VĂN CÚ KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

SỐ 1718

QUYỂN 07

Đời Tùy, Thiên Thai Trí Giả Đại sư thuyết

(Phần Thượng)

Phẩm Thứ 5: DƯỢC THẢO DỤ

Phẩm này nêu đầy đủ mây, mưa, núi, sông, mà chỉ riêng dùng Dược Thảo (cỏ thuốc) làm tên phẩm là sao? Đất đai là năng sinh, mây mưa có khả năng thấm nhuần, cỏ cây được đất đai sinh ra (sở sinh), được thấm nhuần mây mưa (sở nhuận). Sở sinh và sở nhuận, nói chung đều hữu dụng, mà vì dụng của Dược thảo mạnh. Các thiện hữu lậu đều năng trừ ác, nhưng vô lậu là trên hết. Bốn Đại đệ tử, trong chúng Vô lậu, đã đem Thí dụ diễn bày sự lãnh hội của mình đối với thí dụ của Phật, hiểu sâu Thánh ý.

Đức Phật khen: “Lành thay! Rất là hiếm có!” Phẩm này thuật lại điều chứng đắc hiểu biết của các vị đó. Để thí dụ các hạng người đó cho nên lấy tên phẩm là Dược Thảo Dụ. Luận rằng: “Dược thảo” ở trong rừng rậm lâu ngày, một khi nhờ mây mưa, bên trong thấm nhuần tươi mát, bên ngoài nảy lộc đâm chồi, Ví như bậc vô lậu trú nơi thân cuối cùng Hữu dư Niết-bàn. Lại không nguyện cầu vô thượng Phật đạo, nay được nghe kinh này, được tự cưỡi xe Phật thừa chuyên chở con người. Văn nói : “Chúng con ngày hôm nay, mới thật là Thanh văn, đem âm thanh Phật đạo, cho tất cả đều nghe”, trong ngoài tự tha đầy đủ lực dụng thù thắng, nên gọi là phẩm Dược Thảo Dụ.

Luận rằng “Dược thảo” năng trừ gió lạnh vào trong Tứ đại, bổ dưỡng ngũ tạng, khiến hình sắc được trẻ, khỏe lại. Nay nhờ mây mưa bỗng thành Dược vương, như thuốc quý, trị khắp các bệnh, biến thể thành tiên, ví như bậc vô lậu nghe kinh, phá Vô minh hoặc, khai tri kiến Phật. Văn nói: “Chúng con ngày hôm nay, chân thật là Phật tử. Vô thượng các bảo vật, không cầu mà tự được”. Cái mà Phật tử nên được thì đều đã được ; đối trước Phật được thọ ký. Nay đối diện trước Phật riêng được thọ ký vui mừng hớn hở được xứng chỗ vi diệu, cho nên nói phẩm Dược Thảo Dụ. Trước một phen là thầy trò lãnh thuật là ý Thế Giới Tất-đàn, tiếp một phen sinh thiện là Vị nhơn Tất-đàn, tiếp một phen nữa là ý Đối trị và Đệ nhất nghĩa Tất-đàn, đó gọi là nhân duyên giải thích phẩm. Ngoài ra căn cứ giáo, bản tích, Quán tâm mà giải thích, thì theo lệ có thể biết, không phải ghi lại.

Phẩm này là đoạn thuật thành thứ ba trong phần Thí thuyết. Xưa nói: “thuật lại mười ba hàng kệ cuối trong phẩm Thí dụ tán thán ân sâu của Phật, lại thuật dụ Trưởng giả dạy người làm, như văn nói rõ ràng khéo léo”. Sư cho rằng: Không nên thiên chấp như vậy. Kinh gọi là “khéo nói công đức chân thật của Như Lai”, thuật lại đầy đủ về lãnh Quyền lãnh Thật, văn nêu rõ điều này. Mười ba hàng kệ chỉ là hàng nhị thừa tề giáo chịu ân. Thí dụ dạy người làm, là Quyền công đức của Phật. Nay nói đều thuật sự lãnh giải cùng khắp, bắt đầu la thiên tánh kết duyên, đoạn giữa là truy tìm đuổi theo dẫn dụ, cuối cùng là giao phó tài sản. Thật là vi diệu, thật là xuất sắc, vô lượng vô biên các ân đức.

Văn kia chia làm hai phần.

I. Lược thuật thành.

II. Rộng thuật thành.

Lược thuật lại có hai:

  1. Thuật lại hai lần “Thiện tai”.
  2. Sự lãnh hội không kịp.

– Thuật lại hai lần: lần một “Thiện tai” thuật hai chỗ lãnh hội pháp Thật. Lần kế tiếp “Thiện tai” thuật hai chỗ lãnh hội pháp Quyền.

“Khéo nói được công đức chân thật của Như Lai”: “chân thật” là thuật lại pháp Thật, “công đức” là thuật lại pháp Quyền. Lại, thời Hoa Nghiêm thì dự định thích nghi lãnh hội pháp Thật, thời Tam tạng thì dụ dẫn lãnh Quyền, thời Phương Đẳng thì “thể tín”, thời Bát-nhã thì lãnh giáo, đều lãnh Quyền Thật. Thời Pháp Hoa thì giao phó tài bảo, chuyên luận về Thật. Ngôn từ rất rõ ràng khéo léo, cho nên gọi là “khéo nói”, đều là Phật pháp cho nên nói “chân thật”. “Đúng như lời các ông nói”: tức là ý chỉ ấn định. Lại, từ “Đức Như Lai lại còn có” trở xuống, là thuật ý lãnh hội không kịp. Vì sao không kịp? Nghĩa là tiến thoái ngang dọc, cũng ngang cũng dọc, chẳng ngang chẳng dọc, đều không kịp. Vì sao? Vì mây dầy bủa giăng che khắp khiến cho mát mẻ, mưa lớn đều thấm nhuần, không nơi nào là không thấm nhuần, đều khiến cho thế gian đều được thấy biết pháp chưa từng có, sao bỗng tề giáo chỉ có lãnh hội ý Nhị thừa được lợi ích, không nói đến nhân thiên, ví như cỏ nhỏ được lợi ích? Đó gọi là điều không hiểu kịp về thoái. Bồ-tát như là cỏ bậc thượng, cũng gọi là “cây nhỏ cây lớn”, đều sum suê tươi tốt, mình và người đều được lợi ích, mà lại không lãnh hội, đó gọi là điều không hiểu kịp về tiến. Lại, mười pháp giới đồng thành Phật pháp giới, sao bỗng chỉ có lãnh hội Nhị thừa, tám pháp giới còn lại đều không nói đến, đó gọi là không hiểu kịp theo chiều ngang của Phật pháp. Lại, bảy phương tiện từ cạn đến sâu, đều nhập chân thật, năm phương tiện còn lại đều không nói đến, đó gọi là không hiểu kịp theo chiều dọc. Lại, lợi ích cả ba đời chưa từng tạm bỏ, đó gọi là không hiểu kịp cũng ngang cũng dọc. Phàm nói “núi, sông, khe, hang”… gọi chung là “một đất”. “Một đất” có thể sinh trưởng cỏ cây, chưa từng có chọn lựa từ chối kia nhận đây. Chủng tử cây cỏ đều nương nơi đất, hoàn toàn không nương nơi khác. Một đám mây đen giăng mù mịt, không chỗ nào là không tối tăm. Một trận mưa một vị, không phân biệt khô tươi đều thấm nhuần, đã đồng thì đều được tăng trưởng. Đức Như Lai bình đẳng bất khả tư nghì, thật không có “trước đốn sau tiệm, đầu ba cuối một”. Như rồng dấy mây lành mưa thấm khắp tất cả thân tâm mà không cố ý làm mưa để trừ nóng bức được mát mẻ. Đó gọi là năm thừa bảy phương tiện. Mười phương ba đời bình đẳng, rộng lớn, sâu thẳm xa vời, không thể nghĩ bàn, không có sai biệt đó gọi là không hiểu kịp chẳng ngang chẳng dọc. Ý chỉ không kịp không phải đều thuộc về đốn, đặc biệt dùng sơ tâm hướng về hậu tâm, vì địa chưa cùng tột cho nên gọi là “bất tận”. Lại, ban đầu ngộ chữ A đầu tiên cũng đầy đủ công đức như chữ Trà sau cuối (Tứ thập nhị Tự môn), chỉ lãnh hội tề giáo thì chưa rảnh rang tiến đến lãnh hội ngang dọc cùng khắp. Lại, về Quyền hạnh thì đại sĩ thích ứng như đây.

Rộng thuật thành tựu có hai: Trường hàng và kệ tụng.

Trường hàng lại có hai:

  1. Thuật thành khai tam hiển nhất.
  2. Từ “Ca-diếp! Các ông” trở xuống, là kết thán.

– Khai tam hiển nhất có Pháp, Thí hợp. Trong Pháp hợp lại có hai:

1. Trước nêu “Pháp vương”: không hư dối để khuyến tin.

2. Từ “Phật đối với tất cả pháp” trở xuống, chính thuật khai tam hiển nhất. Xét rằng Nhân vương thì bên ngoài không sợ hãi, trong không nói hai lời. Pháp vương cũng vậy, các điều ác đã tận, phát ra lời nói thành thật. Xưa nói: Thuật cho hàng trung căn không hư dối, khuyến khích hàng hạ căn tín thọ. Nay nói Phật pháp tuy nhiều nhưng không ra ngoài quyền thật. Ngoài quyền thật hoàn toàn không có pháp khác, mà nói “vô lượng” thì ý này khó tin. Cho nên, nêu “Pháp vương” để khuyên tin. Lại, vì thí dụ “mây lớn” bên dưới làm bản. Từ “Phật đối với tất cả pháp” trở xuống, là căn cứ giáo nêu khai quyền hiển thật. Từ “Đức Như Lai xem biết” trở xuống, là căn cứ trí nêu khai quyền hiển thật. Do hai giáo hiển hai trí, do hai trí thuyết hai giáo; trí giáo thành tựu lẫn nhau. “Nhất thiết pháp”: nghĩa là bảy phương tiện theo chiều ngang, đối nhất thật theo chiều dọc. Nếu nói không phải như vậy, thì cớ sao ở nơi hai vạn ức Phật ban đầu phát đại tâm, thời gian giữa lại theo Tiểu thừa? Lại, lưu chuyển trong năm đường, lại mười pháp giới một người còn đủ, huống chi bảy phương tiện! Pháp này dù nhiều, nhưng phương tiện Bala-mật chiếu hết sạch không gì không tận. Dùng loại tiếng giống như của chúng mà thuyết pháp, cho nên không nơi nào là không phù hợp. Vì hàng Nhân thiên mà nói giới thiện, vì hàng Nhị thừa mà nói Tứ đế Thập nhị nhân duyên, vì hàng Tam tạng mà nói “sự độ”, vì hàng Thông giáo mà nói Vô sinh, vì hàng Biệt giáo mà nói thứ lớp khai Như Lai tạng. Đó gọi là thuật lại sự lãnh hội ý Phật khai Tam thừa.

Từ “Pháp của Phật nói” trở xuống, căn cứ giáo mà thuật lại sự hiển thật. “Địa” là thật tướng, cứu cánh chẳng phải hai cho nên nói “nhất”, tánh kia rộng lớn cho nên nói “thiết”(hết thảy). Tịch mà thường chiếu, cho nên nói “trí”. Từ bản vô trụ mà lập tất cả pháp, cho nên gọi “địa”, đây là Thật tướng theo Viên giáo. Phàm pháp Phật thuyết đều khiến chúng sinh đạt đến “trí địa” này. Văn hiển thật, rõ như ban ngày, vì sao mê tối mà hiểu sai khác? Ví như trong Đại Phẩm rộng nêu các pháp đều là Ma-ha-diễn. Diễn tức Đại thừa, Thừa tức Thật tướng, Thật tướng tức “Nhất thiết trí”. Văn trên nói: “Chỉ một sự này là thật” là chỉ “địa” này, “có cái thứ hai nào khác thì không phải chân” là chỉ cho bảy phương tiện. Đây là căn cứ hai giáo tiệm đốn mà thuật ý khai quyền hiển thật.

Từ “Đức Như Lai xem biết chỗ quy thú của tất cả pháp” trở xuống, là căn cứ trí mà thuật ý Phật khai Quyền hiển Thật, xem biết chỗ trở về của tất cả pháp là năng chiếu Quyền, “rốt ráo rõ biết” là năng chiếu Thật. Hai trí chiếu hai cảnh Thiên Viên thông đạt vô ngại, cho nên năng thuyết hai giáo Quyền Thật. Đây là nêu trí để giải thích giáo. “Biết chỗ quy thú” là biết “dược” (thuốc), biết tâm sở hành là biết bệnh. Bệnh và thuốc đều là pháp quyền, pháp quyền đều có chỗ hướng về. Các thứ giới, thiện v.v… là gần hướng hàng nhân thiên. Nếu tạo tác duyên như cúi đầu chắp tay là xa hướng Phật quả, thì Niệm xứ, đạo phẩm… là gần hướng đến Niết-bàn. Nếu tạo phước đức trang nghiêm thì việc các ông làm là đạo Bồ-tát, tức xa hướng đến Bảo sở, cho đến các pháp lục độ Thông Biệt v.v… Đường lối hướng về gần xa không đồng có thể hiểu. Lại, giới thiện là thuốc của hàng trời người. Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Lục độ, là thuốc của hàng Tam thừa, cho đến Thông Biệt… cũng có thể biết.

“Thâm tâm sở hành” có hai thứ:

  1. Thâm tâm chấp đắm nơi y báo chánh báo.
  2. Thâm tâm đắm nơi pháp sở chấp.

Chấp đắm y báo chánh báo: là khởi mười ác sâu nặng làm chướng ngại nhân thiên thừa. Đắm pháp sở chấp: là khởi bốn điên đảo, ba đường, sáu tệ, bốn trụ, năm trụ… làm chướng ngại các Thánh thừa. Nên biết thâm tâm tướng bệnh không đồng, Quyền trí chiếu soi thông đạt vô ngại. Lại, “đối với các pháp rốt ráo rõ biết (cứu tận minh liễu)”: thật trí sở chiếu. Tất cả Quyền pháp thảy đều nhập Thật cho nên nói “rốt ráo”(cứu cánh). Thật trí sở tri, cho nên nói “liễu”, Phật nhãn sở kiến, cho nên nói “minh”. Nếu trí đây chiếu thuốc này bệnh này, mà không chiếu thuốc kia bệnh kia, trí kia chiếu kia mà không thể chiếu đây, thì chủng loại sai khác không đồng là Quyền trí chiếu. Nhất trí chiếu khắp tất cả bệnh, tất cả dược, là Thật trí chiếu. Năng chỉ bày cho chúng sinh viên cảnh trí như vậy, cho nên nói “nhất thiết trí tuệ”. Lại, “nhất thiết pháp” nghĩa là mười pháp giới. Mười pháp mỗi mỗi tướng dục không đồng, mỗi mỗi thâu hoạch quả báo, quy thú cũng khác. Biết cùng tận các pháp, gọi là biết bệnh; biết tất cả thâm tâm sở trước, gọi là biết thuốc và thuốc có sâu cạn. Kinh Đại Phẩm nói: “Trí như thật biết tâm tham dục tâm sân si, dùng trí như thật để biết thì gọi là “biết thâm tâm”, như lý thông đạt không có chướng ngại. Nếu giới, thiện, Tứ đế, Nhân duyên, Lục độ… tất cả pháp dược đều dùng trí như thật để biết, thì gọi là “thông đạt vô ngại”. Lại, trong văn nói về Quyền trí, thì “thông đạt vô ngại” là căn cứ Quyền mà luận về Thật. Trong văn nói về Thật trí thì nói “lại đối với các pháp”, “các pháp” là căn cứ Thật mà luận về Quyền. Hai văn xen lẫn hiển bày, đây nêu Thật là thật của quyền, Quyền là quyền của thật. Nên biết cứu cánh phi quyền phi thật, chẳng sai biệt chẳng không sai biệt. Vì trí phương tiện quyền thì có sai biệt, cái biết mà đạt đến trí địa thì không còn sai biệt, như đất (địa) không sai biệt, bao nhiêu cỏ cây, bao nhiêu không bao nhiêu, không bao nhiêu bao nhiêu. Lại, như căn cứ tâm mà luận về pháp, căn cứ pháp mà luận về tâm. Tâm có các số, pháp không có các số. Tâm không lìa pháp, pháp không lìa tâm. Vô số mà số, số mà vô số. Quyền Thật cũng vậy v.v…

Phần thứ hai Thí thuyết: Từ “Ví như” trở xuống, văn chia làm hai:

1. Nói Thí dụ. 2. Lại nói tôn chỉ, Khen ngợi.

Nói thí dụ có hai: 1. Khai. 2. Hợp.

Khai chia làm hai: 1. Thí dụ sai biệt, thí dụ trên thuật lại quyền giáo, quyền trí. 2. Thí dụ không sai biệt, thí dụ trên thuật lại Thật giáo Thật trí: Đưa ra ba loại cỏ, hai loại cây nhỏ lớn không đồng, cho nên nói sai biệt. Một đất, một mưa mà tải khắp nhuận khắp, cho nên nói không sai biệt. Nếu xem ngọn nhánh kia, thì là mỗi mỗi không đồng. Nếu xét gốc kia tươi tốt, thì đều nhờ đất và mưa. Nội hợp: trí phương tiện chiếu thì có bảy, có năm khác nhau. Thật trí chiếu qua, thì cuối cùng đều trở về nhất thật. Nhất thật là bảy là năm. Bảy, năm, là nhất thật. Sai biệt mà không sai biệt, không sai biệt mà sai biệt…

– Thí dụ sai biệt có sáu:

  1. Đất đai.
  2. Cây cối.
  3. Mây dầy.
  4. Mưa xối.
  5. Thọ nhuận.
  6. Tăng trưởng.

Thí dụ thứ nhất: “Đất đai”. Xưa cho rằng: Nói chung thì ba ngàn thế giới là đất đai, riêng đưa ra bốn loại: Núi, sông, ngòi, khe làm tập nhân cho ngũ thừa. “Khe (cốc)”: nhận nhiều nước, dụ cho Bồ-tát. “Ngòi (khê)”: dụ cho Bích-chi-phật. “Sông”: dụ cho Thanh văn. “Núi”: cao, thọ nhuận ít, dụ cho Nhân Thiên thừa. Nay cho rằng: tập nhân nên ví như chủng tử, thọ nhuận, tăng trưởng. Đất đai, núi, sông tuy có nghĩa thọ nhuận nhưng thiếu hai nghĩa: chủng tử và tăng trưởng. Lại, văn dưới hợp thí có nói: “Khắp cả thế giới Trời, Người, Tu la”, tụng kệ nói: “Ở trong tất cả chúng Trời Người”, đều không thể dùng đất đai… dụ cho tập nhân. Nay không dùng nghĩa đó, mà dùng “đại thiên thế giới” ví như Chúng sinh thế gian, “núi, sông, ngòi, khe, đất đai” ví như Ngũ ấm thế gian. Thế giới không có pháp riêng, vì do núi, sông, ngòi, khe, đất đai tạo thành. Chúng sinh không có pháp riêng, vì do ngũ ấm tạo thành. Đất đai vì chung, cho nên ví như thức ấm. Núi, sông, ngòi, khe thì ví như bốn ấm kia. Cỏ cây năng y vào đất, tuy nương tựa vào đất đai v.v… mà đất đai v.v… không phải tức là cỏ cây, vì tính chất cỏ cây chỉ gọi là cỏ cây. Hạt giống cỏ cây hoàn toàn không có tên riêng, chỉ vì công năng sinh nên gọi hạt giống, vì tính chất sở sinh nên gọi là cỏ cây, đều là thực vật bám rễ ở đất, nên đất là căn bản.

Nội hợp: tập nhân tập quả, tuy nương ngũ ấm, mà ngũ ấm chẳng phải tức nhân quả. Cần phải nương nơi ấm để có tập nhân, tăng trưởng thành tựu gọi là tập quả. Quả nhân nương nơi ấm mà sinh khởi, thì núi sông đất đai dụ ấm thành, cỏ cây chủng tử thọ nhuận tăng trưởng dụ ấm đều thành. Lại, Biệt thí: Núi tuy có cao chót vót cũng có năm tướng: đào, tụt xuống dần…, cho đến đất tuy bằng phẳng cũng có năm tướng: gò đất, ao… tức dụ cho ngũ ấm theo Ngũ thừa. “Núi” ở trên cao, dụ cho ngũ ấm của Bồ-tát, “sông” dụ cho Bích-chi-phật, “ngòi” dụ Thanh văn, “đất đai” dụ Trời, “khe” ở dưới thấp, dụ cho Người. Mỗi một ngũ ấm đều có tập nhân tập quả làm chỗ nương, cũng như “núi, sông, ngòi, khe, đất đai” đều làm chỗ nương của hạt giống, tính năng sinh… Lại dùng Tam thiên đại thiên thế giới dụ cho lý chánh nhân, chung làm chỗ nương cho tất cả. “Núi, sông, ngòi, khe, đất đai” dụ cho ấm, giới, nhập quả báo, sắc, tâm của chúng sinh. “Cỏ cây lùm rừng” dụ cho tập nhân của chúng sinh. Ba pháp này không lìa nhau, tu tập dựa vào ấm nhập, ấm nhập không ra ngoài pháp tánh, như cỏ cây nương núi sông, núi sông nương thế giới. Sáu thứ văn rõ ràng, vì sao tác nghĩa? Lại, thứ lớp như đây, tại sao phân chia lẫn lộn kinh văn, sao chép trước sau?

Từ “Sinh ra cây cỏ” trở xuống, là Thí dụ thứ hai: Cỏ cây. “Cỏ” là tên chung các cỏ, “cây” là tên chung của các cây. Nhiều cỏ thành lùm bụi; nhiều cây thành rừng. Lực dụng trị bệnh tốt, gọi là “thuốc” (dược). Như trong thiện pháp đều năng trị ác, mà vô lậu thiện trị Hoặc nghĩa tốt hơn, gọi là “thuốc”. Cỏ dưới thấp, cây cao vừa, rừng cây cành gốc che phủ bóng râm rộng lớn, có công dụng lớn, cho nên ví như hai loại Bồ-tát. “Chủng loại rất nhiều”: nhân quả chủng tử của Ngũ thừa Thất thiện nên nói “rất nhiều”. Bao nhiêu chủng loại đều có bấy nhiêu tên gọi, tức là “danh”, đều có thể tướng, tức là “sắc”.

– Từ “Mây dầy bủa giăng” trở xuống, là thí dụ thứ ba: Mây dầy đặc. Mây có hình sắc che mát. Văn dưới có nói thêm: “Tiếng sấm xa vang động”. “Che mát” dụ cho tâm từ bi của Phật, “hình sắc” dụ cho đức Phật ứng thế, “tiếng sấm” dụ cho ngôn giáo của Phật. “Mây dầy”(mật vân), tức tam mật, từ bi tức ý mật, hình sắc tức thân mật, tiếng sấm tức khẩu mật. “Bủa giăng” là giăng khắp. Đã dầy lại khắp cho nên nói “bủa giăng”. Vì từ bi, huân Ứng thân thuyết pháp khắp mười pháp giới cho nên nói “bủa giăng”. Kinh Luật Dị Tướng nói: Mây có năm màu sắc. Xanh: gió nhiều, Đỏ: lửa nhiều, Vàng, Trắng: đất nhiều, Đen: nước nhiều. Có bốn Điện sư: Đông: Thân vị, Nam: Bách chủ, Tây: A-kiệt-la; Bắc: A-chúc-lam. Bốn vị này đánh nhau, nên có tiếng sấm.

Lại, nước lửa gió đất đấu nhau, cho nên có sấm. Có năm việc không có mưa:

  1. Gió thổi.
  2. Lửa bốc cháy.
  3. A-tu-la dùng tay khuấy động biển.
  4. Vũ sư dâm loạn.
  5. Quốc vương không có lý trị, Vũ sư giận nên không mưa…

– “Đồng thời mưa xối xuống” là thí dụ thứ tư: Mưa xối. Ví như Phật dùng khẩu mật, Bát âm, Tứ biện mà tuyên diễn, mưa pháp xối xuống thấm nhuần lợi ích chúng sinh.

Từ “Khắp nơi thấm nhuần” trở xuống, là thí dụ thứ năm: Thọ nhuận. Mưa pháp báu rưới khắp tâm địa của bảy loại chúng sinh, có tập nhân chủng tử tức sinh Văn tuệ, gọi là “thấm nhuần”. “Gốc thân nhánh lá”: Tín là “gốc”, Giới là “thân”, Định là “nhánh”, Tuệ là “lá”, thứ lớp trợ giúp nhau cho nên dụ bốn thứ này. “Gốc nhỏ, thân nhỏ, nhánh nhỏ, lá nhỏ” tức Tín giới định tuệ của hàng Nhân Thiên. “Gốc vừa, thân vừa, nhánh vừa, lá vừa” tức Tín giới định tuệ của Nhị thừa. “Gốc lớn, thân lớn, nhánh lớn, lá lớn” tức Tín giới định tuệ của hàng Bồ-tát.

– Từ “Các giống cây lớn nhỏ” trở xuống, là Thí dụ thứ sáu: Tăng trưởng. Lại lược ghi nêu cỏ cây kia tùy phần thọ nhuận. Hai nhân Tập Báo thiện pháp đã nhờ mưa pháp thấm mà hai quả Tập Báo đều được tăng trưởng. “Xứng theo chủng tánh”: nêu dùng Quyền giáo xứng hợp căn cơ. Cây nhỏ thì không quá phần hạn, cây lớn không giảm thiểu, tức là bảy thứ Tập Báo hai nhân. “Đơm hoa kết trái”: hai quả Tập Báo. Lại, nói tăng trưởng tức ba nghĩa:

  1. “Xứng theo chủng tánh”: nguyên do tăng trưởng; do dùng giáo xứng hợp căn cơ.
  2. “Đều được sinh trưởng”: chính nêu tăng trưởng.
  3. “Đơm hoa kết trái” tươi tốt: tướng tăng trưởng.

Từ “Dầu rằng một cõi đất sinh” trở xuống, là đoạn lớn thứ hai: Thí dụ một đất, một mưa không sai biệt, để hiển bày Nhất thật. Đây có ba:

  1. Một cõi đất sinh: Ở giai đoạn Đạo tiền thì tâm địa sinh, ở giai đoạn tu nhân cuối cùng, tức Đạo hậu, thì Trí địa sinh.
  2. Một vầng mây mưa: một âm thanh tuyên diễn pháp môn Nhất thừa mà khai phát năm loại thiện căn ở giai đoạn Đạo trung, cuối cùng là một âm giáo bình dẳng.
  3. Ba cỏ hai cây bẩm thọ lợi ích mà không tự hiểu biết: năm loại thiện căn nhờ mưa Phật pháp tùy phần tăng trưởng. “Mà không tự biết”:

Nhân của năm loại đều nương một Phật tánh. Cũng không tự biết: ngũ thừa giáo đều là Đại thừa. Cũng không tự biết: đồng qui về Phật tuệ. Chỉ có đức Như Lai mới có thể biết.

Từ “Ca-diếp nên biết! Đức Như Lai” trở xuống, là hợp thí. Hợp Thí sai biệt, chia làm hai:

  1. Chánh hợp.
  2. Đề ra Thí dụ, nhấn mạnh nghĩa hợp.

Thí dụ sai biệt có sáu: Nay hợp không theo thứ tự đó. Khai thí nêu căn cơ, trước luận về chúng sinh, Hợp thí nêu ứng, trước hợp Như Lai vì Như Lai là vị hóa chủ. Trong đây thứ nhất chánh hợp với thí thứ ba “mây dầy” cũng hợp với thí thứ nhất “thế giới” bên trên. Trong đây thứ hai hợp trên thí thứ tư “mưa xối” bên trên; trong đây thứ ba hợp thí thứ nhất “thế giới, núi, sông, ngòi, khe” bên trên, trong đây thứ tư hợp thí thứ hai “cỏ cây” bên trên, trong đây thứ năm hợp thí thứ năm “thấm nhuần” bên trên, trong đây thứ sáu hợp thí thứ sáu “tăng trưởng” bên trên. Hợp thí thứ lớp: nêu đức Như Lai ứng ở đời thì có tám âm thanh thuyết pháp, thuyết pháp tức có chúng sinh thọ hóa, chúng sinh nghe pháp đều thấm nhuần đạo, được thấm nhuần là đồng, nhưng sự tăng trưởng có sai biệt.

Hợp với nghĩa “mây dầy”: Trước nêu thân Phật mật, hợp với “mây có hình”, sau nêu Phật khẩu mật hợp “mây có tiếng”. “Như Lai cũng lại như vậy xuất hiện ở đời”, tức là chánh hợp ứng thân xuất thế. “Như vầng mây lớn nổi lên” tức nêu thí thuận hợp, nêu Như Lai đại từ hiện thân che chở nuôi dưỡng hết thảy. “Dùng âm thanh lớn” tức là nêu Phật khẩu mật, hợp thí “mây có tiếng”. “Thiên, nhân, A-tu-la” là riêng nêu ba đường thiện, vâng lời khẩu mật thì được lợi ích, tức là ba mươi người con căn tánh Tam thừa. “Như mây lớn kia” tức là nêu thí thuận hợp “mây có tiếng”. Trùm khắp cõi tam thiên đại thiên: nêu chung tất cả đều là Phật tử, đều nhờ khẩu mật mà được lơi ích. Hoặc có khi chỉ hợp năm thí dụ. Đem “trùm khắp thế giới…” gồm hợp với “thế giới đất đai”. “Thế giới” tức là Quốc độ thế gian. “Thiên, nhân, A-tu-la” tức là giả danh Ngũ ấm thế gian. Giả danh hợp “thế giới” bên trên, ngũ ấm hợp “sông, núi, ngòi, khe” bên trên.

Từ “Ở trong đại chúng mà xướng lời này” trở xuống, tức là hợp thí thứ tư “mưa xối” ở trên. Trước nêu chương môn, tiếp khuyên nghe nhận. Chương môn có sáu:

  1. Mười hiệu, tức là “Như Lai, Ứng cúng v.v..”
  2. Bốn hoằng nguyện, tức là “Người chưa được độ thì khiến được độ…
  3. Tam đạt, tức là “đời nay đời sau…”
  4. Nhất tâm tam trí, tức là biết đầy đủ.
  5. Ngũ nhãn, tức là thấy tất cả.
  6. Tam nghiệp cùng trí tuệ hành: “Tri đạo” nghĩa là ý không hộ, “Khai đạo” nghĩa là thân không hộ, “Thuyết đạo” nghĩa là khẩu không hộ. Cũng gọi là Đạo sư, nghĩa là “bực Tri đạo”. “Các ngươi, hàng trời…” là khuyên chúng sinh nghe nhận. Tám âm thanh của Phật giảng giải sáu thứ pháp môn. Dựa vào số nhiều, mới nói rằng khuyên ba đường thiện, thích ứng đến nghe pháp.

Từ “Bấy giờ có vô số ngàn muôn ức loài chúng sinh” cho đến “chỗ đức Phật mà nghe pháp”, Trong đây thứ ba hợp thí “núi sông” bên trên, dẫn đến quả báo mà có chúng sinh, như nương “núi sông” mà có được thế giới… “Trăm ngàn vạn ức” tức là chúng sinh trong mười pháp giới. Nay chính nói thất phương tiện chúng sinh sai biệt, phối hợp như trên nói. Hoặc từ “Các ngươi trời người”… là đều hợp thí dụ Núi sông.

“Lúc đó đức Như Lai xem xét các căn lợi độn tinh tấn hay giải đãi của chúng sinh đó” đây là thứ ba hợp thí thứ hai “cây cỏ” bên trên. Xưa nói: Văn đây nhiều ra, không hợp dụ trên. Nay nói trong Thí dụ trên có cây cỏ sai biệt lớn nhỏ không đồng, trong đây nêu căn có lợi độn, hành có siêng năng biếng nhác, chính là tập nhân sâu cạn, đồng với nghĩa cây cỏ lớn nhỏ, đâu chẳng phải hợp thí mà nói “nhiều ra”?! “Lúc đó”: Nếu luận tiệm sơ, tức là tại vườn Lộc Uyển thời đầu tiên thuyết tam thừa, nếu luận trung gian, thì mọi nơi đều được coi như “lúc đó”. “Lợi, độn”: Xét chung thì nhân ác quả khổ trong ba đường, không thể thọ đạo gọi là “độn”, bảy loại phương tiện khai giáo được lợi ích, gọi là “lợi”. Xét riêng thì nhân thiên chỉ thọ quả báo không chịu thọ đạo, gọi là “độn”, tam thừa căn tánh đoạn Hoặc xuất giới, gọi là “lợi”. Lại, hàng Thanh văn quán sinh diệt, gọi là “độn”, Bồ-tát quán bất sinh diệt, gọi là “lợi”. Thông Biệt Viên… Ba đường phóng dật, gọi là “giải đãi”. Nhân thiên trì ngũ giới thập thiện, gọi là “tinh tấn”. Nhân thiên không nhàm chán khổ, gọi là “giãi đãi”, Nhị thừa sợ vô thường, gọi là “tinh tấn”. Hàng nhị thừa tham chứng không cầu làm Phật, gọi là “giãi đãi”, Bồ-tát chí cầu Phật đạo gọi là “tinh tấn”.

Từ “Tùy thuận sức nó kham nổi mà vì chúng sinh nói pháp” cho đến “khiến hoan hỷ được thiện lợi”: đây là thứ năm hợp Thí thứ năm “thọ nhuận” bên trên. “Tùy sức nó kham nổi” tức là xứng hợp cơ nghi, không có lỗi tăng giảm. “Hoan hỷ được thiện lợi”: được thấm nhuần pháp, được lợi ích.

“Các chúng sinh này nghe pháp rồi” đây là thứ sáu hợp Thí thứ sáu “tăng trưởng” bên trên. “Hiện đời an ổn, đời sau sinh về chỗ lành” tức là báo nhân cảm báo quả, hợp với “hoa nở tăng trưởng”. “Cũng được nghe pháp” cho đến “nhập đạo”: tức là tập nhân lôi kéo tập quả, hợp với “quả thật tăng trưởng” bên trên. “Đã nghe pháp rồi”: hợp “nguyên do tăng trưởng” bên trên. “Hiện đời an ổn”: chánh hợp “tăng trưởng”. “Đời sau sinh về chỗ lành”: hợp nghĩa “tướng tăng trưởng” bên trên.

Đức Phật như mây lớn che khắp tất cả, chúng sinh trong ba đường cũng được thấm nhuần tăng trưởng, như thuyết Bát-nhã Phương Đẳng nêu rõ địa ngục được lợi ích. Lại, trong các kinh cũng nói rồng, chim, quỉ thần… nghe pháp được lợi ích. Nếu lửa tắt nước nóng nguội tức là “hiện đời được an ổn”. Nếu sinh lên cõi trời trong cõi người, thì là “đời sau sinh về chỗ lành”. Ở trong hàng nhân thiên tu đạo tức là “do đạo được thọ hưởng vui”. Nếu hàng nhân thiên nghe pháp, trì giới, có phước đức giúp thân, thì quỉ rồng không xâm phạm, tức là “hiện đời an ổn”, hoặc Trời trở lại sinh vào cõi trời, cõi người trở lại sinh vào cõi người, hoặc trời người sinh lẫn nhau, tức “đời sau sinh về chỗ lành”. Chúng sinh năng ngộ giải, tức là “do đạo được thọ hưởng vui”. Hàng nhị thừa nghe pháp đắc Hữu dư Niết-bàn, là “hiện đời an ổn”. Như văn dưới nói: “Người ấy đối với công đức mà mình được lại sinh diệt độ tưởng”, “ta ở cõi khác làm Phật”. “Lại không có tên khác, người ấy ở nước kia được nghe kinh này” tức chỉ cõi Phương Tiện hữu dư là “chỗ lành”, ở nước kia nghe kinh này là “do đạo được thọ hưởng vui”. Nếu sinh thân Bồ-tát nghe đức Phật Lô-xá-na thuyết pháp thì đắc Vô sinh nhẫn, tức “hiện đời an ổn”, đời sau sinh thế giới Tịnh Mãn làm quyến thuộc Pháp thân, tức là “chỗ lành”, “do đạo được thọ hưởng vui”. “Lìa các chướng ngại” tức là hiện đời an ổn. “Theo sức mình kham được, dần dần được nhập đạo” tức là đời sau do đạo được thọ hưởng vui.

Ngũ thừa: Ngũ giới thừa xuất ba đường khổ. Thập thiện thừa xuất tám khổ trong Nhân đạo, Thanh văn thừa xuất vô thường khổ trong ba cõi. Duyên giác thừa xuất khổ do nghe pháp từ người khác. Bồ-tát thừa xuất khổ do bên trong không lợi trí, bên ngoài không có tướng hảo; đó là Ngũ thừa.

Hỏi: Chỉ nên dùng Nhân Thiên làm thế gian thừa các thừa khác là thừa xuất thế gian. Lại Phật là Thật thừa, các thừa khác là Quyền thừa. Lại, Phật là Quả thừa, các thừa khác là Nhân thừa. Lại, nên làm tam thừa: Nhân thiên là hạ, Nhị thừa là trung, Phật là thượng. Lại, Nhân thiên gọi là Bất đoạn phiền não thừa, Nhị thừa gọi là Đoạn phiền não thừa, Phật gọi là Phi đoạn phi bất đoạn thừa. Lại, Nhân thiên gọi là Bất đoạn, Phật gọi là Đoạn, hàng Nhị thừa gọi Cũng đoạn cũng bất đoạn. Lại, phàm phu hiền thánh, phi phàm phi Thánh, hữu không, phi hữu, phi không thừa… Đại luận nêu rõ năm thiện căn, kinh Thắng Man nêu bốn tạng, cùng ba cỏ hai cây là thế nào?

Đáp: Nhân thiên là hai thiện, Nhị thừa là một thiện, và Phật và Bồ-tát, là năm là khai đại hợp tiểu, Ngũ thừa thì khai tiểu hợp đại. Bốn tạng hợp phàm khai Thánh, Ngũ thừa thì phàm thánh đều khai, tùy duyên không đồng.

Từ “Như mây lớn kia” trở xuống, là đề ra thí dụ thuận hợp sáu ý: “Mây lớn” thuận hợp thứ nhất: hình sắc âm thanh hai thứ lợi ích. “Mưa rưới khắp tất cả”: thuận hợp thứ hai: sáu chương pháp môn. “Cỏ cây lùm rừng”: thuận hợp thứ tư: chúng sinh thọ hóa có lợi độn, giải đãi tinh tấn, tập nhân sâu cạn. “Như chủng tánh kia đều được thấm nhuần đầy đủ”: thuận hợp thứ năm: thọ nhuận đắc pháp lợi.“Đều được sinh trưởng”: thuận hợp thứ sáu: hiện đời an ổn tăng trưởng.

Từ “Đức Như Lai nói pháp một tướng một vị” trở xuống, là hợp Thí không sai biệt. Trên khai ba, nay hợp cũng ba, nhưng không theo thứ tự. “Một tướng một vị”: song hợp một cõi đất một trận mưa. Từ “Nghĩa là” trở xuống, là song thích một cõi đất một trận mưa. Từ “Có chúng sinh nào” trở xuống, hợp trên là “các cỏ cây đều có sai biệt”. Từ “Vì sao?” trở xuống, giải thích sai biệt. Như Lai năng biết sai biệt, không sai biệt. “Một tướng”: là tâm chúng sinh đồng một tướng chân như, là một địa. “Một vị”: là pháp nhất thừa đồng thuyên giải Nhất lý, là một trận mưa. Xưa đối với nhất thật tướng mà phương tiện khai làm bảy tướng, đối với nhất thừa pháp mà phân biệt thuyết có bảy giáo, vì Phật biết rốt ráo trọn qui về một tướng một vị. Từ “Nghĩa là” trở xuống, song thích một tướng một vị, tâm tánh chúng sinh tức là tánh đức. Ba loại tướng: “giải thoát, xa lìa, diệt”. Một âm thanh của Như Lai thuyết ba pháp này, tức là ba vị. Ba tướng đây dùng làm cảnh giới, duyên sinh hành trung đạo, cuối cùng thì được gọi là quả nhất thiết trí, cho nên nói “rốt ráo đến nhất thiết chủng trí”. Hợp thí dụ cỏ cây sai biệt như sau giải thích, không ghi chép lại. Có khi làm ba ý hợp:

1. Ý không sai biệt, hợp “một cõi đất một trận mưa” bên trên.

2. Ý sai biệt, hợp “cỏ cây sai biệt” bên trên.

3. Như Lai năng biết, giải thích thành hai ý. Không sai biệt: nghĩa là một tướng một vị. Một tướng hợp “một cõi đất” bên trên. “Tướng giải thoát” là không có tướng sinh tử. “Tướng xa lìa” là không có tướng Niết-bàn. “Tướng diệt” là không có tướng cũng vô tướng. Chỉ có thật tướng, cho nên gọi “một tướng”. Một tướng tức bản Vô trụ, lập tất cả pháp. Vô trụ vô tướng, tức không sai biệt. Lập tất cả pháp tức có sai biệt. Sai biệt thì như cây cỏ, không sai biệt thì như một cõi đất. Đất tuy không sai biệt mà năng sinh cây đào, cây lý, cỏ cây, lùm rừng sai khác, tuy có sai khác mà đồng là một tướng vững chắc. Nếu biết đất có đủ đào lý, tức biết trong thật có quyền, hiểu không sai biệt tức là sai biệt. Nếu biết tướng vững chắc của đào lý, tức biết trong quyền có thật, hiểu sai biệt tức không sai biệt. Do vì nghĩa này, cho nên dùng một tướng hợp Thí “một cõi đất” bên trên. “Một vị” tức là Thật giáo thuần nhất không xen tạp, theo lệ “một tướng” có thể hiểu. “Giải thoát”: không có hai biên Phần đoạn và Biến dịch, không bị nghiệp trói buộc cho nên gọi là “tướng giải thoát”. “Tướng xa lìa”: đắc trí tuệ trung đạo, trí tuệ này có khả năng xa lìa hai biên, không còn chấp trước, nên gọi là “tướng xa lìa”. “Tướng diệt”: là nhân hai biên diệt, đắc Hữu dư Niết-bàn, quả hai biên diệt, đắc Vô dư Niết-bàn nên gọi là “tướng diệt”. Mỗi mỗi câu theo lệ như nghĩa sai biệt, không sai biệt, căn cứ theo “một tướng” thì có thể hiểu. “Rốt ráo đến nhất thiết chủng trí”: Nếu đắc tướng diệt nhị biên, tức là hai hoặc Thông Biệt tận, nhập tri kiến Phật, vì nhất thiết chủng trí trong tâm hành Bát-nhã. Ban đầu phát và cuối cùng, hai thứ này không sai biệt, cho nên nói “cứu cánh”. Đây tức trí tuệ Phật, cho nên nói “nhất thiết chủng trí”.

Từ “Có chúng sinh nào nghe pháp Như Lai” cho đến “tự mình không hay biết” nêu sai biệt. Từ đây sắp xuống là nêu rõ nghĩa sai biệt. “Chúng sinh” là núi sông sai biệt giả thật, cũng là sai biệt chủng tử. “Như Lai” tức là mây. “Nghe pháp” tức là mưa. “Đọc tụng, tu hành” tức là thấm nhuần. “Công đức” tức là tăng trưởng. Các thứ sai biệt như đây đều không thể biết.

– Văn chia làm năm:

  1. Chúng sinh không biết.
  2. Như Lai năng biết.
  3. Nêu dụ thuận hợp: chúng sinh không biết.
  4. Nêu tổng kết giải thích Như Lai năng biết ở trên.
  5. Giải thích nghi.

1. “Có chúng sinh nào”: là nêu người không biết. “Nghe pháp của Như Lai”: nghe pháp âm Nhất thừa. “Thọ trì, đọc tụng đúng như lời nói”: chính nêu không biết. “Thọ trì, đọc tụng đúng như lời nói”: thì không đồng, cho nên “tu hành” đều sai khác. Hàng Nhân Thiên giải theo thiện giới. Tam thừa giải Tứ đế, Nhân duyên, Lục độ. Giải đã không đồng, tức là sai khác. “Được công đức tự mình không hay biết” nêu năm thừa dù vâng lãnh giáo mà không biết giáo lý Phật một vị không sai biệt, cũng không biết bảy thứ phương tiện mỗi mỗi đều hiểu, mà chấp hiểu của mình là thật. Đây là không biết Quyền, cũng không biết Thật, tức là sai biệt, “không tự hiểu biết”.

2. Như Lai năng biết: Lược giảm số chỉ nêu mười cảnh hợp làm bốn ý: a. Căn cứ bốn pháp biết. b. Căn cứ ba pháp biết. c. Căn cứ hai pháp biết. d. Căn cứ một pháp năng biết.

Căn cứ bốn pháp: nghĩa là “chủng, tướng, thể, tánh”. “Chủng”: ba đạo là chủng của ba đức. Kinh Tịnh Danh nói : “Tất cả lũ phiền não cũng là chủng của Như Lai”, đây nêu do đạo phiền não mà có Bát-nhã. Lại nói: “Ngũ vô gián đều sinh tướng giải thoát”, đây do bất thiện mà có thiện pháp giải thoát. Tất cả chúng sinh tức tướng Niết-bàn, không thể diệt nữa. Đây tức sinh tử là pháp thân. Đây là căn cứ đối đãi nhau mà luận về chủng. Nếu căn cứ loại luận về chủng, thì tất cả cúi đầu giơ tay đều là chủng giải thoát, tất cả thế trí tam thừa giải tâm tức chủng Bát-nhã. Phàm người có tâm thảy đều sẽ làm Phật, tức chủng Pháp thân. Các chủng sai biệt Như Lai đều biết. Tất cả chủng chỉ là một chủng, tức là không sai biệt, Như Lai cũng năng biết. Sai biệt tức không sai biệt, không sai biệt tức sai biệt, Như Lai cũng năng biết. “Tướng, thể, tánh”: căn cứ Thập pháp giới, Thập như, mà giải thích. Nếu luận về sai biệt, tức thập pháp giới tướng. Nếu luận không sai biệt, tức một Phật giới tướng. Sai biệt, không sai biệt, Như Lai năng biết. Sai biệt tức không sai biệt, không sai biệt tức sai biệt, Như Lai cũng năng biết. “Thể, tánh” theo lệ như vậy, có thể biết.

Từ “Nhớ việc gì?” trở xuống, là căn cứ ba pháp nêu Như Lai năng biết. Ba pháp tức là ba tuệ, vẫn có ba lớp:

  1. Cảnh ba tuệ.
  2. Thể ba tuệ.
  3. Nhân duyên ba tuệ.

“Nhớ việc gì?”: nêu công dụng của ba tuệ. Niệm chấp sự sở niệm, tức là cảnh ba tuệ. Từ “Nhớ thế nào?”: nhớ là ghi chép pháp được nghe, chính là thể của niệm tuệ. Từ “Dùng pháp gì để nhớ?” trở xuống, tức là ba tuệ chấp cảnh nghe pháp là nhân duyên. Lại, ba tuệ cảnh trí, nhân duyên hợp, cho nên được có pháp ba tuệ, lại vẫn gọi là nhân duyên. Như “Tam thừa tam tuệ” đây, xưa gọi là “cảnh thể nhân duyên” có khác, tức là sai biệt. Nếu nhập viên diệu tam tuệ, thì không sai biệt. Có sai biệt, không sai biệt này, thì Như Lai năng biết. Lại, sai biệt tức vô sai biệt, vô sai biệt tức sai biệt, Như Lai cũng năng biết.

“Dùng pháp gì đắc pháp gì?”: căn cứ hai pháp, nêu Như Lai năng biết. “Dùng pháp gì” tức là nhân, “đắc pháp gì” tức là quả. Nhân ngũ thừa đều đắc quả của nó, tức là sai biệt. Chúng sinh như, Phật như, nhất như, vô nhị như. Chỉ là một nhân một quả, tức không sai biệt. Sai biệt, không sai biệt, thì Như Lai năng biết. Sai biệt tức vô sai biệt, vô sai biệt tức sai biệt, Như Lai cũng năng biết.

“Chúng sinh ở nơi các bậc”: căn cứ một pháp, nêu Như Lai năng biết. Bảy phương tiện trú nơi bảy vị, cho nên nói “các bậc”, đây tức sai biệt. Như Lai dùng Phật nhãn như thật mà thấy, như các dòng chảy vào biển, mất vị riêng của chúng, thì không sai biệt. Tùy ý người khác mà nói, là dùng trí phương tiện mà diễn thuyết, thì Như Lai năng biết sai biệt. Pháp Như Lai thuyết đều đạt đến nhất thiết trí địa, thì Như Lai năng biết không phân biệt…

3. Từ “Như cây cối lùm rừng cỏ thuốc” trở xuống, nêu dụ thuận hợp: chúng sinh không biết.

4. Từ “Như Lai biết pháp” trở xuống, nêu tổng kết năng biết ở trên. “Một tướng một vị” như trước giải thích, “một tướng một vị” là giải thoát, ly, diệt. Vì duyên mà phân biệt, tức là vô lượng trong một. “Cứu cánh Niết-bàn cuối cùng trở về không”, tức một trong vô lượng. Đây là nêu trước lập lại giải thích không sai biệt. Vì sao ? Vì “một tướng một vị” là giải thoát, ly, diệt. Nếu là pháp thể nhị thừa, thì còn là ngôn thuyết diễn bày sai biệt. Nay cho rằng Đại thừa cứu cánh Niếtbàn chung qui Không, tức thông không sai biệt. “Cứu cánh Niết-bàn” là kết các câu trước, đều chẳng phải hai thứ Niết-bàn Hữu dư, Vô dư của Nhị thừa mà chính là “cứu cánh Niết-bàn”. Thường tịch diệt tướng: kết các câu chẳng phải Tiểu thừa tịch diệt, mà chính là thường trú tịch diệt. Văn trên nói: “Các pháp từ xưa nay, tướng thường tự tịch diệt” tức nghĩa đây vậy.“Cuối cùng trở về Không”: chẳng phải là Không của thiêu thân diệt tâm, mà chính là trung đạo đệ nhất nghĩa Không, trịnh trọng cúi đầu chắp tay là giản lược nghĩa thật khác quyền. Xưa nói: “Cuối cùng trở về Không: tức Phật tuy có thần thông kéo dài tuổi thọ vô lượng, thị hiện lại gấp bội số trên, mà thọ mạng hết cuối cùng trở về thiêu thân đoạn tâm, cho nên nói “cuối cùng trở về Không”. Đây thực là khổ Phật khổ kinh, sao có thể nói?! Ngài Quang Trạch nói: “Cuối cùng trở về nhập Hữu dư, xả trí thân vô thường”. Có người nan vấn về giải thích này: “Nếu vậy, thì cùng nhị thừa đâu có khác gì?”! Kinh văn nêu hai thứ cứu cánh: Thứ nhất cứu cánh đến nhất thiết chủng trí, đây là nêu trí quả đối nhị thừa trí, chẳng phải cứu cánh. Thứ hai, nêu cứu cánh Niết-bàn thường tịch diệt tướng, cuối cùng trở về Không, đây là nêu đoạn đối nhị thừa đoạn, chẳng phải cứu cánh. Văn nói nghĩa cứu cánh, biết chẳng phải Không của Tiểu thừa. Ngài Long Ấn nói: Không của Đại Niết-bàn thì không có pháp tướng, không có phiền não, cho nên gọi là Không. Cuối cùng trở về thường trú đệ nhất nghĩa Không”. Trung sư nói:”Cuối cùng trở về trí tuệ đệ nhất nghĩa Không”. Có người nói: “Phật quả không hệ lụy, cho nên nói Không”. Có người chú giải: “Không và Có đều được nhìn thấu và trừ bỏ, thì mới gọi là Không”. Xưa các sư đều không giải thích theo nghĩa Tiểu thừa. Riêng ngài Quang Trạch sao lại như vậy.?!

5. Từ “Đức Phật biết như thế rồi xem xét tâm chúng sinh” trở xuống là Giải thích nghi. Phật xưa đã biết đầu đuôi đều là một, sao không nơi vườn Lộc Uyển vì chúng sinh thuyết Thật? Giải thích: Xem xét tâm ham muốn của chúng sinh, tùy ba Tất-đàn mà ủng hộ, sợ chúng hủy báng cho nên không thuyết ngay.

Từ “Ca-diếp các ông” trở xuống: chủ yếu lại là xứng thuật muốn giải thích nghi. “Nghi”: được nghe vô lượng công đức của đức Phật, nghĩa là bốn vị đệ tử đều tề giáo lãnh giải, đâu cần phải Thật. Cho nên, đức Phật xứng thuật: tuy chúng chưa đạt đến Phật địa mà đều tề giáo không hư đối, cũng là dẫn phát hạ căn, khiến đồng được ngộ. Văn chia làm hai: 1. Thuật. 2. Giải thích.

Trước tiên tán thán “hy hữu”: Hàng phàm phu có nghe lại có thể được lợi ích, Bồ-tát thì đã hiểu sự không lạ gì nhiều, không vì chánh vị mà có thể xả bỏ chứng nhập, thật rất là hy hữu. Thuật lại ý năng biết Như Lai tùy nghi thuyết pháp, năng lãnh hội ý khai tam. Tiếp nói năng tín thọ: Tức thuật các đệ tử lãnh hội ý hiển nhất. “Vì sao?” là giải thích thuật ý. Là nêu đức Phật đối với một đạo mà thuyết ba, sâu xa vi diệu “khó hiểu khó biết”, mà các ông có thể tin. Riêng cho rằng: văn trước nói “Như Lai lại có vô lượng công đức, các ông nói không thể cùng tận”. Văn sau nói: “Các ông rất là hy hữu” tức là: Ân Phật bao trùm khắp, như mây mưa không nơi nào là không phủ thấm. Ân Phật che chở khắp, như đại địa không chỗ nào mà không sinh thành. Sao lại riêng vì một căn cơ một phương mà thôi? Cho nên, nói “các ông nói không cùng tận”. Ân Phật tuy phủ khắp mà chúng sinh thường ngày không tự hiểu biết. Như ba cỏ hai cây sinh trưởng, gốc rễ trong đất thọ nhuận ân mưa mà không thể biết. Các ông có thể biết từ đầu đến cuối mười ân rất là hy hữu: Người chưa được độ thì khiến được độ… thuật cho chúng biết bốn hoằng nguyện của đức Phật, ân rất là hy hữu. Chúng sinh hiện đời an ổn, đời sau sinh chỗ thiện, do đạo mà thọ hưởng vui, thuật cho chúng biết Đại từ ban vui, ân rất là hy hữu. Đã nghe pháp rồi, lìa các chướng ngại, có đủ năng lực dần dần được nhập đạo, thuật cho chúng biết Đại bi cứu khổ, ân rất là hy hữu. Luân vương, Thích, Phạm, là cỏ thuốc nhỏ, thuật cho chúng biết khuyến thiện trừ nhiệt não, ân rất là hy hữu: Biết vô lậu pháp, năng đắc Niết-bàn và chứng Duyên giác, là cỏ thuốc vừa; thuật cho chúng biết trừ các nhiệt kiến ái, ân rất là hy hữu. Cỏ bậc thượng, cây nhỏ, như là thẹn Tiểu hâm mộ Đại, thuật cho chúng biết ngăn ngừa xấu, ân rất là hy hữu. Cây lớn, là thuật cho chúng biết trang nghiêm ân rất hy hữu. Sự thật trên hết là “một cõi đất, một trận mưa”, thuật cho chúng biết “giao phó tài vật, ngồi tòa, thân tâm tài pháp tự tại an lạc”, ân rất hy hữu. Đức Phật thuật bày sự sai biệt đó và tán thán mười ân, văn đã tận. Nếu thuật bày nghĩa Không sai biệt và tán thán, tức là tán thán một đại ân.

Kệ có năm mươi bốn hàng rưỡi, tụng ý khai hiển bên trên. Khai hiển có pháp, thí, nay đều tụng. 1. Bốn hàng đầu, tụng Pháp thuyết. 2.

Năm mươi hàng rưỡi, tụng Thí thuyết.

– Tụng Pháp thuyết lại có hai:

  1. Nêu Pháp vương.
  2. Khai hiển.

Nửa hàng, tụng Pháp vương không hư dối.

Ba hàng rưỡi, tụng khai hiển.

Văn trên hai giáo hai trí nay cũng tụng đủ. Ban đầu một hàng rưỡi, tụng hai giáo, sau hai hàng, tụng hai trí. Đầu “Theo tánh của chúng sinh” xuống, nửa hàng tụng Quyền giáo. Tiếp ”Đức Như Lai tôn trọng” xuống, một hàng tụng Thật giáo. Tiếp “Người trí nếu được nghe” xuống, một hàng tụng giải thích Quyền trí. Sau cùng “Ca-diếp! Vì cớ đó” xuống, một hàng tụng giải thích Thật trí.

Tùy các món nhân duyên mà thuyết các thứ giáo, đều là khiến đắc Đại thừa chánh kiến. Từ trước đến đây, đều gọi là tà kiến. Đây ý tụng là Như Lai tứ Tất-đàn: “Pháp vương phá các cõi” : Đối trị Tất-đàn. “Theo tánh của chúng sinh” :Thế giới. “Người trí nếu được nghe” cho đến “Thời bèn là mất hẳn”: Vị nhơn. “Khiến chúng được chánh kiến”: Đệ nhất nghĩa Tất-đàn. Ba Tất-đàn thì tụng “dùng trí phương tiện mà diễn thuyết” ở trên; “Khiến chúng được chánh kiến” là tụng “đạt đến nhất thiết trí địa” ở trên.

Từ “Ca-diếp! Ông nên biết, thí như…” xuống, năm mươi hàng rưỡi, tụng Thí thuyết ở trên.

Ban đầu mười hàng rưỡi, tụng Khai thí.

Tiếp bốn mươi hàng, tụng Hợp thí. Trên khai hai thí. Nay chín hàng rưỡi đầu, tụng thí dụ sai biệt, tiếp một hàng, tụng thí dụ Không sai biệt.

Chín hàng rưỡi tụng nghĩa sai biệt, trên sai biệt có sáu, nay cũng tụng sáu, nhưng không như trường hàng khai thí, như hợp thứ tư. Ban đầu ba hàng, tụng thí dụ Mây. “Trận mưa đó cùng khắp” trở xuống một hàng tụng thí dụ Mưa xối. “Nơi núi sông hang hiểm”, một câu, tụng thí dụ Đất đai núi sông. “Chỗ rậm rạp sinh ra”: hai câu, tụng thí dụ Cỏ cây lùm rừng. Từ “Các thứ cây lớn nhỏ” trở xuống, hai hàng ba câu, tụng thí dụ Thọ nhuận. Từ “Tất cả các giống cây” trở xuống, hai hàng tụng thí dụ Tăng trưởng. Mây dụ Ứng thân, Ứng thân tùy trí tuệ mà hành, cho nên nói “mây trí tuệ”, có thể đầy đủ mười hai bộ pháp gọi là “chứa nhuần”. Nếu Ứng thân không thể thuyết pháp, như Phật Tu-Phiến-Đa, Phật Đa Bảo thì mây này không thể chứa nhuần. Thân phóng hào quang lớn như điện sáng chói, miệng chấn Tứ biện tài như “tiếng sấm”. Chín mươi lăm thứ ánh sáng tà không hiện, cho nên nói “che khuất”, trừ chín mươi tám thứ não nhiệt ví như “trên mặt đất mát mẻ”. “Dường có thể nắm tới”: là ứng thân giáng thế giống như tam hữu, người có tâm đến lấy thực không thể được. Tám âm thanh, bốn biện tài, diễn thuyết pháp như mưa xối. “Bốn phương đều xối xuống”: đồng thời đều được nghe, cũng nói “tứ đẳng”. Phàm người có tâm đều nhờ lợi ích thấm nhuần, cho nên nói “cõi đất đều thấm đầy”. Đây thì thành trên. Lại, thành thí dụ núi sông ở dưới.

Một câu “Nơi núi sông hang hiểm”, tụng thí dụ đất đai, tức là bảy phương tiện chúng sinh ngũ ấm, nay nhờ mưa pháp thân khẩu mềm mại như đất đai được thấm nhuần. “Chỗ rậm rạp sinh ra”, là tụng “chúng sinh tập nhân sai biệt” bên trên, dụ cho chúng sinh từ lâu gieo trồng tập nhân ẩn trong ấm giới nhập cho nên nói “rậm rạp”, nay nhờ mưa pháp mà đều được khai phát cho nên nói “sinh ra”. “Trăm giống lúa” là nói chung ngũ cốc, dụ cho Ngũ thừa năng sinh trăm điều thiện. “Các thứ mía cùng nho” là dụ cho định tuệ. “Đất khô khắp được ướt”: dụ người chưa tin khiến cho họ tin, các thí dụ khác như văn.

Từ “Theo thể tướng của nó, tánh loại chia lớn nhỏ” trở xuống, một hàng tụng thí dụ không sai biệt. Văn trên có ba, trong đây lược không tụng một cõi đất, mà “sinh ra” bao gồm nghĩa đó. Hai câu đầu tụng “được sinh ra, được thấm nhuần”. Tiếp một câu tụng năng thấm nhuần, là tụng không sai biệt, “Mà đều được sum sê”: tụng “sai biệt không thể tự biết”.

Từ “Đức Phật cũng như vậy, xuất hiện ra trong đời” trở xuống, bốn mươi hàng, tụng Hợp thí, chia làm hai:

1. Ba mươi lăm hàng đầu, tụng hợp sai biệt.

2. Năm hàng sau, từ “Như thế Ca-diếp này” trở xuống, tụng hợpkhông sai biệt. Trên hợp thí dụ sai biệt, thì trước chánh hợp, sau thí thuận. Nay tụng cũng trước hợp, sau tiện nêu thí thuận.

Hàng tụng đầu hợp thí dụ mây: hai câu trên dùng thân hợp với nghĩa mây. hai câu dưới nêu thí dụ thuận hợp.

Tiếp: “Đã hiện ra trong đời” trở xuống, tám hàng rưỡi, tụng hợp thí dụ mưa. Trên thì trước nêu chương môn, sau khuyên nghe nhận. “Đã hiện ra”… xuống, ba hàng lược tụng mười hiệu, tiếp một hàng rưỡi, tụng bốn hoằng nguyện, trong sáu chương môn chỉ tụng hai chương.

Từ “Thấm nhuần khắp tất cả” trở xuống, một hàng rưỡi, tụng bốn hoằng thệ.

Từ “Các hàng trời người này” trở xuống, bốn hàng, tụng khuyên nghe nhận.

Từ “Ta xem tất cả chúng” trở xuống, bốn hàng, tụng hợp thí dụ Núi sông bên trên. Núi sông dụ bảy thứ ngũ ấm chúng sinh. Như mưa xối không chọn lựa ngòi, khe, đức Phật bình đẳng thuyết cho nên nói “không có lòng đây kia”. Có căn cơ, gọi là “đây”, không căn cơ, gọi là “kia”. Gieo trồng thiện là “yêu”, ghét nghịch là “ghét”. Phật sự là việc mình, ma sự là “việc khác”. Ứng ban đầu là “đến”, ứng sau là “đi”. Nhập thật là “ngồi”, xuất quyền là “đứng”. Phật quán chúng sinh là như thế, tức là ý mưa bình đẳng xối xuống núi sông, tụng “vô số ức loại chúng sinh đi đến chỗ Phật mà nghe pháp” bên trên.

Từ “Sang hèn cùng thượng hạ” trở xuống, hai hàng tụng “Đức Như Lai lúc bấy giờ xem xét chúng sinh ấy” bên trên hợp với “sinh ra cỏ cây lùm rừng”, tức từ “sang hèn” cho đến “lợi độn” là căn cứ bảy phương tiện truyền truyền tạo tác.

Từ “Tất cả các chúng sinh, được nghe pháp của ta” trở xuống, mười một hàng tụng “chủng chủng vô lượng đều khiến hoan hỷ” bên trên hợp thí dụ Thọ nhuận. Văn chia làm ba phần:

  1. Một hàng, tổng nêu thọ nhuận.
  2. Từ “Hoặc là ở trời người” trở xuống, bảy hàng, nêu chi tiết thọ nhuận.
  3. Ba hàng, kết sở nhuận năng nhuận.

Có người giải thích: “Nhân thiên là cỏ nhỏ, Nhị thừa là cỏ vừa, ngoại phàm là cỏ lớn. Nội phàm là cây nhỏ, sơ địa cho đến thất địa là cây lớn”. Có người cho rằng “nội phàm là cỏ lớn, sơ địa đến thất địa là cây nhỏ, bát địa là cây lớn”. Có người “coi tam thập tâm là cỏ lớn, sơ địa đến lục địa là cây nhỏ, thất địa sắp lên là cây lớn”. Nhưng ba cỏ hai cây thì Phật tự hợp dụ, văn nêu rõ ràng, vì sao tâm các sư lại trái Phật trái kinh ư?!

Phần nêu chi tiết thọ nhuận, văn chia làm năm: 1. Một hàng đầu: nhân thiên đều chưa đoạn Hoặc, hợp làm “cỏ nhỏ”. 2. Từ “Rõ biết pháp vô lậu” trở xuống, hai hàng: nêu Nhị thừa đều có đoạn chứng, hợp làm “cỏ vừa”. 3. Từ “Hoặc cầu bậc Thế Tôn” trở xuống, một hàng nêu rõ lục độ, chí cầu làm Phật hóa độ chúng sinh, hơn hàng nhị thừa, riêng làm “cỏ lớn”. 4. Từ “Lại có hàng Phật tử “ trở xuống, một hàng rưỡi: nêu Thông giáo, đã đoạn Thông hoặc, thệ nguyện dìu dắt người khác tu tập, dần đến chỗ có hóa tha. So với dưới thì ưu việt, nhưng sánh với trên thì kém, cho nên gọi “cây nhỏ”. 5. Từ “Hoặc an trú thần thông” trở xuống, một hàng rưỡi: nêu Biệt giáo, tự hành hóa tha, cao rộng làm hơn, cho nên gọi là “cây lớn”. Căn cứ ba vị Bồ-tát đều ví như ba loại cây. Lục độ căn cứ ba Tăng kỳ. Thông giáo căn cứ thất, bát, cửu địa. Biệt giáo căn cứ tam thập tâm.

Từ “Phật chỉ bình đẳng thuyết” trở xuống, ba hàng: kết sở nhuận năng nhuận. Văn chia làm hai phần: 1. Một hàng rưỡi, nêu thí thuận giải thích sở thọ nhuận. Tuy nêu rõ bảy thứ, bảy thứ là ít “như một giọt trong biển”. Từ “Phật dùng thí dụ này” trở xuống, một hàng rưỡi, dụ đây nêu năng nhuận, Phật trí nhiều như biển cả.

Từ “Ta rưới trận mưa pháp” trở xuống, tám hàng rưỡi, tụng “các chúng sinh nghe pháp này rồi” hợp thí dụ “hoan hỷ tăng trưởng”. Văn chia làm hai phần: 1. Hai hàng đầu. 2. Sáu hàng rưỡi sau. 1) Hai hàng đầu: tổng tụng tăng trưởng. Lại chia làm hai: a. Một hàng, tổng tụng nghĩa trưởng. b. Một hàng, nêu dụ thuận giải thích.

2) Sáu hàng rưỡi, từ “Pháp của các Đức Phật” trở xuống: nêu chi tiết tăng trưởng. Văn chia làm bốn:

1. Một hàng rưỡi, nêu nhân thiên tăng trưởng đều được đầy đủ, là tụng “hiện đời được an ổn”. “Dần dần siêng tu hành”: tụng đời sau do đạo mà thọ hưởng vui.

2. Từ “Hàng Thanh văn Duyên giác” trở xuống, một hàng rưỡi, tụng Nhị thừa tăng trưởng. “Trụ thân hình rốt sau” có hai giải thích: b.1) Nhị thừa thân này, nếu không gặp Phật thì chưa hẳn không có thân sau. Do thấy Phật cho nên thành thân rốt sau, tức là nghĩa tăng trưởng. b.2) Nhị thừa đắc Hữu dư Niết-bàn “trụ thân rốt sau”, đắc Phật ngũ vị, điều hòa thuần thục, đắc nhập Pháp Hoa. Nghe pháp Đại thừa được hiểu tức là tăng trưởng.

3. Từ “Nếu các vị Bồ-tát, trí tuệ rất vững bền” trở xuống, một hàng rưỡi: tụng tăng trưởng theo Thông giáo. “Vững bền”: thể pháp tuệ. “Rõ suất cả ba cõi”: đoạn Hoặc tận.

4. Từ “Lại có vị trụ thiền” trở xuống, hai hàng: tăng trưởng theo Biệt giáo.

Hỏi: Một đám mây một trận mưa cùng một âm đồng hay khác?

Đáp: Các vị ở bậc thấp dùng một âm, khiến người khác nghe một pháp. Phật dùng một âm tùy loại đều hiểu. Nay một đám mây một trận mưa, chính là một âm tùy loại.

Có người giải thích: Pháp thân bất nhị, gọi là “một”, từ Pháp thân xuất ra âm thanh cho nên nói “một âm”. Có người nói: “Nhất thời đều xuất ra các tiếng, cho nên nói một âm”. Có người nói: “Trong năm âm tùy dùng một âm”. Đại luận nêu rõ: “Một âm báo hiệu các tiếng, không nói đều xuất, cũng không nói là pháp thân xuất âm thanh”. Luận Tỳ-bà-sa nói: Phật dùng một âm nói Tứ đế, năm người nghe tiếng nói của loài người, tám vạn chư thiên nghe tiếng nói của (chư) thiên, địa ngục, dạ-xoa đều nghe đồng tiếng nói của chúng, đề xướng dạy bảo đến Phạm thiên đó là Phạm âm, cũng là Phật báo được âm thanh rất thanh tịnh vi diệu, gọi là “Phạm âm”. Nếu báo được Phạm âm thì loài người không nghe được, có nghe cũng không hiểu.

Từ “Như thế Ca-diếp này” trở xuống, năm hàng tụng Thí không sai biệt bên trên. Văn chia làm hai: Một hàng rưỡi đầu, tụng không sai biệt mà sai biệt. Ba hàng rưỡi sau, tụng sai biệt mà không sai biệt. “Thí như vầng mây lớn, dùng nước mưa một vị” : tụng hợp một vị mưa không sai biệt bên trên. “Đượm nhuần nơi hoa người, đều được kết trái cả”: tụng sai biệt bên trên.

Từ “Ca-diếp ông nên biết” trở xuống: nêu Quyền. Quyền tức sai biệt, hợp sở sinh bên trên. “Nay ta vì các ông”: hiển Thật. Thật tức không sai biệt, hợp một cõi đất bên trên. “Đều chẳng phải diệt độ”, là chưa vượt qua Biến dịch sinh tử. Riêng nói Nhị thừa, là do nhị thừa kia sẽ chứng chắc chắn, hàng Nhân Thiên không chấp quả làm Niết-bàn, Bồ-tát không thể trung gian thủ chứng. “Là đạo của Bồ-tát”, tức Bồ-tát hành đạo cũng cần đoạn Thông hoặc. Ông đã đoạn tận, tức là đạo của Bồ-tát. Pháp Hoa luận nói: Phát tâm thoái rồi trở lại phát, trước đã tu thiện không diệt đồng sau được quả. Nhị thừa Trí Đoạn là đạo của Bồ-tát, là Nhị thừa chấp quả của họ bài xích nói là đạo Bồ-tát, đạo tức nhân vậy.

Hỏi: Bồ-tát cũng có quả. Phẩm Tín Giải nói: đắc đạo đắc quả. Kinh Đại Phẩm nói: “Hữu pháp là đạo Bồ-tát, vô pháp là quả Bồ-tát”. Cớ sao không nói là quả Bồ-tát?

Đáp: Nghĩa đây cũng nên được. Nay nói: hoặc đạo hoặc quả đều là nhân Phật, nhân tức là đạo.

Phẩm Thứ 6: THỌ KÝ

Tiếng Phạn là Hòa-già-la, Trung hoa dịch Thọ Ký.

Hỏi: Các kinh phá nghĩa Thọ Ký. Kinh Tịnh Danh nói: “Từ Như sinh đắc ký, từ Như diệt đắc ký, Như không sinh diệt thì biết vô ký”. Kinh Tư ích nói: “Nguyện không nghe danh thọ ký”. Đại Phẩm nói: “Thọ ký là hý luận”. Nay kinh này như thế nào?

Đáp: Nếu Kiến chấp có thọ ký, thọ ký cho người, thì Kiến chấp này nên phá. Bồ-tát vì thệ nguyện được thọ ký, thì ký này nên cho. Theo Thế đế thì có thọ ký, theo Đệ nhất nghĩa thì không. Tứ Tất-đàn thích ứng theo thời như dưới nói. Nếu thọ ký chung, thì như đầu phẩm Pháp Sư. Nếu thọ ký riêng, thì như sau khi thuyết ba vòng. Nếu chánh nhân ký, thì như Thường Bất Khinh. Nếu duyên nhân ký, thì như mười thứ cúng dường trong Phẩm Pháp Sư. Nếu liễu nhân ký, thì như thọ ký cho hàng ba căn. Nếu chánh nhân ký thì rộng; nếu liễu nhân ký thì hẹp. Hoặc thọ ký chậm, hoặc thọ ký nhanh. Hoặc Phật ký như văn đây, hoặc Bồ-tát ký như ở phẩm Thường Bât Khinh. Dù không có kiếp số quốc độ nhất định, cũng được là thọ ký. Lại, huyền ký như trong phẩm Hóa thành, làm đệ tử đời vị lai. Các kinh khác chỉ thọ ký Bồ-tát, không thọ ký Nhị thừa, chỉ thọ ký thiện, không thọ ký ác, chỉ thọ ký nam, không thọ ký nữ; chỉ thọ ký hàng nhân thiên, không thọ ký cho loài súc sinh. Kinh này đều thọ ký. Như Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm nói bốn thứ thọ ký, kinh này có đủ. Người chưa phát tâm được thọ ký như Phẩm Thường Bất Khinh, phát tâm hiện tiền đắc Vô sinh tức là ba vòng thuyết pháp thọ ký. Kinh Anh lạc quyển thứ chín nói: có tám thứ thọ ký: 1. Mình biết người không biết. 2. Mọi người đều biết mình không biết. 3. Mình và người đều biết. 4. Mình và người đều không biết. 5. Gần biết xa không biết. 6. Xa biết gần không biết. 7. Xa gần đều biết. 8. Xa gần đều không biết.

  1. Mình biết, người không biết: là do phát tâm tự thệ chưa rộng đến người, chưa đắc Tứ vô sở úy, chưa đắc thiện Quyền.
  2. Mọi người đều biết, mình không biết: là phát tâm rộng lớn, đắc thiện Quyền vô úy.
  3. Mình và người đều biết: tại địa vị thất địa, vô úy thiện Quyền, đắc Không quán.
  4. Mình và người đều không biết: là chưa nhập thất địa, chưa đắc Vô trước hạnh…
  5. “Xa không biết”, là Di-lặc vậy, các căn đầy đủ không xả Như Lai Vô trước hạnh.
  6. “Gần không biết”, là người này chưa năng diễn thuyết hạnh hiền Thánh, là Sư tử ưng vậy.
  7. Gần xa đều biết: Các căn đầy đủ, không xả Vô trước hạnh, là Bồ-tát nhu thuận.
  8. Gần xa đều không biết: Chưa đắc thiện Quyền, không thể biết hết Như Lai tạng, là Đẳng hành Bồ-tát.

Các kinh lại nói: “Gần biết”: là từ được Phật hiện tại thọ ký, như Di-lặc… “Xa biết”: là không từ Phật nay mà từ Phật đương lai được thọ ký, như lời Phật bảo Tệ-ma: “đời sau đức Di-lặc sẽ thọ ký cho ông”. “Gần xa đều biết”: Đức Phật đời nay đời sau đều thọ ký. “Gần xa đều không biết”: Đức Phật đời nay đời sau, đều không thọ ký.

Chư Phật vốn vì đại sự nhân duyên mà xuất hiện thế gian, khiến chúng sinh khai thị ngộ nhập tri kiến Phật. Nay đại sự đã hiển, đức Phật đã thuyết xong, chúng sinh đã ngộ nhập, thích hợp với bản hoài của đức Phật. Chúng sinh nguyện đã mãn, pháp nên thọ ký, như cha gặp con há không giao phó tài vật?! Lại, hạnh nguyện của người tu hành trong vô lượng kiếp nguyện ở Phật hiện tại. Văn nói: Bản nguyện kia như đây cho nên được sự thọ ký này. Hai duyên này là nghĩa Thế giới Tất-đàn cho nên thọ ký. Lại hàng Nhị thừa nghe kinh đổi Tiểu nhập Đại, viên nhân đã đủ. Nhân ắt chiêu cảm quả, cho nên đức Như Lai thọ ký. Thời chúng đều biết phát nguyện, nguyện làm quyến thuộc nội ngoại của sinh thân, pháp thân, hoặc nguyện chỉ sinh về cõi kia làm lợi lạc chúng sinh. Hai điều này gọi là Vị nhân Tất-đàn thọ ký. Lại thọ ký Nhị thừa phá dục thoái Đại nhập Tiểu thừa Bồ-tát. Vì sao? Nếu định có nhị thừa thì có thể thoái làm Tiểu, nay không có nhị thừa thì làm sao có thể thoái. Lại, phá dục phát tâm Nhị thừa, kia chứng tự xả ngã, làm sao gọi là chấp thủ? Lại phá người chưa biến đổi tiểu, thì liền biến đổi tiểu, người sắp chứng Tiểu thì không thủ chứng. Bốn điều này là đối trị Tất-đàn thọ ký. Lại, Vô sinh hiện tiền, ắt do thật giải khai tri kiến Phật không lầm. Lại, hiểu rõ Phật tánh, cho nên cho thọ ký. Tiểu thừa nhập thật, quyết định làm Phật. Nếu vậy thì tất cả chúng sinh cũng có Phật tánh, sao không thọ ký? Nhưng chúng sinh chỉ có chánh nhân mà không có duyên nhân. Nay nghe kinh tin hiểu, thì duyên nhân và chánh nhân đều đầy đủ. Khai tri kiến Phật, biết Phật tánh, thấy Phật pháp thấy Phật tánh. Hai điều này là Đệ nhất nghĩa Tất-đàn thọ ký. Bốn thứ thọ ký này thu nhiếp hết các thứ thọ ký trên… Ký (trao) Thọ cũng gọi là thọ (nhận) ký, thọ quyết thọ biệt. Thọ nghĩa là ban cho, Thọ nghĩa là được, Ký là ký sự. Quyết là quyết định. Biệt là liễu biệt. Hàng trung căn nghe hai vòng Pháp thuyết và Thí thuyết khai tam hiển nhất, lãnh giải đầy đủ Như Lai thuật thành, tuy tự biết làm Phật mà thời sự chưa xét kỹ. Nếu được Phật thành thật nói trao cho đời sau quả báo, kiếp số, quốc độ, quyết định gần xa liễu biệt, thì rất hoan hỷ. Nay từ Phật thọ ký mà được tên, cho nên nói Phẩm Thọ Ký. Văn đây là thí thuyết đoạn thứ tư. Ba đoạn trên đều dùng thí thuyết, trong đây thọ ký cũng dùng thí dụ. Luận ký, không có đoạn thứ năm là ý gì?

Có người giải thích rằng: “Chỉ trên chỉ dưới lược không luận”. Lại nói: “Trong phẩm Dược Thảo Dụ nêu tất cả đều thọ nhuận, đều được tăng trưởng. Xét biết bốn chúng đều thâu hoạch lợi ích, cho nên kinh gia lược không nêu ra”. Văn chia làm hai:

  1. Chính thọ ký hàng trung căn.
  2. Hứa vì thuyết việc quá khứ cho hàng hạ căn.

– Phần chính thọ ký lại chia làm hai:

a. Thọ ký cho Ca-diếp.

b. Thọ ký cho ba người. Đều có trường hàng và kệ tụng.

– Trong phần trường hàng thọ ký cho Ca-diếp (a) có sáu:

a.1) Hành nhân.

a.2) Đắc quả.

a.3) Kiếp quốc danh tự trang nghiêm.

a.4) Thọ mạng.

a.5) Chánh tượng lâu mau (xa gần).

a.6) Quốc độ thanh tịnh, như văn.

– Trong phần ba đệ tử (b), lại có hai: b.1. Thỉnh ký. b.2. Thọ ký.

– Trong thỉnh ký có bảy hàng kệ:

b.1.1) Một hàng kệ đầu, là chánh thỉnh.

b.1.2) Hai hàng rưỡi tiếp, là Khai thí.

b.1.3) Hai hàng rưỡi tiếp là Hợp thí.

b.1.4) Một hàng, tổng kết ba người thọ ký. Mỗi mỗi đều có hành

nhân, đắc quả, kiếp, quốc, thọ mạng, pháp trụ số lượng, đều như văn.

Từ “Các đệ tử của ta” trở xuống, hai hàng rưỡi: hứa vì hàng hạ căn nói việc quá khứ. Những người này đã nghe Pháp thuyết và Thí thuyết, lại thấy các hàng thượng căn trung căn được thọ ký, mà còn nghi không hiểu sâu, sinh ra hổ thẹn. Phật muốn cho họ tăng tiến đạo, cho nên trước hứa sẽ thọ ký cho tất cả, lại thuyết nhân duyên đời trước.

(Phần Hạ)

Phẩm Thứ 7: HÓA THÀNH DỤ

“Hóa”: Là do thần lực tạo tác. Dùng thần lực, cho nên không có mà chợt có gọi là “Hóa”. Ngăn ngừa điều quấy, chế ngự địch, gọi là “Thành”. Nội hợp: Niết-bàn của Nhị thừa là quyền trí tạo tác, do sức quyền trí, không mà nói có, dùng giáo làm hóa, ngăn ngừa Tư hoặc, chế ngự Kiến hoặc, gọi là Niết-bàn. Tô tức dẫn nhập thực, chưa rốt ráo mà nói là diệt độ, quyền giả thi thiết cho nên nói “Hóa thành”, dụ như trước nói, đây là giải thích theo Nhân duyên.

Căn cứ về giáo: nếu nghĩa Tam tạng thì nơi Niết-bàn sinh an ổn tưởng, sinh diệt độ tưởng, nếu Thông giáo thì nhị thừa cùng Tam tạng đồng, Bồ-tát không như vậy.. Thích Luận nói: “Như cha vượt qua đường nguy hiểm một chân đã vào thành, một chân còn lại ngoài cửa, do nhớ vợ con cho nên từ thành mà vào đường hiểm, thệ nguyện giúp đỡ các tập khí còn sót lại cho nên vào đường sinh tử mà không lấy Không làm chứng. Biệt giáo thì không nói thành như biến hóa, dùng thành ngăn sự nguy hiểm. Từ cửa thành thẳng qua, dùng thành làm phương tiện đoạn trừ Kiến Tư hoặc, không nói đây là tột cùng. Viên giáo thì biết không có giặc cũng không cần thành, cho nên nói “Hóa thành”. Nay là ý của Viên giáo. Cho nên, đầu đề gọi là “Phẩm Hóa thành Dụ”. Bản tích quán tâm không chép.

Hỏi: Phẩm này nói sự nhân duyên hàng hạ căn được ngộ, lẽ ra nên gọi là phẩm Túc Thế (đời trước) chứ?

Đáp: Đầu phẩm nói rộng về nhân duyên, cuối phẩm thì kết, nêu thí dụ Hóa thành. Nếu theo trước thì nên gọi là Túc Thế, vì kinh theo sau, cho nên gọi là Hóa thành.

Lại hàng thượng căn thì nghi mỏng, chỉ lấy việc “Phật ngồi dưới gốc cây ba tuần tư duy” để nêu rõ cơ duyên. Hàng trung căn thì nghi nặng hơn, cho nên dùng thêm thí dụ, dò lấy “đạo Vô thượng mà hai vạn ức Phật giáo hóa” để làm cơ duyên. Hàng hạ căn thì nghi lại càng sâu dày cho nên nêu “cơ duyên lâu xa từ đời trước”. Nếu bắt đầu từ đời trước thì nói nhân duyên lâu xa, ở thời trung gian thì nói Hóa Thành, nêu cứu cánh thì nói Bảo sở. Các Kinh gia ở Khoảng giữa nêu tên phẩm, để thuận tiện thu tóm từ đầu đến cuối. Cho nên, nói “phẩm Hóa thành”.

Hỏi: Hóa thành là quyền, bảo sở là thật, vì sao bỏ thật theo Quyền?

Đáp: Do biết Thành là biến hóa, thì biết Bảo sở là thật, cho nên nêu lên hóa mà không mất thật.

Đây là đoạn văn kinh gồm ba phẩm, theo trước lẽ ra có bốn, nhưng lãnh giải thuật thành đều ở đoạn thọ ký. Vì sao? Vì nếu không lãnh giải, thí sao được thọ ký thuật thành, cho nên nói thọ ký gồm được hai ý. Lại, lãnh giải thuật thành được thọ ký, hoặc trước sau không định. Lãnh giải thì hoặc là im lặng nhớ nghĩ hoặc là phát ra lời nói, không đồng. Văn kia lại ít, không đủ phân chia phẩm, chỉ nhập trong đoạn khác. Phẩm này chính thuyết nhân duyên, hai phẩm sau thọ ký.

– Ban đầu lại chia làm hai:

  1. Nêu thấy biết lâu xa.
  2. Nêu đời trước kết duyên. Đức Như Lai tam đạt, thấu suốt rất lâu xa rõ ràng như ngày nay, dẫn việc đã qua để quyết định không hư dối, rồi sau thuyết cuộc sống đời trước. Hai phần này đều có văn trường hàng và kệ tụng.

– Phần một: Trường hàng có ba:

  1. Nêu ra những việc đã thấy, tức là nước tên Hảo Thành, kiếp tên Đại Tướng, đức Phật hiệu Đại Thông Trí Thắng.
  2. Nêu thí dụ để rõ lâu xa.
  3. Tổng kết, thấy xưa như nay. Kệ có bảy hàng, tụng ba nghĩa trước, như văn.

– Phần hai: Từ “Đức Phật thọ năm trăm bốn mươi vạn ức” trở xuống: chánh nêu kết duyên. Văn lại chia làm hai phần:

  1. Nguyên do kết duyên.
  2. Chánh kết duyên.

– Trong nguyên do lại có hai: Nguyên do xa, nguyên do gần.

Nguyên do xa lại có hai:

  1. Đại Thông Trí Thắng Phật thành đạo.
  2. Phạm thiên khắp mười phương thỉnh pháp.
  3. – Phần Đức Phật thành đạo chia làm năm:

1. Phật thọ mạng lâu xa.

2. Từ “Đức Phật đó khi trước lúc ngồi đạo tràng” trở xuống: Việc trước khi thành đạo. Chư Phật đạo đồng, vì duyên sự mà có khác. Đức Thích-ca sáu năm ngồi khổ hạnh, cỏ mọc từ đầu gối đến khủyu tay không biết, chư thiên kêu khóc, đất chấn động mà không nghe, dời đổi chỗ ngồi rồi đắc đạo. Đức Di-lặc ngay trong ngày xuất gia thì đắc đạo. Đức Phật kia ngồi mười tiểu kiếp mà Phật pháp vẫn không hiện tiền, chẳng phải căn có lợi độn, đạo có khó dễ, mà chỉ vì duyên thích nghi quá thúc hối nên thị hiện có dài ngắn.

3. Từ “Các Tỳ-kheo! Đức Phật Đại Thông Trí Thắng quá mười tiểu kiếp” trở xuống: nêu chánh thành đạo.

4. Từ “Lúc đức Phật chưa xuất gia” trở xuống: nêu sau khi thành đạo quyến thuộc cúng dường.

5. Từ “Bấy giờ mười sáu vị vương tử nói kệ khen” trở xuống: nêuthỉnh chuyển Pháp luân.

Phần một, văn kinh dễ hiểu. Phần hai: những việc trước Phật thành đạo, có hai: 1. Phật ngồi đạo tràng trải qua thời tiết. 2. Chư thiên cúng dường.

Phần thứ hai (của Nguyên do xa) Từ “Đức Phật bảo các Tỳ-kheo… đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác” trở xuống: Các Phạm thiên thỉnh, chia làm hai:

  1. Uy quang soi khắp, sáu điệu chấn động.
  2. Các Phạm thiên trong mười phương thỉnh.

Uy quang: Kinh Quá Khứ Nhân Quả nói: “Lúc Thái tử Tất-đạt còn ở trong thai thì ba ngàn cõi nước hào quang lớn sáng chói, “chỗ tối tăm ánh sáng nhật nguyệt không soi tới được mà đều sáng rực, chúng sinh trong đó đều được thấy nhau”. Lúc mới thành đạo cũng như vậy. Sáng sớm vì các vị trời cõi Sắc, giữa ngày vì trời cõi Dục, chiều tối vì quỷ thần mà thuyết pháp, đêm cũng thư vậy. Quán giải “bỗng sinh ra chúng sinh”: tâm tánh vốn tịnh do ấm nhập giới che lấp nên tối tăm. Nếu tu quán Tuệ, thì lý bản tánh hiển bày. Lại hai núi là Nhị đế, trung gian là trung đạo. “Ánh sáng nhật nguyệt” là nhị trí, hào quang Phật là trung đạo, là ánh sáng vô phân biệt trí, chiếu soi Tam đế vốn có thấu suốt.

Từ “Bấy giờ phương Đông” trở xuống: Các Phạm thiên trong mười phương thỉnh. Văn chia làm hai: Trước chín phương, sau thượng phương. Chín phương chia làm bốn: 1. Đông. 2. Đông nam. 3. Nam. 4.Tổng nêu sáu phương.

– Ba phương trước, văn nói mỗi phương đều có bảy ý:

  1. Thấy điềm lành.
  2. Kinh hãi.
  3. Hỏi nhau để quyết nghi.
  4. Dựa vào hào quang tìm thấy Phật.
  5. Tam nghiệp cúng dường.
  6. Thỉnh pháp.7. Im lặng hứa khả, đều như văn.

Phương thượng, thì văn chỉ nêu có sáu ý, sau khi các Phạm thiên thỉnh thì Đức Thế Tôn liền thuyết, cho nên không có “Im lặng hứa khả”. Xưa nói: Đông, Đông nam thỉnh Tiểu thừa, bảy phương kia thỉnh Đại thừa, thượng phương thỉnh Tiểu và Đại. Thích luận nói các Phạm thiên thỉnh Đại, đức Phật tuy thuyết Tiểu chưa thỏa mãn sở thỉnh, nếu thuyết Bát-nhã cũng đáp ứng được nguyện thỉnh của Phạm thiên. Nếu y theo văn Phẩm Phương Tiện, thì Phạm Vương thỉnh Đại; nhưng Phật pháp đạo đồng không nên có thiên vị thỉnh, chỉ vì các kinh luận còn tóm lược nên các sư căn cứ thiên lệch. Lại, như nay đức Phật từ đầu đến cuối chuyển pháp luân đủ ngũ vị, nhất nhất đều đáp ứng được điều Phạm thiên thỉnh. Kia cũng nên như vậy.

Ban đầu mười sáu vị vương tử thỉnh chuyển “mãn” giáo, như nay Phật thuyết Kinh Hoa Nghiêm. Hai phương Đông và Đông nam, thỉnh chuyển “bán” giáo, như nay Phật thuyết Tam tạng. Bảy phương sau thỉnh chuyển đối “bán” nêu “mãn”, như nay Phật thuyết Phương Đẳng. Thượng phương Phạm thiên thỉnh mang “bán” nêu “mãn”, như nay Phật thuyết Bát-nhã. Sau mười sáu vị vương tử thỉnh phế “bán” nêu “mãn”, như nay Phật thuyết Pháp Hoa Đề-hồ giáo. Xưa nay tiết mục văn nghĩa tương ưng.

Từ “Lúc bấy giờ đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai nhận lời thỉnh” trở xuống: kết duyên, nguyên do gần: Do Phật nhận lời thỉnh thuyết pháp, cho nên sau được giảng giải chính làm kết duyên. Văn chia làm hai phần:

1. Chuyển “bán tự” pháp luân.

2. Các con thỉnh chuyển “phế bán nêu mãn” pháp luân. Phần Chuyển “bán tự” chia làm ba: a) Thọ thỉnh. b) Chánh chuyển. c) Nghe pháp đắc đạo. Trong đây, lẽ ra thuyết tam thừa như văn phẩm Tựa, mà nay không thuyết, chính vì hàng hạ căn, luận về kết duyên khai hiển… lược không nói lục độ. Tam chuyển: Nghĩa là thị chuyển, khuyến chuyển, chứng chuyển. Cũng đem tam phen chuyển đối thị giáo lợi hỷ. Thị tức Thị chuyển, giáo tức Khuyến chuyển, lợi hỷ tức Chứng chuyển.

Cũng đối Kiến đế Tư duy Vô học. Vì hàng Thanh văn mà tam chuyển, vì Duyên giác mà nhị chuyển, vì Bồ-tát mà nhất chuyển. Vì sao? Vì căn có lợi độn. Đây đã một lần nói rồi vậy. Chung ở các phương như tam chuyển. Vì sao? Vì chư Phật nói pháp pháp cho đến ba phen, vì chúng sinh có ba loại căn. Đại luận và Tì- Bà-Sa đều nói như vậy.

Hỏi: Ban đầu vì năm người, vì sao nói vì ba loại căn? Lại có tám vạn chư thiên vì sao không có ba căn?

Đáp: Vì chúng sinh có đủ ba huệ ba căn ba đường.

– Mười hai hành:

  1. Căn cứ giáo Tứ đế.
  2. Căn cứ mười sáu hành.

Giáo mười hai: Tức thị chuyển, khuyến chuyển, chứng chuyển. Hành mười hai: ba phen chuyển đều sinh nhãn trí minh, giác. Lại, giáo mười hai là Năng chuyển, Hành mười hai là Sở chuyển. Mười hai hành là luân, mười hai giáo là phi luân. Nếu làm thành nghĩa nhị luân, thì nhãn trí minh giác tức là căn cứ bốn mươi tám pháp, khai bốn tâm này thành mười sáu tâm, nghĩa là Khổ pháp nhẫn làm “nhãn”, Khổ pháp trí làm “trí”, Tỷ nhẫn làm “minh”, Tỷ trí làm “giác”. Ba đế còn lại cũng như vậy, cho nên thành mười sáu tâm. Người thuộc ba loại căn đều đắc mười sáu tâm, cho nên thành bốn mươi tám hành. Mười hai đế là giáo pháp luân, mười hai hành là hành pháp luân. Giáo luân thì năng chuyển, chỉ là một Quyền trí, sở chuyển thì có mười hai giáo. Nếu hành pháp luân, thì giáo năng chuyển có mười hai, hành sở chuyển cũng có mười hai. Hoặc là chung ba người, hoặc là căn cứ một người. Nay căn cứ ba hạng người ở giai vị Kiến đế đạo, đều lợi căn nghe Thị chuyển, tức sinh nhãn trí minh giác, ba người hợp nêu, cho nên nói mười hai hành. Còn người không thể chuyển, ấy là Sa-môn không nghe, còn không biết, huống chi năng chuyển. Bích-chi-phật tuy ngộ, nhưng miệng không thể thuyết pháp. Bà-la-môn tuy nghe tên pháp mà không hiểu lý. Ma, Phạm cũng như vậy. Xét rằng chuyển tức chuyển pháp này độ nhập tâm người khác, khiến cho họ được ngộ, phá sáu mươi hai kiến mới gọi là “chuyển pháp luân”. Vì không có nghĩa này, cho nên Ma, Phạm v.v… không thể chuyển. Có người giải thích: Đại thừa Tứ đế, tiếp chuyển nhị đế, tiếp chuyển nhất đế, tiếp chuyển vô đế, đều là ý thu hẹp hay mở rộng tùy cơ duyên. Tiểu thừa Tứ đế lấy sinh diệt làm thể, Đại thừa thì lấy vô sinh làm thể.

Mười hai nhân duyên: Lại là biệt tướng tế quán tứ đế. Căn cứ Khổ

Tập, tức có Vô minh, Lão tử. Căn cứ Đạo Diệt, tức có Vô minh diệt cho đến Lão tử diệt. Lại ba người chung quán mười hai duyên: Nhị thừa thì quán mười hai duyên sinh diệt. Bồ-tát thì quán mười hai nhân duyên không sinh. Mười hai duyên không sinh: xưa không sinh nay không diệt, tương sinh thì tương sinh truyền dẫn diệt.

Lại, Tam thừa cũng cùng luận về Tứ đế, Nhị thừa thì hữu lượng tứ đế, Bồ-tát thì vô lượng tứ đế. Lại, lục độ cũng chung cả tam nhơn (ba hạng người).

Kinh Đại Phẩm, phẩm Phát Thú nói: “A-la-hán, Bích-chi-phật do tu sáu Ba-la-mật mà đạt đến bờ bên kia”. Nhiếp Đại Thừa nói: “Phàm phu, Nhị thừa đều có lục độ nhưng không đồng đó thôi”! Nếu vậy lẽ ra đều gọi là Ba-la-mật, nhưng Nhị thừa tu hành đạt đến bờ Niết-bàn bên kia cũng gọi là Ba-la-mật, chỉ vì không thể đạt đến bờ Phật quả bên kia, so với Bồ-tát có khác. Luận A-Tỳ-Đàm nói: “Có lục túc, tức lục độ”. Kinh Bảo Vân nêu, tam thừa Tỳ ni…

Phần ba: Nghe pháp đắc ngộ. Ban đầu ít, giữa nhiều. “Không thọ” là không thọ tứ kiến, ngộ sơ quả vậy. “Đắc giải thoát” là thoát “tử quả” hai thứ trói buộc (Tử quả: phiền não như chủng tử. Khổ báo do phiền não sinh ra như quả.), là đắc vô học “Thiền định sâu mầu” tức là câu giải thoát…

Từ “Lúc bấy giờ mười sáu vị vương tử đều là đồng tử xuất gia” trở xuống: thỉnh “mãn tự” pháp luân, Văn chia làm bảy:

  1. Xuất gia.
  2. Thỉnh pháp.
  3. Những người đến thấy cũng xuất gia.
  4. Phật nhận lời thỉnh.
  5. Lúc đó trong chúng có người hiểu, có người không hiểu.
  6. Thời tiết.
  7. Phật nói kinh xong thì nhập định.

“Các căn” là sáu căn. Sáu căn thanh tịnh, cho nên nói “thông lợi”. Lại, sáu căn hỗ dụng nên nói “thông”. Nhập cảnh giới Phật, cho nên nói “lợi”. “Trí tuệ minh liễu”: là khai thị ngộ nhập. Đức Phật kia ban đầu thuyết viên đốn, công đức đại thừa của các con thảy đều đầy đủ, thương xót các phương tiện lại thỉnh Phật khai quyền hiển thật. “Hàng Thanh văn đều đã thành tựu”: nêu kia chướng đã trừ, căn cơ chuyển động, vì vậy cho nên gọi “thỉnh”. “Chúng con có chí mong được tri kiến Như Lai”: kinh Pháp Hoa này chỉ nêu tri kiến Phật, chí chỉ cầu nơi đây, tức văn nói “thỉnh mãn tự, phế bỏ bán tự” nên hiển rõ như đây.

“Trải qua hai vạn kiếp”: trên khai tam đã lâu, không chấp nhận trung gian vô sự, hướng xuống ý văn dưới: trong hai vạn kiếp, ắt thuyết Phương Đẳng Bát-nhã. Văn nói: Thuyết lục Ba-la-mật và các việc thần thông. Bát-nhã là hạnh, thần thông là sự. Các kinh Phương Đẳng phần nhiều nêu sự hạnh bất khả tư nghì. Trong văn tụng nói: “Phân biệt pháp chân thật”, tức là “Thật tướng Bát-nhã” trong kinh Đại phẩm. Mười sáu vị Sa-di tin thọ và hàng nhị thừa thì tin được hiểu. Ngoài ra ngàn vạn người kia đều sinh nghi hoặc, đó là chúng không hiểu. Chúng không hiểu này, thì kết duyên Pháp Hoa với mười sáu người con.

Đức Phật thuyết pháp xong thì nhập định, chính là kết duyên, là nguyên do gần. Do Phật nhập định, không xuất định, cho nên các nghi hoặc chúng không thể hỏi. Mười sáu vị Bồ-tát Sa-di về sau vì những người không hiểu nên lại giảng thuyết kinh. Trong văn nêu nơi chốn nhập định tức là “Tịnh thất”, chánh nhập định tức là “trụ thiền định”, thời gian nhập định tức là “tám vạn bốn ngàn kiếp”.

“Bấy giờ mười sáu vị Bồ-tát Sa-di biết Phật nhập thất” trở xuống, là phần hai: Chánh kết duyên. Văn đây có hai:

  1. Pháp thuyết kết duyên.
  2. Thí thuyết kết duyên.

Pháp thuyết có ba: a) Xưa cùng kết duyên. b) Trung gian thường gặp nhau. c) Nay lại thuyết kinh Pháp Hoa.

– Phần Xưa kết duyên có bốn phần:

a.1) Biết Phật nhập định.

a.2) Vương tử lại giảng.

a.3) Chúng được lợi ích.

a.4) Đức Phật từ định ra khen ngợi Bồ-tát.

Do Phật nhập định nên được thuyết. Đức Phật biết một phen hóa độ sắp xong không thể có người để điều phục nữa ở giai đoạn này, cho nên khiến vương tử cùng họ kết duyên. Lại biết các chúng sinh này đều do vương tử mà được độ cứu kính, do đó Phật nhập định lâu mà không ra. Từ “Mười sáu vị Bồ-tát Sa di” trở xuống là phần một: Biết Phật nhập định. Từ “Mỗi vị đều thăng pháp tòa” trở xuống là phần hai: Lại giảng kinh Pháp Hoa. Từ “Mỗi vị đều độ” trở xuống là phần ba: Chúng được lợi ích, đều phát Bồ-đề tâm cho nên nói “độ”. Nếu ban đầu phát tâm thệ nguyện làm Phật, thì đã vượt qua thế gian, tức vượt qua bảy phương tiện đến bờ bên kia. Từ “Đức Đại Thông Trí Thắng Phật qua tám vạn bốn ngàn kiếp” trở xuống là phần bốn: Phật từ định ra khen ngợi khuyến tin. Trong đây lại có hai: 1. Chánh xưng tán Bồ-tát. 2. Từ

“Các ông phải luôn luôn gần” trở xuống: Khuyên nên gần. Trong phần Khuyên nên gần lại có hai: a. Khuyên thân cận. b. Từ “Vì sao vậy?” trở xuống: Giải thích ý khuyên.

Từ “Phật bảo các Tỳ-kheo! Mười sáu vị Bồ-tát” trở xuống là phần hai: Trung gian thường gặp nhau. Gặp nhau có ba thứ:

1. Nếu gặp gỡ nhau thường thọ Đại thừa, thì hạng người này khoảng trung gian đều đã thành tựu, không đến ngày nay.

2. Nếu gặp gỡ nhau, gặp người kia thoái Đại thừa nên dùng Tiểu thừa dẫn dắt họ, thì hạng người này khoảng trung gian còn cố chấp chưa hết, nay được trở lại nghe giáo Đại thừa.

3. Chỉ luận gặp Tiểu không luận gặp Đại, các chúng sinh mà trung gian chưa độ thì đến nay cũng không hết, mới bắt đầu thọ Đại thừa cho đến sau khi Phật diệt độ mới đắc đạo.

Hỏi: Như trên do tu tập trải qua số kiếp nhiều như vi trần đến nay mới đắc A-la-hán, phải biết Vô sinh pháp nhẫn đâu dễ gì đắc ư?

Đáp: Bậc Đại Thánh luôn khéo y tứ Tất-đàn mà thuyết như vậy, hoặc nói Phật đạo lâu xa, hoặc nói Phật dễ đắc. Đối trị người nhàm chán đạo lâu dài, thì nói ngắn, để đối trị người mà đối với đạo sinh tưởng khinh dễ thì nói dài. Hoặc là để phát sinh thiện đời trước, hoặc tùy sự ưa muốn của thế gian, hoặc vì nghe thuyết dài ngắn thì đắc Đệ nhất nghĩa. Phải biết như đã nói trải qua nhiều kiếp đến nay mới đắc Ala-hán, đây là Quyền hạnh dùng tứ Tất-đàn để dẫn họ Thật hành khiến nhập đạo.

Từ “Các Tỳ-kheo! Ta nói với các ông” trở xuống là phần ba: Nay lại thuyết kinh Pháp Hoa. Văn đây lại có hai: 1. Hợp xưa nay. 2. Trở lại thuyết kinh Pháp Hoa. Hợp xưa nay lại có hai:

a) Kết xưa nay của Thầy.

b) Hợp xưa nay của đệ tử. Mười sáu vị Sa-di là xưa. Tám phương làm Phật là nay. Từ “Các Tỳ-kheo! Lúc mỗi mỗi chúng ta làm Sa-di” trở xuống là hợp xưa nay của đệ tử. Phần này có hai: Một là Hiện tại; Hai là Vị lai. Phần Hiện tại có bốn ý:

– Bất thoái: trụ Tam-bồ-đề.

– Các chúng sinh thoái chuyển đó: nay trụ Thanh văn.

– Từ “Vì sao vậy?” trở xuống: giải thích ý thoái trụ.

– Từ “Vô lượng chúng sinh được hóa độ lúc ấy” trở xuống: chánh kết ý xưa nay.

Từ “Và sau khi ta diệt độ” trở xuống, là hợp đệ tử vị lai, lại có hai:

– Chánh hợp.

– Từ “Sau khi ta diệt độ, lại có” trở xuống, là giải thích nghi. Nghi hiện tại được nghe Phật thuyết kinh Pháp Hoa được nhập nhất đạo, tức có thể là dòng kết duyên? Nghi vị lai ấy không nghe Pháp Hoa mà tưởng là nhập diệt độ, đây đâu có thể xả Tiểu đắc nhập Nhất thừa? “Giải thích rằng: Dù Phật diệt độ, cuối cùng chúng cũng hợp được nghe kinh này. “Ta ở nước khác làm Phật”, cho đến “cầu Phật tuệ mà được nghe kinh này”. “Nước khác” là cõi nước Hữu dư của Tam thừa Thông giáo. “Trừ các Như Lai phương tiện nói pháp”: đoạn nghi. Nói ba, đó chỉ là phương tiện mà nói, kỳ thật không có ba.

Từ “Các Tỳ-kheo! Đức Như Lai tự biết” trở xuống: chánh nêu nay trở lại thuyết Pháp Hoa. Đây lại có ba:

  1. Thời chúng thanh tịnh.
  2. Chánh thuyết Pháp Hoa.
  3. Giải thích ý khai tam ở trên.

“Biết đến giờ Niết-bàn”: Chư Phật xuất thế thời gian dạy đạo sắp xong tức thời điểm thuyết kinh này. Như đức Phật Ca-diếp, Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh v.v… thuyết kinh này xong, thì nhập Niết-bàn. Đức Phật Thích-ca thuyết kinh Pháp Hoa xong thì xướng rằng sẽ diệt độ. “Chúng lại thanh tịnh”: tức Đoạn đức. “Tín giải kiên cố”: “tín” tức bốn niềm tin bất hoại, “giải” tức vô lậu chánh giải, liễu đạt chân đế đủ các thiền định, đây là Trí Đoạn lập. Lúc ấy mới có khả năng dạy Đại đạo, người nghe chắc tín thọ. Lại nữa, “chúng lại thanh tịnh”: do Tam tạng giáo được lợi ích, thoát nạn. “Tín giải kiên cố”: đối với Phương Đẳng giáo thì tâm tướng thể tín; liễu đạt pháp Không khi nghe thuyết giáo pháp Bát-nhã. Ở trong pháp Không, tâm được liễu đạt, tức là ý Chuyển giáo. Từ “Liền nhóm họp các Bồ-tát” trở xuống, là chánh thuyết Pháp Hoa. “Nhóm họp các Bồ-tát” là tụ tập thân tộc để thuyết kinh này. Trên giải thích “thân tộc” là pháp thân đại sĩ, là chúng ảnh hưởng. Dùng văn đây để kiểm nghiệm nghĩa kia, thì rõ ràng. Tập họp Bồ-tát là hội họp thân tộc, và chúng Thanh văn là con nhận mệnh lệnh.

Từ “Các Tỳ-kheo nên biết! Đức Như Lai phương tiện” trở xuống, là giải thích ý khai tam. Nếu thế gian không có Nhị thừa được diệt độ, thì vì sao đức Như Lai trước thuyết Quyền giáo? Giải thích rằng: Tỳkheo nên biết! Như Lai phương tiện, biết rõ tâm tánh của chúng sinh nhỏ hẹp ưa pháp nhỏ, tham đắm ngũ trần ngũ trược xấu tệ, cho nên trước nói ba, khiến phá thói hư xấu, thoát nạn, sau mới nói một.

Từ “Thí như đường hiểm dài năm trăm do tuần” trở xuống, là phần Thí thuyết. Có khai có hợp.

– Khai thí chia làm hai:

1. Thí dụ Đạo sư ví như “lại lần nữa giảng cùng kết đại duyên” bên trên, tức phần lược tụng, dự định dùng phương tiện trong Tổng thí Nhà lửa ở trên.

2. Thí dụ Muốn dẫn dắt, ví như “trung gian gặp nhau, nay lại thuyết Pháp Hoa” ở trên. Nếu trung gian gặp nhau theo ta nghe pháp đều vì Tam-bồ-đề, thì không vì người này thiết lập thí dụ. Nếu trung gian gặp nhau, nay có trú nơi địa vị Thanh văn, thì chính vì người này thiết lập thí dụ thứ hai, tức là phần tụng rộng dự định dùng phương tiện trong Biệt thí Nhà lửa ở trên.

Phần một: Thí dụ Đạo sư. Văn có năm tức sáu ý trong phần lược tụng dự định dùng phương tiện trong Tổng thí Nhà lửa bên trên.

1. “Năm trăm do tuần”: dụ cho xứ sở mà chúng sinh chưa độ, tham đắm các hữu, luân hồi trong đó, tức nhà kia rộng lớn trong dụ Nhà lửa, như ba cõi không an ổn, là ý an ổn đối bất an ổn trong phẩm Phương tiện.

2. “Đường dữ hiểm nạn” ví như bên trên “Chưa vượt qua các phiền não chướng nặng, đối với trí tuệ Như Lai khó tin khó hiểu”, tức ví lửa cháy trong Thí dụ Nhà lửa, là pháp an ổn đối bất an ổn trong phẩm Phương Tiện.

3. “Nếu có chúng đông” là chánh thí dụ bên trên: “trăm ngàn vạn ức loại đều sinh nghi hoặc không hiểu”, là dụ ba mươi người con và năm trăm người trong Nhà lửa, là ý “biết tánh ưa muốn của chúng sinh” trong phẩm Phương Tiện.

4. “Muốn đi qua con đường này đến chỗ trân bảo” là thí dụ xưa không lấy, nay lấy, ví như “lại giảng kinh Pháp Hoa” bên trên, như “mưa nhất vị” trong phẩm Dược Thảo Dụ, như “chỉ có một cửa” trong thí dụ Nhà lửa, là ý tuyên giảng Phật đạo trong Phẩm Phương Tiện.

5. “Có một vị đạo sư” là Vương tử thứ mười sáu trong thí dụ trên, tức dụ “mây dầy đặc” trong phẩm Dược Thảo, là Trưởng giả, trong dụ Nhà lửa, là ý “Ta nay cũng như vậy” trong phẩm Phương tiện.

Hỏi: Trong đây làm ví dụ, sao không nói “cha con thất lạc nhau”, “trưởng giả kinh sợ vào nhà lửa”, “không hư dối”… ?

Đáp: Phàm nêu tên ví dụ đều tùy theo nghĩa thuận tiện. Trên chọn cơ cảm có và không, cho nên nói “cha con thất lạc, cha con gặp nhau”. Hoặc chọn cảm ứng, chỉ tùy căn cơ, cho nên nói “kinh sợ vào nhà lửa”, Trong đây nêu “muốn dẫn dắt mọi người đời đời gặp nhau”, thì đâu thể nói “thất lạc”. Từ lâu kết duyên, đâu được nói “bắt đầu ứng”, vì nghĩa đây cho nên không nói “xa lìa nhau và kinh sợ” đó thôi! Mà ý kia thì thông.

Hỏi: Vì sao không nêu thí dụ “Không hư dối”?

Đáp: Từ trước đã có hai mươi hai phen khai Quyền hiển Thật, nghĩa kia đã rõ ràng. “Không hư dối” là để khuyên tin, hàng hạ căn tin không bao lâu nên không cần.

“Năm trăm do tuần”: theo Cơ sư nói: Tam giới kết Hoặc là ba trăm, hàng Thất địa đoạn tập khí là bốn trăm, hàng Bát địa trở lên đoạn vô minh là năm trăm. Nay nói chẳng phải nghĩa chánh biệt, lại chẳng phải nghĩa thông Tam thừa.

Lại có người nói: Có bốn thứ: Lưu lai sinh tử, Biến dịch sinh tử, Trung gian sinh tử, Phần đoạn sinh tử. Chỉ chọn ba thứ kia khai làm năm trăm, không chọn Lưu lai sinh tử. “Lưu lai” là lúc bắt đầu có thức thì trái với nguồn gốc ban đầu, cho nên không nói. Có người nạn vấn điều này rằng: Kinh Thắng Man nói: Nhân năm, quả hai. Quả hai là Phần đoạn và Biến dịch. Nhân năm nghĩa là năm trụ. Nói quả thì đã biệt khai Lưu lai và Trung gian, nói nhân thì cũng nên càng rộng thêm năm trụ. Lý luận này không căn cứ, không nên dùng. Đại luận nêu: “Nhục thân Bồ-tát tức Phần đoạn, Pháp thân Bồ-tát là Biến dịch”. “Lại nói A-lahán xả báo thân tam giới, thọ thân pháp tánh”. Cho nên, biết sinh tử có hai. Có người nói: Ba trăm dụ ba cõi, Bốn trăm dụ Thất địa, trung gian hai nước khó vượt qua; Năm trăm dụ Bát địa trở lên.

Có người nạn vấn rằng: Bốn trăm dụ Thất địa, thì lẽ ra Ba trăm dụ Lục địa. Lục địa và Nhị thừa công bằng nhau. Đáp: Hàng Nhị thừa lâu tối đa chỉ có sáu mươi kiếp hoặc một trăm kiếp. Thời gian Bồ-tát đến Lục địa là hai mươi hai đại tăng-kỳ, hàng Nhị thừa loanh quanh trở về đạo, cho nên không ngang bằng được. Nay nói đây không phải nghĩa riêng cũng không phải nghĩa chung. Có người nói: “Tam giới là Ba trăm. Thất trụ và nhị thừa là Bốn trăm, Thất trụ trở lên là Năm trăm”. Như Đại Kinh nói: “Sơ quả tám vạn kiếp đến Bồ-đề tâm xứ”. Như người hàng tam căn đạt đến nơi này, liền lãnh giải. Năm hạng người đạt đến nơi này, gọi là vượt qua năm trăm. Đây lấy mức tối đa ngu độn nên nói “tám vạn kiếp đến”. Hàng lợi căn không hẳn như vậy. Như khi đức Phật tại thế, người đắc tứ quả nghe kinh Pháp Hoa thì đều phát tâm, hà tất phải tám vạn kiếp!

Có người nạn vấn: “Kinh nêu rõ vượt quá ba trăm do tuần lập Nhị địa, đâu phải là độ ba người. Nếu năm người đều phát Bồ-đề tâm, thì gọi là vượt qua năm trăm. Đáp rằng: Chính một ý trong Đại kinh nêu năm người phát tâm lìa năm vị, nhưng đó chẳng phải ý trong kinh này.

Trong đây nêu “ba trăm” là Quyền độ tại Hóa thành, “năm trăm” đến Bảo sở gọi là Thật độ. Bỏ Hóa thành, tiến đến Bảo Sở. Nếu năm người đều vượt đều tiến, thì mất ý nghĩa của thí dụ Hóa thành!

Có người nói: “Tam giới là ba trăm, Thanh văn là Bốn trăm, Duyên giác địa là năm trăm. Phàm phu chướng ở tam giới, Nhị thừa chướng ở Niết-bàn cũng là hữu không nhị kiến, Cây thuốc Hoa Nghiêm không thể ở sinh ở nước sâu, hầm lửa. Hầm lửa tức tam giới, nước sâu tức Nhị thừa. Tam Giới là lao ngục của Nhị thừa; Nhị thừa là lao ngục của Bồ-tát. Lại, chính cái phước trí nhị biên, thì không thể tự hành không thể hóa tha. Kinh Đại Phẩm nêu Bốn trăm do tuần, hợp nhị thừa làm một trăm. Pháp Hoa khai làm năm trăm. Đại Phẩm nêu Bồ-tát vượt hai địa phàm Thánh, mà chưa nêu Nhị thừa là Quyền, tức thiếu ý Hóa thành. Đã chưa luận đến Hóa thành, thì cũng chưa nêu Bảo sở”. Đáp: “Đại Phẩm đã hiển Thật, cho nên đã nêu Bảo sở; chưa khai Quyền, cho nên không nêu Hóa thành”.

Văn dưới nói: “Vì để nghỉ ngơi, cho nên nói hai thứ Niết-bàn”, tại đây là đã vượt qua ba trăm do tuần. “địa vị mà các ông trụ, gần với trí tuệ Phật”, đây khiến vượt khỏi hai trăm do tuần nữa.Văn đã nêu rõ, không nên khổ công mê hoặc. Lại, nêu rõ Nhị thừa có sáu nghĩa đồng và mười nghĩa khác. Sáu nghĩa đồng là:

  1. Đồng xuất tam giới.
  2. Đồng tận vô sinh.
  3. Đồng đoạn chính sử.
  4. Đồng đắc Hữu dư Vô dư.
  5. Đồng đắc nhất thiết trí.
  6. Đồng danh Tiểu thừa.

Do đó hợp thành một “Hóa thành”. Mười nghĩa khác là:

  1. Hành nhân xa gần sáu mươi kiếp, một trăm kiếp.
  2. Căn lợi độn.
  3. Theo thầy và tự ngộ.
  4. Không Bi và có Bi ví như xe hươu và xe dê.
  5. Có tướng hảo và không tướng hảo.
  6. Quán lược rộng.
  7. Có thể thuyết pháp đắc tứ quả, và không thể thuyết pháp đắc Noãn pháp.
  8. Ở đời có Phật và không có Phật.
  9. Đốn chứng và tiệm chứng.
  10. Duyên giác thì phần nhiều hiện thần thông, ít thuyết pháp, còn Thanh văn thì bất định.

Ba xe ở dụ Nhà lửa nay là dụ “Hai trăm do tuần”. Ba căn đồng bị thiêu trong nhà lửa, ba căn cầu thoát ra cho nên có ba xe. Phật đạo lâu dài, Nhị thừa vẫn là con đường nguy hiểm cho nên nói còn “hai trăm” cần phải lìa. Phật thừa không phải chướng chỉ nêu hai trăm, vì sao căn cứ phàm khai ba (trăm), ước về Thánh khai hai (trăm)? đây là dẫn tiến mà nói. Người được độ còn ít, người chưa được độ còn nhiều. Nếu vậy, thì chưa thành liễu nghĩa? Phật đạo tuy dài như đi vạn dặm, nhưng chỉ có năm trăm do tuần là khó, còn ngoài ra thì dễ.

Hỏi: Vượt hai trăm do tuần là việc khó của Nhị thừa, vượt tam giới là việc khó của phàm phu. Bồ-tát có khó không?

Đáp: Bồ-tát không coi nhà lửa là nạn, không cần cầu xe để ra khỏi nhà lửa. Nhị thừa đã cầu xe để vượt ra, thì sao không bị hai trăm làm chướng ngại!

Đại luận quyển sáu mươi sáu nói: “Đường hiểm là thế gian. Một trăm do tuần là Dục giới. Hai trăm do tuần là Sắc giới. Ba trăm do tuần là Vô sắc giới. Bốn trăm do tuần là Nhị thừa. Lại nữa, một trăm do tuần là Nhị thừa đạo, hai trăm do tuần là Vô sắc giới, ba trăm do tuần là Sắc giới, bốn trăm do tuần là Dục giới”. Kinh này nêu năm trăm do tuần tức Bồ-tát đạo. Nếu vượt quá năm trăm, thì nhập Phật đạo… Nhân sư và kinh luận khác nêu ra như trước. Nay y kinh này mà phán xét, thì: nơi tam giới quả báo là ba trăm, nơi cõi Hữu dư là bốn trăm, nơi cõi Thật báo là năm trăm.

Văn dưới hợp thí nói: “Biết các sinh tử”, sinh tử là nơi chốn, rõ ràng rồi vậy! Chỉ vì tôn chỉ của Phật khó biết, nên phải rộng giải. Kiến hoặc là một trăm. Ngũ hạ phần là hai trăm. Ngũ thượng phần là ba trăm. Trần sa là bốn trăm. Vô minh là năm trăm. Văn dưới hợp thí nói: “Phiền não hiểm nạn ác đạo” nghĩa đó phù hợp. Nhập Không quán thì năng vượt qua ba trăm. Nhập Giả quán thì năng vượt qua bốn trăm. Nhập Trung quán thì năng vượt qua năm trăm. Văn dưới hợp thí nói:

1. “Khéo rõ biết được tướng thông bít của con đường hiểm”, tức là biết hai thứ nhân quả, phù hợp nghĩa năm trăm do tuần.

2. “Đường dữ hiểm nạn” là dụ cho nhân quả sinh tử. Phần đoạn và Biến dịch, đây tức là quả hiểm nạn. Tư hoặc, Kiến hoặc, Ngũ trụ phiền não, tức là nhân hiểm nạn. Do nhân quả này, cho nên nói “Đường dữ”. “Chốn không người”: đạo có hai loại: a. Trống rỗng vắng vẻ, có người để nương. b. Không có người để nương. Loại một: Trong sinh tử có Niết-bàn, trong phiền não có Bồ-đề, ví như chỗ trống rỗng vắng vẻ mà có người để nương. Loại hai: Như sinh tử phiền não không có Niết-bàn Bồ-đề, trong thuốc không có bệnh, trong bệnh không có thuốc, đây tức chỗ trống rỗng vắng vẻ không có người dể nương.

4. “Nếu có nhiều chúng sinh”, đây là dụ vương tử chúng được giáo hóa chưa độ.

5. “Muốn vượt đường hiểm này” cầu đến chủng giác, cho nên nói “đến chỗ trân bảo”.

6. “Có một vị đạo sư”, tức vương tử thứ mười sáu. Nhãn nhĩ thanh tịnh, nên gọi là “thông”, ý thanh tịnh gọi là “lợi”, tóm lại tức sáu căn thanh tịnh. “Trí” tức nhất tâm tam trí, “minh” tức đầy đủ ngũ nhãn. Lại, Tam minh là “minh”, Thập lực là “đạt”.

Từ “Dẫn dắt chúng nhân muốn vượt qua” trở xuống, là phần hai của Khai thí, tức thí dụ Muốn dẫn dắt. Đây giống với ý nhà lửa phương tiện biệt thí tụng rộng. Văn đây chia làm ba:

a) “Đám đông người được dẫn dắt”: ví như những người đã kết bản duyên nhưng chưa được độ. Bản duyên không mất mà được đạo sư dẫn dắt, giống ý “trưởng giả thấy lửa sợ hãi” trong dụ Nhà lửa bên trên, là ý “thấy ngũ trược mà khởi đại bi tâm” trong phẩm Phương Tiện.

b) “Đi giữa đường lười mỏi muốn thoái lui”: ví như “giữa đường gặp nhau thoái tâm Đại thừa, thì dùng Tiểu thừa dẫn dắt” bên trên, là ý “không dùng thân, tay, mà khen ngợi ba xe hy hữu” trong dụ Nhà lửa, là ý “thôi Đại thừa hóa, nghĩ đến dùng phương tiện” trong phẩm Phương tiện.

c) Từ “Khi ấy đạo sư biết đám đông người đó”trở xuống là thí dụ “diệt Hóa thành dẫn đến Bảo sở”, ví như “trở lại vì thuyết kinh Pháp Hoa, liền tập chúng Bồ-tát và Thanh văn mà thuyết kinh này” bên trên, tức là ý “đồng ban cho một thứ xe lớn” trong dụ Nhà lửa, và giống như ý “chỉ thuyết vô thượng đạo” trong phẩm Phương tiện. Phân văn đã xong tiếp đến giải thích:

“Đám đông người được dẫn dắt”: Nói chung là chúng kết duyên. Nếu luận riêng, thì những ai trước được lợi ích Đại thừa tức là đã được dẫn dắt xong; những ai chưa được Đại lợi, thì nay chính là người được dẫn dắt. Nếu căn cứ năm trăm người trong Nhà lửa, thì ba mươi người con là người chưa được khai ngộ.

“Giữa đường mỏi mệt thoái lui”: văn chia làm hai: 1. Thoái Đại. 2. Tiếp Tiểu.

1/ Thoái Đại: tức là ý “Phật dự định thôi hóa nhất Thực” bên trên. Tiếp Tiểu: dự định dùng Tam (quyền). Văn thoái Đại chia làm ba: a) “Giữa đường mỏi mệt thoái lui” tức trên nói “không có đại cơ”. b) “Bạch đạo sư rằng”: trên nói “không thọ Khuyến, Giới”. “Chúng con cực kỳ mệt mỏi” tức là không thọ Khuyến môn, “lại thêm sợ sệt” tức không thọ Giới môn. c) “Chẳng có thể đi nữa” tức là bên trên nói “thôi hóa”. Phân văn đã xong.

Tiếp giải thích: “Giữa đường”: Chẳng phải nửa đường nên gọi giữa đường (trung lộ), chỉ do coi phát tâm là đầu, đến thành Phật là cuối. Ở khoảng giữa hai đầu mút này mà khởi thoái lui hay dừng nghĩ, thì gọi “giữa đường”. “Bạch đạo sư rằng”: tự có đạo sư Từ bi thông thạo đường đi, như văn nói: “Có một đạo sư dẫn dắt mọi người”. Tự có đạo sư Kết duyên như văn nói: “Đám đông người được dẫn bạch đạo sư rằng”. Tự có đạo sư Quyền trí, như văn nói: “đạo sư có nhiều phương tiện”. Tự có đạo sư Thật trí, như văn nói: “đạo sư biết đám đông người đó”. Nay nói “bạch đạo sư” chính là bạch với đạo sư kết duyên. Vì chúng thoái Đại thì Đại diệt, tiếp Tiểu thì Tiểu sinh. Một sinh một diệt, cảm pháp thân gọi đây là “bạch”. Vương tử biết chúng thoái Đại, tức nghe chúng tác bạch. Thiện căn yếu đuối, bị vô minh che lấp, cho nên nói “cực kỳ mệt nhọc”. Chán sợ sinh tử, gọi là “sợ hãi”. “Chẳng thể tiến tới nữa, đường trước còn xa”: Kiến hoặc, Tư hoặc, Trần sa hoặc, Vô minh hoặc khó có thể đoạn ngay, thì dùng Tiểu thừa tiếp dẫn họ, không khiến lập tức trở về bản xứ, nhưng cũng có nghĩa “tiến tới”.

2/ Tiếp Tiểu: từ “Vị đạo sư có nhiều phương tiện”: trở xuống, là thí dụ dùng Tiểu để tiếp dẫn. Trên trong dụ Nhà lửa phương tiện khai pháp Tam thừa, có bốn ý, trong đây đầy đủ. 1. “Có nhiều phương tiện” ví như dự định thích hợp. 2. Từ “Mà tự nghĩ rằng” trở xuống: bọn ấy đáng thương bỏ mất trân bảo, dụ biết có Tiểu không có Đại. 3. Từ “Nghĩ thế rồi dùng phương tiện” trở xuống: hóa làm một cái thành, dụ chính thức dùng phương tiện. 4. “Bấy giờ chúng cực kỳ mỏi mệt ấy rất vui mừng” trở xuống: nhập thành, ví như tam thừa ngộ nhập. Hai ý trên như văn. Hóa thành dụ lại chia làm hai: 1. Tác hóa; 2. Thuyết hóa. “Dùng sức phương tiện” trở xuống, chính là Tác hóa. “Bảo chúng rằng” trở xuống, chính là Thuyết hóa. Trong dụ Cho xe bên trên nói rằng: “Ta vì các ông mà làm các xe này”. Nay thành là có cho nên phải trước tạo tác. Thuyết Hóa thành dụ, giống như “Khuyến chuyển Thị chuyển Chứng chuyển” bên trên. “Các ông chớ sợ, đừng lui về” là Khuyến chuyển, khiến tiến thẳng vào thành. Từ “Nay thành lớn này” cho đến “muốn làm gì thì làm” là Thị chuyển, bảo rằng thành này có thể dừng ở. “Nếu vào thành này sẽ được rất an ổn” là Chứng chuyển, khen ngợi thành an ổn. “Như thế có thể thẳng đến Bảo sở, cũng có thể được đi”, trong Tam tạng giáo chưa luận nghĩa “tiến thẳng”. Có một thuyết nói: “Rõ ràng đây nói ở thời tam thừa giáo. Nếu người phát tâm Đại thừa cầu Phật thì cũng tốt. Nếu không thể như thế, thì chỉ làm Nhị thừa cũng tốt. Theo như kinh Thắng Man nói: “Sơ nghiệp của tam thừa không ngu đối vối pháp, tự biết sẽ được làm Phật, chỉ vì sợ không có khả năng cho nên chấp vĩnh diệt”. Nếu vậy thành Biệt giáo! Lại, có thuyết khác nói: “Chỉ khiến nhập Hóa thành, nhưng sau lại tiến thẳng”. Trong các kinh Đại Phẩm, Tịnh Danh đều có ý đó. Đấy tức là ý Biệt tiếp Thông. Nhưng ở đây đức Phật chưa khai hiển cái “tiến lên” đó, do không được hiển lộ rõ ràng mà có câu nói này. Nếu tính theo đời trước, thì lẽ ra có nói như vậy. Vì sao? Vì biết thoái ý. Vương tử giáo hóa rằng: “Các ông nếu sợ sinh tư, thì hãy tạm dùng Niết-bàn để nghỉ ngơi, nhưng sau lại hành Đại đạo, cũng có thể tùy ý”. Cũng như nay người muốn học Đại thừa mà sợ sinh tử muốn khởi thoái tâm, có người khuyên: “Ông hãy đoạn phiền não, chứng La-hán, nhưng sau lại tiếp thu Đại đạo, cũng có thể được”. Nay hiện tại một đời hóa đạo chưa khắp thì không được bỗng có lời nói như thế. Nếu khai Quyền hiển Thật, thì được nói thế, như trong thời Niếtbàn các người thủ chứng quả La-hán đều là nghĩa kia.

“Đại hoan hỷ” tức văn tuệ. “Chưa từng có” tức Noãn vị. “Thoát khỏi đường dữ” tức Đảnh vị. “Vui thích được an ổn” tức Nhẫn vị. “Thẳng vào hóa thành” tức Kiến đế vị. “Tưởng đã diệt độ” tức vô học vị, đây giống như “thích hợp sở nguyện, các con mạnh mẽ xô đẩy để ra khỏi nhà” trong dụ Nhà lửa. “Nảy sinh cảm tưởng đã được diệt độ”: như đắc Tận trí. “Nảy sinh cảm tưởng đã được an ổn”: như đắc Vô sinh trí. Lại, đầy đủ Trí đức như “đã độ”, chứng Đoạn đức như “an ổn”.

Có người nói “Bảo sở” là tam giới mà nhị thừa nếu vượt qua thì đến Phật đạo, Phật đạo là Bảo sở. Đại kinh có ba lời văn: 1. Đến Bồ-đề tâm; 2. Đến Bồ-đề; 3. Đến đại Niết-bàn môn. Nếu đến Bồ đề tâm, thì quyết đến Bồ-đề và Niết-bàn. Dẫn ba lời văn đây: Đến Bồ-đề tâm gọi là đến nhân, Bồ-đề Niết-bàn gọi là đến quả, trong quả có Trí Đoạn. Bồ-đề là Trí, Niết-bàn là Đoạn.

Nói đủ đầu đuôi, nói đủ Trí Đoạn, cho nên nói ba lời văn. Vượt qua “năm trăm do tuần” có ba nghĩa: 1. Thoát đường dữ; 2. Được đường tốt lành; 3. Là Bảo sở. Bồ-đề tâm ví như vượt qua đường dữ, Bồ-đề hành ví như đường bằng phẳng. Đắc Phật đạo, ví như đến Bảo sở. Văn dưới nói: “Nay ta vì các ông nói thật rằng sở đắc của các ông chẳng phải chân thật”. Đây nêu vượt qua đường dữ năm trăm do tuần. Vì nhất thiết trí của Phật, nên phát đại tinh tấn nghĩa là đi con đường tốt Bồ-đề. Ông chứng Phật pháp như Nhất thiết trí, Thập lực v.v…, nghĩa là đắc Phật đạo, cớ sao cần phải vượt qua năm trăm do tuần, hàng Nhị thừa qua ba trăm, Bồ-tát qua bốn trăm, Phật thừa qua năm trăm?

Từ “Lúc ấy đạo sư biết đám đông người đó” trở xuống, là Phần ba: “Diệt Hóa thành dẫn đến Bảo sở”. Trong đây có hai: 1. Biết đã nghỉ ngơi rồi. 2. Hướng đến Bảo sở. “Đã được dừng nghỉ ngơi rồi không còn mỏi mệt”, là dụ trên nói “đến thời Niết-bàn chúng lại thanh tịnh”. Thoát khỏi nạn thì Đại cơ phát sinh, tức diệt Hóa thành, dẫn hướng đến Bảo sở, ví như “chính thuyết Pháp Hoa chỉ bày tướng chân thật” bên trên. “Bảo sở” có hai nghĩa: Nếu dụng cứu cánh, thì lấy cực quả làm Bảo sở. Văn trên nói: Chỉ có Phật với Phật mới có thể thấu tột thật tướng của các pháp. Nếu phân nhập, thì lấy sơ phát tâm trụ làm Bảo sở. Cho nên, văn trên nói: “Kho báu vô thượng không cầu mà tự được”. Lại nói “đắc phần Phật pháp, các pháp mà Phật tử cần được, đều đã được”. Đại kinh nói: “Tu-đà-hoàn thì tám vạn kiếp mới đạt đến, đến chỗ sơ phát Bồ-đề tâm”. Đây là chọn độn căn, mặc sức dụng tám vạn mười ngàn… mới đến. Nếu như tứ quả trong Tam tạng, thì không trải qua thời gian ngắn đều được nhập Đại thừa đâu cần đợi đến tám vạn mười ngàn ư !?…

“Bảo sở ở gần đây, thành lớn, trước đó là của ta biến hóa”: nêu thí dụ Bỏ quyền để thuận thí dụ Hiển thật. Trên nói: Trí tuệ Như Lai khó tin khó hiểu, các hạng người ấy nên dùng pháp ấy dần dần nhập Phật tuệ. Giống như trong phẩm Phương Tiện nói: Khiến thoát khổ khỏi sự trói buộc, đạt tới đắc Niết-bàn, đức Phật dùng sức phương tiện chỉ bày tam thừa giáo.

Xưa hỏi: Xe và thành đều dụ cho Vô sinh trí, thì xe vì sao mà không, thành vì sao mà có, và xe thì ba thứ, mà thành thì chỉ một, xe thì động, thành thì tĩnh?

Đáp: Trưởng giả nói ngoài cửa có xe, vì có ngăn cách nên các con không thấy, nên có thể được giả thiết ngoài cửa có xe, xe thật không có. Còn thành thì nổi cao lên trên mặt đất, không thể giả thiết, cho nên thành là có. Căn cứ lý giáo, chấp tam giáo chọn lý thì tam giáo đều đắc lý, đây tức có nghĩa như “thành”. Đem lý chọn giáo, lý đã duy nhất, thì giáo đây tức không có quả tam gia, tức nghĩa xe không có căn cứ. Có ba xe, một thành: Các người đồng dừng ở một chỗ, do đó thành chỉ một. Xe thì căn cứ ba hạng người, ba hạng người sở thích không đồng, cho nên có ba. Lý giáo: Tận, Vô sinh trí của Tam thừa giáo không khác, như thành. Chánh sử phiền não của Tam thừa tuy cùng dứt hết, mà tập khí thì có hết và không hết, có người một bên đắc tri kiến, có người không đắc, cho nên dùng đây trang nghiêm Tận, Vô sinh trí, nghĩa đây không đồng, như ba xe. Tam gia Tận Vô sinh trí, nêu nhân tận quả vong, nơi đây tột cùng, như thành tĩnh. Tận Vô sinh trí vận nhập Vô dư, như xe động. Nay nêu căn cứ tâm chúng sinh, thì xe thành đều có, căn cứ Phật trí thì cũng có cũng không. Quyền trí được nêu là có, như thành. Thật trí được nêu là không, như xe… Hóa thành ý chính là vì người thoái Đại chọn Tiểu, bên cạnh đó vì thương xót người học Tiểu thừa. Hai đoạn trên ý chính là thương xót người học Tiểu thừa, đồng thời vì người thoái Đại. Ba xe thông xưa nay, Hóa thành ý chính là ý dẫn giáo, chưa được đạo là Hóa vậy.

Hỏi: Hóa làm ba xe cùng Hóa thành có gì khác nhau?

Đáp: Ba xe làm dụ cho Thuyết pháp luân, Hóa thành làm dụ cho Thần thông luân. Lại, Xe thì căn cứ âm thanh làm dụ, các con nghe mà không thấy. Thành là sắc làm dụ.

Hỏi: Thành cùng hai sứ giả trong phẩm Tín Giải là thế nào?

Đáp: Sứ là năng chỉ bày như giảng dạy lý, thành làm dứt sự lo lắng. Giáo động mà thành tĩnh. Giáo tức Tứ đế, Thập nhị duyên có khác. Thành là Nhị trí nhập Vô dư không khác. Giáo thông cả nhân quả, thành xe chỉ tại quả giáo thông hữu vi vô vi, thành xe chỉ tại vô vi. Quyền trí cho rằng xe là không có, gọi là giáo thiết lập ra. Thật trí cho rằng xe là có, vì không lìa văn tự nói giải thoát. Quyền trí chiếu thành là có, vì dẫn dắt chúng sinh. Thật trí chiếu thành là không, vì thiên chân chẳng thật. Cho nên, Quyền trí chiếu xe là ba, đậu ba duyên. Thật trí chiếu xe là một, đều hội Nhất thừa. Quyền trí chiếu thành là một, vì là thiên chân. Thật trí chiếu thành là ba vì Như Lai tạng. Quyền trí chiếu thành là tĩnh, vì là Khôi đoạn. Thật trí chiếu thành là động, cho nên diệt Hóa thành. Quyền trí chiếu xe là vận chuyển, vì vận chuyển nhập Vô dư. Thật trí chiếu xe là tĩnh, vì không động, không xuất. Giải thích như đây lẽ nào giống với xưa? Xưa chỉ giải nghĩa theo Tiểu thừa.

Hỏi: Năm chỗ khai tam hiển nhất có gì sai khác?

Đáp: Nói chung thì không khác, nói chi tiết thì có khác. Phẩm Phương Tiện căn cứ Giáo mà khai tam hiển nhất. Văn nói: “Như Lai chỉ dùng nhất Phật thừa, vì chúng sinh thuyết pháp không hai cũng không ba”. Dụ Nhà lửa thì căn cứ Hạnh mà khai tam hiển nhất, xe là nghĩa vận chuyển, vận chuyển dụ do hạnh. Văn nói: “Đều ngồi xe lớn, dạo khắp bốn phương, đùa giỡn vui vẻ”. Trong phẩm Tín Giải, căn cứ Người mà khai tam hiển nhất, kết lĩnh hội người làm thuê tức là con của trưởng giả, chúng con xưa nay chân thật là Phật tử. Trong phẩm Dược Thảo Dụ, căn cứ sai biệt và không sai biệt mà nêu quyền thật, không đích xác bỏ hay lấy, chỉ nêu chúng sinh không biết Phật muốn cho họ biết. Nếu bảy thứ sai biệt thì biết Quyền. Đồng y một lý, không sai biệt, tức biết Thật. Sai biệt mà không sai biệt, không sai biệt mà sai biệt, khiến cho chúng sinh biết ý này thôi! Cuối cùng bất thuyết, nói không một, có một. Đây căn cứ tự hành quyền thật nhị trí, tùy tự ý nói. Cho nên, đức Phật có thể biết mà chúng sinh không thể biết. Cũng là thông trước thông sau, biết không biết nêu quyền thật. Nay Hóa thành chính là căn cứ lý khai tam hiển nhất. Bảo sở, Hóa thành đều là hai lý Tiểu, Đại. Phá Nhị thừa trừ hóa lý, hiển bày Bảo sở chân thật Nhất lý. Văn phần dưới nêu năm trăm vị lãnh giải, dùng hạt châu làm thí dụ, cũng là căn cứ Lý.

Từ “Các Tỳ-kheo! Đức Như Lai” trở xuống, là hợp thí. Trước là chánh hợp, sau nêu dụ thuận hợp, mà không có thứ lớp. “Đức Như Lai cũng lại như vậy” trở xuống, đầu tiên hợp thí dụ đạo sư thứ năm. “Nay vì các ông” trở xuống, là hợp thí dụ thứ ba: nhiều người. “Biết các đường dữ sinh tử hiểm nạn” trở xuống, là hợp với thí dụ “đường ác nguy hiểm” thứ hai. Hai chữ “dài xa” là hợp với thí dụ “Năm trăm do tuần” thứ nhất. “Nên bỏ nên vượt qua” là hợp với thông tuệ minh đạt, cũng là hợp với thí dụ thứ tư “muốn vượt qua đường hiểm ác đến chỗ trân bảo”. “Nếu chúng sinh chỉ nghe” trở xuống, hợp thí dụ thứ hai “sẽ dẫn”. Thí dụ vốn có ba, nay cũng hợp ba. “Nếu chúng sinh” là hợp thí thứ nhất số đông người được dẫn dắt. “Chỉ nghe nhất Phật thừa” là hợp thí dụ thứ hai “thoái đại tiếp tiểu”. “Nếu chúng sinh trú nơi nhị địa” trở xuống là hợp thí thứ ba “bỏ Hóa thành dẫn đến Bảo sở”. Thí dụ thứ hai vốn có thoái Đại tiếp Tiểu nay hợp đủ. Trên thoái Đại có ba ý. “Chỉ nghe nhất Phật thừa”: Hợp thí “giữa đường biếng nhác thoái lui”, là ý không có căn cơ. “Chẳng muốn thấy Phật không muốn nghe pháp”, hợp thí “bạch đạo sư, không nhận khuyên răn”. “Liền suy nghĩ rằng”: Hợp thí “không thể tiến tới” bên trên, là ý thôi hóa. “Phật biết tâm chúng đó” trở xuống, hợp thí “dùng Tiểu tiếp người thoái lui”. Thí dụ vốn có bốn, nay hợp chỉ có ba. “Phật biết tâm chúng đó“ là hợp thí “đạo sư nhiều phương tiện” bên trên, ý dự định thích hợp. “Khiếp nhược hạ liệt”, hợp thí “những người này đáng thương” bên trên, biết họ có căn cơ Tiểu thừa. “Mà ở giữa đường vì để nghỉ ngơi” trở xuống, là hợp thí dụ thứ ba “hiện làm Hóa thành, để mọi người vào thành”. Mà ở giữa đường vì họ thuyết hai thứ Niết-bàn: Là tam giới hoặc thì hết, mà Trần sa và Vô minh hoặc thì chưa phá, ở giữa hai cực ấy mà đặt ra Hữu dư Niết-bàn và Vô dư Niết-bàn, cũng là Niết-bàn của Thanh văn và Niết-bàn của Duyên giác. Lại Phần đoạn sinh tử đã tận, Biến dịch sinh tử chưa trừ, giữa hai thứ sinh tử đặt ra làm Hữu dư và Vô dư cho nên nói trung đạo (giữa đường). “Nếu chúng sinh trú hai thứ Niết-bàn này” trở xuống, hợp thí thứ ba “dẫn đến Bảo sở”. Văn trên có hai nay hợp cũng hai. “Nếu chúng sinh trú hai thứ Niết-bàn”, đây là hợp biết đã dừng nghỉ ngơi. “Đức Như Lai lúc bấy giờ liền vì nói” trở xuống, đây hợp dẫn hướng đến Bảo sở. “Như vị đạo sư kia” trở xuống, là thứ hai nêu thí dụ thuận hợp, trình bày thí dụ tiếp thoái đại đến hợp thiết lập Tam thừa. Nêu thí dụ “diệt hóa” hợp hiển Nhất, như văn…

Kệ tụng có bốn mươi chín hàng rưỡi kệ tụng phần văn trên. Trên có hai. Đây cũng có hai:

  1. Hai mươi hai hàng rưỡi, tụng nguyên do kết duyên.
  2. Hai mươi bảy hàng, tụng chánh kết duyên.

Trên nguyên do có gần, xa. Đây cũng vậy:

Mười hai hàng tụng nguyên do xa bên trên. Tiếp mười hàng rưỡi, từ “Thế Tôn tuệ vô lượng” là tụng nguyên do gần. Nguyên do xa có hai. 1. Sáu hàng, tụng Đức Đại Thông thành đạo. 2. Sáu hàng, tụng mười phương Phạm thiên đến thỉnh chuyển pháp luân.

Trong Thành đạo có năm: 1. Ba hàng, tụng ý thứ hai: dẫn việc trước khi thành đạo. 2. “Trải qua mười tiểu kiếp” trở xuống, một hàng tụng ý thứ ba: chính thành đạo. 3. “Mười sáu người con Phật” trở xuống, hai hàng tụng ý thứ năm: Mười sáu người con thỉnh Phật chuyển pháp luân kiêm ý thứ tư thành đạo rồi quyến thuộc thân cận cúng dường. Lược không tụng ý thứ nhất: thọ mạng đức Phật lâu dài.

– Từ “Thế Tôn rất khó gặp” trở xuống, sáu hàng, tụng mười phương Phạm thiên thỉnh. Trên có hai. Đây cũng chia hai: 1. Một hàng tụng uy quang sáng chói. 2. “Các thế giới phương Đông” trở xuống, năm hàng tụng mười phương Phạm vương theo ánh sáng tìm đến chổ Phật. Trong đây ba hàng trước tụng phương Đông, hai hàng sau tụng chung cả chín phương.

– Từ “Thế Tôn tuệ vô lượng” trở xuống, mười hàng rưỡi, tụng nguyên do gần. Trên có hai. Đây cũng chia hai: 1. Năm hàng tụng ý thứ nhất: chuyển nhị thừa pháp luân. 2. Từ “Bấy giờ mười sáu vị” trở xuống, có năm hàng rưỡi, tụng ý thứ hai lại thỉnh chuyển Đại thừa pháp luân.

Phần tụng Chuyển nhị thừa, lại có ba: 1. “Thế Tôn tuệ vô lượng” trở xuống, nửa hàng, tụng ý thứ nhất: thọ thỉnh. 2. “Vì nói các món pháp” trở xuống, một hàng rưỡi, tụng ý thứ hai: chánh chuyển nhị thừa pháp luân. 3. “Tuyên nói pháp đó rồi” trở xuống, ba hàng tụng ý thứ ba: thời chúng nghe pháp đắc đạo.

– Từ “Bấy giờ mười sáu vị” trở xuống, năm hàng rưỡi, là phần hai:

vương tử lại thỉnh. Trên có bảy ý: 1. Hai câu đầu, tụng ý thứ nhất: vương tử xuất gia. 2. “Đều đồng thỉnh Phật kia” trở xuống, một hàng rưỡi, tụng ý thứ hai: chính thỉnh chuyển Đại thừa. 3. “Phật biết lòng đồng tử” trở xuống, hai hàng, tụng ý thứ tư: Hai vạn kiếp trung gian thuyết Phương Đẳng Bát-nhã. 4. “Thuyết kinh Pháp Hoa này” trở xuống, nưa hàng, chánh tụng ý thứ tư: thọ thỉnh thuyết Pháp Hoa. 5. “Phật kia thuyết kinh rồi” trở xuống, một hàng, tụng ý thứ bảy: thuyết kinh rồi nhập định. Lược không tụng ý thứ ba: phụ vương dẫn tám vạn người cầu xin xuất gia, ý thứ năm: chúng nghe kinh có người hiểu có người không hiểu, ý thứ sáu: thuyết kinh thời tiết lâu dài.

Từ “Các vị Sa-di đó” trở xuống, hai mươi bảy hàng, tụng chánh kết duyên. Văn trên có hai. Đây cũng có hai: 1. Tám hàng, tụng Pháp thuyết. 2. Mười chín hàng, tụng Thí thuyết.

Bên trên Pháp thuyết có ba. Đây cũng có ba: 1. Ba hàng tụng ý thứ nhất: xưa kết nhân duyên. 2. Một hàng, tụng ý thứ hai: trung gian gặp nhau. 3. Bốn hàng, tụng ý thứ ba: ngày nay lại thuyết kinh Pháp Hoa.

Bên trên xưa kết nhân duyên có bốn ý. Đây cũng có bốn: 1. Nửa hàng, tụng Phật nhập định. 2. “Vì vô lượng ức chúng” trở xuống, một hàng rưỡi, tụng chánh thức giảng lại. 3. “Mỗi một vị Sa-di” trở xuống, một hàng, tụng nghe pháp được lợi ích. Lược không tụng ý thứ tư: đức Phật ra khỏi định xưng tán.

Từ “Sau khi Phật diệt độ” trở xuống, một hàng, tụng trung gian gặp nhau.

Từ “Mười sáu Sa-di đó” trở xuống, bốn hàng, tụng ngày nay thuyết kinh Pháp Hoa. Văn trên có hai ý : Kết hợp xưa nay, có hiện tại vị lai. Đây cũng có hai: 1. Ba hàng, tụng kết hợp hiện tại thầy trò. 2. “Do bản nhân duyên đó” trở xuống, một hàng, tụng lại thuyết Pháp Hoa. Văn trên lại có ba ý: Một câu đầu, tụng ý thứ nhất: thời chúng thanh tịnh, do Bản nhân duyên đó mà ngày nay chúng thoát nạn, cơ duyên phát sinh. Ba câu sau, tụng ý thứ hai: vì thuyết kinh này. Lược không tụng ý thứ ba: giải thích ý “khai tam”.

Từ “Thí như đường hiểm dữ” trở xuống, mười chín hàng tụng dụ khai hợp. Đây chia làm hai phần: 1. Mười một hàng rưỡi đầu, tụng khai thí. 2. Bảy hàng rưỡi sau, tụng hợp thí.

Phần Khai thí chia làm hai: 1. Ba hàng, tụng dụ Năm trăm do tuần. 2. Tám hàng rưỡi, tụng dụ dẫn dắt.

Phần dụ tụng Năm trăm do tuần có năm: 1. Một hàng tụng ý thứ hai: đường dữ hiểm nạn. 2. “Vô số ngàn muôn chúng” trở xuống, nửa hàng, tụng ý thứ ba: đám đông người. 3. “Đường đó rất xa vời” trở xuống, nửa hàng, tụng ý thứ nhất: Năm trăm do tuần. 4. “Bấy giờ một đạo sư” một câu, tụng ý thứ năm: Một đạo sư. 5. Từ “Nhớ dai có trí tuệ” trở xuống, ba câu tụng thông tuệ minh đạt. Không tụng ý thứ tư.

Từ “Mọi người đều mỏi mệt” trở xuống, tám hàng rưỡi, phần hai của Khai thí: tụng thí dụ dẫn dắt. Văn trên có ba ý. Đây cũng tụng ba: 1. Hai chữ đầu, tụng ý thứ nhất trên: Muốn dẫn dắt. 2. Từ “Đều mỏi mệt” trở xuống, năm hàng ba câu ba chữ, tụng ý thứ hai: mọi người biếng nhác thoái lui quyền lập Hóa thành. 3. Từ “Đạo Sư biết nghĩ xong” trở xuống, hai hàng rưỡi tụng ý thứ ba: diệt Hóa thành dẫn đến Bảo sở. Phần hai trên có hai ý: 1. Biếng nhác thoái lui. 2. Tiếp dẫn người thoái lui. Đây cũng có hai: 1. Ba câu ba chữ, tụng biếng nhác thoái lui. 2. Năm hàng, tụng làm Hóa thành tiếp dẫn người thoái lui. Trong biếng nhác thoái lui lại có ba, nay lược không tụng ý thứ nhất: giữa đường. Văn trên tiếp dẫn người thoái tác Hóa thành, đây tụng đủ. 1. Một hàng, tụng ý thứ hai: đáng thương bỏ mất Đại thừa. 2. “Liền lại nghĩ phương tiện” hai câu, tụng thứ nhất: nghĩ thế này. 3. “Hóa làm thành quách lớn” trở xuống, hai hàng rưỡi, tụng ý thứ ba: làm Hóa thành. Văn trên lại có hai: 1. Một hàng rưỡi, tụng chánh làm hóa thành. “Các nhà cửa”: là các cảnh Không quán. “Vườn rừng”: rừng pháp vô lậu tổng trì của Nhị thừa. Cửu thứ đệ định là “ sông ngòi”, bát giải là “ao tắm”. “Trùng môn” là Tam không môn. Lại, là Trùng Không Tam-muội, Tận Vô sinh trí, là “lầu gác cao”. “Nam nữ” là định tuệ.

Quán tâm giải thích: Trí thể đầy khắp như “thành hào”, thiện pháp viên mãn đầy đủ như thành ngoài bao vây quách. Tất cánh không là “nhà cửa”. Chân thiện năng thành tự hành, như “nam” tử năng gánh vác gia sự. Từ bi bên ngoài giáo hóa, như “nữ” thích hợp bên ngoài. 2. “Hóa ra thành đó rồi” trở xuống, một hàng, tụng thuyết hóa bên trên. 4. “Mọi người đã vào thành” trở xuống, một hàng, tụng vào thành. 3. “Đạo sư biết nghỉ xong” trở xuống, hai hàng rưỡi, tụng ý thứ ba: diệt Hóa thành đến Bảo sở. Trên văn có hai: 1. Một câu tụng ý thứ nhất: biết nghỉ xong. 2. “Nhóm chúng mà bảo rằng” trở xuống, hai hàng một câu, tụng diệt Hóa thành đẫn đến Bảo sở.

Từ “Ta cũng lại như vậy” trở xuống, bảy hàng rưỡi, là phần thứ hai, tụng hợp hai thí dụ: 1. Nửa hàng, tụng hợp dụ thứ nhất: Năm trăm do tuần. 2. Bảy hàng, tụng hợp dụ thứ hai: dẫn dắt. Phần hợp dụ Năm trăm do tuần bên trên có bốn. Đây nửa hàng, tổng tụng mà thôi!

Từ “Thấy những người cầu đạo” trở xuống, hai hàng tụng hợp thí dụ biếng nhác thoái lui. Trong phần tụng Khai thí bên trên không tụng: giữa đường. Đây một hàng hợp giữa đường biếng nhác thoái lui. Tiếp một hàng, tụng tiếp dẫn người thoái lui, làm Hóa thành.

Từ “Đã biết đến Niết-bàn” trở xuống, năm hàng tụng hợp thí diệt Hóa thành đến Bảo sở. Văn trên hợp có hai ý. Đây tụng cũng có hai: 1. Nửa hàng tụng ý thứ nhất: biết nghỉ xong. 2. Từ “Giờ mới nhóm đại chúng” trở xuống, ba hàng rưỡi, tụng ý thứ hai hợp: diệt Hóa thành dẫn hướng Bảo sở. Trong phần kệ hợp diệt Hóa thành có nghĩa ba đức bí mật tạng: “Ông chứng nhất thiết trí” : Bát-nhã đức. “Đủ ba mươi hai tướng” : Pháp thân đức. “Mới là chân thật diệt” : Giải thoát đức. Ba pháp không dọc không ngang, tức là thấy Phật tánh. Từ “Chư Phật là đạo sư” trở xuống, một hàng, tụng thuận hợp.

Phẩm Thứ 8: NGŨ BÁCH ĐỆ TỬ THỌ KÝ

Phẩm này thọ ký đủ một ngàn hai trăm vị A-la-hán mà chỉ nêu năm trăm, là vì sao? Năm trăm vị được thọ ký danh đồng vì năm trăm vị này trình bày sự lãnh giải, nên dùng nêu tên phẩm. Phẩm này là đoạn thứ hai trong thuyết Nhân duyên. Căn cứ đắc ký có hai:

1. Một ngàn hai trăm.

2. Hai ngàn.

Phần một ngàn hai trăm lại có hai: 1. Thọ ký cho ngài Mãn Nguyện. 2. Thọ ký cho một ngàn hai trăm người.

1. Mãn nguyện lại có hai:

a.Trình bày sự im lặng lãnh giải.

b. Như Lai thuật lại và thọ ký.

-Phần a Trình bày im lặng lãnh giải, lại có hai:

a.1) Hoan hỷ.

a.2) Im lặng lãnh giải. Hoan hỷ lại có hai:

1/ Nguyên do được lãnh giải.

2/ Được lãnh giải hoan hỷ.

Nguyên do được lãnh giải có bốn:

-Nghe hai vòng Pháp thuyết và Thí thuyết, khai tam hiển nhất.

-Thọ ký cho năm đại đệ tử như Thân-tử v.v…

-Lại nghe việc kết duyên đời trước.

-Lại nghe đức Như Lai có ba đức thông đạt vô ngại, thấy biết việc lâu xa cũng như ngày nay, tức là đại tự tại thần thông lực, khác hẳn Nhị thừa chỉ thấy đến tám vạn kiếp. “Từ nơi đức Phật nghe trí tuệ”: lãnh giải được cái ý hiển Thật trong phẩm Phương Tiện và dụ Nhà lửa. “Phương tiện tùy cơ nghi nói pháp như thế” lãnh giải được hai chỗ khai quyền. Nghe “Các vị đại đệ tử” thì lãnh giải khai quyền. Nghe “Thọ ký Bồ-đề” thì lãnh giải hiển thật. Nghe “Nhân duyên đời trước” thì lãnh giải hiển thật. Nghe “thần thông lực” thì lãnh giải khai quyền.

Từ “Được điều chưa từng có” trở xuống : trình bày được lãnh giải hoan hỷ. Trước nêu bên trong thì lãnh giải hoan hỷ, tiếp nêu bên ngoài thì cung kính. Do xưa chưa nghe khai Quyền hiển Thật mà nay được nghe, cho nên nói “được điều chưa từng có”. Trừ ái Niết-bàn, đoạn phá Biệt hoặc, cho nên nói “tâm tịnh”. Khai mở tri kiến Phật, nên nói “hớn hở” (dũng dược). Được hiểu biết là nhờ Phật, cho nên khởi cung kính.

Nếu căn cứ bản tích, thì vui mừng các việc thật hành.

Từ “Mà nghĩ thế này” trở xuống: chính nêu rõ im lặng lãnh giải. Ban đầu, nêu im lặng suy nghĩ lãnh giải, tiếp theo, nêu im lặng cầu phát tích thỉnh thọ ký. Các vị được ngộ ở hai vòng bên trên đều phát ra lời lãnh giải, đây vì sao im lặng suy nghĩ? Trên vì hạ căn chưa ngộ sự, cần phải nói rõ để khuyến động. Nay hạ căn đã ngộ, thì không có đối tượng để khuyến động, cho nên im lặng không nói. Lại, từ trước chỉ lãnh giải không cầu phát tích, cho nên nói thì không nghi ngờ. Nay thì cũng hiểu cũng phát. Cũng hiểu cho nên suy nghĩ, tránh người chế giễu cho nên im lặng, im lặng suy nghĩ chánh đáng thích hợp. Lại, im lặng suy nghĩ lãnh giải là đại lãnh giải, như ngài Tịnh Danh im lặng là chân nhập pháp môn bất nhị. Lại, Quyền Thật bất khả tư nghì, chẳng nói chẳng nghĩ mà nói mà nghĩ. Chẳng nói mà nói, cho nên bên trên thì khẩu trình bày lãnh giải. Chẳng nghĩ mà nghĩ, cho nên ở đây im lặng suy nghĩ lãnh giải. Trên vì sao không cầu phát tích? Vì hạ căn chưa ngộ cho nên không cầu phát tích, nay hạ căn đã hiểu, quyền hóa sự đầy đủ. Nếu hạ căn phát tích thì biết trung căn thượng căn cũng quyền, nếu căn cứ trung thượng thì đối với hạ không tiện.

“Đức Thế Tôn rất kỳ diệu đặc biệt, việc làm ít có”: lãnh Thật trí. “Tùy thuận thế gian bao nhiêu chủng tánh… mà vì đó nói pháp”: lãnh Quyền trí, đó là căn tánh của bảy thứ phương tiện. Đây là lãnh ý “khai Quyền hiển Thật” trong phẩm Phương Tiện. “Cứu vớt chúng sinh ra khỏi các chỗ tham trước”: lãnh ý “khai Quyền hiển Thật” trong dụ Nhà lửa. “Chúng con đối với công đức của Phật, không thể dùng ngôn ngữ tuyên bày được”, tức lãnh ý “Đức Như Lai có vô lượng công đức các ông không thể sánh kịp” trong phẩm Dược Thảo Dụ. Đã nói không thể tuyên bày cũng suy nghĩ không sánh bằng. Từ “Chỉ có đức Phật Thế Tôn mới hay biết” trở xuống: im lặng suy nghĩ cầu phát tích thỉnh thọ ký. “Chúng con”: nói chung mọi người suy nghĩ thỉnh phát tích. “Thâm tâm” là bản, hiện tại tạo tác là tích. “Bản nguyện” là đại từ thệ nguyện. Đại từ hạ hóa chúng sinh cho nên ta thệ, thượng cầu làm Phật cho nên ta nguyện. Thỉnh thượng cầu tức là cầu thọ ký, thỉnh thuyết hạ hóa tức là cầu phát tích. Lại, dựa theo “thâm tâm” cho nên nói “ba đời trợ giúp Phật tuyên bày giáo hóa”, dựa theo “bản nguyện” cho nên liền thọ ký cho.

Từ “Đức Phật bảo” trở xuống là đức Như Lai thuật và ký, có văn trường hàng và kệ tụng. Trường hàng có hai phần: 1. Thuật bản tích. 2. Thọ ký.

– Thuật có ba: a) Hành nhân phát tích vào thời đức Thích-ca. b) Hành nhân hiển bổn vào thời Phật quá khứ. c) Tu nhân hành mãn, ở nơi chư Phật ba đời.

Phần một: Hành nhân phát tích vào thời đức Thích-ca, lại có ba phần: a.1) Chỉ cho chúng biết người kia. a.2) Tổng nêu chương bản tích. a.3) Biệt giải thích bản tích.

Phần 1: Chỉ cho chúng biết người kia. Nói “Các ông thấy… chăng?” Có hai ý: a1.1) Thấy tích kia là Tiểu chăng? a.1.2) Thấy bản công đức kia chăng? Mọi người chỉ thấy tích là Thanh văn, mà không thể biết bản là Bồ-tát cho nên nói “thấy chăng?”. Từ “Ta thường khen ông” trở xuống, là phần hai

Tổng nêu Bản Tích. Trong Tích môn là bực nhất trong hàng người thuyết pháp. Nếu chẳng phải pháp thân diệu bản, thì không thể thùy tích thù thắng đệ nhất. Xưa nay chỉ nói trong tích là thuyết pháp đệ nhất. Đây thì không như vậy, đối với pháp vô thượng thì từ lâu đã được đệ nhất, đây là nêu tích để hiển bản. Từ “Cũng thường khen các thứ công đức” trở xuống là nêu bản địa kia. Phước Tuệ vạn hạnh pháp môn, nên gọi “chủng chủng”. Bản địa đã có chủng chủng pháp môn, vì sao chỉ cần Tích là nhị thừa? Đây là nêu bản để rõ tích. Từ “Siêng năng hộ trì” trở xuống là phần 3. Biệt giải thích “Trợ giúp tuyên bày pháp của ta”: trong Tích môn trợ giúp tuyên bày pháp “bán, mãn”. Tích vì hạ căn Thanh văn, tức là hộ trì tuyên bày pháp Lạc vị. Tích tại Phương Đẳng chỉ bày thọ “quở trách” tức là hộ trì trợ giúp tuyên bày pháp Sinh tô. Tích lãnh Bát-nhã, tức là hộ trì tuyên bày pháp Thục tô. Tích tại Pháp Hoa đắc ngộ tức là hộ trì trợ giúp tuyên bày pháp Đề-hồ .

Trên trong phần tổng nêu bản địa nói: “Ta thường khen các thứ công đức của ông” tức là ý đây vậy. Đầy đủ công đức quyền thật, mà tích khởi năm vị, trợ giúp đức Phật điều phục chúng sinh thuần thục thật hành, há chẳng phải ý tinh cần trợ giúp tuyên bày ? Biệt giải thích công đức Tích : “Có thể chỉ dạy lợi ích bốn chúng”: phân biệt Bán tự giáo. “Giải thích đầy đủ”: Trợ giúp tuyên bày mãn tự Bát-nhã giáo. “Mà làm nhiều lợi ích”: Là trợ giúp Phật làm lợi ích chúng sinh bán mãn. “Cùng đồng phạm hạnh”: là đệ tử được giáo hóa độ bán mãn trong Tích môn. Từ “Ngoài đức Như Lai ra” trở xuống, là biệt thuật bản địa công đức. “Ngoài ra”: sau Diệu Giác trở đi. “Không ai có thể biết”: bảy thứ phương tiện.

Từ “Các ông chớ cho rằng chỉ hay hộ trì trợ tuyên pháp của ta thôi” trở xuống : hiển bản hạnh của Mãn Từ Tử vào thời Phật quá khứ. Chẳng phải chỉ trực tiếp ở chổ ta trợ giúp tuyên bày pháp bán mãn, mà ở chỗ chư Phật lâu xa cũng lại trợ tuyên pháp bán mãn. Coi việc ngày nay trợ giúp tuyên bày là phát Tích, coi quá khứ trợ tuyên là hiển Bản. Hiển Bản có hai: 1. Bản xa. 2. Bản gần. Bản xa: xa tít vì khó tin tốt, nên lược không thuật, Bản gần chỉ nêu chín mươi ức Phật. Có Túc mạng trí thì có thể biết Bản gần, cho nên nêu gần để chứng minh xa. Căn cứ văn chín mươi ức, đủ nêu trợ Phật tuyên dương giáo ngũ vị điều phục chúng sinh thuần thục. “Hộ trì trợ tuyên”: nghĩ trợ giúp tuyên bày pháp bán tự ví như vị lạc. “Chánh pháp của Phật”: nghĩ trợ giúp tuyên bày pháp Phương Đẳng ví như vị Sinh tô. “Lại ở pháp Không thông suốt rõ ràng”: nghĩ trợ tuyên pháp ví như vị Thục tô. Như nay Phật chuyển giáo thuyết Bát-nhã, nêu lục Ba-la-mật xen nhau thâu nhiếp phát huy không ngăn ngại. Ở nơi chín mươi ức Phật, cũng trợ giúp đức Phật tuyên dương chánh pháp như nay không khác. “Người đời thuở đức Phật đó đều gọi ông thật là Thanh văn”, thời ấy vì chưa phát tích, chỉ nói được gia bị thêm sứ mệnh chuyển Bát-nhã, không nói là đại Bồ-tát. “Lại giáo hóa vô lượng chúng sinh khiến trụ đạo vô thượng chánh giác”: trợ giúp tuyên bày pháp ví như vị Đề-hồ, tại văn có thể hiểu…

Từ “Cũng đặng bậc nhất trong hàng nói pháp thời bảy đức Phật” trở xuống tu nhân ở chổ chư Phật ba đời, như văn. Đây cũng như trước trợ tuyên pháp bán mãn ngũ vị, làm lợi ích Đại thừa, Tiểu thừa.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10