩu nghiệp, “Tâm cũng không sợ” là nêu ý nghiệp. Đây căn cứ ba nghiệp mà nêu tu Sinh nhẫn. “Đối các pháp không còn sở hành” là không có hành hữu tướng. “Mà quán như thật tướng” là hành “Không” bình đẳng. “Cũng không hành không phân biệt”, là không có hành vô tướng. Có và không, cả hai đều mất thì hợp với Trung đạo. Ba câu này nêu tu Pháp nhẫn, đắc hai nhẫn ấy, kết là “Hành xứ”. Sư Long nêu hai nhẫn, chưa biết căn cứ vào đâu? Nếu hai nhẫn theo Tam giáo, thì hoàn toàn chẳng phải nghĩa Pháp Hoa. Nếu căn cứ Viên giáo, thì không nên cách biệt không dung nạp.

Từ “Thế nào gọi là Thân cận xứ” trở xuống, là giải thích Cận xứ. Văn chia làm ba phần. Phần một: Viễn y mười thứ làm não loạn, tức là nêu viễn để luận về “Cận”, cũng là phụ thêm Giới môn, trợ quán. Phần hai: Tu nhiếp tâm kia, tức là nêu cận để luận về “Cận”, cũng là phụ thêm Định môn, trợ quán. Phần ba: Quán tất cả pháp “không”, tức là nêu chẳng viễn chẳng cận để luận về “Cận”, cũng là phụ thêm Tuệ môn, trợ quán. Bên trên là trực duyên lý, trụ Nhẫn nhục địa. Đây là Giới môn, rộng nêu các duyên xấu nên tu viễn ly, chẳng cầm đao trượng cũng không xả bỏ, chỉ dùng chánh tuệ mà viễn ly nó. Nên biết nêu viễn cận là để rộng nêu nghĩa “hành sở bất hành” bên trên. Bên trên nêu thẳng không bộp chộp, không ngang ngược, không kinh sợ. Ở đây Định môn rộng nêu tu định tâm, tu định xứ, tu định yếu môn, do vì định lực nên ở chỗ ngang ngược mà trị, ở chỗ kinh sợ mà an. Nên biết tức cận luận cận, rộng nêu nghĩa bất hành mà hành. Trên nêu thẳng “vô sở hành”, nay rộng quán tất cả không, đầy đủ trải qua các cảnh, vô lượng vô biên vô ngại vô chướng. Nên biết là chẳng viễn chẳng cận, rộng nêu nghĩa phi hành phi bất hành bên trên.

Thứ nhất: Có mười thứ nên xa lìa:

  1. Hào thế.
  2. Người tà, Pháp tà.
  3. Hung dữ nguy hiểm hý loạn.
  4. Hạng Chiên-đà-la.
  5. Chúng nhị thừa.
  6. Dục tưởng.
  7. Hạng không phải nam.
  8. Sự nguy hại.
  9. Hạng người cơ hiềm.
  10. Hạng người nuôi súc sinh….

“Lộ-già-gia”, Trung hoa dịch Ác luận, cũng gọi là Phá luận. “Nghịch lộ”: Là luận về nghịch với vua cha. Lại, “Lộ” gọi là thiện luận, cũng gọi là Sư phá đệ tử. “Nghịch lộ” gọi là Ác luận cũng gọi Đệ tử phá sư. “Na-la”: người múa hát diễn kịch, cũng gọi là “Thải họa” (người hóa trang với nhiều màu sắc lòe loẹt, người xăm mình), thân biến hóa sai khác. Lại nói: Gồm cả hạng người làm trò xiếc, ảo thuật. Phân mười thứ làm hai bên: chín thứ thuộc sinh tử, một thứ thuộc Niết-bàn. Cả hai đều viễn ly, tức là tên khác của Tịch diệt.

Quán tâm giải thích mười thứ… Phần hai: Cận cận xứ, có ba ý…(Không chép ra đây. Độc giả tự tìm hiểu vậy.)

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10