VĂN CÚ KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

SỐ 1718

QUYỂN 02

Đời Tùy, Thiên Thai Trí Giả Đại sư thuyết

(Phần Thượng)

“Kiều-phạm-ba-đề”: Trung hoa dịch là Ngưu Ti. Kinh Vô Lượng Thọ gọi là Ngưu Vương. Kinh Tăng Nhất gọi là Ngưu Tích. Năm trăm đời trước ngài từng là Ngưu Vương, trâu sau khi ăn thường nhai khống, do dư báo chưa hết nên miệng thường mấp máy người đời gọi là Ngưu Ti. Kiếp xưa, có năm trăm con chim nhạn, có một con thường cung phụng hoa quả đối với nhạn vương. Vào một mùa hạ Đức Phật thọ thỉnh của A- kỳ-đạt-vương, năm trăm Tỳ-kheo đều ăn lúa ngựa, nhưng riêng Kiều-phạm ở trên vườn Thi-lợi-sa cõi trời thọ sự cúng dường của thiên vương. Kinh Tăng Nhất A-hàm nói: “Ưa ở cõi trời, không ưa ở nhân gian, thì Tỳ-kheo Ngưu Tích là đệ nhất”. An vui ở cõi trời là tùy lạc dục, là nghĩa Thế giới Tất-đàn. Cúng dường Nhạn vương được phước báo đến vậy, là nghĩa Vị nhân Tất-đàn. Tránh người thế gian chê cười, là nghĩa Đối trị Tất-đàn. Cõi trời không cười, là Đệ nhất nghĩa Tất-đàn… Lại nói người đời chỉ xem thấy hình dáng bên ngoài mà không biết có đức bên trong, nếu cười khinh La-hán tức mắc tội. Để tránh người đời cười chê hình dáng kia, nên ngài thường ở cõi trời. Cõi trời biết có đức nên không cười chê, cho nên ngài thường ở cõi trời. Sau khi Đức Phật diệt độ, ngài Ca-diếp vân tập một ngàn đại A-la-hán thì thiếu sót một Tăng hạ tòa, nên sai sư đi thỉnh Kiều-phạm-ba-đề, Kiều-phạm-ba-đề hỏi: Phật và Hòa thượng còn không? Đáp: Đều đã diệt độ, Kiều-phạm nói: “Đức Phật ra đời, tôi ra đời. Phật ở đời, tôi ở đời, nay Phật diệt độ, tôi cũng diệt độ. Tứ chúng nên như bốn dòng nước chảy về Ngài Đại Ca-diếp”, và thuyết kệ rằng:

“Đấng Voi chúa đã đi
Voi con cũng theo đi
Đấng Thế Tôn đã diệt
Tôi ở lại làm gì?”

Căn cứ về giáo: An trú vườn ở cõi trời là chỉ bày điều thiện, miệng nhai như trâu là chỉ điều ác, đó là ý của Tam tạng. Miệng nhai như trâu, thân được đắc đạo, đây là chỉ điều ác mà chẳng phải ác, ở trên cõi trời mà nhai chỉ điều thiện mà chẳng thiện,đó là ý của Thông giáo. Chỉ trong thiện ác trong ngoài cõi, là ý của Biệt giáo. Chỉ thật tướng của thiện ác, là ý của Viên giáo.

Bản Tích: Bản, trụ bốn Vô sở úy, an trụ nơi thánh chủ như Ngưu vương đệ nhất nghĩa. Tích, là chỉ bày Ngưu Ti ưa ở cõi trời.

Quán tâm: quán lý trung đạo nơi tâm tánh, an nhiên bước trên đất phóng nhanh như gió, tức quán ngưu vương.

“Ly-bà-đa” cũng gọi là Ly Việt, Trung hoa dịch là Tinh Tú hoặc Thất Tú hoặc Giả Hò a Hiệp, Kinh Văn-Thù Vấn gọi là Thường Tác Thanh (Thường lên tiếng). Cha mẹ ngài cầu khẩn tinh tú mà sinh ra ngài, nên cảm ân đức đó mà đặt tên ngài là Tinh Tú. Tuy được xuất gia, nhưng giữ tên cũ. Giả Hòa Hợp: Có người dẫn Thích luận giải thích: Một hôm hành hóa lỡ đường, ngài vào trong đình nghỉ qua đêm, thấy có hai con quỉ tranh nhau thây chết, chúng thấy ngài và nhờ phân xử. Dù y theo lý hay không cũng vô ích, đều không tránh khỏi sự tai hại, cho nên ngài theo sự thật mà đáp. Đại quỉ bẻ tay chân ngài, tiểu quỉ bẻ tay người chết bù vào… cứ như vậy ăn xong lau miệng mà đi, nhân đó mà ngài buồn phiền không so sánh biết được là thân ai, nên gọi Giả Hòa Hợp. Thường tác thanh: Tức nghi việc này, nếu bản thân ta thì tận mắt thấy bị bẻ bỏ, nếu là thân người khác sao lại theo ta đi đứng, đang nghi hoặc, còn do dự thì gặp người liền hỏi: “Ông thấy thân tôi không?” Cho nên nói là Thường Tác Thanh, Chúng Tăng nói: “Người này dễ độ”, rồi nói tiếp: “Thân ông vốn là thân thể người khác sót để lại, chứ chẳng phải mình có”, nghe xong liền đắc đạo. Kinh Tăng Nhất nói: “Người tọa thiền nhập định, tâm không điên đảo, thì đệ nhất là Ly Việt Tỳ-kheo”.

Căn cứ về giáo: Phá bẻ ngũ ấm không có ngã sở hữu là ý của Tam tạng. Thể đạt ngũ ấm vốn chẳng phải ngã hữu, là ý Thông giáo. Phân biệt ngũ ấm của mười pháp giới đều không phải mình có, là ý của Biệt giáo. Thông đạt ngũ ấm chẳng phải ngã hữu chẳng phải tha hữu, kiến ấm thật tướng, tức ý của Viên giáo. Bản Tích: Bản, trú nhật tinh tú Tam-muội. Tích nêu bày danh này. Quán tâm: Quán tâm niệm Phật thấy nhiều Đức Phật trong mười phương, như ban đêm thấy sao…

“Tất-lăng-già-bà-ta”, Trung hoa dịch là Dư Tập. Vốn năm trăm đời là Bà-la-môn, tính khí còn kiêu ngạo, đi khất thực thường qua sông Hằng lấy tay chỉ quát: “Con nhãi ranh kia hãy dừng chảy!”, thì dòng nước tách làm đôi. Thần sông Hằng đem chuyện này báo cáo với Phật, Phật bảo phải sám hối, Tất-lăng liền chấp tay nói: “Thần sông Hằng! Con nhãi ranh kia đừng có giận nữa!” Đại chúng cười ầm lên, nói “đã xin lỗi lại còn mắng nữa”. Phật bảo: “do tập khí ngày xưa dòng Bà-lamôn còn sót lại, chứ xin lỗi thật không có tâm kiêu mạn nữa”. Kinh Tăng Nhất nói: “Ngồi dưới gốc cây khổ tu, không ngại mưa gió, là Bà- ta Tỳ-kheo”.

Căn cứ về giáo: Diệt mạn không còn mạn, là ý của Tam tạng. Tức mạn mà không có mạn, là ý của Thông giáo. Phân biệt sự cao thấp trong mười pháp giới là ý của Biệt giáo. Tám tự tại ngã đầy đủ Phật pháp, là ý của Viên giáo. Bản Tích: Bản, trụ thường lạc ngã tịnh tám tự tại ngã.Phạm âm vi diệu. Tích, nêu bày tâm mạn khẩu ác. Quán tâm: quán lời nói thô diệu đều qui về Đệ nhất nghĩa…

“Bạc-câu-la”: Trung hoa dịch là Thiện Dung, hoặc Vĩ Hình, hoặc Đại Phì Thạnh, hoặc Nhu Nan, hoặc Lăng Đặng, hoặc Mại Tánh. Vì sắc mạo đoan chánh, cho nên gọi là Thiện Dung, ngài thọ một trăm sáu mươi tuổi, không hề bị bệnh không chết yểu. Có năm phước báo cho nên không chết yểu: Sau khi mới sinh hiện tướng lạ, mẹ thử đem để trên bàn ram nướng cho chết mà không chết. Lại, đem thả giữa sông cá nuốt, cá bị người bắt lấy dao mổ bày ngài ra ngoài mà không chết… Do đời trước giữ giới không sát sinh nên chín mươi mốt kiếp được sống lâu không chết yểu, do xưa từng cúng trái A-lê-lặc cho một vị tăng có bệnh, nên quả báo thân thường không bệnh, có thể giữ trì một giới thì bốn giới trang nghiêm, kiên trì không phạm không tránh nước lửa, những người khác tuy trì năm giới mà phần nhiều hủy phạm… Lại, ưa ở chỗ vắng lặng, không ưa ở trong chúng, mắt không ưa nhìn thấy các màu sắc… tai không ưa nghe âm thanh thế giới, mũi không ưa ngửi mùi thơm hôi thế gian, lưỡi chưa từng vì người thuyết một đôi ngữ, ý thường trong thiền định không tán loạn, cho đến tháp Xá-lợi của Ngài cũng ưa để chỗ nhàn tịnh, A-dục Vương lễ tháp của các bậc La-hán tiếp đến lễ tháp của ngài và nói kệ rằng: “Lúc còn ở đời tu ở chỗ vắng, rèn đức vô minh ít có lợi ích cho đời”, và cúng hai mươi cái bảo bối. Kinh Tăng Nhất nói:Vua cúng thí xong,thì tiền và bảo bối từ trong tháp bay ra theo dính chân của vua.Các đại thần thấy thế kinh ngạc. Vua nói: “Lúc Tôn giả còn ở nhân gian ưa ở một mình nơi vắng, thiểu dục, cho đến nay tháp của ngài vẫn còn có lực như vậy,” Kinh Tăng Nhất nói: “Thọ mạng rất lâu dài, trọn không chết yểu, thường ưa ở nơi vắng lặng, không ưa ở trong chúng, thì Bạc-câu-la là đệ nhất”.

Căn cứ về giáo: Diệt ồn ào nhập Chân là Tịch tịnh theo Tam

tạng giáo. Tức huyên náo mà Chân, là Tịch tịnh theo Thông giáo. Lìa nhị biên nhập Trung, là Tịch tịnh theo Biệt giáo. Tức biên mà Trung, là Tịch tịnh theo Viên giáo. Bản Tích: Bản, trụ nơi đại định tịch diệt, thọ mạng lâu dài là “thường”, không bệnh là “lạc”, không chết yểu là “ngã”, tịch tĩnh là “tịnh”, Bản ở nơi bốn đức này. Tích, thị hiện lục căn tịch tịnh. Quán tâm: Tâm tánh trung đạo, tức Không tức Giả tức Trung, là quán thường lạc ngã tịnh.

“Ma-ha-câu-ly-la”: Trung hoa dịch là Đại-tất, cậu của Xá-lợiphất, nguyên do luận hơn chị nhưng đối với bào thai không hơn, biết đứa trẻ trong bào thai mà trí tuệ còn như vậy huống chi khi ra khỏi bào thai… liền bỏ nhà đến Nam Thiên Trúc, đọc thông mười tám kinh. Người thời ấy cười ngài cho rằng: “nhiều kiếp khó thông, một đời chẳng xuể”. Ngài bùi ngùi than rằng: “Ở nhà thì thua chị, ra đường thì bị người khác khinh”. Ngài thề gắng học đọc hết sách kinh, đến nỗi không nhàn rỗi để cắt móng tay, nên người thời ấy gọi ngài là Trường Trảo Phạm Chí. Học xong trở về nhà hỏi cháu đã được sinh và ở đâu? Mọi người nói hiện làm đệ tử Phật, liền sinh tâm kiêu mạn nói cháu ta tám tuổi tài giỏi danh vang khắp năm nước Thiên Trúc, Sa-môn kia có đạo thuật gì mà dụ dỗ cháu ta? Bèn đi đến chỗ Phật. Suy nghĩ hồi lâu, không đắc một pháp nhập tâm nào, mới nói với Phật rằng: “Tất cả pháp không nhẫn, nhẫn tức là nghĩa an. Đây nói tất cả pháp ta đều phá khiến không được an, cho nên nói tất cả pháp không nhẫn”. Đức Phật hỏi: “Ông thấy là nhẫn hay không?” Ông rơi vào chổ lưỡng phụ (hoàn toàn bị thua): “nếu ta thấy nhẫn, thì trái với trước đã nói tất cả pháp không nhẫn, nếu ta thấy không nhẫn thì không thể hơn Phật”, liền cúi đầu đắc pháp nhãn tịnh. Thân-tử đứng hầu Phật, nghe câu biện luận, liền đắc quả A-la-hán. Kinh Tăng Nhất A-hàm nói: “Đắc Tứ biện tài gặp nạn vấn có thể đáp ngay, đệ nhất là Câu-hy-la. Thiên vương ở phương Nam tên Tỳ-lưubặc-xoa thường theo hầu ngài”.

Ước về giáo: Ngoài thông bốn bộ kinh Vi-đà, trong thông Tam tạng là Tam tạng tứ biện tài. Ngã vô sở đắc nên biện tài mới như vậy, là Thông giáo biện. Hoặc danh hoặc nghĩa khắp mười pháp giới, là Biệt giáo biện. Y nơi thật tướng biến khắp tất cả, là Viên giáo biện.

Bản Tích: Bản, trụ nơi khẩu mật khẩu luạn bất tư nghì giáo hóa đại định đại tuệ. Tích, thị hiện làm Đại Tất. Quán tâm: Quán tâm tức Không tức định, tức Giả tức tuệ, để trang nghiêm tâm kia…

“Nan-đà”: Cũng gọi là Phóng Ngưu Nan-đà, Trung hoa dịch là Thiện Hoan Hỷ, cũng dịch Hân Nhạo. Vua Tịnh Phạn bắt ép mười vạn người thuộc dòng họ Thích xuất gia, ngài là một người trong số đó. Có sư nói là Bạt-nan-đà trong Luật vậy.

Căn cứ về giáo: thì sự hoan hỷ, lý không hoan hỷ, là ý của Tam tạng. Tức sự hoan hỷ là lý hoan hỷ là ý của Thông giáo. Hoan hỷ địa, tức là ý của Biệt giáo. Hoan hỷ trụ, tức là ý của Viên giáo.

Bản tích: Bản, trụ nơi thật tế, chẳng phải hỷ, chẳng phải không hỷ. Tích, gọi là Hoan hỷ. Quán tâm: Quán tâm cùng lý tương tự tương ưng, nên gọi là Hoan hỷ quán.

“Tôn-đà-la Nan-đà”: Tôn-đà-la, Trung hoa dịch là Hảo Ái, cũng là Đoan Chánh. Nan-đà như trước nói. Dòng họ: Như Ngài A-na-luật. Ngài ở trong thai mẹ bốn tháng chín ngày thì sinh, người thấp hơn Phật bốn ngón tay, dung nghi đĩnh đạc đặc biệt, rất khác với đời, Nếu đi vào trong chúng thì có người không biết, tưởng là Đức Phật đến. Luật Sadi-tắc nói: Ở nước Ma-kiệt có ngoại đạo loả thân, rất thông minh người trong nước gọi là trí giả kiến giả, cùng với Thân-tử luận nghị rất hợp, nảy sinh thiện tâm, muốn ở trong Phật pháp xuất gia, thấy Nan-đà diện mạo tuyệt đẹp như thiếu nữ liền khen rằng: Tỳ-kheo nhỏ bé trí tuệ khó lường huống chi là đường tăng tướng ư! Nan-đà liền độ cho xuất gia. Vợ của Ngài Nan-đà là Tôn-đà-lợi rất đoan chánh, hai người khi ăn, khi ngủ không hề xa nhau, một hôm Đức Phật cùng A-nan đi khất thực đến trước cửa nhà, ông cùng vợ ngồi trên lầu cao ăn cơm, thấy Đức Phật liền đứng dậy nghinh tiếp, người vợ nói đợi chồng về cùng ăn. Nan-đà bạch Phật rằng: Chuyển luân vương tại sao tự làm nhục dòng họ? Nói rồi cầm bát của Phật lấy thức ăn. Đức Phật liền trở về vườn Ni-câu lại bảo A-nan sai Nan-đà dâng thức ăn đến. A-nan truyền lời Phật dạy khiến Nan-đà dâng cơm hầu Phật. Phật sai chúng giữ lại và cho cạo đầu, bằng không thì phải cầm dao đến cạo đầu cho vua Diêm-phù-đề. Nan-đà đành chịu để cạo đầu. Sáng ngày Đức Phật cùng Đại chúng năm trăm Tỳ-kheo đi ăn theo lời thỉnh của đàn việt, Nan-đà xin ở lại giữ chùa ý muốn trốn đi, Đức Phật chấp thuận và dặn đóng cửa phòng quét đất. Khi đóng cửa phía Nam quét rồi, liền mở cửa phía Bắc để quét, quét xong thì cửa phía Nam lại rác rưởi dơ bẩn như cũ. Lại sợ Đức Phật về, ngài liền trốn trở về nhà, không may giữa đường gặp Phật, liền núp sau thân cây. Đức Phật hiện hóa cây bay lên hư không, thấy ngài liền gọi và đem về Tinh xá. Đức Phật hỏi: Vì sao bỏ đi? Nan-đà đáp: Đang cùng vợ ăn, nay sợ vợ chờ nên trở về cùng ăn và vì nhớ đến vợ. Đức Phật liền đem Nan-đà dạo khắp trên cõi trời rồi xuống địa ngục… cho nên đem vợ để nêu lên.

Ước về giáo: Tục đế có pháp hỷ, Chân đế không có pháp hỷ, đó là Tam tạng giáo. Hỷ Tục đế tức hỷ Chân đế, đó là Thông giáo. Từ Thông pháp hỷ mà có Tục pháp hỷ và Trung pháp hỷ, đó là ý Biệt giáo. Tức Thông hỷ đầy đủ hết thảy pháp hỷ, đó là ý của Viên giáo. Bản tích và Quán tâm, như trước nói…

Phú-lâu-na, dịch là Mãn Nguyện. Di-đa-la dịch là Từ. Ni là nữ, cha ngài ở sông Mãn cầu đảo mà sinh ra con, chính ở sông này lại mộng thấy bảy báu, đựng đầy báu vào trong lòng mẹ, mẹ mang thai con, cha được mãn nguyện, do cầu thỉnh nguyện đầy đủ cho nên nói Mãn Nguyện. Mẹ tên Di-đa-la-ni, Trung hoa dịch là Từ Hạnh, cũng gọi là Tri Thức. Trong bốn bộ kinh Vi-đà có phẩm tên ấy mà người mẹ thường tụng, nên lấy đó đặt tên con. Ni là nữ , gọi chung nữ là “ni”, gọi nam là “na”, đã là từ chỗ Từ sinh ra cho nên nói Từ Tử. Kinh Tăng Nhất nói: Cha ta tên Mãn, mẹ ta tên Từ, các người phạm hạnh gọi ta là Mãn Từ Tử. Đây là theo hai duyên của cha mẹ, nên nói Mãn Từ Tử. Người này khéo giỏi biết hiểu hết kinh sách nội ngoại, không gì là không biết, hiểu biết đầy đủ cho nên gọi là Mãn. Kinh Tăng Nhất nói: “Có khả năng diễn thuyết rộng, phân biệt nghĩa lý, đệ nhất là Mãn Từ Tử.” Văn dưới nói: “Là người thuyết pháp đệ nhất”. Ngài muốn trở lại bản quốc làm lợi ích, nên Phật dạy: Nước kia xấu ác ông phải làm sao? Đáp: “Con sẽ tu nhẫn. Nếu họ hủy nhục con thì con vẫn thấy may mắn vì họ chưa nặng tay đánh đập con. Nếu họ nắm tay đánh con, thì con vẫn thấy may mắn vì họ chưa lấy roi gậy đánh đập con. Nếu họ dùng roi gậy đánh, thì con vẫn thấy may mắn vì họ chưa dùng đao búa đâm chém con. Nếu họ dùng đao búa đâm chém con,thì con vẫn thấy may mắn vì họ đã giết sắc thân ngũ ấm của con”. Đó gọi là hành nhẫn đầy đủ cho nên gọi tên là “Mãn”. Trong Kinh Thất Xa Dụ Thuyết, Đại trí Xá-lợi-phất đã xưng tán ngài rằng: “Tất cả những người tu phạm hạnh đều tôn trọng vây quanh đảnh lễ ông. Nếu thấy ông, thì họ được lợi ích lớn”. Đó là khen ngợi đầy đủ, cho nên gọi tên là “Mãn”.

Căn cứ về giáo: Ân cần phân tích pháp, việc làm đã xong,đó là Tam tạng nguyện mãn. Thể đạt tức Không, nơi pháp Không mà chứng đắc, là Thông giáo nguyện mãn. Pháp nhãn đầy đủ, là Biệt giáo nguyện mãn. Trụ nơi bí mật tạng, là Viên giáo nguyện mãn. Bản tích: Bản nguyện từ lâu đã mãn. Tích, là thuyết pháp đệ nhất, chỉ bày cho chúng sinh hiểu biết. Quán tâm: Quán lý Nhân hạnh v.v… trong chỉ quán, tức quán Thiện tri thức.

“Tu-bồ-đề”, Trung hoa dịch là Không Sinh. Khi sinh ngài thì đồ đạc đầy dẫy trong nhà tự nhiên biến mất, thảy đều trống không, hỏi thầy bói xem thì họ nói đây là điềm lành, nhân Không mà sinh, cho nên đặt tên là “Không Sinh”. Do y báo,tức là trong nhà đồ đạt trống không, mà đặt tên cho chánh báo. Y chánh đều tốt lành, cho nên nói không sinh. Thường tu Không hạnh, cho nên gọi “Thiện nghiệp”. Như cúng dường được quả báo hiện tại, nên gọi “Thiện Cát”. Thường ưa du hành, ở nơi hang đá rừng cây yên tịnh, sự tu hành nghiệp lấy “Không” làm gốc, thường nhập Không định, trú Vô-tránh Tam-muội, ưa thuyết pháp Không, nếu tuyên thuyết thì đều phân biệt Không, hộ chúng sinh khiến không ngăn ngại, không ưa hành thì trụ, không ưa trụ thì hành. Đức Phật ở cung trời Đao-lợi xuống, trong khi mọi người vây quanh tranh nhau đón Phật đảnh lễ, thì ngài ngồi ngay ngắn trong hang đá, quán niệm các pháp Không, “sắc” chẳng phải Phật cho đến “thức” chẳng phải Phật, “mắt” chẳng phải Phật, cho đến “ý” chẳng phải Phật, mà bỗng nhiên ngộ đạo. Tỳ-kheo Liên Hoa Sắc tưởng mình là người đến đón Phật trước nhất, Phật bảo Liên Hoa Sắc : “Chẳng phải ngươi đảnh lễ ta trước, ngươi chỉ đảnh lễ sắc thân ta, nếu lễ pháp thân ta thì chính Tu-bồ-đề trước”.

Căn cứ Giáo: Từ có diệt sắc mà Không trí phát sinh, thể sắc mà Không trí phát sinh. Từ Hữu trí mà sinh Không trí, từ Không trí mà sinh Tục trí, từ Tục trí sinh Trung trí. Không sinh tức Hữu trí, đó là theo Viên giáo mà nói Không trí sinh. Đây là Không trí sinh theo nghĩa của Viên giáo. Bản tích: Bản, trú nơi pháp thân thật tướng. Tích, thị hiện Không mà sinh. Quán tâm: Chẳng tại trong, ngoài, trung gian, chẳng tự có, đó gọi là quán tâm pháp thân.

“A-nan” Trung hoa dịch là Hoan hỷ, hoặc Vô Nhiễm. Vua Tịnhphạn hy vọng Thái tử làm Kim luân bá chủ tông miếu xã tắc, bỗng nhiên ngài bỏ nước, vua lo buồn tuyệt vọng, ma đến nói dối là “con ông đã chết”. Vua khóc lóc than: “A-di (tên A-tu-đà) đã nói con ta có tướng tốt, lời nói ấy không hiệu nghiệm sao?” Lại có trời đến nói: “con ông thành Phật”, vua nghi ngờ chưa rõ, trong chốc lát lại có tin báo đêm qua trời đất chấn động bởi vì Thái tử thành đạo, vua rất vui mừng. Bạch Phạn vương tâu vừa mới sinh con, nước đã vui lại có thêm tin vui, nhân đó đặt tên là “Hoan hỷ”, đó là do cha mẹ đặt tên. A-nan diện mạo khôi ngô đoan chính mọi người thấy đều ưa thích. Sau theo Phật xuất gia Đức Phật sai đắp y che vai. Một hôm, có một cô gái dẫn đứa bé đến giếng múc nước, thấy A-nan mắt nhìn không rời, bất giác cầm dây gàu quấn cổ đứa bé… Kinh Trung A-hàm nói bốn chúng nếu nghe A-nan thuyết hoặc nhiều hoặc ít, đều rất hoan hỷ, muốn nói hỏi gì trước hết cười vui vẻ làm cho đại chúng đều rất hoan hỷ. Bốn chúng nếu thấy ngài dù là im lặng đi đứng nằm ngồi hay chỉ bảo phân chia chỗ tiến dừng, động chuyển thì cũng đều rất hoan hỷ. A-nan sinh ngày tám tháng tư, đúng ngày Đức Phật thành đạo. Sau khi xuất gia làm thị giả Đức Phật được hai mươi lăm năm, lúc ấy Đức Phật đã năm mươi lăm tuổi, A-nan lúc đó hai mươi lăm tuổi. Đức Phật muốn tìm người thị giả, năm trăm Tỳ-kheo thỉnh Phật vì như trước đã nói Đại chúng khuyên A-nan, A-nan thuận theo, năm trăm Tỳ-kheo đều hoan hỷ, Mục Kiền Liên có hơi ganh, A-nan bèn xin ba điều kiện, Đức Phật vì biết có sự cơ hiềm, nên chấp thuận cho:

  1. Không thọ nhận y cũ và thức ăn của Phật.
  2. Muốn tự lợi ích.
  3. Ra vào không thời gian qui định.

Đây là ba điều kiện A-nan cầu xin. Phật nói A-nan trong quá khứ đã làm thị giả, cho ta, nghe ta nói đều hiểu nhớ không quên, nay Phật chưa phát ra lời mà A-nan đã hiểu ý của Như Lai, việc gì cần hay không cần A-nan đều hiểu biết, cho nên Đức Phật đem pháp giao phó cho A-nan, Phật rất hoan hỷ. Tứ Thiên Vương mỗi vị đều cúng dường bát cho Đức Phật, Đức Phật gộp lại đè xuống thành một bát, bốn gộp một hẳn nhiên bát nay rất nặng, A-nan hoan hỷ giữ gìn không mệt mỏi. Kinh Trung A-hàm quyển hai mươi bảy nói A-nan hầu Phật hai mươi lăm năm, nghe tám mươi ngàn kiền-độ đều đọc tụng không sót, không hỏi lại một câu, niệm lực hoan hỷ. A-nan theo Phật vào cõi Trời người, Long cung, thấy Thiên nữ, người nữ, long nữ mà tâm không đắm nhiễm, tuy chưa diệt tận tư hoặc nhưng không bị đắm nhiễm, hết thảy nhân thiên long thần đều hoan hỷ. Sau khi Đức Phật diệt độ, A-nan ở trên tòa Sư tử, Ca-diếp và Đại chúng khen rằng:

Mặt như trăng thu tròn đầy
Mắt xanh biếc tựa hoa sen
Phật pháp rộng như biển cả
Đều rót vào tâm A-nan.

Đến đúng thời, A-nan nhập Niết-bàn trên không trung giữa dòng sông Hằng vì sợ hai nước gây chiến, sợ giữa Tỳ-xá-ly và A-xà-thế tranh giành, ngài dùng hoả quang Tam-muội thiêu đốt tấn nhập Niết-bàn, rồi phân thân làm bốn phần xá lợi: một cho cõi trời, một phần thuộc cõi rồng, một phần thuộc Tỳ-xá-ly, một phần thuộc A-xà-thế. Về sau, Adục vương lễ tháp A-nan, cúng ngàn vạn tiền vàng và làm kệ tán thán rằng: “Năng nhiếp trì pháp thân, pháp sáng nên pháp trụ, niệm trí Phật như biển, nên lập thượng cúng dường. Nhớ nghĩ nghe rất nhiều, phát âm thanh vi diệu, Thế Tôn thường tán thán, được người trời ưa thích”. Kinh Tăng Nhất nói: “Biết thời biết vật không nghi ngờ, nhớ rõ không quên, đa văn rộng lớn, thông đạt tất ca, có khả năng phụng thờ pháp, bậc nhất là A-nan”

Căn cứ Giáo: Hoan Hỷ A-nan, là theo Tam tạng giáo. Hiền A-nan, là theo Thông giáo. Điển Tạng A-nan, là theo Biệt giáo. Hải A-nan, là theo Viên giáo. Bản tích: Bản, trú phi hoan hỷ phi bất hoan hỷ, pháp thân như hư không, trí tuệ như mây mưa, năng trì năng thọ. Tích, là hoan hỷ. Quán tâm: Quán tâm cùng tương tự, tức Không tức Giả tức Trung tương ưng, đó là quán tâm Hoan hỷ cho đến Chân quán tương ưng…

“La-hầu-la” Trung hoa dịch là Phú chướng. Do đời trước ông lấp hang chuột, lại không thấy Bà-la-môn sáu ngày, do duyên ấy cho nên gọi là Phú Chướng. Thái Tử chưa có con cầu xin xuất gia vua cha không cho ân cần khuyên bảo, vua nói: “nếu con có con nối dõi, ta sẽ cho con xuất gia”. Bồ-tát chỉ tay vào bụng phi tử, nói “sau sáu năm sẽ sinh con trai”. Do ở trong thai sáu năm nên gọi Phú Chướng. Chân Đế Tam Tạng nói: La-hầu vốn gọi là Tu-la, tay có thể che mặt trăng mặt trời, theo đây mà dịch nghĩa thì lẽ ra là Chướng nguyệt. Phật nói: La-hầu-la như mặt trăng trong Phật pháp, đứa trẻ này làm chướng ngại ta, không cho ta xuất gia ngay, đời đời làm chướng ngại ta, ta đời đời có thể xả bỏ, cho nên nói Phú Chướng. Sau khi Thái tử xuất gia Gia-thâu có thai, những người dòng họ Thích giận nói do duyên gì mà có, muốn trị muốn giết, tiếng xấu vang khắp. Bảo nữ Cù-tỳ-la chứng minh, là sai lầm một chút. Nhân đốt hầm lửa, phát đại thệ nguyện: “Nếu ta làm trái thì mẹ con đều chết. Nếu là di thể chân thật thì trời phải làm chứng”. Rồi bồng con nhảy vào hầm, hầm lửa biến thành ao hoa sen đở mẹ con lên. Thấy vậy vua và mọi người không còn nghi ngờ. Sau khi Đức Phật trở về nước, Gia-thâu sai La-hầu-la dâng lên Phật thuốc hoan hỉ (thuốc bổ). La-hầu-la tuổi còn nhỏ hồn nhiên ở trong chúng chạy thẳng lên đưa Phật. Gia-thâu do đó không còn oán trách, oán trách do có con cho nên nói Phú Chướng. Vua cha hoan hỷ cho Thái tử xuất gia, nghĩ rằng tuy mất con nhưng còn có cháu, cháu sẽ thay thế làm vua, ta cũng không hận gì, tưởng may mắn có thần báu đến, nhưng Phật cũng đem đi xuất gia, vua cha không cho, Gia-thâu đem lên trên lầu cao, Mục Kiền Liên bay trên không đón nhận và đem đến Đức Phật liền độ cho xuất gia, giao phó cho Xá-lợi-phất thâu làm đệ tử, đã xuất gia rồi thì vương vị cũng mất cho nên nói Phú Chướng. Sa-di La-hầu tuổi còn nhỏ, ưa đùa nghịch, vọng ngữ, Quốc Vương Đại Thần Bà-la-môn cư sĩ đến cầu xin thấy Phật. La-hầu đáp không có khiến vô lượng người không thấy được Phật, đó là ngăn chướng người khác, đó gọi là vọng ngữ. Đức Phật biết chuyện quở trách. Một hôm Thế Tôn đi kinh hành trở về sai La-hầu-la lấy nước rửa chân,chọn ba cái chậu úp và ba cái chậu ngửa. Rồi chỉ ba chậu úp xuống đất, bảo đổ nước vào. La-hầu đáp: “Chậu úp làm sao chứa nước?” Phật nói: “Ngươi cũng như chậu úp, ở trong Phật pháp nhưng không thể chứa nước pháp, từ nay nên nói thật, không được vọng ngữ”. Từ đó về sau, La-hầu siêng năng tu đạo, những gì không hiểu thì bạch hỏi Phật. Phật hỏi: Ông đã vì người thuyết ngũ ấm chưa? Đáp: Chưa! Phật bảo: Ông nên vì họ mà thuyết. La-hầu-la thuyết xong Phật lại hỏi: “Ông thuyết pháp thập nhị nhập, thập bát giới chưa? Thuyết pháp là môn khiến đắc đạo. Nếu muốn dắc đạo thì nên vì người khác mà thuyết pháp”. Nhân đó La-hầu-la thuyết pháp rộng rãi, về sau ngài đắc đạo, nên gọi là Phú Chướng. Tự mình đã đắc đạo kiến ái đều trừ, hết sinh trong ba cõi, cho nên gọi Phú Chướng. Hết sinh trong ba cõi, nguyện không thể lôi kéo, cho nên nói Phú Chướng. Phật dạy: “Tứ đại La-hán không được diệt độ, đợi đến khi pháp của ta diệt tận”. Do đó, trụ trì đến nay chưa đắc nhập Vô dư Niết-bàn, nên nói Phú Chướng.

Căn cứ Giáo: Phân tích pháp Đạo đế, ngăn chướng tứ trụ phiền não là ý của Tam tạng giáo. Thể pháp Đạo đế ngăn chặn tứ trụ, là ý của Thông giáo. Theo thứ tự tam trí ngăn chặn ngũ trụ là ý của Biệt giáo. Nhất tâm tam trí ngăn chặn ngũ trụ, là ý của Viên giáo.

Bản tích: Bản, trú trung đạo ngăn lấp nhị biên, tám thứ chướng ngăn chướng Niết-bàn biên, một thứ chướng ngăn chướng sinh tử biên, một thứ chẳng chướng sinh tử, chẳng chướng Niết-bàn, mà chướng Vô dư. Quán tâm: Theo như trước có thể hiểu…

6. Kết: đa tri thức.”Đó là các vị A-la-hán hàng tri thức của chúng” hoặc nói “tri” chỉ là “thức”, hoặc nói nghe danh là “tri” thấy hình là “thức”, thấy hình là “tri” thấy tâm là “thức”.

Bản tích: Bản, là vì chúng sinh mà làm “mãn tự” tri thức. Tích, là làm “bán tự” tri thức.

Quán tâm: Quán hành tri thức như chỉ quán.

Chúng đa tri thức đã nói xong. Tiếp đến, nêu chúng thiểu tri thức.

“Lại có hai ngàn người Hữu học, Vô học”: Chỉ nêu địa vị, nói rõ số, mà không tán đức gọi đây là chúng thiểu tri thức. Thánh cùng phàm tuyệt giao cũng không phân biệt đa thức hay thiểu thức. Đặc biệt mong mỏi cao ngưỡng mộ xa thì dùng đa thức dẫn dắt. Ẩn danh ẩn đức thoái nhượng thì dùng thiểu thức mà dẫn dắt, tùy thuận chúng sinh cho nên có bấy nhiêu, không thể dùng Tích đa thiểu mà đánh mất Bản kia. Học vô học: trong Tam tạng nói mười tám hạng của Học nhân, chín hạng người Vô học. Trong Thông giáo, ngũ địa đều gọi là Học, lục địa gọi là Vô học. Lại, trong Thông giáo, thì chín địa là Học, Phât địa là Vô học. Trong Biệt giáo Viên giáo, hoặc căn cứ công dụng vô công dụng, hoặc căn cứ cụ túc chưa cụ túc mà nêu rõ Học, Vô học. Kinh A-hàm nói: Ngoại đạo hỏi Phật La-hán còn học không? Phật trả lời La-hán không tạo pháp ác, trụ nơi thiện pháp, học cái Vô học kia tức gọi là “Học”. Nếu thế thì người học cũng gọi là vô học. Người học ngang bằng sở đoạn, không trở lại đoạn, tức là Vô học, đó là bốn câu. Căn cứ năm phương tiện phi học phi vô học, tiện là năm câu. Căn cứ trong bốn giáo liệt kê cũng như vậy, bốn lần năm là hai mươi câu.

Bản tích: Bản, pháp thân đại sĩ, ở địa vị mãn tự học vô học. Tích: Chúng sinh theo bán tự học vô học nhân mà trang nghiêm song thọ. Quán tâm: Chánh quán trung đạo, không duyên nhị biên trung gian, tức là vô học. Có khả năng quán như vậy đó gọi là Học. Nếu căn cứ quán môn nêu rõ số, quán sắc tâm thập pháp giới, thập như. Giới Như xen nhau luận bàn, tức đủ hai ngàn. Nêu tích cho nên tiêu biểu bản pháp, tích tức là bản tích.

Tiếp theo nêu ra Ni chúng: Xưa lấy đây theo lệ trước chia làm hai chúng, nay không dùng. Nếu kể theo trước kia chia hai chúng là đa thức và thiểu thức. Lại, không có văn nghĩa cũng không thể được, chỉ là nêu hai chúng chủ, đâu có nhọc công gọi là lớn nhỏ nhiều ít tri thức.

Trước hết nêu “Ma-ha Ba-xà-ba-đề”: Trung hoa dịch là Đại Ái Đạo. Cũng gọi Kiều-đàm-di, Trung hoa dịch là Chúng chủ. Ni là tên chung của người nữ ở Thiên trúc. Bản, trụ nơi pháp môn trí độ. Tích, là mẹ của ngàn đức Phật, sinh ra và nuôi dưỡng các bậc Đạo sư . Quán tâm giải thích: Theo Trung quán thì rộng lớn gọi là “Đại”, vô duyên từ, gọi là “Ái” trung lý hư thông gọi là “Đạo”. “Đại” tức tự hành, “ái” tức hóa tha, như do “ái” cho nên thọ sinh, Từ cho nên bén duyên với đạo, tức thông tự hành hóa tha.

Sáu ngàn (000) là số. Quán môn: giải thích: Quán lục căn thanh tịnh đầy đủ ngàn công đức, tuy nhãn có tám trăm, nhĩ có một ngàn hai trăm, lấy tổng số nhiều và ít, đủ sáu ngàn tiêu biểu Bản pháp môn, cũng là ý quán Hạnh.

La-hầu-la mẫu, là Da-thâu-đa-la: Lấy tên con để nêu mẹ, Trung hoa dịch là Hoa Sắc, cũng gọi Danh Văn, hoặc gọi là Vô Phiên. Người ôn hòa nhã nhặn, kính cẩn cần kiệm, đức sánh bằng Thái tử, khi ở nhà là vợ Bồ-tát, là tri thức hàng nhân thiên. Khi xuất gia làm chủ ni chúng, ở địa vị vô học, đâu phải là danh không vang khắp trong chúng ư! Kinh Thập Nhị Du nêu ra ba vị phu nhân: 1. Cù-di. 2. Da-thâu. 3. Lộc Dã. Kinh Vị Tằng Hữu và Kinh Thụy Ứng, đều nói La-hầu là con của Cù-di Kinh Niết-bàn và Pháp Hoa đều nói là của Da-thâu. Hai nghĩa làm sao thông? Hoặc có thể kinh kia nêu Đại mẫu, kinh này nêu sở sinh. Thích luận giải thích: Cu-tỳ-đà là Bảo nữ, không có thai, tức là Cu-di, đây dịch là Minh nữ. Cho nên biết: nhất định La-hầu là con của Da-thâu.

Bản tích: Thê thì tề vậy, đâu có bác địa làm vợ Thái tử? Cho nên biết: Bản, trụ nơi tịch định pháp hỷ vi diệu, Tích là vợ Thái tử. Kinh Bi Hoa nói: Xưa ở chỗ Đức Phật Bảo Tạng, phát lời thệ làm vợ… Quán Không vô lậu pháp hỷ, tức lấy Lộc Dã tiêu biểu làm vợ. Quán Giả đạo chủng trí pháp hỷ, tức lấy Da-thâu tiêu biểu làm vợ. Quán Trung pháp hỷ, tức lấy Cu-di tiêu biểu làm vợ. Trên là phân rõ bản tích quán tâm, nay lại tổng luận bàn, hiển bày quyền thừa khéo léo quanh co, nêu rõ quán hạnh tinh vi. Xét rằng Thủ Lăng-Nghiêm thị hiện bao nhiêu thứ, thích ứng với căn tánh chúng, không việc gì mà không làm, nay còn thân cận luận bàn. Tích, gá thác trong vương cung giáng sinh làm vợ thần thánh, Pháp thân Bồ-tát đều giúp Phật hành hóa, mà hiện ra nhiều hình ảnh khác nhau. Như ba mươi hai tướng tốt bẩm sinh, các bậc đại sĩ đều sinh ra như vậy, hoặc trong nhà trống, mưa báu, mộng kỳ lạ, biện tài, thông suốt. Như Hoàng Thái tử, bỏ nước và vương vị vượt thành học đạo, các Đại sĩ đều theo thầy thỉnh nghiệp, tài nghệ bao gồm thông suốt làm thầy tông kia. Nếu pháp luân ban đầu mở cam lồ môn khai, nghe các đại sĩ hóa duyên chưa thuần thục, thị hiện đồng không thọ nhận cùng đứng riêng một phe mà làm lễ ngang nhau tôn sùng đạo chân thật của ta. Năng hóa sở hóa hoàn toàn nguyên chất như Sữa. Nếu sở hóa duyên thuần thục, thì tơ trắng dễ nhuộm, hoa sen trong ao sớm nở, chuyển phàm thành thánh chuyển Sữa thành Lạc, thầy chủ yếu là đệ tử thượng thủ của Đức Phật. Hoặc trí tuệ, thần thông, biện tài, Tam-muội, mỗi mỗi đệ nhất, cùng phụ Pháp vương, độ những người chưa được độ, thuần thục lại những người đã thuần thục, ngồi tòa Phương Đẳng, nghe công đức bất khả tư nghì của Bồ-tát, mà thẹn Tiểu thừa hâm mộ Đại thừa. Thẹn Tiểu thừa, thì than ôi tự trách mình để mất vô lượng tri kiến Như Lai. Hâm mộ Đại thừa thì không biết phải làm thế nào để đắc Vô thượng trí tuệ Phật, như chuyển Lạc thành Sinh tô. Tiếp đến nghe Bátnhã Ma-ha-diễn môn, ban đầu trải qua sắc tâm, sau cùng nơi Chủng trí bao gồm tiểu đại, trong ngoài, cho nhận, hoặc chung hoặc riêng hoặc Thiên hoặc Viên phụng mệnh lãnh biết mà không hy vọng có được, dù chưa đốn xả mà đã dần dần thông thái, như chuyển Sinh tô thành Thục tô. Tiếp đến, nghe kinh Pháp Hoa biết thiên chân tánh, xác định cha con, thọ ký trao phó Đại thừa, bỏ ba trở về một, như bốn vị khác mà đồng một vị Đề-hồ, không khiến chỉ riêng một người được diệt độ,mà đều dùng sự diệt độ của Như Lai để diệt độ. Pháp vương pháp thần vì đại sự xuất thế khéo dụng phương tiện, ban đầu dùng bán tự pháp để phá sự phiền phức của hai mươi lăm cõi, thành Tứ khô song thọ lợi ích chúng sinh, tiếp đến dùng bán mãn pháp để phá độc (chỉ riêng mình) thiện của Nhị thừa, thành hạnh rộng lớn của Bồ-tát thành Bốn song thọ tươi tốt lợi ích Thánh nhân. Sau dùng mãn tự thường trú để phá nhị biên trước sau, thành bí mật tạng của Phật không khô cũng không tươi, rốt ráo lợi ích. Công chủ tướng đã hoàn tất, đại nguyện đã hoàn mãn, cho nên Thân-tử, Mục-liên đối với Pháp Hoa dừng hóa độ, thánh chủ bỏ thân mạng này cũng không bao lâu nữa. Văn nói: “Như bản thệ nguyện xưa của ta nay đã đầy đủ, Như Lai không bao lâu nữa sẽ nhập Niết-bàn”.Sự kiện “sau khi thuyết kinh Pháp Hoa xong,Phật tuyên bố sẽ nhập Vô dư Niết-bàn”,thì hai vạn đức Phật đồng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, Phật Ca-diếp v.v… đều như thế. Nay thầy trò đều đối với kinh này phát tích, bên trong thì ẩn Bồ-tát đạo, bên ngoài thì hiện tướng Thanh văn, sự thật thì thành Phật đến nay đã vô lượng kiếp. Lấy đây mà suy xét, các đại La-hán từ pháp thân địa rũ bóng tùy duyên tích đến muôn dòng, làm Hữu học hay Vô học, làm nam làm nữ, thị hiện đạo thị hiện tục Lực Thủ-lăng-nghiêm thì không nơi nào là không hiện, phương tiện thiện xảo quyền biến là như thế…

Tổng nêu rõ quán: Thầy trò trên thi thiết giáo hóa, là pháp thân sở vi. Nếu không phương tiện tác quán, thì đối với hành nhân không lợi ích, ví như người nghèo đếm báu của người khác, như người mù cầm đèn. Nhưng tâm sở rất nhiều, nếu căn cứ tâm sở thiện thì như chúng đệ tử chỉ nêu mười người Hữu học thôi. Mười thiện tâm sở là: tín, tiến, niệm, định, tuệ, hỷ, ỷ, xả, giác, giới. Mười tâm sở này phụ giúp tâm vương có thể cải ác thành thiện, cải phàm thành Thánh. Biện rõ tất cả pháp môn chỉ lấy mười tâm làm gốc, ví như mười vị đệ tử phụ Phật hành hóa cùng thuần thục chúng sinh đứng trong Phật pháp. Tâm sở Tín, ví như A-naluật thiên nhãn đệ nhất, nhãn đứng đầu trong hàng ngũ nhãn, như các phương lấy phương Đông làm đầu, tín là đứng đầu trong các tâm sở để nhập Phật pháp, Tâm sở Tiến ( tinh tấn), ví như Ca-diếp đầu-đà đệ nhất, đẩu tẩu siêng năng khổ hạnh. Tâm sở Niệm, ví như Ưu-ba-ly trì luật đệ nhất, Tâm niệm lực kiên cường nhớ trì không quên. Tâm sở Định, ví như Mục-liên thần thông đệ nhất. Tâm sở Tuệ, ví như Thân-tử trí tuệ đệ nhất, đều có thể hiểu. Tâm sở Hỷ, ví như A-nan đa văn đệ nhất, đa văn phân biệt lạc, lạc tức hỷ. Tâm sở Ỷ, ví như Chiên-diên luận nghị thể cùng vi tận lý, trừ tà hiển chánh, như “ỷ” lìa ác đắc thiện, buông khổ nhập lạc. Tâm sở Xả, ví như đối với Thiện Cát giải Không đệ nhất, hoặc trú Không bình đẳng tương ưng với Xả. Tâm sở Giác, ví như Phúlâu-na thuyết pháp đệ nhất, giác là gốc của ngôn ngữ, gốc lập thì biện thuyết không cùng. Tâm sở Giới, ví như La-hầu-la trì giới đệ nhất, có thể hiểu. Mười thiện tâm sở hợp với tâm vương năng thành quán hạnh, trong nhất niệm thâm nhập thiện pháp, Tam bảo đầy đủ. Tâm vương tức Phật bảo, tâm sở tức Tăng bảo, sở duyên thật tế không tâm vương cũng không tâm sở, tức Pháp bảo. Nếu nhập Thật tế thì đầy đủ công lực dụng của tâm vương và tâm sở. Lại dùng để thông đại địa thì mười tâm sở cùng tâm vương cùng khởi, nhập thiện nhập ác, biến thông tất cả. Mười tâm sở đó là tưởng, dục, xúc, tuệ, niệm, tư, giải thoát, ức, định, thọ.“Tưởng”, đối Phú-lâu-na, tưởng đắc giả danh, người ấy khéo đạt giả danh, biện tài không ngưng trệ. “Dục”, đối Ca-diếp. Ca-diếp không còn dục thế gian mà chỉ có dục nơi vô vi. “Xúc”, đối Ca-chiên-diên, xúc nhập hai việc càng liên quan nhau nhập, Ca-chiên-diên khéo luận nghị qua lại cùng tận. “Tuệ”, tức Thân-tử, có thể hiểu. “Niệm”, đối Ba-ly, niệm trì luật là bậc thượng. “Tư”, đối La-hầu-la, Tư là hành ấm, người này thực hành trì giới. “Giải thoát”, đối Thiện Cát. “Thoát”diễn tả vô lụy. Người này giải Không, ở nơi Có mà được giải thoát . “Ức”, đối Naluật, nhớ nghĩ động phát chọn cảnh tu thiên nhãn dễ nhập Tam-ma-đề. “Định”, đối Mục-liên, có thể hiểu. “Thọ”, đối A-nan, đa văn lãnh thọ trì không lầm lẫn. Mười vị đệ tử, mỗi mỗi đầy đủ các đức để dẫn các pháp môn chuyên biệt, tuyên bày đạo tùy thuận lòng ham muốn của chúng sinh. Muốn tụê, thì thầy là Thân-tử. Cho đến, muốn đa văn thì thầy là A-nan. Cùng phụ đấng pháp vương, đều bắt tay làm một phần việc. Nay quán tâm cũng như vậy, trong mỗi một tâm đều đầy đủ tâm vương tâm sở tạo thành quán, cho nên tâm vương tâm sở dựa vào nhau mà được khai ngộ. Hoặc là ở nơi tâm sở Tưởng mà nhập đạo, hoặc là ở nơi tâm sở Dục mà nhập đạo, tùy chỗ thích nghi mà tâm vương tâm sở cùng trị liệu, hóa độ, chọn lấy các tâm trần lao mà làm Phật sự. Tác quán đây chưa ngộ, quán hành như Sữa, nếu phát sinh vô lậu thì quán hành như Lạc. Nếu phá Trần-sa-hoặc thì như Sinh tô Thục tô. Nếu phá vô minh thì quán như Đề-hồ. Khi đến Đề-hồ thì tâm vương tâm sở đều hoàn tất. Vì tâm tâm số pháp không hành, nên gọi là hành Bát-nhã Bala-mật. Kinh Phổ Hiền Quán nói rằng: “Quán tâm vô tâm pháp, không trú pháp. Tâm ta tự không tội phước, vô chủ”. Tức là không tâm, không tâm sở, gọi là Chánh quán. Nếu tâm sở trần lao ấy không hết, thì quán không xong.Cho nên kinh nói: “Chúng sinh chưa được độ hết, thì ta không thành Chánh giác”, là ý này…

II. NÊU CHÚNG BỒ TÁT: Thích Luận nói: Bồ-tát thì thuộc về bốn chúng xuất gia tại gia. Vì sao nêu riêng? Đáp: Có Bồ-tát thuộc hàng bốn chúng, có bốn chúng không thuộc hàng Bồ-tát bởi vì họ không phát tâm thành Phật, cho nên nay nêu riêng chúng đồng phát tâm cầu làm Phật, gọi là “chúng Bồ-tát”. Văn chia làm sáu:

  1. Khí loại.
  2. Đại số.
  3. Giai vị.
  4. Tán đức.
  5. Liệt danh.
  6. Câu Kết.

1. Khí loại: Tức là Bồ-tát Ma-ha-tát, nếu nói đủ thì nói Bồ-đề Tát- đỏa Ma-ha-tát-đỏa, ngài La-thập sợ nhiều phiền phức nên bỏ bớt một chữ Đề và và hai chữ Đoả. “Bồ-đề”, Trung hoa dịch là Đạo, “Tát-đỏa”, dịch là tâm, “Ma-ha” dịch là đại. Hạng người này đều mong cầu đại đạo rộng lớn. Lại, vì thành thục chúng sinh, nên là khí loại “đạo tâm đại đạo tâm”. Bồ-tát có nhiều hạng, gọi là Thiên, Thông, Biệt, Viên. Như Thích luận giải thích dẫn Ca-chiên-diên-tử nêu lục độ đủ hạn thì mới khắp, đây là muốn điều hòa huyết chúng sinh thành Sữa (nhũ). Kinh Đại Phẩm nói: “Có Bồ-tát phát tâm tương ưng Tát-bà-nhã” thì đây là muốn điều Sữa thành Lạc. Hoặc là Đại Phẩm nói: “Có Bồ-tát phát tâm thần thông du hý tịnh cõi nước Phật”. Lại, như trong kinh Tịnh Danh: Người đắc bất tư nghì giải thoát, đều có khả năng biến hóa thân, đăng tòa mà lại chịu đuối lý, bị quở trách”, đây là muốn điều Lạc thành Sinh tô Thục tô. Hoặc là Đại Phẩm nêu:” Có Bồ-tát phát tâm liền ngồi đạo thọ, thành Đẳng chánh giác, chuyển pháp luân độ chúng sinh”, đây là điều Thục tô thành Đề-hồ. Cho nên, văn dưới nói: “Bồ-tát nghe pháp này, thì các sự nghi đều trừ”. Lại nói: “Nếu Bồ-tát không nghe Pháp

Hoa, thì chẳng khéo hành Bồ-tát đạo, nếu nghe kinh này tức khéo hành Bồ-tát đạo”. Lại, kinh Niết-bàn nói: “Bồ-tát nếu không nghe kinh Niếtbàn thì thường có hy vọng. Nếu nghe Niết-bàn thì hy vọng đều dứt”. Cho nên lược có bốn hạng Bồ-tát.

Giải thích theo Bản tích: Bản địa khó lường, hoặc ở địa vị Đẳng giác hoặc ngang bằng Pháp vương. Như Thiện Tài nhập pháp giới thấy sắc tượng của Văn-thù vô biên pháp môn sâu xa. Bản, thân cận chư Phật. Tích, phụ Thích Tôn làm Bồ-tát hiện khắp lực Tam-muội sắc thân, thị hiện bóng dáng, dùng khẩu luân bất khả tư nghị hóa tùy nghi thuyết rộng. Có thể lấy ý mà hiểu, không thể dùng ngôn từ biện giải. Do đó, Tích dẫn bốn vị qui về một thật. Thành vị Đề-hồ rồi thì một kỳ hạn hóa độ xong, nhưng Bản địa kia thì đã rốt ráo thành tựu, đâu phải ngày nay mới bắt đầu vào Đại Thừa, cũng chẳng phải đạo tràng tịch diệt, mặt trời chiếu núi cao trước. Hoặc là đốn hoặc là tiệm, cũng đều là Tích sở vi.

Quán giải thích: Trung đạo quán tâm song chiếu nhị đế, gọi là “đại”. Thông đến quả Bồ-đề, gọi là “đạo”. Phá ngũ trụ trần lao gọi là “thành chúng sinh”.

2. Đại số: Tám vạn người: là số: Các kinh tập chúng rất nhiều, kinh này vì sao ít? Hoặc là nói số lớn kia, hoặc ví như vua bàn về bí mật quốc gia thì không thể đưa ra khắp nước cùng tham mưu.

Căn cứ Quán tâm: Quán một tâm thiện đầy đủ mười pháp giới, mười cõi giao lẫn nhau đủ trăm pháp giới ngàn tánh tướng… Thập thiện tức vạn pháp. Căn cứ bát chánh đạo tức tám vạn pháp môn “Đều ở nơi A-nậu Tam-bồ-đề bất thoái chuyển”, đây là nêu rõ địa vị vậy. “A-nậu”, Trung hoa dịch là Vô thượng đạo, như nói cảnh thật nhiệm mầu, địa vị cũng vậy.“Bất thoái chuyển”, căn cứ Địa vị Hạnh, Niệm để luận bất thoái ứng với bốn loại phân biệt, Không sinh ba ác đạo, là Địa vị bất thoái: Không sinh chốn biên địa, các căn đầy đủ, không thọ thân nữ, là Hạnh bất thoái. Thường biết túc mạng, là Niệm bất thoái. Đầy đủ các điều này, thì gọi là A-bệ-bạt-trí địa. Đây là nghĩa của Tam tạng giáo. Nếu sáu tâm trở về trước, khinh thường Bồ-tát, Tín căn chưa lập, thì địa vị kia còn thoái thất. Bảy tâm trở về trước, từ Sơ địa đến Lục địa không thoái, làm phàm phu nhị thừa, gọi là Địa vị bất thoái. Tuy chánh sử đã tận mà chưa thể tu khắp vạn hạnh, người kia hạnh còn thoái lui, đến Thất địa gọi là Hạnh bất thoái, mà còn khởi niệm nhị thừa cho nên Có niệm thoái. Đến bát địa, đạo quán cả hai lưu nhập vào pháp như nước chảy gọi là Niệm bất thoái, đây là A-bệ-bạt-trí địa. Đây chính là nghĩa Tam thừa cộng Thập địa. Địa Sư nói: Thập trú là Chứng bất thoái, Thập hạnh là Vị bất thoái, Thập hồi hướng là Hạnh bất thoái, Thập địa là Niệm bất thoái. Đây là nghĩa của Biệt giáo, không phù hợp với kinh này, nay không dùng đến. Kinh Anh Lạc nói: Sơ địa tam quán hiện tiền, tâm tâm tịch diệt tự nhiên lưu nhập, đây cũng là Biệt giáo bất thoái, nay cũng không dụng. Như Hoa Nghiêm nêu Sơ trụ đắc một thân Như Lai vô lượng thân, đầy đủ ba thứ bất thoái. Đây là Viên giáo bất thoái, là sự nhất thật. Nay dùng nghĩa này để phê phán địa vị.

Bản tích: Bản địa tịch diệt còn chẳng phải thập địa, huống chi là sơ trụ. Còn chẳng phải sơ trụ bất thoái huống chi là Biệt, Thông. Địa vị Biệt Thông thích nghi với chúng nêu ở các kinh khác, địa vị Viên giáo chính ở kinh này. Luận sư các kinh đã không biết Tích, thì làm sao có thể biết Bản? Tán thán nhưng vì lầm lẫn mà thành hủy báng,vẫn tạo thành thêm bớt hai bên thì sao gọi là tán đức? Quán tâm: Tam quán tức là tam bất thoái. Lại, nhất tâm tam quán tức nhất tâm tam bất thoái.

3. Giai vị: Xưa nói từ “đều được Đà-la-ni” trở đi là bắt đầu tán đức. Nay lấy từ “bất thoái chuyển” tức đầy đủ hai ý, thành trên thuộc nêu rõ địa vị, khởi sau thuộc tán đức.

4. Tán đức: Xưa nói Tán đức gồm mười hai câu phân làm bốn ý:

ba câu đầu, tán đức hiện tại, ba câu tiếp, tán Hạnh quá khứ, bốn câu tiếp theo, tán nội thể, hai câu sau cùng, tán ngoại danh. Bốn ý không đồng mà đức ở ba câu đầu cho nên gọi là Tán đức. Tán Đức hiện tại, lại chia làm hai: Câu đầu, tán Tự hành, hai câu sau, tán Hóa tha. Tán Hạnh chia làm ba: Câu đầu, tán hạnh bản, bản từ chư Phật đắc Bát-nhã; câu tiếp, tán bản hạnh là hành phước đức, đã có phước thì có thể giúp cho trí tuệ, câu tiếp, là Phật tán thán. Tán nội thể, chia làm ba: Câu đầu, Từ bi tán thán ứng thân, hai câu giữa, tán thán tâm tuệ Báo thân, một câu sau, tán pháp thân. Tán ngoại danh, chia làm hai: Câu đầu, tán thán danh vang khắp; câu tiếp, tán có khả năng độ chúng sinh. Phần văn này thật rõ ràng như trước mắt, nhưng nếu luận phần vi tế nhỏ nhiệm khác thì khó mà định hướng. Nếu tán thán Thông giáo, thì Thông giáo không có ba thân, lại chẳng thâm nhập Phật tuệ, danh không vang khắp, các nghĩa không thành. Nếu tán thán Biệt giáo, thì Biệt giáo Sơ địa đã vượt qua Nhị thừa, sao lại nói Thất địa còn khởi niệm Thanh văn Bích-chiphật? Nếu tán thán Viên giáo, thì không nên nói Thất địa sắp xuống là không có đức bất thoái. Tiến thoái không xong thì biết tán thán ai, việc ấy không dùng.

Nay lấy mười ba câu làm hai chiều ngang dọc để hiểu nghĩa:

  1. Theo chiều dọc, căn cứ Thập địa để tiện giải nghĩa.
  2. Theo chiều ngang, căn cứ Sơ trụ để tiện giải nghĩa.

“Bất thoái chuyển”: thành trước tức là nêu rõ địa vị, khởi sau tức là tán đức,do đối với sơ địa. Sơ địa gọi là hoan hỷ, hoan hỷ vì không còn rơi vào nhị biên mà nhập Trung đạo, thâu hoạch tam bất thoái, cho nên biết tán thán sơ Hoan hỉ địa. “Đều được Đà-la-ni là tán thán Nhị địa, gọi là Ly cấu. Cũng gọi là Ly đạt, xa lìa ngăn chắn các việc ác, thấu đạt giữ gìn các điều thiện, tức nghĩa Đà-la-ni, cho nên biết tán thán Ly cấu địa. Câu: “Nhạo thuyết biện tài”: tán thán Tam địa. Tam địa gọi là Minh địa, bên trong trí tuệ sáng suốt bên ngoài biện tài giảng thuyết, muốn biết trí thì xem thuyết. Thuyết có các thứ nhạo thuyết tối thắng cho nên biết tán thán Minh địa thứ ba. Câu: “Chuyển bất thoái chuyển pháp luân” là tán thán địa thứ tư, địa này gọi là Diệm. Diệm là lửa sáng năng phá sự tối tăm, lại năng thiêu hủy. Chuyển pháp luân là tự thiêu hủy lậu hoặc của mình như lủa cháy thiêu hủy, và phá mê cho người khác ví như trừ tối, cho nên biết tán thán Diệm địa thứ tư. Câu: “Cúng dường trăm ngàn chư Phật” là tán thán Ngũ địa, đây gọi là Nan Thắng địa, địa này đắc thiền định sâu xa, các lực dụng thần thông khó sánh kịp, khó vượt hơn, chỉ trong khoảnh khắc một niệm biến khắp mười phương cúng dường chư Phật, cho nên biết tán địa thứ năm. Câu: “Ở chỗ chư Phật gieo trồng các cội đức” là tán thán Lục địa, đây gọi là Hiện tiền địa, do đắc thiền có công năng cúng dường chư Phật, phước trợ giúp Chủng trí, khiến Chủng trí được hiện tiền. Trí là gốc của đức, như gieo hạt giống vào đất, cho nên biết tán thán Lục địa.

Câu: “Thường được các Đức Phật khen ngợi” là tán đệ thất Viễn hành địa, địa này nhị trí phương tiện vượt qua tất cả, rộng tu lợi ích, xứng hợp tâm Phật, cho nên biết tán thán đệ Thất địa. Câu: “Dùng đức Từ để tu thân” là tán thán đệ bát Bất động địa, chánh trí bất động không xuất tam giới, chỉ lấy Từ huân tập thân ứng nhập ngũ đạo, huân tập khẩu vì thuyết pháp, huân tập tâm vì thiết lập phương tiện. Chinh kinh Pháp Hoa huân đầy đủ tam nghiệp, cho nên biết tán thán Bát địa. Câu: “Khéo nhập Phật tuệ” là tán thán đệ cửu địa, địa này gọi là Thiện Tuệ địa, thâm nhập thật tế vi diệu, thấu suốt nguồn gốc, đây gọi là nghĩa tối hợp, cho nên biết tán thán đệ Cửu địa. Câu: “Thông đạt đại trí” là tán thán Thập địa, địa này gọi là Pháp vân địa. Pháp thân như hư không, thiền định như mây lớn, trí tuệ như mưa lớn. Khéo nhập Phật pháp, gọi là “tuệ”, khéo dụng Phật pháp gọi là “trí”, xen nhau nêu lên. Câu: “Đến bờ bên kia” là tán thán nội đức của Thập địa, đến bờ kia của Tam đế, tức trong Nhân nói Quả. Lại, đến chẳng còn lâu nữa.

Câu: “Danh đồn vang khắp” là tán thán ngoại đức của thập địa, do nội đức sâu rộng đến nỗi khiến cho thanh danh vang khắp, trong ngoài tương xứng. Nếu mở ra địa vị Đẳng giác, thì hai câu này nghĩa gần như vậy. Câu “Năng độ trăm ngàn chúng sinh”: các địa khác độ chúng sinh, một cõi đến chín cõi, không gọi là năng độ. Thập địa thù thắng hơn các địa trước, cho nên gọi là Năng độ, các địa đều đầy đủ công đức, mà nay ẩn hiện vô thường để giải thích vì lòng người ưa khác lạ. Cho nên, nương thập địa gọi là thuận tiện. Lại, nghĩa theo chiều dọc thì dễ hiểu.

Tiếp đến theo chiều ngang tán thán: Căn cứ trực tiếp vào Sơ trụ mà nói các địa vị mỗi mỗi theo lệ có thể hiểu. Hàng sơ phát tâm trụ, nhất phát nhất thiết phát, vượt qua nhị biên, cách phàm siêu thánh nhập Trung đạo, tâm kia vắng lặng, niệm niệm lưu nhập biển Tất-bà-nhã, cho nên nói đắc bất thoái chuyển. Hàng Sơ trụ ngăn chướng vô minh, vô tri… lìa chấp tướng… Trì đạt ba đức Bát-nhã, Giải thoát, Pháp thân, cho nên nói “đắc Đà-la-ni”, Thập tín tựa như Giải còn có thể dùng âm thanh vi diệu biến khắp ba ngàn cõi, huống chi hàng Sơ trụ, chân thật thấu hiểu công đức khẩu mật cho nên nói “Nhạo thuyết biện tài”. Sơ trụ có khả năng phân thân làm Phật tại hàng trăm thế giới. Luận về chổ chân thật kia, tức vô lượng vô biên vì có khả năng làm Phật thuyết pháp giáo hóa cho nên nói: “Năng chuyển bất thoái pháp luân”. Sơ trụ đắc thần lực bất tư nghì, có thể thừa sự chư Phật khắp pháp giới, cho nên nói “cúng dường trăm ngàn chư Phật”. Sơ trụ đắc Bản thật tướng, có thể gieo trồng các đức. Sơ trụ khai mở tri kiến Phật, khai tri kiến rồi thì cùng với pháp chư Phật đồng, cho nên “được chư Phật khen ngợi”. Sơ trụ vô duyên từ hiện khắp các sắc thân, ứng khắp pháp giới, cho nên nói “dùng đức Từ mà tu thân”. Sơ trụ nhập bí mật tạng, cho nên nói “khéo nhập Phật tuệ”. Sơ trụ nhất tâm tam trí không có chướng ngại, cho nên nói thông đạt đại trí. Sơ trụ sự lý phần rốt ráo, cho nên nói “đến bờ bên kia”. Công đức Sơ trụ tròn đầy, chân thật, tương xứng với danh, cho nên nói “danh đồn vang khắp thế giới chư Phật”. Sơ trụ có thể vì chúng sinh trong mười pháp giới mà làm chỗ nương, an lập cứu giúp cho nên nói “có thể độ trăm ngàn chúng sinh”. Sơ trụ lại có vô lượng vô biên các thứ công đức bất khả tư nghì, đây là lược nói mười ba câu. Từ Nhị trú cho đến Đẳng giác cũng lại như vậy. Cho nên, kinh Đại Phẩm nói: Ban đầu môn quán chữ A có đầy đủ công đức của bốn mươi mốt chữ, cho đến chữ “Trà” ở sau cũng đủ công đức của các chữ, các chữ trung gian cũng như vậy. Công đức của các chữ, các ngữ cũng đồng vậy.

Hỏi: Trong dây tán thán đức Đoạn hoặc,Tam tạng không đoạn

hoặc, có thể không được tán thán, hàng Thanh văn còn được tán thán. Tích làm Thông Biệt sao không tán thán đức?

Đáp: Thông tán thán nơi Tích mới có nghĩa đây, kinh này chính nêu người của Viên giáo, không tán thán phương tiện đó thôi!

Hỏi: Tại sao nói các câu công đức đều tán thán Sợ trụ?

Đáp: Các vị khác cũng như thế, đâu riêng gì Sơ trụ. Xưa nói: Tám địa có các công đức không lấy gì làm nghi nữa. Nay tán thán trọn vẹn Sơ trụ, có đức nào mà không thu nhiếp? Sơ trụ mà còn như thế huống gì các vị sau?! Pháp Hoa luận nói: Từ chi thượng đến chi hạ là tổng tướng biệt tướng, nên biết một câu đầu: “đắc bất thoái chuyển” là tổng. Bất thoái này có mười thứ thị hiện: Nghe pháp bất thoái chuyển tức Đà-la- ni. Nhạo thuyết bất thoái chuyển tức là Nhạo thuyết biện tài. Thuyết bất thoái chuyển tức là “chuyển bất thoái pháp luân”. Y thiện tri thức bất thoái chuyển, tức“cúng dường trăm ngàn chư Phật, gieo trồng cội công đức”. Đoạn nghi bất thoái chuyển tức là “được chư Phật tán thán”. Nhập sự bất thoái chuyển, tức là “dùng đức Từ mà tu thân”. Nhập nhất thiết trí như thật cảnh bất thoái chuyển, tức là “khéo nhập Phật tuệ”. Y ngã không pháp không bất thoái chuyển, tức là “thông đạt đại trí”. Nhập như thật cảnh bất thoái chuyển, tức là “đến bờ bên kia”. Ứng tác sở tác bất thoái chuyển, tức là “độ trăm ngàn chúng sinh”. Cho nên, câu ban đầu nêu tổng, tức là chi thượng. Tiếp đến, các câu riêng biệt là chi hạ. Trong phần ghi chép tán thán đức Sơ trụ theo chiều ngang, tức cùng ý đây đồng. Luận nói điều thứ hai là Nhiếp thủ sự môn, thị hiện các Bồ-tát trú trong địa thanh tịnh như thế nào,do phương tiện gì? Cảnh giới gì? Những việc nào nên làm? Nếu theo nghĩa này thì tán thán đức Bồ-tát theo chiều dọc cũng không ngăn ngại.

Quán tâm giải thích Tán thán đức: “Bất thoái chuyển” như trước nói. “Đà-la-ni”: Không quán là Triền Đà-la-ni, Giả quán là Trăm ngàn Triền Đà-la-ni. Trung quán là Pháp âm phương tiện Đà-la-ni. Lại, Không quán: quán tâm chỉ có danh tự, tức Văn trì Đà-la-ni. Giả quán: quán tâm, vô lượng tâm, tâm vương tâm số pháp đều là pháp môn, tức Hành trì Đàla-ni. Trung quán: quán tâm, tâm tức thật tướng, tức là Nghĩa trì Đà-la-ni. Giả quán, quán tâm đầy đủ pháp của mười pháp giới, tức Pháp vô ngại biện. Trung quán, quán tâm thập pháp giới đều nhập thật tướng, tức Nghĩa vô ngại biện. Không quán, quán tâm thập pháp giới chỉ có danh tự ngôn ngữ, tức Từ vô ngại biện. Quán nhất tâm tức tam tâm, tam tâm tức nhất tâm, nhất giới nhất thiết giới, triển chuyển vô ngại, tức Nhạo thuyết vô ngại. Không quán, là chuyển Vị bất thoái pháp luân. Giả quán, là chuyển Hạnh bất thoái pháp luân.Trung quán, là chuyển Niệm bất thoái pháp luân.“Cúng dường Phật”: chỉ là tùy thuận lời Phật dạy. Nay thuận lời Phật dạy tu tam quán tâm tức là “cúng dường Phật”. Phá ngũ trụ phiền não, đắc giải thoát, tức “cúng dường Pháp”. Lý tam đế hòa hợp, tức “cúng dường Tăng”. Lại, các hạnh tâm giúp tâm quán trí, tức cúng dường Phật. Quán trí tâm khai phát cảnh giới, tức cúng dường Pháp. Cảnh trí tâm hòa hợp, tức cúng đường Tăng. Thật tướng tâm là gốc của quán trí tâm, quán trí tâm là gốc của các hạnh tâm. Được gốc thì mọi thứ đều đứng vững, cho nên nói “trồng các cội đức”. Quán trí tâm sâu xa đối với nơi cảnh giới, cảnh giới được in lại ở quán trí. Trí có sở chiếu thường cùng cảnh hợp, tức là “được Phật xưng tán”. Không quán, là pháp duyên Từ huân tập. Giả quán, là chúng sinh duyên Từ huân tập. Trung quán, là Vô duyên từ huân tập. Không quán nhập Thông Phật tuệ, Giả quán nhập Biệt Phật tuệ, Trung quán nhập viên Phật tuệ. Không quán, đến bến bờ kia Nhất thiết trí . Giả quán, đến bờ kia Đạo chủng trí. Trung quán, đến bờ kia Nhất thiết chủng trí. Không quán, nghe Chân đế, Giả quán nghe Tục đế, Trung quán nghe khắp Trung đạo đệ nhất nghĩa đế, cũng nghe khắp Tam đế. Không quán, độ Tứ trụ trăm ngàn chúng sinh, Giả quán, độ Trần sa trăm ngàn chúng sinh. Trung quán, độ Vô minh trăm ngàn chúng sinh. Nhất tâm tam quán có vô lượng đức, tán thán không cùng tận, chỉ lược thuyết thôi!

5. Liệt danh: Đại sĩ đại danh hoặc theo pháp môn, hoặc theo hạnh đức, hoặc theo bản nguyện, tuy là một danh mà đủ vô lượng nghĩa, nay y kinh y quán, giải thích tên của mười tám vị Bồ-tát.

“Văn-thù-sư-lợi”, Trung hoa dịch là Diệu Đức, Đại Kinh nói: Thấy rõ Phật tánh cũng như Diệu Đức. Kinh Vô Hành nói: Mãn-thùthi-lợi Phổ Siêu gọi là Nhu thủ. Kinh Tư Ích nói: Tuy nói các pháp mà không khởi pháp tướng cũng không khởi phi pháp tướng nên gọi là Diệu Đức, Kinh Bi Hoa nói: Nguyện ta hành Bồ-tát đạo, chúng sinh được hóa độ khắp mười phương đều thành Phật trước và khiến cho, thiên nhãn của ta đều thấy tất cả. Quốc độ của ta đều là Nhất sinh Bồ-tát, thảy đều theo ta khuyến phát đạo tâm, ta hành Bồ-tát đạo không có ngưng nghỉ. Trong kinh Bảo Tạng, Phật dạy: Công đức ông tạo dựng vô cùng sâu xa, nguyện đạt đến Diệu độ, cho nên nay hiệu là Văn-thù-sư-lợi được làm Phật ở thế giới Hoan Hỷ phương Bắc, hiệu là Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo Tích Phật. Hiện nay mọi người nghe danh hiệu ngài thì diệt được bốn trọng tội, vì hình bóng Bồ-tát là biểu trưng Đức Phật Thích Ca. Quán tâm tánh lý ba đức bí mật, không ngang không dọc cho nên gọi là Diệu đức.

“Quán Thế Âm”: Thiên Trúc gọi là Bà-lũ-cát-để-duyệt. Kinh Tư

Ích nói: Nếu chúng sinh nào thấy được ngài thì nhất định chứng đắc Bồ-đề, người nào xưng danh hiệu thì thoát khỏi các khổ cho nên gọi là “Quán Âm”. Kinh Bi Hoa nói: Nếu chúng sinh nào đang chịu khổ mà nhớ nghĩ xưng danh hiệu ta, thì ta dùng thiên nhãn thiên nhĩ để thấy nghe, nếu người ấy không thoát khổ thì ta không thành Chánh giác. Trong kinh Bảo Tạng, Phật nói: Ông xem xét tất cả chúng sinh sinh tâm đại bi, nên nay tên hiệu của ông là “Quán Thế Âm”. Phần văn dưới tự giải thích tên…

(Phần Hạ)

Giải thích:

“Quán Thế Âm” theo Quán tâm: Tam trí gọi là “Quán”, Tam đế gọi là “Thế”, tam quán là bản ngữ cho nên gọi là “Âm”.

“Đắc Đại Thế Chí Bồ-tát”: Kinh Tư Ích nói: Ta để chân xuống làm chấn động ba ngàn đại thiên thế giới và cung điện ma, cho nên gọi là “Đại Thế Chí”. Kinh Bi Hoa nói: Nguyện thế giới của ta như của Quán Thế Âm không khác. Kinh Bảo Tạng, Phật nói: Do ông nguyện giữ đại thiên thế giới, nên nay tên ông là Đại Thế Chí. Quán tâm giải thích: Tam chỉ là chân, đặt xuống đất tam đế làm chấn động mười pháp giới, tất cả nơi kiến ái bám trụ thảy đều nghiêng ngửa chuyển động…

“Bất Hưu Tức Bồ-tát”: Kinh Tư Ích nói: Hằng hà sa kiếp làm một ngày đêm, ba mươi ngày làm một tháng, mười hai tháng làm một năm, trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp được gặp một đức Phật, như vậy gặp Hằng hà sa Đức Phật, hành các phạm hạnh tu tập công đức, rồi sau mới được thọ ký, tâm không dừng nghỉ cho nên gọi “Bất Hưu Tức”. Quán tâm: quán Không chẳng trụ nơi Không, xuất Giả chẳng trụ Giả, nhập Trung chẳng trụ Trung, song chiếu nhị đế gọi là “Bất Hưu Tức”.

“Bảo Chưởng Bồ-tát”: kinh Phổ Siêu nói: Mặc áo giáp thượng đức cho đến Đức Phật cũng không thể cản trở hủy bại khiến bỏ Đại thừa, nếu có người như còn trong mộng không có chí ý theo nhị thừa, thường đem tâm chân thật tâm thông tuệ vì họ diễn giảng, đối vối trân bảo tâm không tham tiếc, cho nên gọi là “Bảo Chưởng”. Quán tâm: Bất tư nghì tam đế gọi là “Bảo”, nhất tâm tam quán gọi là “Chưởng”, dùng quán chưởng đây để giữ lấy Bảo đế này, tự lợi lợi tha cho nên gọi là “Bảo Chưởng”.

“Dược vương”: Kinh Bi Hoa nói: Nguyện trong hiền kiếp một ngàn bốn trăm Đức Phật ban đầu thành đạo ta đều cúng dường, chư Phật nhập diệt ta đều xây tháp, thời kiếp tận chúng sinh khổ não ta đều cứu hộ, chúng sinh bị nạn đao binh bệnh tật dịch ta làm Đại y vương, rồi sau làm Phật. Kinh Bảo Tạng, Phật nói: Nay ông tên là Hỏa Tịnh Dược vương, về sau làm Phật tức Lâu Chí Như Lai. Quán tâm giải thích v.v…

Tiếp tục dưới giải thích bảy vị Bồ-tát.

“Bạt-đà-bà-la”, Trung Hoa dịch là Thiện Thủ, cũng gọi là Hiền Thủ. Kinh Tư Tư Ích nói: Nếu chúng sinh nghe danh hiệu này thì nhất định sẽ đắc Tam-bồ-đề, cho nên gọi là “Thiện Thủ”. Quán giải thích: Trung đạo chánh quán là thượng thủ trong các điều thiện, cho nên nói “Thiện Thủ”.

“Di lặc”, Trung Hoa dịch là Từ Thị. Kinh Tư Ích nói: Nếu chúng sinh thấy được ngài liền đắc Từ tâm Tam-muội, nên gọi là Từ Thị. Kinh Hiền Ngu nói: Quốc vương thấy tượng sư điều phục tượng (voi) liền sinh Từ tâm, do đó mà đặt tên “Từ Thị”. Kinh Bi Hoa nói: Phát nguyện ở trong kiếp binh đao hoả hoạn mà cứu giúp chúng sinh. Nay giải thích theo Quán tâm: Trung đạo chánh quán tức là Vô duyên đại từ, căn lực Từ thiện khiến các tâm sở đều nhập đồng thể đại bi trong pháp, lìa các điều bất thiện, cho nên gọi là “Từ Thị”. Lại, nói “Từ” là họ, tên là Adật-đa, Trung Hoa dịch là Vô Thắng.

Đây lược bớt, không giải thích Bồ-tát Bảo Tích.

“Đạo sư”: Kinh Tư Ích nói: Đối với chúng sinh rơi vào tà đạo thì sinh tâm đại bi, khiến cho họ nhập chánh đạo mà không cầu báo ân, cho nên gọi là “Đạo sư”. Quán tâm giải thích: Tam quán diệu trí dẫn dắt tất cả hành, không rơi vào nhị biên, đều nhập chánh quán, cho nên gọi là “Đạo Sư”. Những điều gì chưa giải thích, thì sau sẽ chú thích…

6. Từ “Các vị đại Bồ-tát như thế” trở xuống, là câu tổng kết.

Loại chúng thứ ba: Tạp chúng: Cựu dịch là “Chúng phàm phu”, nhưng trong đây có Thánh. Cựu dịch là “Tục chúng”, nhưng trong đây có Đạo. Cựu dịch là “Thiên nhơn chúng”, nhưng trong đây có rồng, quỉ thần. Các kiểu dịch như thế đều bất tiện. Nay gọi là “Tạp chúng” thì đầy đủ ý. Bởi vì bao gồm năm đường hai cõi tám phiên cho nên gọi là “Tạp”. Kinh Phương Đẳng cũng liệt nêu địa ngục, Kinh Trung Ấm cũng nói “hóa vô sắc”, đây đều tùy căn cơ thích nghi thị hiện, không thể liệt bày một mà đều đủ, lại không thể quyết định thứ lớp kia. Xưa lại nói: Người là chủ của cõi kia, nhường cho khách ở trước. Kinh Vô Lượng Nghĩa chỉ với kinh này là đồng bao quát, nêu quốc vương quốc thần quốc sĩ, quốc nữ không luận khách hay chủ nhường nhau. Các kinh gia rút ra kết luận, phải hướng đến văn kinh liệt bày, hoặc có ý riêng chưa rõ ràng! Nay xem văn này có tám phiên. Trước hết nêu Đế-thích, tiếp đến kể Tứ vương, trước là rồng sau là chim quỉ thần nhiều lần nêu lên, vì nghĩa này cho nên gọi là Tạp chúng, không thể nói thứ lớp kia. Lại, Tạp chúng ấy trong đó có người đắc đạo có người chưa đắc đạo, quả báo lẫn lộn và hình thể lẫn lộn, cho nên nói “tạp”. Trong số đó có người đắc đạo Nhị thừa, vô lậu trí cùng vô minh phiền não lẫn lộn, cho nên nói “tạp”. Trong số đó có người đắc Bồ-tát đạo, lẫn lộn hòa cùng với chúng có căn cơ tạp, cho nên gọi là “tạp”. Trong đó có người đắc Phật đạo, một pháp đầy đủ tất cả các pháp cho nên nói “tạp”. Nghĩa “tạp” như vậy, đâu có thể lấy hình thể phàm phu thế tục mà phê phán, lại không thể lấy hàng nhân thiên ngũ đạo mà phê phán, cho nên nói “tạp”. Đây là căn cứ Giáo mà giải thích.

“Thích-đề-hoàn-nhân”, Nhân Đà-la-ni, hoặc nói Chiên-đề-la, Trung Hoa dịch là Năng tác, làm chủ cõi trời Đao-lợi. Đao-lợi, Trung Hoa dịch là Tam thập tam thiên. Bốn bên đều có tám thành, đến thành Hỷ Kiến thì hợp thành ba mươi ba tầng cùng ở đỉnh núi Tu-di. “Tu-di”, Trung Hoa dịch là An minh, do bốn thứ châu báu tạo thành, cao rộng ba trăm ba mươi sáu vạn dặm. Đây là chủ cõi trời Dục, cho nên nêu trước. Kinh Tạp A-hàm quyển thứ bốn mươi nói: Có một Tỳ-kheo hỏi Phật: Vì sao tên là Thích-đề-hoàn-nhân? Phật đáp: Vì thuở xưa lúc làm người thì hành Đốn thí, có khả năng làm chủ, cho nên gọi là Thích-đềhoàn-nhân. Vì sao gọi là Phú-lan-đà-la? Vì lúc làm người, thường hành bố thí. Vì sao gọi Ma-già-bà? Vì lúc làm người, có tên ấy. Vì sao gọi Sa-bà-la? Vì khi còn làm người, thường bố thí áo Sa-bà-la. Vì sao gọi Kiều-thi-ca? Vì khi làm người, có họ ấy. Vì sao gọi Xá-chỉ-bát-để? Xá Chỉ là vợ, Bát-để là chồng. Vì sao gọi là Thiên nhãn? Vì khi còn làm người, rất thông minh, trong nhất thời tọa tư duy ngàn thứ nghĩa, quán sát xứng lượng cho nên gọi là Thiên nhãn. Vì sao gọi Nhân-đề-lợi? Vì làm chủ ba mươi hai tầng trời. Kinh Anh Lạc quyển thứ ba nói: Thiên đế tên Câu-dực. Giáo môn giải thích: Trong Kinh A-hàm, Đế-thích là A-na-hàm. Kinh Bát-nhã nêu mười phương nạn vấn Bát-nhã đều gọi là Thích-đề-hoàn-nhân. Trong Biệt giáo Viên giáo, nêu rõ Thích-đềhoàn-nhân đắc Thủ Lăng-Nghiêm Tam-muội, nội chứng không đồng, trải qua hai ngàn lẻ hai mươi bốn kiếp thuộc Hiền kiếp làm Phật, hiệu là Vô Trước Thế Tôn.

Bản tích: Thập trụ, Hạnh, Hồi hướng tức ba mươi tầng trời. Thập địa là một, Đẳng giác là hai, Diệu giác làm chủ. Đồng nương cậy đệ nhất nghĩa thiên, cùng uống cam lộ thật tướng tức Bản. Ở đỉnh núi Tu-di  tức tích.

Quán tâm giải thích: Tự hành thập thiện, khuyến hóa người khác tùy hỷ. Ba mươi điều thiện này đều Không đều Giả đều Trung, tức là ba mươi ba môn quán.

Ba vị thiên tử: Danh Nguyệt v.v… là nội thần hoặc như khanh tướng, hay gọi là Tam quang thiên tử. “Danh Nguyệt” là Bảo Cát Tường Nguyệt thiên tử, tức Đại Thế Chí ứng hóa. “Phổ Hương” là Minh Tinh thiên tử, tức Hư Không tạng ứng hóa. “Bảo Quang” là Bảo Ý Nhật thiên tử, tức Quan Thế Âm ứng hóa. Đây là Bản Tích giải thích.

Quán tâm giải thích: Tam quán tức tam trí, tam trí tức tam quang, từ tam đế sinh tam trí. Đế tức là Thiên, Trí tức là Tử.

“Tứ đại thiên vương”: Là quan ngoại thần của Đế-thích như tướng võ ở núi Tứ bảo cao bằng nửa núi Tu-di, rộng hai mươi bốn vạn dặm, Phía Đông là Đề-đầu-lại-tra, Trung Hoa dịch là Trì Quốc, cũng gọi là An Dân, ở Hoàng Kim Sơn thống lãnh hai loại: Kiền-đạt-bà và Phúđơn-na. Phía Nam là Tỳ-lưu-lặc-xoa, Trung Hoa dịch là Tăng Trưởng, cũng gọi là Miễn Ly, ở núi Lưu ly thống lãnh hai loại quỷ: Tích-hiệp- đa và Cưu-bàn-trà. Phía Tây là Tỳ-lưu-bác-xoa, Trung Hoa dịch là Phi Hảo Báo, cũng gọi Ác nhãn, cũng gọi là Tạp ngữ, ở núi Bạch-ngân thống lãnh hai loại quỉ: Độc Long và Tỳ-xá-xà. Phía Bắc là Tỳ-sa-môn, Trung Hoa dịch là Chủng Chủng Văn, cũng gọi Đa Văn, ở núi Thủy tinh thống lãnh hai loại quỉ: La-sát và Dạ-xoa. Mỗi phương thống lãnh hai loại quỉ, không để cho chúng làm hại người, cho nên gọi là “Hộ thế”.

Giải thích theo Bản tích: Bản, là thường lạc ngã tịnh. Bốn vua hộ trì Phật pháp, không để cho người ngoài có thể lấy đi một cành lá nhỏ hoặc phá hoại. “Thường” vương, ủng hộ phương Đông thường vô thường song thọ. “Lạc” vương, hộ phương Nam lạc vô lạc song thọ. “Ngã” vương, hộ Tây phương ngã vô ngã song thọ. “Tịnh” vương, hộ phương Bắc tịnh bất tịnh song thọ. Cành dụ cho thường, hoa là dụ cho ngã, quả dụ lạc, mầm và lá dụ cho tịnh. Ủng hộ cành lá hoa quả này, thường làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Tích, là làm Tứ vương mà hộ thế.

Giải thích theo Quán tâm: Trí quán tứ đế tức là tứ vương. Mỗi đế trừ hai hoặc ái kiến, tức là bảo hộ trừ tám ái kiến. Tiếp, trên cõi Đao-lợi có Diệm-ma, Trung Hoa dịch là Thiện thời. Đại luận nói: Diệu Thiện cách cõi Đao-lợi ba trăm ba mươi sáu vạn dặm, trên Thiện thời có cõi Đâu-suất-đà, Trung Hoa dịch là Diệu túc, cách cõi Diệm-ma như cách đất, mà không liệt kê! Vì sao vậy? Vì cõi trời dưới thì ngu độn, cõi trời trên thì đắm dục lạc, mà còn biết tập họp nghe pháp, huống chi trời này không đắm không ngu độn mà không đến ư? “Tự Tại” tức cõi thứ năm, “Đại Tự Tại” tức là tầng thứ sáu, tự hóa ngũ dục tha hóa ngũ dục…

Có người nói: “Đại Tự Tại” là đỉnh của cõi Sắc. Thật ra trời này không nên vượt đến cõi Sắc kia. Bản tích: Bản, hai cõi trời này trụ định Tự tại, Tự tại vương… Tích, là hai cõi trời vậy. Giải thích theo Quán tâm: Nhập Không là Tự Tại quán, nhập Trung là Đại Tự Tại quán.

Tiếp đến là nêu cõi trời Sắc giới. “Sa-bà”, Trung hoa dịch là Nhẫn. Cõi kia chúng sinh sống với mười điều ác, không chịu xa rời. Từ con người mà đặt tên cõi, cho nên gọi là Nhẫn. Kinh Bi Hoa nói: Vì sao gọi là Sa-bà? Vì các chúng sinh ở đó nhẫn chịu ba độc và các phiền não, cho nên gọi là cõi Nhẫn, cũng gọi là “Tạp” vì lẫn lộn chúng sinh trong chín đường ở chung. “Phạm”, Trung Hoa dịch Ly dục, trừ bỏ ràng buộc của cõi dưới mà hướng lên cõi Sắc, cho nên gọi là “Ly-dục”, cũng gọi là Cao Tịnh. “Thi khí”, Trung Hoa dịch Đảnh Kế. Lại, nước ngoài gọi lửa là Thọ-đề Thi-khí, vì vua nước này vốn tu định Hoả Quang, phá lậu hoặc của Dục giới, từ đức mà đặt tên. Nhưng kinh nêu “Phạm thiên vương”, lại nêu “Thi-khí”, giống như hai người. Căn cứ Thích luận giải thích: chính là ông Thi-khí làm vua. Nay, Kinh nêu địa vị trước hiển danh sau, sợ gọi Thi-khí là một người khác. Trụ thiền trung gian, trong có giác quán, ngoài có ngôn thuyết, được chủ lãnh, làm vua. Riêng tu thiền làm dân cõi Phạm thiên tu thêm tứ vô lượng tâm thì làm vua. Sơ thiền có Phạm chúng, Phạm phụ, Đại phạm, nay nêu “vương”(vua) để thâu nhiếp tất cả. “Quang Minh” là Nhị thiền, gồm có Thiểu quang, Vô lượng quang, Quang-âm thiên. Tam thiền có Thiểu-tịnh thiên, Vôlượng-tịnh thiên, Biến-tịnh thiên. Tứ thiền có Mật thân, cũng vô quái ngại, vô lượng mật cũng thọ phước mật quả cũng Quảng quả, vô tưởng mật cũng Vô tưởng. Lại có Ngũ Na-hàm, Bất Phiền , Bất Nhiệt, Thiện Hiện, Thiện Kiến, Sắc Cứu cánh, cũng là Đại Tự Tại tức Ma-hê-thủ- la, Kinh văn chỉ nêu tóm lược, không nêu đầy đủ chỉ nói “vân vân” (v.v…) tức các cõi này. Theo lệ có giải thích theo Giáo môn, Bản tích, Quán tâm, tự suy ra mà hiểu.

Tiếp đến nêu tám vị Long vương: “Nan-đà” gọi là Hoan Hỷ, “Bạt” gọi là Thiện. Hai anh em thường ủng hộ nước Ma-kiệt-đà làm mưa, khiến nước này luôn no đủ. Vua Bình-sa mở hội tạ ơn long vương, dân chúng nghe đều hoan hỷ, do đó mà đặt tên là Hoan Hỷ. Đây là Rồng được Mục-liên hàng phục. Chúng ở trong biển vậy. Giải thích theo Bản tích: Bản, trụ Hoan-hỷ địa. Tích, ở giữa biển. Quán giải thích:

Tam quán tức Trung đạo sinh pháp hỷ. “Ta-già-la long vương”: từ chổ ở là biển Ta-già-la, mà đặt tên. Kinh Hoa Nghiêm đã khen tụng. Xưa nói nhân nước mà đặt tên. Giải thích theo Bản tích: Bản, trụ trí độ đại hải. Tích, ở biển xanh. “Hòa-tu-kiết long vương” đây gọi là Đa đầu, cũng gọi là Bảo Xưng sống ở trong nước, Bản, trụ Phổ hiện sắc thân Tammuội. Tích, thị hiện Rồng nhiều đầu. Quán: Nhập Giả quán, phân biệt vô lượng pháp môn… “Đức-xoa-ca”, Trung Hoa dịch Hiện Độc cũng gọi Đa thiệt, hoặc nói Lưỡng thiệt. Bản, trụ nơi pháp môn Nhạo thuyết vô ngại biện. Tích, thị hiện Rồng nhiều lưỡi. “A-na-bà-đạt-đa” từ ao mà đặt tên. Đây gọi Vô nhiệt, là ao Vô nhiệt vậy. Kinh Trường A-hàm quyển mười tám nói: Trên đỉnh Tuyết sơn có ao tên A-nậu-đạt, trong ao có cây Ngũ-quế-đường, từ ao mà đặt tên. Long vương thường ở trong đó. Các loại rồng ở Diêm-phù-đề có ba tai hoạ: 1. Gió thổi cát nóng dính vào thân, đốt cháy da thịt và xương tuỷ rất khổ não. 2. Gió dữ dội thổi đổ cung điện kia, làm mất bảo vật y phục trang sức, hiện nguyên thân rồng, rất khổ não. 3. Khi các rồng đang vui thú, chim xí điểu vào cung bắt rồng con mới sinh ăn thịt. Những khổ sở đó trong ao này không có. Lại ao này, nếu chim xí sinh tâm muốn đến, thì liền mạng chung, nên gọi ao Vô nhiệt não. Bản, trú thanh lương “Thường, lạc, ngã, tịnh”. Tích, thường ở nơi ao trong mát. Quán: Tam quán diệu tuệ, thanh tịnh Ngũ trụ phiền não, tránh khỏi cát nóng của hai cách chết.

“Ma-na-tư”, Trung Hoa dịch Đại thân, hoặc là Đại ý, Đại lực… Tu-la quét nước biển vào thành Hỷ-kiến, rồng dùng thân quấn quanh để chặn nước biển. Bản, trú vô biên thân pháp môn. Tích, làm Rồng thân lớn. Quán: Trung đạo chánh quán tánh kia rộng lớn.

“Ưu-bát-la”, Trung Hoa dịch là Đại sắc Liên hoa trì, rồng trú nơi ao này, lấy đó đặt tên. Bản, trú nơi Pháp Hoa Tam-muội. Tích, ở nơi ao này. Quán: Tam quán tức là tu nhân, nhân tức liên hoa (hoa sen). Kinh Chánh Pháp Niệm nói: Rồng bảo vệ cảnh giới chư thiên, Tu-la dấy binh đến trước cùng rồng đánh nhau, trước rồng thắng trận, cho nên biết là rồng cai quản cõi trời.

Tiếp đến liệt kê “bốn vị Khẩn-na-la”, cũng gọi là Chân-đà-la, Trung Hoa dịch là Nghi thần, giống như người nhưng có một sừng cho nên gọi là Nhân phi nhân (người chẳng phải người), là thần tấu nhạc của Thiên đế ở núi Thập bảo, thân có dị tướng, có thể tấu nhạc. Khi Phật thuyết pháp, chư thiên gảy đàn hát ca tụng pháp môn. Xưa nói: Pháp Khẩn tấu Tứ đế, Diệu Khẩn tấu Thập nhị nhân duyên, Đại Khẩn tấu Lục độ, Trì Khẩn tấu chung ba thứ trước. Nay nói tấu pháp môn Tứ giáo. Bản, trú nơi bất khả tư nghì, không khởi Diệt định, chắp tay an trú nơi thiền định, dùng ngàn vạn kệ tán thán các Pháp vương. Tích, nhờ nơi đàn sáo ca vịnh thập lực. Quán: Quán âm thanh tức Không tức Giả tức Trung. Tùy thuận tam đế, tức là tán thán Phật.

“Càn-thát-bà”, Trung Hoa dịch là Khứu hương, lấy mùi hương làm thức ăn, cũng gọi là Hương ấm, thân ấy bay ra mùi hương. Đây là thần nhạc thế tục của Thiên đế. “Nhạc Càn-thát-bà” chuyên đảo múa cờ. “Nhạc âm Càn-thát-bà” đánh trống, đàn sáo. “Mỹ Càn-thátbà” múa cờ nhưng giỏi hơn. “Mỹ âm Càn-thát-bà” đàn sáo nhưng điêu luyện hơn.

“A-tu-la”, Trung Hoa dịch là Vô tửu, hái hoa khắp tứ thiên hạ đem ủ rượu ở biển lớn, do nghiệp lực rồng cá nặng nề, rượu không lên men, bèn nỗi giận thề quyết không uống rượu nên gọi là Vô tửu thần, cũng gọi là Bất đoan (không chính trực). Di Thiên An sư nói: thật thà chất phác thành thật tin tưởng. Vị thần này nịnh bợ quanh co không tương xứng với danh. Có hai loại A-tu-la. Loại thuộc loài Quỷ, ở bên biển lớn. Loại thuộc loài Súc sinh, ở dưới đáy biển. “Bà-trĩ”, Trung Hoa dịch là Bị Phược, hoặc gọi là Ngũ Xứ Bị Phược, hoặc gọi là Ngũ Ác. Như bị vật trói buộc nơi cổ không mở ra được cho nên nói Bị Phược, cũng gọi là Hữu Phược, bị Đế-thích trói buộc. Giải thích theo Bản Tích: Bản, năng trói buộc năm đường, trói buộc ma ngoại đạo. Tích, làm dáng dấp như đây. Chánh Pháp Hoa nói Tối thắng quán, dùng trí tam quán trói buộc Ngũ-trụ-hoặc, nhập trong thật tế. “Khư-la-khiên-đà”, Trung Hoa dịch là Quảng kiên giáp, cũng gọi Ác ấm, từ trong nước biển vọt ra, chánh bản gọi là Bảo cẩm. Giải thích theo Bản Tích: Bản, trụ nơi quyền thật nhị trí, lòng từ gánh vác chúng sinh. Tích, làm hai vai rộng. Quán: Tam quán năng cổ động che lấp biển lớn sinh tử ngũ trụ. “Tỳ-ma-chấtđa”, Trung Hoa dịch là Tịnh Tâm, cũng gọi là Chủng Chủng Nghi. Sóng nước biển phát ra âm thanh, gọi là Tỳ-ma-chất-đa, cũng là tên cha của Xá-chỉ. Quán Phật Tam-muội nói: Quang âm thiên sinh trên đất. Đất khiến có dục nên vào biển tắm rửa, chất bất tịnh rơi vào bùn biến thành trứng, tám ngàn năm sau nở ra một người con gái, một ngàn cái đầu thiếu một cái, hai mươi bốn cái tay. Người nữ này giỡn đùa trong nước, nước tinh vào thân, sau tám ngàn năm sinh ra một người con trai hai mươi bốn cái đầu, một ngàn cái tay thiếu một cái. Âm thanh do sóng nước biển va đập nên gọi là Tỳ-ma-chất-đa. Dùng danh từ này đặt tên cho người con trai. Tỳ-ma-chất-đa lấy Càn-thát-bà nữ sinh ra Xá-chỉ. Đế-thích do nghiệp lực nên khiến cho cha Xá-chỉ ở nơi cung điện bảy báu, lấy Xá-chỉ làm vợ, sau gièm pha cha Xá-chỉ liền đem binh giao chiến, chân đạp sóng nước, tay công phá thành Hỷ Kiến, Đế-thích dùng sức trì chú Bát-nhã nên không thể làm hại được. Chánh bản gọi là Yến cư (ở yên).Giải thích theo Bản Tích: Bản, là sắc tâm vốn tịnh. Tích, là tên đây. Quán: Chánh quán trung đạo tức là tịnh tâm.

“La-hầu-la”, Trung Hoa dịch Chướng Trì, giữ ngăn che ánh sáng mặt Trời, mặt trăng. Là thân súc sinh dài tám vạn bốn ngàn do tuần, miệng rộng cả ngàn do tuần, trang nghiêm thân bằng bảo châu, ngắm xem vườn rừng thiên nữ ở cõi trời. Nếu người trong bốn châu thiên hạ hiếu dưỡng cha mẹ cúng dường Sa-môn, thì khiến chư thiên có oai lực, mưa đao trên không. Nếu không như vậy, thì chư thiên vào cung không ra. Lại, mặt trời phóng chiếu ánh sáng vào mắt La-hầu-la không thể thấy được nên lấy tay che mặt trời, người đời đều nói Nhật trùng quái hiểm, với đủ loại tà thuyết. Lấy tay che mặt trăng, cũng như vậy. Hoặc là kêu lớn tiếng, người đời nói thú ở cõi trời rống, sẽ có nguy loạn triều vua suy tàn, bao nhiêu tà thuyết v.v… Vì sợ mặt trăng mặt trời nên có lúc thân kia hiện to lớn gấp bội để nuốt mặt trăng mặt trời. Mặt trời mặt trăng bị mất ánh sáng, nên đến kêu than với Phật, Phật bảo La-hầu-la chớ nuốt mặt trời mặt trăng. La-hầu toàn thân chi tiết chuyển động, toát mồ hôi, liền nhả mặt trời mặt trăng. Đây là vì nhân duyên của các lực chúng sinh, mặt trời mặt trăng và Phật hợp lại nên không thể hại được. Xưa có Bà-la-môn thông minh rộng bố thí ,dùng bốn ngàn xe chở thức ăn ở giữa đồng trống bố thí, thấy một tháp Phật bị người ác thiêu cháy liền dùng bốn ngàn xe chở nước dập lửa cứu tháp. Bà-la-môn ấy hoan hỷ phát nguyện, nguyện được thân lớn nhất cõi Dục giới. Vì đã không có chánh tín, thích đấu chiến, ưa bố thí nên sinh trong thành Quang minh, làm La-hầu-la chủ A-tu-la. Chánh bản còn gọi là Hấp Khí. Bản quán v.v…

Tiếp kể đến “bốn Ca-lâu-la vương”. “Ca-lâu-la”, Trung Hoa dịch là Kim Xí, loài chim lông cánh sắc vàng ở trên cây đại thọ trong tứ thiên hạ, hai cánh cách nhau ba trăm ba mươi sáu vạn dặm. Có người nói Trang Tử gọi là chim Bằng. Khi chim Bằng đi hai cánh xoè ra che chở các loài chim khác, cũng gọi là Phụng hoàng. Chim phụng này không dẫm đạp trên cỏ tươi, thích ăn đọt trúc, đậu ở cây Nhũ đồng mà sống, còn loài Kim xí thì chuyên ăn rồng. “Đại Uy Đức”: Có uy hơn các loài khác. Lại, uy dũng có thể thâu nhiếp các loài rồng. Chánh bản gọi là Cụ Túc. “Đại thân”: Thân lớn hơn các loài chim khác. “Đại Mãn”: Do ăn rồng mà sung mãn ý muốn. “Như Ý”: Là cổ có đeo ngọc. Chánh bản gọi là Bất khả động. Chim Ca lâu có thần lực, con trống biến hóa làm thiên tử, con mái hóa làm thiên nữ, hóa trú xứ của mình thành có cung điện báu cũng có trăm vị thơm ngon, nhưng vì nghiệp báo phải ăn rồng. Loài chim thai sinh chỉ có thể ăn rồng thai sinh mà không thể ăn ba thứ rồng còn lại. Loài chim noãn sinh có thể ăn hai thứ rồng noãn và thai sinh. Loài chim thấp sinh có thể ăn ba thứ rồng noãn, thai, thấp sinh. Loài chim hóa sinh có thể ăn luôn cả bốn thứ rồng (noãn thai thấp hóa). Kinh Quán Phật Tam-muội nói: Chính âm là Ca-lầu. Một ngày ở núi về phương Đông loài chim này ăn một con rồng vua và năm trăm rồng con, ba phương còn lại cũng như vậy, ăn giáp một vòng thì quay lại từ đầu, thọ tám ngàn tuổi. Khi sắp mạng chung thì mất hết thế lực, muốn ăn rồng con thì rồng mẹ gào thét nên chim không ăn được, liền nổi giận từ núi Kim Cương bay thẳng ra biển, xuyên qua địa luân, không thể vượt qua phong luân, bị gió thổi mạnh đẩy trở về núi Kim Cương, cứ như vậy bảy lần rồi trở lại trên đỉnh núi Kim Cương mà chết, da thịt phát ra thành lửa thiêu đốt núi báu. Nan-đà sợ lửa đốt cháy núi nên liền tưới mưa dập tắt lửa, thịt tan rửa chỉ còn quả tim xông thẳng đến phong luân cũng bảy lần trở lại rơi trên núi, thành ngọc như ý. Rồng được ngọc này thì làm vua. Vua ở nhân gian cũng động lòng muốn lấy hạt ngọc này.

Tiếp kể đến người: “Vi-đề-hy mẫu”, Trung Hoa dịch là Tư Duy, là mẹ của A-xà-thế. Vua “Tần-bà-sa-la”, Trung Hoa dịch là Mô Thật, là cha “A-xà-thế” tức Vị Sinh Oán, hoặc gọi là “Bà-lưu-chi”, Trung Hoa dịch là Vô chỉ, người trong nước gọi ông là Thiện Kiến, Thiện Kiến là Bản danh, Vô chỉ là tên gọi nêu Tích. Đại Kinh nói: “A-xà” gọi là Bất sinh, “Thế” gọi là Oán. Vì không sinh Phật tánh, thì phiền não oán sinh. Phiền não oán sinh, thì không thấy Phật tánh, không sinh phiền não thì thấy được Phật tánh. Lại, “A-xà” gọi là Bất sinh, “Thế” gọi là thế pháp. Do tám pháp thế gian không làm ô nhiễm được, cho nên gọi là “A-xà-thế”. Đây là theo nghĩa Bản. Kinh Phổ Siêu nói: “A-xà-thế theo Văn Thù sám hối, đắc Nhu thuận nhẫn. Khi mạng chung liền vào địa ngục Tẩn-tra-la, vừa vào lại ra ngay, sinh lên cõi Phật, đắc Vô sinh nhẫn. Đến thời Phật Di-Lặc xuất thế, lại đến cõi này làm Bất Động Bồtát, về sau sẽ thành Phật hiệu là Tịnh Giới Như Lai”. Tích kia đã vậy, thì Bản há có thể lường? Khi Đức Phật thuyết Pháp Hoa, ông được dự vào chúng thanh tịnh. Đến thời kinh Niết-bàn thì A-xà-thế tự nêu tội nghịch của mình. Đâu khác gì Ca-diếp ở trên hội Pháp Hoa được Phật thọ ký, mà khi Phật Niết-bàn thì không kham phó chúc. Không thể mê muội đối với Tích và lầm lẫn đối với Bản kia. Quán giải thích: Tham ái là mẹ, Vô minh là cha. Hại cha mẹ cho nên gọi là nghịch, ngược lại tức là thuận. “Hành nơi phi đạo mà thông đạt Phật đạo” là vậy.

Hỏi: Đức Phật ở trong loài người thuyết pháp, tại sao liệt kê người ít như vậy?

Đáp: Văn kinh lược bớt không chép, thật sự người không ít. Văn nói: “Và các Tiểu vương, Chuyển luân thánh vương v.v…” Trong kinh Vô Lượng Nghĩa liệt nêu Tứ luân vương, quốc vương, quốc thần, quốc dân, sĩ nữ, nên chúng người rất đông vậy.

Hỏi: Trời người rồng, quỉ đều đến gặp Phật nghe pháp, một nẻo địa ngục, một cõi Vô sắc ý gì không nêu ra?

Đáp: Nghĩa này nay sẽ biện rõ. Phàm lên xuống các đường đạo là do Giới có trì có hủy. Có thấy Phật hay không thấy Phật, là do Thừa có chậm có nhanh. Nhưng trì Giới có thô tế, cho nên quả báo có hơn có kém. Trì Thừa có Tiểu có Đại, cho nên thấy Phật có Quyền có Thật. Đây lược nêu Giới và Thừa đều có ba bậc. Nương một câu Niết-bàn triễn khai thành bốn câu, giải thích bốn câu thì nghĩa kia hiển rõ:

  1. Tu Giới và Thừa đều nhanh.
  2. Tu Giới chậm, Thừa nhanh.
  3. Tu Giới nhanh, Thừa chậm.
  4. Tu Giới và Thừa đều chậm.

Nếu luận chung Giới Thừa, thì tất cả thiện pháp, tất cả quán tuệ đều được gọi là Giới cũng đều là Thừa. Ngữ thừa: nhân, thiên tức là nghĩa kia. Đạo cộng đẳng Giới đều là ý chung.Nay luận riêng thì Tam quy, Thập thiện, Bát quan trai, luật nghi xuất gia cho đến định, đều có khả năng canh phòng thân khẩu, ngăn quả đọa ác đạo, được báo cõi trời cõi người, gọi là Giới. Nếu nghe kinh phát sinh hiểu biết, quán trí nghiên cứu Tứ đế, Thập Nhị nhân duyên, Lục độ, sinh diệt, không sinh diệt v.v… do trí năng phá phiền não, mà chuyển ra khỏi ba cõi, thì gọi là Thừa. Cho nên Đại Phẩm nói: “Thiện có tướng thì bất động bất xuất, thiện vô tướng thì năng động năng xuất”, tức nghĩa đây vậy.

1. Nếu tu Giới và Thừa đều nhanh: tức hành trì Giới bậc hạ. Tu Giới nhanh thì quả báo ở trong loài người, trì Tiểu thừa Thừa nhanh. Do thân trong loài người lại trong thời Tam tạng giáo, thấy Phật nghe pháp, trì Trung thừa Thừa nhanh. Do báo thân làm người trong thời Thông giáo Đại thừa cho đến thời các kinh Đại thừa kèm phương tiện, thấy Phật nghe pháp, trì thượng thừa Thừa nhanh. Do báo thân làm người, lại trong các thời giáo Hoa Nghiêm, Pháp Hoa và Viên giáo trong các giáo, thấy Phật nghe pháp, và được dự vào hàng chúng cùng nghe. Nếu trì Giới bậc trung mà nhanh, thì quả báo ở trong cõi trời Dục, trì Tiểu thừa Thừa nhanh. Làm thân trời nơi Dục Giới ở trong thời Tam tạng,thì thấy Phật nghe pháp.Các thừa còn lại như trên nói. Nếu trì Giới bậc thượng nhanh, lại tu thêm thiền định thì quả báo ở các cõi trời Sắc, Vô sắc, trì Tiểu thừa Thừa nhanh. Làm thân trời ở các cõi Sắc, Vô sắc, ở thời Tam tạng, thì thấy Phật nghe pháp. Các thừa còn lại, như trên nói. Giải thích câu thứ nhất xong.

2. Tu Giới chậm Thừa nhanh: Tu Giới ba bậc (thượng, trung, hạ) chậm, thì quả báo đoạ trong ba đường, trì Tiểu thừa Thừa nhanh. Làm thân đoạ trong ba đường ở thời Tam tạng, thì thấy Phật nghe pháp. Các thừa còn lại, như trên nói. Giải thích câu thứ hai xong.

3. Tu Giới nhanh Thừa chậm: Vì tu Giới ba bậc nhanh, nên thọ thân trời người trong Dục giới và cõi trời Sắc, Vô sắc. Vì tu tam Thừa chậm nên Phật tuy xuất thế thuyết pháp tam thừa, mà ưa đắm quả báo lạc, ham mê ngũ dục, cho nên không thấy Phật không nghe pháp. Ba ức gia đình ở tại Xá-vệ mà cũng không thấy Phật không nghe pháp, tức mê đắm các dục lạc Tam Giới, các cõi Trời v.v… Giải Thích-câu thứ ba xong.

4. Tu Giới Thừa đều chậm: Thì thọ báo trong ba đường, không thấy Phật không nghe pháp. Giải thích câu thứ tư xong.

Văn đây không liệt kê địa ngục, do vì tu Giới chậm, khổ nặng quả báo ngăn cách thượng Thừa, lại chậm quá không thể ở thời kinh Pháp Hoa thấy Phật nghe pháp. Các kinh khác có liệt kê thì đều là tu các Thừa khác nhanh. Lại, không nêu ra cõi trời Vô sắc vì tu Giới bậc thượng nhanh, cho nên thọ thân ở cõi trời, đắm vị định nên tu thượng Thừa chậm, không thể dự hội Pháp Hoa thấy Phật nghe pháp. Các kinh khác có liệt kê thì đều là có tu Thừa khác nhanh. Nếu hiểu được ý đây, mỗi mỗi xem xét thiên long bát bộ đều biết duyên xưa nhanh hay chậm, cho nên có chúng nào đến nghe, chúng nào không đến đều có thể hiểu. Rộng giải thích thì như sớ Tịnh Danh. Hiểu được Quyền thì dẫn đến Thật Nghĩa Bổn Tích càng thêm rõ. Lấy đây mà xem xét các quán hạnh đã qua, thì nhân quả ba đời rõ ràng có thể biết.

Câu: “Đều lễ dưới chân Phật” là tổng kết chúng vân tập.

Từ “Lúc bấy giờ đức Thế Tôn” trở xuống đến hết phẩm gọi là Biệt tựa. Văn chia làm năm phần:

  1. Chúng tập.
  2. Hiện thụy.
  3. Nghi niệm.
  4. Phát vấn.
  5. Đáp vấn.

Ngài Quang Trạch phân tích nghĩa sinh khởi có thuận, nghịch. Thuận như: Do chúng tập nên có hiện thụy (điềm lành), cho đến do hỏi nên có đáp. Nghịch là: đáp là do nơi hỏi, cho đến hiện điềm lành là do chúng tập. Đây chính là thuận nghịch duyên khởi như vòng móc nối liên quan nhau. Bài tựa nơi ý chính xong mà tự chưa hiển rõ, ngay như một nhân duyên giải thích còn tự không hiểu rõ huống chi hai, ba, bốn duyên thì hoàn toàn không có đường hướng. Nay nêu rõ bốn điều Nhất trong ý chánh ở lời tựa riêng của năm nghĩa duyên khởi:

  1. Chúng tập họp: Giới thiệu Người nhất.
  2. Hiện điềm lành: Giới thiệu Lý là nhất.
  3. Nghi niệm: giới thiệu Hạnh nhất.
  4. và 5. Hỏi và đáp: là giới thiệu Giáo nhất.

Đây là giải thích theo nghĩa Nhân duyên.

Căn cứ về giáo: Tựa đây là tựa chánh, chẳng phải Tam tạng, chẳng phải Thông, chẳng phải Biệt, mà tựa Giới thiệu ý chánh trong Viên giáo. Căn cứ về Bản Tích, nếu lấy bài tựa giới thiệu bốn điều nhất của Bản địa trong Thọ lượng, thì nghĩa đây có thể tự biết, không cần ghi chép lại. Giải thích theo Quán tâm, có thể hiểu…

Phần một: Chúng tập, lại chia làm hai: Ban đầu chúng tập oai nghi, tiếp đến chúng tập cúng dường. Pháp Hoa luận nêu rõ điều này, là uy nghi như pháp trú.

“Bốn chúng”: Xưa nói: Xuất gia có hai, tại gia có hai, hợp thành bốn chúng. Ý này gọn nhưng không đủ khắp. Nay căn cứ một chúng, lại chia làm bốn:

  1. Chúng phát khởi.
  2. Chúng đương cơ.
  3. Chúng ảnh hưởng.
  4. Chúng kết duyên.

Chúng phát khởi: chúng có Quyền trí mưu tính sáng suốt, xét biết căn cơ, biết thời mà tuyên dương phát động để thành tựu lợi ích. Như voi mẹ khểnh chân dưới gốc cây khiến voi con được bú no. Nói “phát khởi” là khiến cho chúng tập họp, phát khởi tướng lành cho đến phát khởi vấn đáp… đều gọi là chúng phát khởi. Chúng đương cơ: Do gieo trồng đức đời trước, duyên nay thuần thục, như ung nhọt chín tự vỡ, không cần động đến. Chúng này bất khởi, ngồi trong pháp hội nghe liền đắc đạo, gọi là chúng đương cơ. Chúng ảnh hưởng: Các cổ Phật xưa, Pháp thân, Bồ-tát, ẩn kín đức tột cùng viên mãn mà phụ giúp pháp vương, như các ngôi sao vây quanh mặt trăng, tuy không làm gì mà có lợi ích rất lớn. Đây gọi là Chúng ảnh hưởng. Chúng kết duyên: Là không có lực khả năng dẫn dắt kích động, đức chẳng có công dụng hàng phục vật, trấn an nghiêm trang, mà quá khứ căn tánh nông cạn, nhiễm ô xấu xa hỗn tạp, ba tuệ không sinh khởi. Hiện tại tuy thấy Phật nghe pháp mà không có bất kỳ một lợi ích nào xét theo Tứ Tất-đàn, chỉ tạo nhân duyên được độ ở vị lai, đây gọi là Chúng kết duyên.

Chúng Tỳ-kheo đã như vậy. Ba chúng còn lại cũng như vậy. Bốn lần bốn hợp thành mười sáu chúng. Đại loại như thời Đức Phật Đại Thông Trí Thắng, nay Vương tử giảng lại, tức kia là chúng phát khởi ở thời đó. Nghe pháp đắc đạo là chúng đương cơ thời đó. Nghe pháp chưa độ, đời đời gặp nhau, mà ở đời này còn trú địa Thanh văn, tức là chúng kết duyên thời đó. Thời Đức Phật kia còn có bốn lần bốn thành mười sáu chúng, thời Phật này cũng đồng một đạo, thì sao lại không. Đây là mười sáu chúng thuộc Viên giáo vậy.

Căn cứ ba giáo, theo tiền lệ có thể biết. Giải thích theo Bản tích, có thể hiểu. Giải thích theo Quán tâm: Nghiên cứu cảnh tác quán, tại danh tự trong quán hạnh vị, tức thành chúng kết duyên. Nhập tương tự vị, tức thành chúng đương cơ. Nhập phần chân vị, tức thành chúng phát khởi, chúng ảnh hưởng…

Chữ “Vi nhiễu” đi nhiễu quanh. Khi Đức Phật mới hiện ở đời, người chưa biết pháp, có Tịnh cư thiên xuống hóa làm người, đến nhiễu quanh bên phải Đức Phật xong, cung kính đảnh lễ và trở về chỗ ngồi nghe pháp. Nhân chư thiên cung kính người bắt chước theo, đây là giải thích theo Nhân duyên.

“Đi nhiễu quanh”: là oai nghi đi vòng quanh, tiêu biểu trong bốn oai nghi đều thấy viên lý, tức dùng viên đối thiên,theo ước lệ có bốn nghĩa, tức giải thích theo giáo môn. Lại, thân Phật toàn thể tướng hảo đều trang nghiêm, nhiễu quanh bốn vòng chiêm ngưỡng thì tăng trưởng định niệm Phật, tức giải thích theo quán tâm. Nếu quán sắc thân Phật, thì thấy được pháp thân tức giải thích theo Bản tích.“Cúng dường”: thông tam nghiệp đều là cúng dường. Nói chi tiết như: kính cẩn cúi thấp lễ,gọi là “cung kính”; chí thành chuyên chú niệm, gọi là “tôn trọng”, phát ra lời khen ngợi tốt đẹp, gọi là “tán thán”, làm cho y báo kia, gọi là “cúng dường”. Ở đây văn tóm lược, nêu đầy đủ thì như trong kinh Vô Lượng Nghĩa. Chư thiên dâng thức ăn, hương trời hoa trời y bát trời v.v… tức là cúng dường. Bồ-tát Đại Trang Nghiêm và tám vạn đại sĩ chắp tay, tức là “cung kính”. Nhất tâm chiêm ngưỡng Phật là “tôn trọng”, nói kệ thất ngôn tức là “tán thán”. Nay luận về Chúng tập chỉ văn kia, chúng tập, thuyết kinh Vô Lượng Nghĩa xong, trang nghiêm không tán động, tức chúng kia vẫn ngồi trong pháp hội như cũ chờ nghe thuyết Pháp Hoa, cho nên biết tam nghiệp cúng dường không được có sai khác, dùng ý của kinh Vô Lượng Nghĩa kia để rộng giải thích phần lược tóm của kinh Pháp Hoa này; đối với nghĩa hoàn toàn không có sai.

Từ câu “vì các Bồ-tát mà thuyết kinh Đại thừa” cho đến hết câu “đem xá-lợi Phật mà dựng tháp bằng bảy báu để thờ” là tựa hiện tướng. Ngài Dao Sư cho rằng có bảy điềm lành, cõi này có sáu, cõi khác có một, tổng là bảy điềm lành. Ngài Quang Trạch nói :”Cõi này và kia, mỗi mỗi có sáu tướng lành”. Sáu tướng này, động thì thuyết pháp độ người, tĩnh thì nhập định quán lý, động tĩnh là một cặp. Trên trời mưa xuống bốn thứ hoa, dưới đất sáu thứ chấn động, trên dưới là một cặp. Đại chúng trong lòng rất vui mừng, bên ngoài Đức Phật phóng hào quang, trong ngoài là một cặp. Nay gọi là tùy văn để hiểu hết ý nghĩa như Tổ Quang Trạch.Nếu chỉ theo danh nghĩa mà cho rằng ý đã được bộc lộ rõ, thì hoàn toàn tự mình chưa hiểu. Nay làm rõ ba cặp tương ưng là Trí định, Nhân quả, Cảm ứng. Trí chỉ Nhất thừa thuyết Đa thừa, Định thì là Đế duyên nghĩa xứ. Nhân thì là bốn vị mưa hoa , Quả thì là sáu điệu đất chấn động, Cảm thì là căn cơ Đại thừa phát. Ứng thì là hào quang chiếu sáng viên mãn. Sáu thứ này đều gọi là tướng lành. Văn kinh nói: “Tướng nay như điềm lành xưa”. Điềm lành chỉ là tướng đó thôi! Vì lòng người phân biệt cho rằng mật báo là điềm lành, sự kỳ lạ là tướng. Tướng lạ báo hiệu điều gì? Vi diệu lý sâu xa, thuyết đó rất khó, lòng người mông lung không tôn trọng nên trước dùng tướng kỳ lạ để cải đổi thường tình. Thường tình đã biến đổi,thì sinh kính ngưỡng khao khát. Cho nên, dùng sự kỳ lạ đặc biệt giải thích tướng, dùng báo để giải thích điềm lành. Lược nêu “lục thụy” (sáu điềm lành), tiêu biểu báo mười diệu, cảm ứng sự kỳ diệu bên trong đã thuyết, nay lại nêu đạo. “Thuyết pháp thụy”, tiêu biểu báo thuyết pháp diệu trí diệu. “Nhập định thụy” tiêu biểu báo hành diệu. “Mưa hoa thụy” tiêu biểu báo giai vị diệu . “Địa động thụy” tiêu biểu báo cảnh diệu thừa diệu. “Chúng hỷ thụy” tiêu biểu báo quyến thuộc diệu lợi ích diệu. “Phóng quang thụy” tiêu biểu báo cảm ứng diệu thần thông diệu. Cho nên sáu thứ này đều gọi là tựa Hiện tướng.

“Mà thuyết kinh Đại thừa”: Theo kinh Thiện Giới, thì có bảy Đại:

  1. Pháp đại nghĩa là mười hai bộ Tì-Phật-lược.
  2. Tâm đại, nghĩa là cầu Bồ-đề.
  3. Giải đại, nghĩa là hiểu Bồ-tát tạng.
  4. Tịnh đại, nghĩa là tịnh tâm kiến đạo…
  5. Trang nghiêm đại, nghĩa là phước đức trí tuệ.
  6. Thời đại, nghĩa là ba tăng kỳ hành hạnh.
  7. Cụ túc đại, nghĩa là dùng tướng hảo tự trang nghiêm đắc Bồđề.

Lại, có chỗ nói Đại thứ sáu là Nhân, Đại thứ bảy là Quả đại. Nhân đại quả đại hợp thành kinh Đại thừa. Nay đem nghĩa của mười diệu tóm lược kinh, nên có thể hiểu. Sinh sư nói: Lý Không, Vô tướng, là gốc của Đại thừa.Ban cho giáo tam thừa để mà chờ đợi thuyết Đốn giáo, bởi vì nếu không có tam thừa thì không thể có được niềm tin. Cho nên nói Vô tướng là Tựa của Pháp Hoa. Ý của Quán sư cũng đồng. Nếu vậy Bát-nhã Tịnh Danh đều lẽ ra là tựa này, đâu riêng gì kinh Vô Lượng Nghĩa? Kia giải thích rằng: Như đây do năm thời cho nên giáo sau được sinh khởi. Lại hỏi: Nếu vậy thì kinh Vô Lượng Nghĩa cùng các kinh đều thông đường cùng nhau sinh, chẳng liên quan đến biệt tựa. Cơ sư nói: “Lý Không vô hình cho nên nói vô lượng”, ý của tựa đồng với nạn vấn trước cũng như vậy. Ấn sư nói: Thiện vô tướng có nghiã thành Phật, nên nói vô lượng. Lại, nói kinh kia không nói có ba thừa, hay không có ba thừa, tức là có khác. Kinh Đại Phẩm không phải là ý chỉ của Pháp Hoa, vì ý chỉ đó không đến đất Tần. Đây nói kinh này từ đời nhà Tống, niên hiệu Nguyên Gia năm thứ ba, do Tỳ-kheo Tuệ Biểu ở triều đình tự, quạn Nam Hải gặp Ngài Đàm-ma-da-xá thọ nhận bản này, đem trả lại núi Võ Đang. Đến niên hiệu Vĩnh Minh năm thứ ba mới truyền ở đời. Kinh đã có lai lịch từ trước đến nay, sao có thể gởi trả lại Thiên Trúc?! Ngài Quang Trạch nói: Vô Lượng Nghĩa lấy vạn điều thiện đồng trở về thành tựu Phật đạo. Pháp Hoa phần Chánh thuyết nêu không có hai không có ba, phá ba trở về một, làm khác cho nên tức là Tựa. Nếu nói vạn điều thiện đồng quy, thì hai ba sao không đồng quy? Hai ba điều thiện đồng quy thì Chính và Tựa không khác: Nếu nói phá hai phá ba, thì sao không phá vạn? Phá hai phá ba thì không hai không ba, mà đã phá vạn kia, vậy thì không có Tựa. Chấp ý kinh nêu xen lẫn ý làm khác, thì không thành khác .Ý khác không hiển bày, thì nghĩa Tựa cũng không thành. Lưu Cầu chú giải rằng: Vô tướng làm gốc một pháp vô tướng bao hàm nghĩa không lường. Nếu bao hàm nghĩa không lường được, thì là hữu tướng, sao gọi là vô tướng? Nghiên cứu ý của các sư, mỗi người thiên về một thứ. Nếu nói thiện có tướng, thì có nghĩa thành Phật, đây là ý của Tam tạng. Nếu nói thiện vô tướng thì có nghĩa thành Phật, đây là ý của Thông giáo. Nếu nói bao hàm nghĩa pháp không thể lường được, thì đây là ý của Biệt giáo. Đây là điều mà các kinh khác nói, chẳng phải ý của Tựa Pháp Hoa.

Như Pháp Hoa luận nêu mười bảy tên gọi, đều là tên khác của Pháp Hoa. “Vô Lượng Nghĩa” tức một tên gọi của Pháp Hoa, nay luận ý Phật trực tiếp nói tên này và nhập định cũng tên này, cho nên được làm Tựa. Đại Phẩm, Kim Quang Minh, Niết-bàn đều trước xướng danh nơi Tựa không ngăn ngại. Nay kinh Văn-Thù dẫn cổ Phật cũng gọi là Vô Lượng Nghĩa. Lại nói sẽ thuyết kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, đây cũng là trong Tựa xướng danh, cùng với luận ý đồng. Nay xét kinh kia giải thích: “Vô lượng nghĩa ấy từ một pháp sinh, một pháp đó gọi là vô tướng, vô tướng bất tướng gọi là thật tướng, từ thật tướng này sinh xuất vô lượng pháp, nên gọi là hai pháp ba đường bốn quả”. Giải thích câu văn vừa nêu: “Vô tướng” là không có tướng sinh tử. “Bất tướng” là không có tướng Niết-bàn. Niết-bàn cũng không, cho nên nói “bất tướng vô tướng”, chỉ Trung đạo là “thật tướng”. Hai pháp tức đốn và tiệm. Đốn, nghĩa là tất cả pháp đốn trong thời Hoa Nghiêm. Tiệm, nghĩa là tất cả pháp trong thời Tam tạng, Phương đẳng, Bát-nhã. “Ba đường” tức là Tam thừa. “Bốn quả” tức La-hán, Bích-chi-Phật, Bồ-tát, Phật, các pháp đây gọi là vô lượng. Thật tướng là “nghĩa xứ”. Từ một nghĩa xứ mà xuất sinh vô lượng pháp, khiến được” vô lượng pháp nhập một nghĩa xứ” làm Tựa. Ví như Toán sư từ một phép tính làm ra các phép tính, lại bỏ các phép tính trở về một phép tính. Do có làm ra, nên có bỏ đi, làm ra và giới thiệu bỏ đi. Như từ một dòng nước mở ra các dòng, các dòng quy tụ một dòng. Mở ra làm Tựa hợp, cũng lại như vậy. Giải thích như thế không trái với kinh luận kia, cũng phù hợp với kinh này…

Lại nữa, kệ tán thán Vô lượng nghĩa, nêu pháp thân Phật thấu suốt lìa các tướng (bách phi) mà ứng làm thân một trượng sáu sắc vàng sáng chói. Kinh Phổ Hiền Quán nêu bốn đức thường lạc ngã tịnh trú xứ của bốn Ba-la-mật. Hai văn trước sau đều nêu “thường”, đâu có trung gian thọ lượng, mà gọi là vô thường? Có người hỏi: Tựa đã nói “thường”, thì Chánh thuyết nói gì? Nay phản vấn trở lại, kinh Niết-bàn lấy Thuần-đà làm Tựa đã khai mở tông thường, thì Chánh thuyết nói những gì?! Người kia lại đưa ra bài Tựa của kinh Tịnh Danh nói Kim cang vô vi vô số mà Chánh thuyết không nêu thường, Pháp Hoa cũng nên như vậy? Nay lại phản nạn vấn: Trong kinh Niết-bàn Thuần-đà phần Tựa nói thường, Chánh thuyết nói vô thường. Nay kinh Pháp Hoa nói Tựa thường, Chánh thuyết thường đâu có gì nghi ngại?!

“Giáo Bồ-tát pháp”: Vô lượng nghĩa xứ dùng để giáo hóa Bồ-tát. Nghĩa xứ tức là đế lý. Văn kinh dưới nói: “Khiến cho khắp tất cả chúng sinh cũng đồng đắc đạo này”. Lại nói: “Nếu ta gặp chúng sinh thì đem tận giáo đạo Phật dạy họ”, tức là ý đây vậy. “Phật sở hộ niệm”: Vô lượng nghĩa xứ là Phật tự chứng đắc, cho nên được Như Lai hộ niệm. Văn kinh dưới nói: “Đức Phật tự trú nơi Đại thừa, tuy muốn khai thị nhưng vì chúng sinh căn ám độn, nên đức Phật im lặng chờ đợi, không cần phải gấp thuyết” cho nên nói là “họ niệm”. Phật thuyết kinh này rồi thì nhập Vô lượng nghĩa xứ Tam-muội, tức định tuệ cùng thành tựu. Chẳng phải thiền không trí, cho nên trước phải nhập định.Chẳng phải trí không thiền, cho nên trước phải thuyết pháp. Tức trí mà định, tức định mà trí, trước sau xuất nhập không có ngăn ngại. Có người nghi rằng: Nếu chưa thuyết Vô lượng nghĩa thì có thể nhập định này, đã thuyết kinh này rồi cớ sao lại nhập định? Giải thích rằng: Trước nhập định này sau thuyết kinh này thì có thể hiểu, còn nếu thuyết kinh này xong mới nhập định thì đó là lấy Pháp Hoa làm Tựa đó thôi! Vì sao? Vì nếu trước không có khai, thì sau không có hợp. Trước nhập khai định là vì hợp định làm Tựa, gọi là thụy tướng, tức nghĩa này. Nếu theo thứ lớp, thì trước hết là nhập Vô lượng nghĩa Tam-muội rồi, thì tiếp theo nên nhập Pháp Hoa Tam-muội. Nếu văn nêu rõ, thì chúng đương thời đều biết, đâu đợi Di-lặc ân cần thưa hỏi Văn thù cố sức trình bày. Cho nên, biết làm Tựa nghĩa kia chuyển càng thêm rõ. “Thân tâm bất động”: cùng chỗ sở duyên tương ưng, thân vốn vắng lặng như hư không, tâm lý tánh rốt ráo thường tịch. Đức Đại Thông Trí Thắng thân thể và tay chân vắng lặng an nhiên bất động, tâm kia thường vững chải chưa từng có tán loạn.Thân như kim cang không thể động chuyển, tâm như hư không không có phân biệt, bởi vì pháp Vô lượng nghĩa xứ Tam-muội giữ gìn thân tâm, cho nên bất động. Gọi là “Vô lượng” ấy, tức từ định tịch mà thường chiếu, năng biết thế gian, từ một pháp này xuất sinh vô lượng pháp. Nếu làm nghĩa Tựa mà thân pháp thể vận động, nay khiến không động chuyển, tâm pháp thể phân biệt, nay khiến không phân biệt, thì nghĩa Tựa càng rõ vậy.

Hỏi: Thụy tướng vốn chỉ cho sự đặc biệt kỳ dị, Đức Phật thuyết pháp nhập định, chỉ là uy nghi thường lệ, sao được gọi là thụy?

Đáp: Đức Phật thuyết pháp đã xong mà chúng không giải tán vẫn cung kính đợi chờ, cho nên biết: Phật thuyết pháp lần trước, là để toàn thể chúng hội đến vân tập đợi nghe tiếp lần sau. Việc này đặc biệt, so với thường thuyết thật khác, sao không phải thụy? Tuy Phật nhập khai định, ý tại hợp định, so với thường nhập định có khác, sao chẳng phải là thụy tướng ư? Lại, Văn-Thù dẫn cổ Phật lục thụy đều có những việc này. Nếu xưa không phải thụy tướng thì sao lấy đó để chứng minh nay, xưa nay đồng như vậy, há có thể đem phàm tình mà cho là không phải?!

“Trời mưa bốn thứ hoa”: Các vị xưa cho rằng: Mưa hoa màu trắng lớn, nhỏ; màu đỏ lớn nhỏ. Chánh Pháp Hoa nói: hoa Ý, hoa Đại ý, hoa Phổ hưởng, hoa đại Phổ hưởng. Thích luận quyển chín mươi chín nói: Hoa trời vi diệu gọi là Mạn-đà-la, và quyển bảy mươi chín nói: Tám trăm Tỳ-kheo thành Phật quốc độ thường mưa hoa Mạn-đà-la năm màu sắc. Xưa nói: “mưa hoa trắng lớn nhỏ là tiêu biểu hai chúng tại gia, sắc đỏ lớn nhỏ là tiêu biểu hai chúng xuất gia”. Thế thì tiêu biểu nhân từ xưa đến nay mà chưa có quả? Nay cho rằng giải thích như thế hẹp và không thích hợp. Cứ nêu bốn chúng, thâu nhiếp mười sáu chúng trong Tam tạng, mà còn không hiểu hết huống chi bốn mươi tám chúng. Vì vậy cho nên gọi là hẹp. Xét rằng: Nếu tướng hoa kia là mật báo nhân, thì bốn chúng xưa nay đã là nhân, đâu đợi hoa mật báo. Nếu mật báo quả thì trời lẽ ra mưa báu, sao lại mưa hoa? Cho nên, nói không thích hợp. Nay nói: “mưa hoa” là nêu rõ nhân xưa kia chẳng phải nhân Phật. Nhân trong Tam tạng là nhân nhị thừa, nhân trong Thông giáo là cộng nhân, trong Biệt giáo là nhân Bồ-tát, đều chẳng phải nhân Phật. Nay trời mưa hoa là báo chúng kia sẽ thâu hoạch nhân Phật. Nhân Phật tức là nhân tứ luân. “Hoa trắng nhỏ” là tiêu biểu Đồng luân Tập chủng tánh, khai mở tri kiến Phật. “Hoa trắng lớn” là tiêu biểu Ngân luân Tánh chủng tánh Thập hạnh, hiện bày (thị) tri kiến Phật. “Hoa đỏ nhỏ” là tiêu biểu Kim luân Đạo chủng tánh Thập hồi hướng, ngộ tri kiến Phật. “Hoa đỏ lớn” là tiêu biểu Lưu ly luân Thánh chủng tánh Thập địa, nhập tri kiến Phật. Tứ luân đều đồng là nhân, nhân ấy do bên trong sinh cho nên nói “từ trời mà mưa”, do vị trí là nhân cho nên lấy “hoa” tiêu biểu. Chỉ vì nghĩa “nhân hướng đến quả”, cho nên “hoa rơi trên Phật”. Nhân quả như thế, ai sẽ cảm sâu? Chỉ là chúng trong hội này, cho nên nói “và các đại chúng”. Văn kinh thì đức Văn-thù giải thích nghi, thổi pháp loa lớn… bốn câu. Lại, trong phần Chánh thuyết nói khai thị ngộ nhập. Lại, dùng xe lớn dạo chơi khắp bốn phương, tiết tiết nương nhau đều là nghĩa của vị trí, cho nên biết: “hoa” tiêu biểu vị trí Nhân.

Hỏi: Tứ luân là nghĩa vị trí trong Biệt giáo, đâu được giải thích trong Viên giáo?

Đáp: Danh Thông giáo nghĩa Viên giáo mà còn không lỗi, huống chi danh Biệt giáo nghĩa Viên giáo mà không được dùng ư? Hỏi: Hiền thánh theo nghĩa của Biệt,Viên cũng có ư?

Đáp: Đã nói trong luận Pháp Hoa Huyền Nghĩa.

Nếu nói bốn loại hoa đều từ trên trời mưa xuống là tiêu biểu bốn chúng, thì nên cùng thành một nhân. Như đây giải thích thì mới nêu nghĩa trong Tam tạng, chưa nêu nghĩa Thông giáo. Nếu nói bốn chúng đồng là nhân Bồ-tát, thì giải thích này theo nghĩa của Thông giáo,chưa nêu theo nghĩa của Biệt giáo, đều chẳng phải nhân Phật, đều chẳng phải ý của Pháp Hoa. Ý của Pháp Hoa như trước nói.

“Khắp thế giới Phật sáu điệu chấn động” Xưa nói: Động sáu cái chấp cho rằng”Nhân quả của hàng Tam thừa là quyết định”. Đây là phá sáu cái chấp về tam thừa theo quan điểm của Tam tạng giáo, mà chưa phá sáu cái chấp về tam thừa theo quan điểm của Thông giáo.Vì Thông giáo căn cứ về pháp thì nhân quả của Tam nhân (ba hạng người) là đồng, nếu căn cứ con người thì nhân quả của Tam nhân là khác. Sự đồng khác này đều bị phá, nhưng xưa nói phá ý mà không phá nghĩa này. Lại, Biệt giáo không có tên tam thừa, thì không có lục chấp, cho nên xưa không phá. Nay nêu quan điểm của Biệt giáo: Nhân thời ba pháp theo chiều ngang và dọc. Quả thời ba pháp cũng theo chiều ngang và dọc. Đây là điều cần phải phá bỏ.

Nay giải thích “đất sáu điệu chấn động” là tiêu biểu, theo quan điểm của Viên giáo sáu phen phá vô minh. Vô minh như khối đá rắn chắc chưa từng bị phá hủy, nay đem đập nát cho nên đất chấn động là để tiêu biểu điều đó. Vô minh nếu chuyển tức biến thành minh, cho nên “khắp thế giới Phật sáu điệu chấn động”. “Sáu điệu chấn động” tiêu biểu cho: Thập trụ, Hạnh, Hồi hướng, Địa, Đẳng giác, Diệu giác sáu phen. Kinh Ưu-bà-tắc Thanh Tịnh Hạnh nói: “Bồ-tát khi sinh đất chấn động là để chứng tỏ lần sinh này là tận (không còn tái sinh), không còn phiền não, hết thảy chúng sinh đều đắc đạo, phiền não bị diệt, cho nên động”, tức nghĩa đây vậy.

Giải thích theo Bản tích: Như Văn-thù giải thích nghi dẫn cổ Phật để đáp, hiểu được mật ý này tức là hiểu được Bản, chẳng cho rằng Đức Phật nào khác khi xưa đã hiện điềm lành này mà đức Thế Tôn ta bản cũng hiện điềm lành này, chẳng phải nay là lần thứ nhất… Quán hạnh là động sáu căn vậy. Tướng đất kiên cố như sáu căn mãi chấp, chưa từng nhập đạo Đại thừa. Đất khó động mà nay động, tiêu biểu căn chưa tịnh mà nay tịnh. Đông vọt lên Tây chìm xuống. Phương Đông màu xanh, chủ về gan. Gan chủ về mắt. Phương Tây màu trắng, chủ về phổi. Phổi chủ về mũi. Đây là tiêu biểu công đức của nhãn căn sinh và các phiền não của tị căn xen nhau diệt. Công đức của tị căn sinh thì các phiền não của nhãn căn xen nhau diệt. Các phương khác vọt lên và chìm xuống, tiêu biểu các căn công đức sinh và phiền não diệt, cũng lại như vậy. Sáu thư chấn động: Động, khởi, dũng, chấn, hống, giác. Trong một thứ lại có ba: động, biến động, đẳng biến động. Động trực tiếp gọi là “động”. Động tứ thiên hạ, là “biến động”. Động đại thiên, là “đẳng biến động”. Năm thứ còn lại cũng như vậy. Hợp cộng lại thành mười tám thứ động, đây là tiểu biểu thanh tịnh mười tám giới…

Tiếp đến, giải thích điềm: “đại chúng tâm hoan hỷ”: Chúng thấy mưa hoa đất chấn động, biết nước cam lồ sắp được uống nên vui mừng hớn hở trong lòng, là tiêu biểu chúng có căn cơ Đại thừa đang cảm nhận sự ứng nghiệm thù thắng.

Hỏi: Sự vui giận là thường tình của con người, sao được coi là điềm lành?

Đáp: Trời mưa hoa vui mắt, đất động chấn tâm. Đại kinh nói: Khi đất động thì năng khiến cho tâm chúng sinh động. Hoa và đất là hiện điềm lành bên ngoài, tâm vui là điềm lành bên trong.Cái vui này chẳng thường, xưa tuy từng có vui mà không bị vui làm chấn động. Nay năng nhất tâm quán Phật, vì sao được không gọi là điềm lành? Nếu nói hoan hỷ động ấm tâm, thì là nghĩa nhân thiên. Nếu hoan hỷ động Chân đế vô lậu tâm, thì là nghĩa theo Tam Tạng giáo và Thông giáo. Nếu hoan hỷ động “tức Giả tâm”, thì là nghĩa theo Biệt giáo. Nếu hoan hỷ động thật tướng tâm, thì là nghĩa theo Viên giáo.

Tiếp đến, nêu điềm lành: “Đức Phật phóng hào quang” tức tiêu biểu Phật ứng cơ thiết giáo, phá hoặc trừ nghi. Bạch hào (lông trắng) là đầy đủ các công đức.

Kinh Quán Phật Hải Tam-muội nói: Khi đức Phật mới sinh thì lông trắng nếu duỗi ra dài năm thước, khi tu khổ hạnh thì dài một trượng bốn thước, đến khi thành Phật thì dài một trượng năm thước. Lông kia trong ngoài đều Không, như ngọc lưu ly trong suốt trong ngoài thanh tịnh. Từ sơ phát tâm, thời gian giữa tu hành hiện hành các tướng mạo, cho đến cuối nhập Niết-bàn, tất cả công đức đều hiện trong tướng lông đó. “Lông trắng giữa hai chân mày” là tiêu biểu trung đạo Thường. Lông kia mềm mại là tiêu biểu Lạc. Xoắn vào duỗi ra tự tại, là tiêu biểu Ngã. Trắng là tiêu biểu Tịnh. Phóng hào quang phá sự tối tăm là tiêu biểu Trung đạo sinh trí tuệ. Hào quang chiếu sáng quốc độ này quốc độ khác, là tiêu biểu tự giác giác tha. Lại nữa, hàng Nhị thừa tuy thông đạt nhị đế mà không biết Trung đạo, như có hai lông mày mà không có lông trắng chính giữa. Biệt giáo tuy biết tam đế mà không thể biết trong lông trắng có đầy đủ tất cả pháp. Phải biết từ đầu đến cuối mọi sự trong pháp giới đều hiện trong tướng lông trắng, tức tiêu biểu ý Viên giáo. Lại nữa các kinh nêu rõ Phật phóng hào quang cũng không đồng. Đại Phẩm nói: Từ tướng bánh xe ngàn nan ở lòng bàn chân cho đến đảnh nhục kế, mỗi mỗi đều phóng sáu vạn ức quang minh, như kia rộng nói, Đại kinh nói: Diện môn phóng quang. Kinh này nói: bạch hào phóng quang. Các kinh nói khác nhau là vì duyên thích nghi căn cơ không đồng. Lại, thâu hào quang vào cũng không đồng. Kinh Dục Vương nói: Thâu từ sau lưng vào là muốn nói việc quá khứ, thâu từ trước vào là muốn nói việc vị lai, mà không thấy muốn nói việc hiện tại. Theo ý riêng, thì nhập từ hai bên hông vào tức muốn nói việc hiện tại. Từ chân vào là muốn nói việc địa ngục, từ mắt cá chân vào là muốn nói việc súc sinh, từ chân vào là muốn nói việc ngạ quỉ, từ đầu gối vào là muốn nói việc của loài người, từ bàn tay trái vào là muốn nói việc Thiết luân vương, từ bàn tay phải vào là muốn nói việc Kim luân vương và chư thiên, từ rốn vào là muốn nói việc Thanh văn, từ miệng vào là muốn nói việc Duyên giác, từ nhục kế vào là muốn nói việc chư Phật. Kinh này nói phóng bạch hào quang mà chưa thấy nói thâu hào quang, chắc là văn lược thôi! Lại giải thích rằng: Phóng quang là muốn nói việc hiện tại, thâu quang là muốn nói việc tương lai. Kinh này chánh luận về chư Phật cõi này cõi kia đạo đồng nhau, cho nên chánh luận về phóng quang. Nếu hiểu đạo chư Phật đồng tức là khai thị ngộ nhập, thì nhậm vận tự nhiên thâu hoạch muốn nói thì phóng quang là chánh, thâu quang là phụ cho nên lược không thuyết. Như thân Phật cao một trượng sáu phóng quang, là nghĩa của Tam tạng. Nếu Phật tôn kính đặc thù cùng thân Phật một trượng sáu cùng phóng quang là nghĩa cuả Thông giáo. Nếu Phật tôn kính đặc thù riêng phóng quang, là nghĩa của Biệt giáo. Nếu thân Phật một trượng sáu tức pháp thân Tỳ-lô-giá-na phóng quang, là nghĩa của Viên giáo. Xưa nói cõi này hiện sáu điềm lành xong thì đến cõi trời Nị-tra. Nay tìm văn chỉ thấy “chiếu từ phương Đông một vạn tám ngàn cõi” trở xuống, là văn nêu sáu điềm lành ở cõi khác, đây là vì do người có thêm bớt đó thôi! Xưa lại nói thật sự chiếu mười phương: Chiếu Đông phương là tiêu biểu nhất thừa nhân quả là bậc thượng của các nhân quả. Số “Vạn” là tròn đầy, tiêu biểu quả vị viên mãn. Số “Tám ngàn” là thiếu, tiêu biểu nhân quả chưa đủ. Nếu giải thích như vậy thì chiếu Đông phương đã đủ nghĩa, đâu cần chiếu chín phương còn lại? Nay nói rõ phương Đông là phương bắt đầu, tiêu biểu Thập trụ là địa vị ban đầu của Tích môn, thuyết pháp cho sinh thân Bồ-tát sáng suốt rõ ràng thấy được lý, nhập Thập trụ, khai mở tri kiến Phật. Nêu ban đầu thì có thể biết giữa và sau, cho nên nói không nơi nào là không cùng khắp. Nên biết các phương khác cũng như vậy, các vị cũng như vậy. Nếu căn cứ Bản môn thuyết pháp, thì chư Phật bốn phương vân tập, tiêu biểu Bản môn thuyết pháp khiến pháp thân Bồ-tát tăng đạo tổn sinh, tứ vị tăng trưởng. Quán tâm giải thích “một vạn tám ngàn”: căn cứ thập bát giới, luận về trăm pháp giới có ngàn tánh tướng, tức có một vạn tám ngàn, các cảnh giới đây Phật tuệ chưa khai mở, nay cần phải khai, cho nên dùng số để tiêu biểu đó thôi!

Văn kinh nói: “Từ ngục A tỳ lên đến trời Hữu đảnh” tức sáu pháp giới. Lại,“thấy chư Phật, Bồ-tát, Tỳ-kheo…”,mười cõi đầy đủ. Cho nên, văn nói “không nơi nào là không cùng khắp” tức ý đây vậy. Nếu phân chia văn thì thuộc cõi này là văn nói tướng lành thứ sáu. Nếu thuộc cõi khác, thì là văn nói tổng tướng chiếu cõi khác.

Tiếp đến, nêu hào quang chiếu phương khác thấy sáu điềm lành:

  1. Thấy sáu đường.
  2. Thấy chư Phật. Tức là trên thánh dưới phàm làm một cặp.
  3. Nghe Phật thuyết pháp.
  4. Thấy bốn chúng đắc đạo.Tức là Nhân và Pháp làm một cặp.
  5. Thấv Bồ-tát tu hành các hạnh.
  6. . Thấy Phật nhập Niết-bàn. Tức là thủy chung một cặp.

Đã có chúng sinh khả hóa tức có Phật năng hóa, có Phật tức có thuyết pháp, có thuyết pháp tức có đệ tử, có đệ tử tức có bắt đầu tu hành, có bắt đầu tu hành thì hẳn phải đến cuối cùng. Nếu sáu điềm lành cõi này là tổng báo chúng sinh sẽ thâu hoạch tự giác, thì sáu điềm lành ở cõi kia là tổng báo chúng sinh sẽ thâu hoạch giác tha. Lại, sáu điềm lành của cả cõi này cõi khác, là tiêu biểu đạo của chư Phật cõi này cõi khác thì đồng nhau. Từ: “Thấy hết cả chúng sinh trong sáu đường ở cõi kia”, cho đến:“hành Bồ-tát đạo”: là hiện việc cõi kia đã giống như cõi này. Từ:“Lại thấy chư Phật” cho đến: “tháp bảy báu”: là hiện việc cõi này sẽ giống cõi kia. Lược nói đã xong.

Lại rộng nói: “Lại thấy chúng sinh trong sáu đường” là đức Phật kia vì đời ngũ trược cho nên xuất hiện ở đời, đức Phật này cũng như vậy. Tuy hai cõi mà ý xuất hiện ở đời giống.“Nghe chư Phật ấy thuyết kinh pháp”, là hiện cõi kia đức Phật bắt đầu thuyết từ một pháp vô tướng chẳng đốn mà đốn, cùng với cõi này Phật ban đầu thuyết kinh Hoa Nghiêm ý đồng. Từ:“Cùng thấy nơi các cõi kia các Tỳ-kheo” trở xuống, là hiện cõi Phật kia giáo chẳng tiệm mà tiệm, cùng với Đức Phật cõi này theo thứ tự thuyết Tam tạng giáo, thì ý giống nhau. Từ “Lại thấy các Bồ-tát” trở xuống, là cõi Phật kia sau khi thuyết Tam tạng thì thuyết các kinh Phương Đẳng, Bát-nhã v.v… cùng với đức Phật cõi này sau thuyết Tam tạng, ý đồng. Từ “Lại thấy các đức Phật” trở xuống cho đến: “xây tháp bảy báu” là hiện đức Phật kia sau thời Bát-nhã thì khai Quyền hiển Thật, thâu vô lượng pháp trở về nhập một pháp, xướng nhập Niết-bàn, thôi hóa độ, xây tháp. Hào quang chiếu đến cõi kia, từ đầu đến cuối rốt ráo rõ ràng trước mắt, phải biết cõi này cũng từ một xuất sinh vô lượng, chẳng đốn mà đốn, chẳng tiệm mà tiệm, việc kia đã xong, ắt phải thâu tóm vô lượng pháp trở về nhập một pháp, khai quyền hiển thật, thôi hóa qui về chân, cùng cõi kia đồng.

Lại “Các thứ nhân duyên”: Xưa khéo làm nhân, nay giáo làm duyên. Lại riêng thuyết chính là sau thời Tam tạng thì nói rõ Cộng, bất cộng Bát-nhã làm nhân, trợ đạo giới định tuệ… làm duyên. Căn cứ vào Tam nhân (Ba hạng người) tức các thứ nhân duyên, các thứ tướng mạo. Lại, chính các hạng người Cộng và Bất cộng, là“các thứ nhân duyên, các thứ tướng mạo”. Cộng và Bất cộng mỗi thứ có bốn môn, mỗi một môn lại có vô lượng tướng mạo. Năm trăm Tỳ-kheo đều nói nhân của thân, tức nghĩa kia vậy. Bốn môn của Bất cộng cũng như vậy. Cho nên, biết rằng nhân duyên tướng mạo chủng biệt vô lượng thì đều là cõi kia đồng với cõi này. Kia nêu tướng đó nhân duyên tướng mạo trở lại nhập một nhân một duyên một tướng một mạo, phải biết cõi này cũng đồng với cõi kia.

Từ “Lúc bấy giờ Bồ-tát Di-lặc nghĩ rằng” đến hết câu: “nay sẽ hỏi ai?”, là Tựa niệm nghi. Văn chia làm hai:

  1. Di lặc niệm nghi.
  2. Đại chúng niệm nghi.

– Di-lặc có ba niệm:

  1. Chánh nghĩ sáu điềm lành.
  2. Nghĩ hỏi ai.
  3. Nghĩ đến Văn-thù.

Nghĩ đến Văn-thù tức đã bỏ cái suy nghĩ thứ hai, chỉ có niệm ban đầu là còn, tức chỉ thành một mối nghi. “Thần biến”: Thần bên

trong, biến bên ngoài. “Thần” gọi là thiên tâm tức là trí tuệ thiên nhiên bên trong, “biến” gọi là biến động, tức là hiện sáu điềm lành bên ngoài. Kinh Thủ Lăng-Nghiêm nói: “Phật trú pháp bất nhị năng hiện thần thông, đấng pháp vương pháp lực cao siêu vượt hơn tất cả”. Di-lặc không lường được sự biến hóa bên ngoài, cũng không biết trí tuệ bên trong, cho nên khởi niệm đến việc này. Như người bình thường không biết thuật, người tán loạn không biết định, người phàm phu không biết Thánh, bậc tiểu Thánh không biết Thân-tử, Thân-tử không biết Bồ-tát, Bồ-tát không biết Bổ-xứ, Bổ-xứ không biết bậc Tối tôn cùng cực. Đây là cực xứ (nơi chốn cùng tột), cho nên Di-lặc cũng không biết. Lại nữa, Di-lặc đã từng gặp Phật, gieo trồng thiện căn đã nhiều thì sao lai không biết được? Cần phải ẩn sáng hiện tối, cho nên quyền nói “không biết”.

Đại chúng có hai niệm:

  1. Chánh niệm sáu điềm lành.
  2. Niệm hỏi ai.

Nếu xem kệ bên dưới thì đại chúng cũng có ba niệm, Kệ nói: “Bốn chúng đều mong ngóng,nhìn ngài và nhìn tôi”. Không có niệm thứ ba thì làm sao mong ngóng nhìn Ngài (Văn Thù)?, mà trong phần văn trường hàng thì không có Ngài, tức muốn suy tìm Bổ-xứ ở trước vậy. Xưa giải thích ở trước có ba ý:

  1. Bổ xứ.
  2. Có ba niệm.
  3. Năng phát khởi câu hỏi, là nghĩa đây, nên đại chúng thiếu một niệm.

Hỏi: Về đức vị thì Văn-thù và Di-lặc đều là bậc Á thánh, sao có một người hỏi một người đáp?

Đáp: Xét về cơ duyên có hay không, tuy địa vị ngang đồng nhưng khách chủ thích nghi có khác, Thánh nhân thể theo cơ duyên, không phải là người hỏi thì không có khả năng trả lời. Lại pháp môn thì có Quyền có Thật. Quyền, Bổ xứ cần phải hỏi, Thật, cần phải đáp lại. Tích có xa có gần, gần hỏi xa đáp. Lại, danh thì có tiện có dễ. Di-lặc gọi là Từ, từ vì chúng sinh nên hỏi, Văn-thù gọi là Diệu Đức, đức cần phải đáp. Đấy tức là bốn loại hiểu ý văn kinh.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10