VĂN CÚ KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

SỐ 1718

QUYỂN 03

Đời Tùy, Thiên Thai Trí Giả Đại sư thuyết

(Phần Thượng)

Từ “Bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc muốn giải quyết sự nghi của mình” trở xuống đến hết phần kệ tức là Phát vấn tự Văn chia làm hai phần: Trường hàng và Kệ tụng. Trong phần trường hàng kinh gia thuật nghi của mình và đại chúng, đưa ra câu hỏi, hỏi về cõi này, cõi khác… như văn. Vậy vì sao có kệ tụng ư? Trong luận Tỳ-bà-sa ngài Long Thọ nói có bốn lý do: Thứ nhất, là tùy quốc độ, Thiên Trúc có cách nói tán hoa và quán hoa, như đoạn này là tựa, sau là bài minh. Thứ hai, là tùy sự ưa muốn không đồng, có ưa tán thuyết hoặc ưa chương cú. Thứ ba, là tùy theo chúng sinh hiểu không đồng, hoặc đối với tán thuyết mà hiểu được, hoặc nơi chương cú mà hiểu được. Thứ tư, là tùy căn cơ lợi độn, lợi thì một phen nghe liền ngộ, độn thì nghe nhiều lần mới ngộ. Lại, tiêu biểu đức Phật ân cần lập lại, và vì đại chúng vân tập có trước có sau, cho nên có kệ.

Kệ có sáu mươi hai hàng, (mỗi hàng gồm bốn câu, mỗi câu năm chữ) chia làm hai phần: Phần một, gồm năm mươi bốn hàng đầu, tụng phần hỏi trên. Phần hai, gồm tám hàng sau, là thỉnh đáp. Phần hỏi lại chia làm hai: Bốn hàng trước, là hỏi về cõi này. Năm mươi hàng sau, là hỏi về cõi khác. Ở văn trường hàng thì hỏi chung sáu điềm lành ở cõi này, trong kệ thì có thêm: “gió thơm thổi và đất thanh tịnh”, không nói “thuyết pháp nhập định”. Xem văn thì cho rằng nói có thừa có thiếu, nhưng xét nghĩa thì không như vậy. Vì thuyết pháp là tánh tuệ, nhập định là thiên tâm, do thiên tâm tuệ tánh mới có thể động đất, phóng quang. Bởi nêu ngọn thì có thể biết gốc, cho nên thiếu mà chẳng phải thiếu. Người khác chẳng thấy được ý này, cho rằng Di-lặc không hỏi hai việc thì không coi là điềm lành. Nay lại nạn vấn: Nếu Di-lặc không hỏi thì Văn-thù cớ sao lại đáp? Lại hỏi chỉ nơi nào làm câu hỏi, nay chỉ văn trường hàng là tổng hỏi. Nếu lại muốn rõ chỗ nào là hỏi riêng, thì chỉ là hai chữ “đạo sư”, bởi vì thuyết pháp nhập định mới có thể dẫn dắt người, Đã xưng tán “đạo sư” tức là hỏi thuyết pháp nhập định, vì vậy cho nên chẳng phải thiếu. Chỗ khác nói:“gió do rừng cây chiên đàn cho nên thơm, đất thêm nghiêm tịnh tăng trưởng”, đó là thừa hai việc. Nay nói chẳng thừa, bởi gió vốn không có mùi thơm mà thơm, đó gọi là kỳ lạ đặc biệt, cho nên thành điềm lành. Xét rằng trời mưa hoa rất mầu nhiệm, há có sắc mà không hương? Đây là tiêu biểu Nhân vận chuyển đến Quả, như hoa có gió hương, hoa đã nhóm nơi đất, đất thì nghiêm tịnh, nhân nếu hướng đến quả thì quả nghiêm tịnh. Kinh Kim Quang Minh nói: Tụ tập công đức trang nghiêm thân Phật, cho nên lấy hai việc hiển bày thành bốn loại hoa, thừa mà chẳng thừa.

Năm mươi hàng tụng kế tiếp, từ “Ánh sáng giữa chặn mày” trở xuống, là tụng hỏi sáu điềm lành ơ cõi khác. Xưa nói: “Trong bài tụng không hỏi tam thừa tứ chúng, không hỏi Phật Niết-bàn” Nay giáo phế bỏ ba, sao bỗng hỏi ba? Mới nói Thọ lượng, sao hỏi Diệt độ?. Đối với nghĩa, không tiện cho nên không hỏi. Than ôi! Không hiểu không tiêu hóa văn mà ép kinh theo ý riêng. Nay nêu rõ trong bài tụng hỏi đầy đủ sáu điềm lành ở cõi kia. Văn chia làm sáu phần: 1. Ba hàng đầu, hỏi lục thú chúng sinh; 2. Bốn hàng tiếp, hỏi thấy đức Phật kia và thuyết pháp; 3. Ba hàng tiếp, hỏi bốn chúng cõi khác; 4. Một hàng rưỡi kết trước mở sau; 5. Ba mươi mốt hàng rưỡi, hỏi các cõi khác tu Bồ-tát hạnh; . Bảy hàng hỏi cúng dường xá-lợi, tức là hỏi Phật Niết-bàn.

1. Ba hàng đầu hỏi về chúng sinh ở sáu đường, nghiệm các tụng này, thì biết “Ánh sáng chiếu phương Đông” trong văn trường hàng ở trên là ý chiếu chung các cõi kia. Các tụng này, tụng phần tổng hỏi ở trên. Chúng sinh trong sáu đường (lục thú) là nơi người năng đến. Sinh tử là nơi đến. Thiện ác, nghiệp duyên là nhân các Thú.Xấu, tốt là quả các Thú.

2. Từ “Lại thấy các đức Phật” trở xuống, bốn hàng: hỏi thấy các cõi Phật kia, trực tiếp thấy Phật thuyết pháp. Đây là rộng nêu tướng thuyết pháp, nghĩa là thuyết đốn giáo phù hợp căn tánh Đại thừa. “Đấng Thánh chúa Sư tử” tức như cõi này hiện hình tượng Lô-xá-na Phật. “Diễn thuyết các kinh pháp, vi diệu mầu bậc nhất”, tức như cõi này mặt trời trước chiếu lên núi cao Phật diễn thuyết Hoa Nghiêm. “Dạy bảo các Bồ-tát” tức như các hội thuyết pháp ở bảy chổ thuộc cõi này, thì trong hội không có hàng Thanh văn. “Để soi rõ Phật pháp,mà khai ngộ chúng sinh”, tức như cõi này ban đầu thấy thân Phật, nhập Như lai tuệ.

3. Từ “Nếu có người bị khổ” trở xuống, ba hàng: hỏi bốn chúng ở cõi kia, tức là sau khi Phật nói đốn giáo. Tiếp đến Tam tạng giáo “nếu có người bị khổ” tức mở Thanh văn thừa, bài tụng nêu đầy đủ tứ đế, ở văn rất rõ ràng. “Nếu là người bị khổ, mà tạo ác nghiệp khổ, thì khổ không thể hết”. Đấy là chúng sinh dưới tận cùng đáy. “Nếu là người bị khổ, mà tạo các thiện nghiệp, thì khổ cũng không hết”. Tức nhàm chán cõi dưới vin vào cõi trên, như Nan-đà vì ham muốn cho nên trì giới… Nếu có người bị khổ, ở trong pháp ngoại đạo cầu giải thoát, thì tăng thêm kiến giải sai trái, khổ cũng bất tận. Nếu có người bị khổ, nhàm chán khổ tâp, lại nhàm chán y quả, cảm được Niết-bàn mà Đức Phật thuyết, thì người này có thể “dứt trừ các biên khổ”. Ở cõi kia cũng khai thừa này. “Nếu là người có phước” trở xuống, một hàng: khai trung thừa, “Nếu cúng dường Phật, thì ít gặp khổ não, nếu cúng dường Phật nhiều, thì tuy gặp khổ mà vẫn phước”. Cho nên nói Thanh văn ba đời gieo hạt giống phước, Bích-chi-phật trăm kiếp gieo trồng phước. So sánh với Thanh văn kia, cho nên nói có phước. “Chí cầu pháp thù thắng” là hàng Thanh văn chán khổ mà tu hành, Bích-chi-phật cầu đạo nên tu hành, tha thiết cầu lý duyên khởi thù thắng vi diệu, tức là cõi kia khai trung thừa. “Nếu lại có Phật tử” trở xuống là khai Lục độ đại thừa, vì chân thật từ bi năng nối tiếp dòng giống Phật, nên nói là “Phật tử”. Tu pháp Lục độ, cho nên nói “các công hạnh”.

Chí cầu Phật cho nên nói “vô thượng tuệ”, trong lục độ không có lục tế, như trong dược không có bệnh, nên nói “Tịnh đạo” mà không phải rốt ráo tịnh. Lại, Thanh văn lấy Khổ đế làm Quán môn, Duyên giác lấy Tập đế làm môn, Lục độ Bồ-tát lấy Đạo đế làm môn, cho nên nói “Tịnh đạo”.

1. Từ “Ngài Văn-thù-sư-lợi, tôi ở tại nơi đây” trở xuống, một hàng rưỡi: kết trước khai sau.“Thấy nghe như thế đấy” tức là kết trước, “Thấy rất nhiều như thế” tức là khai sau.

2. Từ “Tôi thấy ở cõi kia” trở xuống, ba mươi mốt hàng rưỡi: hỏi sự tu hành của các vị Bồ-tát ở các cõi kia. Phần này lại có ba phần nhỏ:

3. Một hàng: hỏi chung.

4. Mười lăm hàng tiếp: hỏi lần lượt.

5. Mười lăm hàng rưỡi cuối: hỏi lẫn lộn (tạp).Phần nhỏ a.1. Một hàng hỏi chung, có thể hiểu.

Phần nhỏ a.2. Từ “Hoặc có vị bố thí” trở xuống, có mười lăm hàng: hỏi lần lượt, trong đó chia làm sáu mục nhỏ: a.2.1) Sáu hàng, hỏi Đàn Ba-la-mật. a.2.2) Hai hàng, hỏi Thi-la Ba-la-mật. a.2.3) Một hàng, hỏi Nhẫn Ba-la-mật. a.2.4) Một hàng, hỏi Tinh tấn. a.2.5) Hai hàng hỏi Thiền. a.2.) Ba hàng hỏi Trí tuệ Ba-la-mật.

– Trong phần hỏi Đàn Ba-la-mật có ba ý:

1. Bốn hàng hỏi xả tài.

2. Một hàng hỏi xả thân.

3. Một hàng hỏi xả mạng. Trân báu nô tỳ sang hèn đều có thể bố thí . “Xe bốn ngựa xe báu”, hào hiệp bố thí, vợ con… là ngoài thân, thân thể là nội thân. Xả đầu mắt tức xả mạng. Không nói pháp thí, là để sau nói Bát-nhã. Lại căn cứ xả thân mạng tài và xả sinh tử vị lai v.v… thì được bất hoại thường trú, tức là pháp thí, cho nên không riêng nói.

Từ câu: “Này Văn-thù-sư-lợi ta thấy các quốc vương” trở xuống, hai hàng hỏi Giới Ba-la-mật. Căn cứ Tỳ-kheo để luận trì giới. Tại gia bố thí dễ, trì giới khó. Xuất gia bố thí khó, trì giới dễ. Cho nên căn cứ Tỳ-kheo nêu rõ giới. Trong đây dẫn kinh Ngũ Vương…

Từ câu: “Hoặc thấy các Bồ-tát” trở xuống, một hàng: hỏi Nhẫn Ba-la-mật, nhẫn có ba thứ: Đối với rừng sâu, hang vắng, người ác, thú ác đều nhẫn nại không giận, tức Sinh nhẫn. Tự mình tiết chế giữ gìn ý chí tức Khổ hạnh nhẫn. Vì cầu Phật đạo, tức Đệ nhất nghĩa nhẫn, Lại “Mà hiện làm Tỳ-kheo” tức Khổ hạnh nhẫn. “Riêng ở chỗ vắng lặng” tức Sinh nhẫn. “Ưa vui tụng kinh điển” tức Đệ nhất nghĩa nhẫn.

Từ “Cùng thấy các Bồ-tát dũng mãnh” trở xuống, một hàng hỏi Tinh tấn Ba-la-mật. Ở núi sâu đáng sợ mà chẳng sợ hãi biếng nhác, dũng mãnh tinh tấn, năng an ổn, coi như bên cạnh mình không có ai, tư duy thật tướng, niệm niệm không dừng tinh tiến cầu Phật đạo.

Từ “Lại thấy bậc ly dục” trở xuống, hai hàng hỏi Thiền Ba-lamật: một hàng trước, hỏi tu căn bản thiền, một hàng sau, hỏi tu xuất thế thượng thượng thiền. Thông đồ đều có căn bản Thiền. “Ly dục”, nếu lìa dục thì chứng đắc ngũ thông, là định của Thông giáo. Lại, căn bản vốn ly dục. Bối xã cũng là tu bất tịnh v.v… là ly dục. Biệt giáo bao gồm lìa dục nhị thừa, trung đạo và lìa dục thuận đạo pháp ái… “Sâu tu các thiền định”, phát sinh bậc một Sơ thiền, định này chưa sâu, cho đến bậc chín tiếp nối mới sâu. Lại, bối xả, cửu định, bát thắng, thập nhất thiết nhập nối tiếp thì sâu. Định này chuyển biến tự tại, năng phát sinh các thần thông, phàm phu chỉ có ngũ thông, hàng nhị thừa có đầy đủ sáu. Bồ-tát Biệt giáo kém chư Phật phần hữu vô lậu, cũng chỉ có ngũ thông, Viên giáo từ đầu đến cuối đều đầy đủ lục thông. Một hàng từ “Chắp tay trụ thiền định, dùng muôn ngàn bài kệ” trở xuống, nêu Thượng thượng thiền, đây là thiền của Biệt giáo, Viên giáo, động, tĩnh không ngăn ngại nhau, không khởi diệt định mà hiện các oai nghi, như đàn Tu-la không đánh mà kêu, không duyên không niệm mà có cảm tức có hình tướng.

Cho nên, có thể an trú thiền định tán thán chư Phật.

Từ “Lại thấy có Bồ-tát, Trí sâu chí bền chắc” trở xuống, ba hàng: hỏi Bát-nhã, chia làm hai phần. Hàng đầu là tự tu hành. “Trí sâu” là trí tuệ cùng tột nguồn gốc lý. “Chí bền chắc” là thệ nguyện rộng lớn. Đây tức là hai thứ trang nghiêm năng vấn năng trì. Hai hàng từ “Lại thấy hàng Phật tử, định tuệ trọn đầy đủ” trở xuống, là hạnh hóa tha, chưa đạt đến tuệ nhiều, định vô sắc nhiều. Bậc Tứ thiền bối xả, tuệ nhiều; bậc cửu định, định nhiều ; trong nhất thiết nhập thì bình đẳng. Lại, hàng Nhị thừa định nhiều, Bồ-tát tuệ nhiều, Phật thì bình đẳng. Lại, Không quán thì định nhiều, Giả quán thì tuệ nhiều, Trung quán thì bình đẳng. “Vô lượng dụ” tức là các thứ phương tiện, trong các giáo dẫn vô lượng loại thí dụ trợ giúp hiển bày đệ nhất nghĩa. “Phá dẹp các binh ma”, là Không quán phá bốn ma, Giả quán thứ lớp phá tám ma, Trung quán phá trọn tám ma, mười ma, hết thảy ma. “Đánh trống pháp”, là hàng sơ phát tâm trụ liền thành chánh giác, ở trăm thế giới chư Phật, làm Phật đánh trống pháp Phạm luân viên mãn.

Từ “Lại thấy vị Bồ-tát vắng bặt yên lặng ngồi” trở xuống có mười lăm hàng rưỡi, không trải qua thứ tự, tùy thấy mà hỏi.

Hỏi: Pháp lục độ trên tự thâu tóm được vạn hạnh, vì sao lại phải hỏi rất phiền tạp thế? Đáp: Trên hỏi theo thứ lớp thì tự vào một đường. Không theo thứ lớp thì không nhất định một đường. Đã nói là các thứ tướng mạo, thì sao chỉ hai đường mà lại cho là phiền?

Đây là thứ lớp và tạp loạn hai phen nói về lục độ. Nghĩ cõi kia sau khi khai Tam tạng thì thuyết Phương đẳng, Thập nhị bộ kinh, nêu tướng mạo của lục độ đầy đủ như đây không khác. Trong tạp vấn văn gồm bảy ý:

Ý thứ nhất: hai hàng, hỏi thiền. Lại chia làm hai: một hàng trước, hỏi nhập thiền xả thiền, tức là tự hành. Từ “Lại thấy có Bồ-tát ở rừng phóng hào quang” trở xuống, là hàng thứ hai, hỏi nhập Bi thiền, bắt đầu hóa tha, Bồ-tát nhập định phóng hào quang khắp nơi lợi ích. Đầy đủ xem trong kinh Hoa Nghiêm, Tư Ích… sẽ rõ.

Ý thứ hai: Từ “Lại thấy hàng Phật tử chưa từng có ngủ nghỉ” trở xuống, một hàng : hỏi tinh tấn, tức là pháp môn Bát-chu niệm Phật…

Ý thứ ba: Từ “Cũng thấy đủ giới đức” trở xuống, một hàng, hỏi giới. “Oai nghi không thiếu sót”, tức là ban đầu tu tập không thiếu giới. “Lòng sạch như bảo châu” tức là giới thú mười rốt ráo, trung gian có thể hiểu. Thập Giới như trong Pháp Hoa Huyền Nghĩa thuyết.

Ý thứ tư: Từ “Lại thấy hàng Phật tử trụ nơi sức nhẫn nhục” trở xuống, một hàng rưỡi: hỏi nhẫn, tức Sinh nhẫn và Pháp nhẫn.

Ý thứ năm: Từ “Lại thấy có Bồ-tát xa rời sự đùa giỡn ”trở xuống, hai hàng : lại hỏi thiền định. “Xa rời sự đùa giỡn” tức từ bỏ Trạo hối cái. “Lìa quyến thuộc ngu si” tức trừ Sân cái. “Thân cận các người trí” tức trừ bỏ triền Nghi cái. “Nhất tâm trừ bỏ loạn” tức bỏ Tham cái. “Nhiếp niệm ở núi rừng” tức trừ Thùy cái.

Ý thứ sáu: Từ “Hoặc thấy có Bồ-tát đem các thức ăn uống” trở xuống, năm hàng: hỏi Bố thí. Lại chia làm hai: Bốn hàng trước nêu rõ bố thí tứ sự. Từ “Cúng thí như thế đó” trở xuống, một hàng sau: kết thành.

Ý thứ bảy. Từ “Hoặc có vị Bồ-tát giảng nói pháp tịch diệt” trở xuống, có ba hàng: hỏi Bát-nhã gồm một hàng: Không thể thuyết mà thuyết Bát-nhã, một hàng: Không thể quán mà quán Bát-nhã, một hàng: Ngôn ngữ đạo đoạn tâm hành xứ diệt. Tức là thuyết không thể thuyết, quán không thể quán mà luận Bát-nhã. Hoặc có thể coi ba phen hỏi Bátnhã này là thấy các cõi khác thuyết lục độ trong Phương đẳng bên trên. Hoặc có thể nghĩ cách khác rằng: các cõi khác thuyết Phương đẳng, sau nêu Đại phẩm giáo, đàm luận đầy đủ trí Bát-nhã tịch diệt không hai, thanh tịnh không đắm trước, cõi này và kia đều đồng. Hoặc có thể nói pháp tịch diệt là ý trong Phương đẳng, quán các pháp tánh cũng như hư không là ý Bát-nhã. Chính là lịch pháp, tác quán pháp, tướng không hai, nghĩa này thật cùng với kinh Đại Phẩm phù hợp. Nếu cho rằng cõi kia biết ý của Pháp Hoa thì tức hai câu: “dùng tuệ vi diệu này mà cầu vô thượng đạo”, thấy có người tu diệu tuệ mà không thấy đạo tràng diệu tuệ Pháp Hoa. Nếu thấy đạo tràng, thì biết được đây giống như kia, thì có gì phải nghi? Chỉ thấy có người mà không thấy tòa, toàn chúng nghi nên hỏi. Hoặc có thể ba phen hỏi về Bát-nhã cùng với Bát-nhã cõi này tương đồng, chưa biết tiếp theo sau sẽ thuyết gì? Vì vậy cho nên nghi vấn, hai ý đây do người sử dụng đó thôi!

Văn trường hàng trên chỉ nêu sáu ý. Kệ tụng đã rộng hiển rõ nghĩa như vậy…

Từ “Ngài Văn-thù-sư-lợi, lại thấy có Bồ-tát” trở xuống, có bảy hàng: Sau khi Phật diệt độ dùng xá-lợi xây tháp miếu, chính bài tụng trên nói Phật các cõi kia hiện ra ở đời Ngũ trược, từ nơi một pháp vô tướng khai ra tiệm giáo và đốn giáo, cho nên có hai pháp ba đường, đủ thứ hạnh loại, tướng mạo không đồng, như trên đã thấy. Nay thấy đức Phật kia nhập Niết-bàn, hàng Phật tử ngưỡng mộ đức độ xây tháp cúng dường, tức tiêu biểu vô lượng đều qui nhập vào một, một xuất ra vô lượng, tướng trước đã tiêu biểu vô lượng qui vào một, chính là nhập Niết-bàn. Tại sao sợ ngăn thọ lượng, xây dựng tháp làm Phật sự ư?

Thương thay thương thay! Văn chia làm sáu phần:

1. Một hàng, tổng nêu sau khi Phật diệt độ xây tháp.

2. Từ “Lại thấy hàng Phật tử xây dựng các tháp miếu” trở xuống, một hàng : nêu rõ số lượng tháp.

3. Từ “Bảo tháp rất cao đẹp” trở xuống, một hàng : nêu rõ chất lượng tháp.

4. “Trong mỗi mỗi tháp miếu” trở xuống, một hàng : nêu rõ hình tướng tháp.

5. Từ “Các vi trời, rồng, thần” trở xuống, một hàng : nêu sự cúng dường.

6. Từ“Ngài Văn-thù…” trở xuống,hai hàng :kết.“Tháp-bà”,Trung hoa dịch là Phương phần. Đại quán đảnh dịch là phần mộ (trủng). Điện đường như Linh miếu, nhà thờ ở cõi này, để tôn sùng các bậc vĩ nhân, tuấn kiệt để thừa ân mưa móc, thường tiêu biểu cõi nước thanh tịnh qui về, tâm hướng lên Thánh. “Thọ Vương” tức là cây Ba-lợi-chất-đa, chính cúng dường Xá-lợi là trang nghiêm cõi nước Phật…

III. PHẦN THỈNH ĐÁP : Từ “Phật phóng một luồng sáng“ trở xuống, có tám hàng chia làm hai phần: Ba hàng đầu nêu việc nghi ngờ, bày tỏ thỉnh. Năm hàng sau giải thích phục nạn. Ba hàng đầu lại chia làm ba: Một hàng đầu nêu thấy sự việc ở cõi này, lấy tướng bạch hào làm gốc cho nên nêu trước và “các việc”, cho nên nói “chủng chủng”. Một hàng tiếp từ “Thần lực của chư Phật…” trở xuống, nêu thấy sự việc ở cõi khác, chư Phật là gốc tức tổng nhiếp năm thừa khác. Từ “Chúng ta thấy việc này” trở xuống, một hàng là thỉnh đáp

Năm hàng sau giải thích phục nạn lại chia làm hai phần: Bốn hàng đầu, chính giải thích phục nạn. Một hàng sau là kết thỉnh. Nói “phục nạn”, ấy là Văn-thù trong tâm gây khó, không chịu đúng thời đáp. Khó có ba ý: Một, là điềm lành này đặc biệt kỳ lạ không thể vội vàng khinh thường mà có phê phán. Hai, là trí tuệ của chúng như biển, khiêm tốn nhường bậc cao minh. Ba, là cố để nghi vấn đeo đuổi tất sinh khao khát giải đáp. Cho nên, dùng phục nạn kín đáo mà chống lại. Dilặc tỏ rõ ý muốn giải thích nạn vấn cũng có ba: Một, là Thụy lớn nghi lớn nếu không giải thích e chúng ưu tư về nguyên nhân Phật phóng quang mãi mà cản trở nghe chánh thuyết. Hai, là chúng như biển nhưng hiểu được cơ duyên này chỉ có Nhân giả (Văn-thù). Ba, là hợp với chúng đều chiêm ngưỡng chờ đợi Nhân giả cho nên biết chuyên chú, chí thành ân cần thỉnh giải thích rõ nạn vấn. Phục nạn đầu tiên nhân ở lời chánh thỉnh, tức câu kệ: “Xin Phật tử Văn-thù, giải quyết lòng chúng nghi”. Bồ-tát Văn-thù chiếu theo lời thỉnh này, khởi lên phục nạn đầu tiên: “Ông nói các chúng nghi nhưng chưa từng nghi. Nếu nghi thì nên hỏi. Chúng đã không nghi tôi đâu cần giải quyết!” Di-lặc liền dùng kệ thứ nhất giải thích rằng: “Bốn chúng đều trông ngóng, nhìn ngài và nhìn tôi”, “nhìn tôi”tức muốn khiến tôi hỏi, “nhìn ngài” là mong ngóng muốn được Ngài giải đáp. Văn-thù nhân đây khởi lên phục nạn lần thứ hai: chúng đồng có nghi không dễ có thể đáp, đợi Phật xuất định xong sau mới giải quyết nghi.

Di-lặc liền dùng bài kệ thứ hai giải thích: Nếu để chúng ưu tư về điềm lành hào quang Phật mãi, thì không có lợi ích, nên xin Ngài giải đáp ngay. Lại biết Như Lai lúc nào ra khỏi định cho nên Phật tử đúng thời đáp giải quyết sự nghi khiến cho chúng vui mừng. Văn-thù nhân đây khởi phục nạn lần thứ ba: “Tôi với ngài cùng vị Học địa, muốn lường được ý Phật thì bí mật cùng suy lưỡng, chỉ khiến một mình tôi giải đáp đối với lý thì không thể”. Di-lặc liền dùng bài kệ thứ ba giải thích. Tôi cũng dùng tâm thấp kém tư duy phân vân: một là Phật muốn thuyết Diệu pháp, hai là sẽ thọ ký, cho nên nói: “Phật ngồi trong đạo tràng, chứng đắc pháp vi diệu, vì muốn nói pháp ấy, hay là sẽ thọ ký?”, Vănthù nhân đây khởi phục nạn lần thứ tư: “Nếu như ông nói tức nghi đã giải đâu cần đến tôi đáp”. Di-lặc liền dùng bài kệ thứ tư giải thích: Sao lại dùng tâm do dự của tôi mà phán xét việc lớn? Cho nên nói: “Hiện bày các cõi Phật, đây chẳng phải duyên nhỏ” Ngài Văn-thù hết cách phục nạn, hào quang cũng đã dừng chiếu, nên một bài kệ sau cùng là tổng kết thỉnh đáp. Đây là bốn phen phục nạn, Quang Trạch thọ (nhận) nơi Thứ Sư, Thứ Sư thọ nơi Kiếm Sư ở Giang bắc. Đã là các bậc tiên hiền khéo tư duy ngoài văn, mà nay được nhờ vậy.

Từ “Lúc bấy giờ Văn-thù-sư-lợi nói với Di-lặc” trở xuống đến hết phần kệ, gọi là Tựa Vấn đáp. Gồm có văn trường hàng và kệ tụng. Văn trường hàng chia làm bốn phần:

1. Từ “Nói với Di-lặc” trở xuống gọi là Suy nghĩ đáp.

2. Từ “Thiện nam tử, ta ở trong đời quá khứ” trở xuống, gọi là Lược từng thấy đáp.

3. Từ “Thiện nam tử, như quá khứ” trở xuống, gọi là Rộng từng thấy đáp.

4. Từ “Nay thấy điềm lành này cùng với xưa không khác” trở xuống, gọi là Phân minh phán đáp. Xét rằng lấy dưới đo lường trên,thì chỉ có thể giống như phỏng đoán, chỉ nói xưa giống nay mà không thể quyết đoán ngay. Sở dĩ ban đầu từ lớt phớt thấy không rõ, tiếp đến dẫn lược thấy, lược thấy chưa cùng khắp, lại dẫn đến rộng thấy, lấy nhiều để chứng minh một, đến lúc ấy mới phân minh phán xét được.

Suy nghĩ đáp: Trả lời câu hỏi trên về cõi này. Lược từng thấy đáp: Trả lời câu hỏi trên về cõi khác. Rộng từng thấy đáp: Trả lời câu hỏi về cõi này và cõi khác. Phân minh đáp: Trả lời phán xét cõi này cõi khác. Phần Suy nghĩ đáp chia làm hai: ban đầu nêu chương, sau chính suy nghĩ. Nghĩ xưa như nay, suy nay như xưa. Nhưng Văn-thù là cổ Phật lẽ nào lại không biết, vì Tích mà thì hiện tư duy. Ngài Quang Trạch cho rằng: hai câu đầu và sau, là pháp thuyết, tiêu biểu nhân quả rộng lược; ba câu giữa, là thí dụ thuyết. “Muốn thuyết đại pháp” là lược khai tam hiển nhất, lược khai cận hiển viễn. “Diễn nghĩa đại pháp” là rộng khai tam hiển nhất, rộng khai cận hiển viễn. “Mưa đại pháp” là thí dụ được thọ ký làm Phật, bởi vì xưa nhân quả định chấp không được làm Phật, là nghĩa khô héo, nay đều làm Phật, là nghĩa mưa thấm nhuần. “Thổi đại pháp loa” là sửa đổi hiệu của tam thừa. Trống lệnh dạy binh là thí dụ phá vô minh. Nay nêu rõ pháp thuyết kia không dùng. Vì sao? Vì tích bản hai môn do tịch mỗi thứ đều khác. Tích thì do tịch khởi, Di-lặc sinh nghi, Văn-thù giải thích. Bản thì do tịch chưa khởi, Di-lặc nghi chỗ nào? Văn-thù giải thích chỗ nào? Nếu trong đó đã là giải thích nghi khai cận hiển viễn, thì về sau các chúng từ đất vọt lên, cớ sao Di-lặc lại nghi? Lại nghi tức lạm dụng nghi, lạm dụng giải thích. Sự giải thích ở sau Không thực thì trước cũng sai lầm. Đây tức có sự trở ngại lớn cho nên không dùng. Nay nêu Di-lặc chỉ hỏi điềm lành của hai cõi đây kia trong Tích môn. Văn-thù dùng suy nghĩ đáp, đáp sự trong Tích, không liên quan đến thọ lượng, đến sự trong Bản. “Muốn thuyết đại pháp” là giải đáp điềm lành nói pháp. “Mưa đại pháp vũ”: là đáp điềm lành mưa hoa. “Thổi loa đại pháp”: là giải đáp điềm lành tâm đại chúng hoan hỷ. “Đánh trống đại pháp”: là đáp điềm lành đất chấn động. “Diễn nghĩa đại pháp”: là giải đáp điềm lành Phật phóng hào quang.

“Muốn thuyết đại pháp”: là nghĩ khi xưa chư Phật sau khi thuyết Vô Lượng Nghĩa, thì khai quyền hiển thật, thâu tóm vô lượng qui về một, và suy ra nay Phật đã thuyết pháp rồi thì cũng nên khai quyền hiển thật, hợp vô lượng để qui về một. Một tức là đại pháp. “Mưa đại pháp vũ” là nghĩ xưa chư Phật, sau khi trời mưa bốn loại hoa thì đều nhập Viên nhân thập trú thập hạnh, thập hồi hướng thập địa, và suy ra nay Phật sau khi mưa hoa đều thành Phật nhân, nhập thập trú, hạnh, hồi hướng và thập địa, cho nên nói “mưa đại pháp vũ”. “Thổi đại pháp loa”, là nghĩ xưa bốn chúng thấy điềm lành thì hoan hỷ, được điều chưa từng có, lìa chướng, tâm chấn động, biến đổi Nhân ( người), Giáo, Hạnh, Lý, và suy ra nay chúng hoan hỷ, thì cũng nên lìa chướng, tâm chấn động, biến đổi Nhân Giáo Hạnh Lý. Biến đổi sâu xa, nên nói “thổi đại pháp loa”. “Đánh trống đại pháp” : là nghĩ xưa sau khi đất chấn động rồi thì có sáu phen phá giặc vô minh, và suy ra nay cõi Phật chấn động rồi thì sau đó cũng nên sáu phen phá Hoặc vô minh. Thanh giáo cực kỳ vi diệu, cho nên nói “đánh trống đại pháp”. “Diễn nghĩa đại pháp”, là nghĩ xưa chư Phật sau khi phóng bạch hào quang thì thuyết Pháp Hoa, đây kia đạo đồng, và suy ra nay Phật sau khi phóng quang rồi thì rộng nêu ngũ Phật đạo đồng. Đã là Phật đạo, cho nên nói “diễn nghĩa đại pháp”. Như vậy, năm câu đều là nghĩ xưa xét nay, suy ra nay giống xưa. Hiểu văn kèm theo nghĩa, chỉ thiếu một điềm lành nhập định, mà mưa hoa động đất phóng quang v.v… đều do nhập định mới có, ý thì bao gồm đầy đủ không nhọc công nghi ngờ, thiếu một điều này cho nên gọi là “lược đáp” đó thôi! Nay lại có giải thích khác: một câu đầu nêu tổng, bốn câu sau nêu biệt. Tổng là “đại pháp”, Biệt là “mưa, thổi, đánh, diễn”tức khai, thị, ngộ, nhập. Như bầu trời chẳng có lớn nhỏ, chẳng có màu đỏ trắng, mà mưa hoa thì có đỏ trắng…

Như đệ nhất nghĩa chẳng khai thị ngộ nhập, khi thấy lý này tức là chứng khai thị ngộ nhập. Ví như gieo hạt giống được mưa thì bắt đầu nảy mầm, nay nghe mưa đại pháp, hạt giống pháp tánh thấm nhuần, phá võ trấu vô minh, đạt Thập trụ, là khai tri kiến Phật. Ví như thổi pháp loa, biết là đã biến đổi hiệu, đây cùng với trước đã đạt Thập trụ, nay từ Thập trụ nghe pháp lại biến đổi, nhập Thập hạnh tức Thị tri kiến Phật. Ví như đánh trống, biết điều động binh lính, đây cùng với trước đã ở tại Thập hạnh, nay từ Thập hạnh nghe pháp chuyển tâm, nhập Thập hồi hướng, là Ngộ tri kiến Phật. Diễn nói sâu rộng cùng khắp mới gọi là “diễn nghĩa”, đây cùng trước đã ở tại Thập hướng, nay từ Thập hướng nhập vào Thập địa, là Nhập tri kiến Phật, đến tận nguồn hết giới hạn, sâu rộng đầy đủ. Nghĩ xưa hiện sáu điềm lành rồi thì khai thị ngộ nhập, suy ra nay có điềm lành thì sau đó cũng nên như vậy. Giải thích rộng phần Suy nghĩ đáp đã xong.

Lược từng thấy đáp: Từ “Ta từng ở nơi các đức Phật đời quá khứ”

trở xuống. Ban đầu dùng trí mình suy xét, bây giờ dùng Lược thấy để làm rõ chút ít đối với trước, nêu lên đây để giải đáp nghi vấn về cõi khác. Năm điềm lành ở cõi này không chung với cõi khác, chỉ một điềm lành phóng quang chiếu khắp phương Đông. Lược từng thấy đáp, chuyên đáp phóng quang, cho nên biết là đáp phần hỏi cõi kia. Nay thấy như xưa, xưa chỉ như nay. “Đức Phật vì muốn cho chúng sinh đều được nghe biết”, tức là hai tuệ Văn, Tư cũng như hai hạnh Tín, Pháp, mà thâu tóm vô lượng qui về một, biến đổi giáo lý tam thừa, sáu phen phá vô minh… Chư Phật đồng khai thị ngộ nhập tri kiến Phật, cho nên nói “pháp mà tất cả thế gian khó tin”.

Rộng từng thấy đáp: Từ “Như vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp về trước” trở xuống…: Làm rõ phần lược trên, nay rộng đáp nghi vấn cõi này cõi kia. Di-lặc nhân hào quang chiếu, ngang thấy phương Đông, lấy làm câu hỏi. Văn-thù dẫn xưa đọc thấy mà làm câu đáp, ngang dọc hiển bày chư Phật đồng đạo. Văn chia làm ba phần: Một là: Dẫn một đức Phật đồng. Hai là: Dẫn hai vạn Phật đồng. Ba là: Dẫn một đức Phật sau cùng đồng. Trong phần một Đức Phật trước đồng lại chia làm ba phần: Một là: Nêu rõ thời tiết. Hai là: Nêu danh. Ba là Thuyết pháp. Thời tiết thì như văn. “Có đức Phật hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh” là Nêu danh đồng. Thông hiệu với đức Phật này thì đồng, biệt danh làm sao đồng? Đây phải dùng danh biệt nghĩa đồng để giải thích. Vì sao? Vì “Nhật” là mặt trời trí tuệ, “Nguyệt” là định, định tuệ là đức tự hành. “Đăng minh” là đức hóa tha. Bậc Năng nhân có khả năng định tuệ, có khả năng tự lợi, lợi tha. Lại “Nhật Nguyệt Đăng” là ba trí, đức Phật này cũng có ba trí. Tùy duyên mà xưng khác, nhưng nghĩa không sai khác, cho nên nói danh đồng. Từ “Diễn thuyết chánh pháp” trở xuống, là thuyết pháp đồng. Đức Phật xưa thuyết trước đốn sau tiệm, cùng với đức Phật nay đồng. “Diễn thuyết chánh pháp ban đầu, giữa, sau đều thiện”, tức là đốn giáo. Phàm nói Bảy thiện mới chung Đại thừa tiểu thừa. Tìm văn thì thấy là Bảy điều thiện của Đại thừa. “Ban đầu, giữa, sau cùng đều thiện”, tức là Tựa, Chánh, Lưu thông của Đốn giáo, gọi là Thời tiết thiện, “Nghĩa ấy sâu xa” tức là lý liễu nghĩa của Đốn giáo, hàng Nhị thừa không thể đo lường nỗi độ sâu rộng của nghĩa ấy, nên nói “sâu xa”, đó gọi là Nghĩa thiện. “Lời lẽ khéo léo mầu nhiệm” tức là Bát âm theo Đốn giáo ; hội lý nói thẳng làm hớn hở tâm Bồ-tát, tức là văn Đốn giáo gọi là Ngữ thiện: “Thuần nhất không lẫn lộn” là không chung với Nhị thừa, tức là Đốn giáo Độc nhất thiện. “Đầy đủ”, là nêu đầy đủ pháp mãn tự của giới nội và giới ngoại, tức là Đốn giáo Viên mãn thiện. “Thanh bạch” là không có dấu vết của nhị biên, tức là Đốn giáo Điều nhu thiện. Gương mẫu về hành thiện. “Tướng phạm hạnh”, thì “phạm” tức là Đốn giáo Vô duyên từ thiện.

Lại “sơ, trung, hậu, thiện” giải thích không đồng. Nay tạm theo một cách giải nghĩa là: Nếu Tiểu thừa lấy giới định tuệ làm tam thiện, thì Đại thừa dùng sơ trung hậu tâm làm tam thiện. Kinh Kim Quang Minh nói : “Tâm ban đầu của Như Lai bất khả tư nghì, tâm giữa của Như Lai đủ mọi thứ trang nghiêm, tâm sau cùng của Như Lai không thể phá hoại”. Đây cũng là ý tam thiện. Văn-thù dẫn cổ Phật thuyết Đốn giáo bảy thiện, cùng với đức Phật nay đốn thuyết bảy thiện đồng, cũng cùng với các cõi khác ban đầu thuyết Đốn giáo đồng. Vì thế, Văn-thù dùng dẫn chứng này để trả lời. Đáp lại điều Di-lặc nhờ hào quang mà ngang thấy Phật cõi khác, nói: “Thánh chúa Sư tử diễn thuyết kinh pháp vi diệu đệ nhất” ở trên, cho nên Văn-thù dọc dẫn việc xưa, nêu đây làm câu đáp, tức là ban đầu đức Phật thuyết đốn pháp đồng.

“Đức Phật vì người cầu đạo Thanh văn mà thuyết pháp tứ đế”, tức là đức Phật xưa sau thuyết đốn pháp, lại khai pháp tiệm giáo, cũng đồng Phật nay. Trên hỏi: “Nếu người gặp khổ mà vì họ nói Niết-bàn”, nay dẫn Phật xưa cũng khai tiệm giáo để đáp câu hỏi kia. “Vì người cầu Bích-chi-phật mà thuyết pháp Thập nhị nhân duyên”, để trả lời câu hỏi trên: Nếu người có phước đức chí cầu pháp thù thắng. “Vì các hàng Bồ-tát mà thuyết sáu pháp Ba-la-mật”, trả lời câu hỏi trên: “Phật tử tu các thứ hạnh”. Đều là dẫn Phật xưa khai tiệm giáo đồng. Ngài Văn-thù đã rộng dẫn từng thấy Phật để đáp câu hỏi về cõi kia. “Khiến đắc Tambồ-đề thành nhất thiết chủng trí”,đây là nêu rõ Phật xưa sau khi khai đốn tiệm thì hiển thuyết Thật, cứu cánh từ đầu đến cuối. Đây là đáp câu hỏi: đức Di-lặc thấy Đức Phật cõi khác bát Niết-bàn, sau khi Phật Niết-bàn xây tháp thờ cúng. Như thế dẫn Phật xưa thuyết pháp đến sáu pháp Ba-la-mật, là nêu rõ đức Phật nay đã đồng với đức Phật xưa. Từ “Khiến đắc Tam-bồ-đề ” trở xuống là nói rõ đức Phật này sẽ đồng với đức Phật xưa…

Tiếp đến là phần Dẫn chứng hai vạn Phật danh hiệu thuyết pháp đều đồng. Ban đầu dẫn một đức Phật, nêu đầy đủ đốn tiệm thuyết pháp đồng, giữa nêu hai vạn đức Phật chỉ nêu đốn thuyết đồng, cho nên nói sơ trung hậu đều thiện, sau cùng dẫn một đức Phật chỉ nêu khai tiệm đồng. Sở dĩ như vậy, là vì nêu xen kẻ nhau đó thôi! Chỉ trước có thể biết mà không cần dẫn hai vạn đức Phật, chính là danh tự, thuyết pháp đều đồng, căn cứ nghĩa thì thuận tiện. “Họ Phả-la-đọa”, Trung hoa dịch là Tiệp Tật, cũng gọi là Lợi căn, cũng gọi là Mãn ngữ.

Dẫn một Đức Phật cuối đồng: Từ “Đức Phật rớt sau cả” trở xuống. Văn chia làm ba phần: Một, là nêu rõ việc từng thấy cùng nay đã đồng. Hai, là nêu việc từng thấy cùng với hiện nay đang đồng. Ba, là nêu việc từng thấy cùng với nay sẽ đồng. “Từng” nghĩa là những cái quen thuộc ở quá khứ. “Đã” là chấm dứt ở quá khứ. “Từng đã”, là lặp đi lặp lại ở quá khứ. Nay lấy việc lâu xa nói là “từng”, việc ít gần đây gọi là “đã”. Dùng sáu điềm lành… gọi là “đang”. Sau khi Phật xuất định, gọi là “sẽ”.

Phần một: từ “Đức Phật rốt sau cả, khi chưa xuất gia có tám vị vương tử” là việc từng thấy cùng với nay đã đồng. Đức Phật xưa có tám vị vương tử. Đức Phật nay có một vị vương tử, số tuy không đồng nhưng đều xuất hiện ở Phàm thánh đồng cư độ. Ở cõi có Kiến Tư hoặc, đều thị hiện có con. Sự có con là đồng. Một hay tám chỉ là tùy duyên mà biểu hiện khác nhau. Sanh một con là tiêu biểu chung cho Nhất đạo thanh tịnh. Sanh tám con là tiêu biểu Tám chánh đạo. Số khác mà nghĩa đồng. Nay chọn nghĩa có con đồng. Lại, con của đức Phật xưa thì xuất gia phát tâm Đại thừa, con của đức Phật nay thì trú quả Tiểu thừa, vậy tại sao đồng? Vì Phật xưa hóa đạo xong rồi hiển rõ Bản sự, cho nên nói phát tâm Đại thừa. Nay chưa phát tích, còn nói La-hán, đến văn dưới phát bản, là Bồ-tát tức nghĩa kia đồng.

Từ “Lúc đó đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thuyết kinh Đại thừa” trở xuống, nêu việc từng thấy cùng với hiện nay đang đồng. Ở cõi đức Phật xưa, xuất hiện sáu điềm lành đều cùng nay đồng , thứ lớp như văn. Sáu điềm lành ở cõi khác của Phật xưa, nói chung đều như nay đang thấy, thì biết xưa đức Phật các cõi khác hiện sáu điềm lành cũng cùng nay đồng. Xưa nêu rõ Biệt tựa, đã có đồng hai Tựa: Hiện tướng và Hoài nghi, mà không có ba Tựa: Tập chúng, Phát vấn và Đáp vấn, là sao? Nếu suy nghĩ ra, tức có ba Tựa ấy. Vì đã nói Phật thuyết pháp thì biết chắc là có Tập chúng, đã có Hoài nghi thì biết sẽ có Phát vấn, nếu có hỏi thì ắt có Đáp vấn. Kể ra hai Tựa mà hẳn nhiên có ba Tựa kia đồng. Lại, nếu thuật lại các trả lời ở chổ Phật xưa thì không đợi ngài Văn-thù nhọc sức nói ra, mà đã không nói đáp, tức cũng không có hỏi. Nghĩa ấy có thể hiểu.

Từ “Lúc ấy có vị Bồ-tát tên là Diệu Quang” trở xuống, nêu việc từng thấy xưa kia cùng nay sẽ đồng. Văn đây có sáu phần: Một, từ “Lúc ấy có vị Bồ-tát”, là Vì người đồng. Hai, từ ” Lúc bấy giờ đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh từ trong chánh định mà khởi xuất”, là thuyết pháp tên đồng. Ba, từ “Sáu mươi tiểu kiếp”…, là thời gian đồng. Bốn, từ “Thuyết kinh này rồi, liền ở trong chúng Ma, Phạm, Sa-môn”, là xướng diệt đồng. Năm, từ “Khi đó có Bồ-tát tên là Đức Tạng”, là thọ ký đồng. Sáu, từ “thì vào nửa đêm nhập Niết-bàn”, là nói diệt độ, lưu thông kinh đồng. Đây là phần một: Thế nào là Vì người đồng? Xưa đức Phật từ trong định xuất, vì Bồ-tát Diệu Quang mà thuyết kinh. Nay đức Phật từ trong định xuất, vì vị Thanh văn tên Thân-tử mà thuyết kinh, vạy sao nói là đồng? Diêu Sư nói: “Vì” là vì ủy thác. Giao phó truyền kinh Nhất thừa, thì không phải là nhắm vào người trực tiếp được Phật chỉ bảo. Đức Phật xưa kia dạy bảo đâu hẳn là nhắm vào Bồ-tát Diệu Quang. Cũng như nay, Phật dạy bảo trực tiếp Thân-tử, chưa hẳn Thân-tử có khả năng truyền bá lưu thông kinh này. Vì ủy thác truyền bá lưu thông, thì không ai bằng Bồ-tát Diệu Quang, cũng như nay thì không ai bằng ngài Văn-thù. Phật nay không khen, thì Phật xưa hà tất phải khen! Văn-thù dẫn chứng Phật xưa khen Bồ-tát Diệu Quang, chính là muốn nói rõ khả năng nhận ủy thác đó thôi. Lại, xưa có một số vị giải thích kinh cho rằng Bồ-tát Dương Vương là người được ủy thác, thì cũng có thể được, chỉ là dẫn xưa để chứng minh nay, có chút ít không giống nhau. Hoặc nói vì Văn-thù giải thích nghi, được đức Phật khởi định thuyết kinh, mà đối với Văn-thù nói không tiện. Nay nói rõ không như vậy, kinh văn tự nói vì Diệu Quang mà chính thuyết, và giải thích vì ủy thác lưu thông. Nếu coi Dược Vương là người được ủy thác, thì chính là công khai chống đối lời Phật dạy, đâu có liên quan gì đến giải thích kinh. Xưa vì Diệu Quang nay vì Thân-tử, chính là đồng người được ủy thác. Xưa tám người con của đức Phật tôn Diệu Quang làm thầy, Như Lai xuất định, trực tiếp bảo Diệu Quang, lại giao phó ủy thác cho Diệu Quang. Nay La-hầu-la con Phật cũng tôn Thân-tử làm thầy, đức Phật trong định ra cũng trực tiếp bảo Thân-tử. Tích môn xong. Lại phó thác cho Thân-tử, tức xưa nay không đều nhau. Lại làm sao hơn đây, nếu như Cận thì vứt bỏ Thân-tử, Viễn thì dùng Dược Vương?

Có người nghi rằng: Diệu Quang là Bồ-tát, Thân-tử là Thanh văn làm sao đồng? Việc xưa đã rõ ràng thì nói là Bồ-tát, việc nay chưa phát thì gọi là Thanh văn. Đến lúc phát Tích thì Thân-tử là đại Bồ-tát, chẳng phải giống nhau thì nghĩa là gì? Xưa Diệu Quang thùy tích vì sao lại không làm Thanh văn? Đặc biệt là Văn-thù khéo giỏi thuyết pháp, phương tiện ẩn hiện đó thôi.

Từ “Bây giờ đức Phật Nhật Nguyệt”… là Phần hai: thuyết pháp tên đồng; như văn trên Di-lặc thấy cõi khác ban đầu đốn, sau đốn thấy tiệm, sau tiệm thấy các thứ hạnh, sau hạnh không có cảnh, sau thấy đức Phật nhập Niết-bàn. Nay Văn-thù đáp từng thấy đức Phật ban đầu đốn, sau đốn là tiệm, sau tiệm nói các thứ hạnh, tức là thấy Pháp Hoa. Như thế sau khi hiện sáu điềm lành kia rồi thì thuyết kinh Pháp Hoa, thuyết Pháp Hoa rồi thì nhập Niết-bàn, đây là rõ ràng quyết định đáp câu hỏi của cõi nước kia.

Từ “Sáu mươi tiểu kiếp”… là Phần ba: thời tiết đồng. Như văn dưới nói: “năm mươi tiểu kiếp nghĩa là như nửa ngày” tức là đồng vậy.

Từ “Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh” xuống là Phần bốn: nói diệt đồng. Xưa thuyết Pháp Hoa xong xướng nhập diệt cũng như đức Phật Ca-diếp… Nay Phật thuyết trong phẩm Bảo Tháp “Như Lai không bao lâu nữa sẽ nhập Niết-bàn”, tức việc hóa đạo đã đủ nên đề xướng diệt độ, sự đồng.

Từ “Khi ấy có Bồ-tát”… là Phần năm: Thọ ký đồng. Xưa thọ ký cho Đức Tạng Bồ-tát, kinh này thọ ký cho hàng Thanh văn, sao được gọi là đồng? Việc xưa đã thành, cho nên nói thọ ký Bồ-tát, nhưng chính là hội tam qui nhất, Thanh văn cũng được thọ ký vậy. Nếu nói xưa thọ ký cho hàng Thanh văn, đức Phật khởi định thuyết, thì còn gì để bàn luận nữa ? Văn-thù khéo giỏi luận đàm cho nên không phát tích đó thôi! Nếu nói thọ ký cho hàng Bồ-tát, thì các kinh đều như vậy, thế thì người chấp giáo chưa kinh sợ v.v…

Từ “Đức Phật thọ ký xong” là Phần sáu: Lưu thông kinh đồng. Văn chia làm năm phần: Một, là Thời tiết tức sau khi đức Phật diệt độ. Hai, là xuất hiện người kia tức là Diệu Quang. Ba, là gần lâu tức tám mươi tiểu kiếp. Bốn, là Chúng được hóa độ tức tám vương tử và tám trăm đệ tử. Năm, là Kết hợp xưa nay, tức Cầu Danh Diệu Đức đồng vậy. Phần bốn: chúng được hóa độ, lại có hai phần:

  1. Tám vương tử tu hành thành Phật đã lâu.
  2. Một trong tám trăm đệ tử mới thành ngôi Bổ xứ hiện nay.

Sở dĩ dẫn tám vương tử và tám trăm đệ tử, gần thì giải thích nghi và mật khai thọ lượng. Giải thích nghi: Hoặc nói Di-lặc Bổ xứ, là lớn, Văn-thù không phải Bổ xứ là nhỏ. Nhỏ không nên đáp, lớn không nên hỏi, cho nên nêu ra tám trăm thì có lẽ có người nên hỏi; Diệu Quang xưa thân gần đối với Phật, trước lại làm thầy cho nên giải thích nghi chẳng lầm lẫn. Mật khai thọ lượng: Tám vị vương tử đều thành Phật, vị sau cùng hiệu là Nhiên Đăng. Nhiên Đăng là Định Quang, Diệu Quang là tổ sư chín đời của đức Thích-ca. Cháu nay thành Phật, Sư tổ làm đệ tử. Thầy trò không cố định, là muốn ngầm nêu cái ý sinh mà không sinh, diệt mà không diệt.

Hỏi: Xưa đức Di-lặc thấy chư Phật từng nghe Pháp Hoa, vì sao còn nghi hỏi?

Đáp: Vì tùy thời hợp căn cơ chúng, nên phải phát hỏi.

Phân minh phán xét đáp : Từ “Nay thấy điềm lành này” trở xuống. Sáu điềm lành xưa và nay đã đồng. Nghĩ suy quyết định không lầm lẫn. Lược từng thấy và Rộng từng thấy đều quyết định. “Sẽ thuyết kinh Đại thừa” là quyết định điềm lành về thuyết pháp ở trước. “Tên là Diệu Pháp Liên Hoa” là quyết định điềm lành mưa hoa ở trước. “Giáo Bồ-tát Pháp” là quyết định điềm lành chúng vui mừng ở trước. “Phật Sở Hộ Niệm” là quyết định điềm lành đất chấn động ở trước. Điềm lành Phật nhập định đều bao gồm ở trong đó. Có người cho rằng đã đồng sẽ đồng, mà không cho là nay đồng. Căn cứ kinh văn nói: “Nay thấy điềm lành này cùng với xưa không khác”, thì đây chính là nói đối với nay. Thế thì tại sao nói sáu điềm lành mà cho là đã đồng? Căn cứ văn đây gọi là nay đồng, cho nên giải thích ba thứ đồng.

Tụng có bốn mươi lăm hàng kệ, không tụng phần Suy nghĩ và Lược từng thấy đáp, chỉ tụng phần Rộng từng thấy đáp, và chỉ tụng trước, sau, không tụng giữa. Văn chia làm ba phần: Phần một: có hai hàng tụng thời tiết, danh hiệu, thuyết pháp đồng. Phần hai: từ “Lúc Phật chưa xuất gia” trở xuống, có ba mươi chín hàng kệ, tụng đức Phật sau cùng có ba thứ đồng. Phần ba: có bốn hàng tụng là quyết định đáp. Trong phần hai tụng ba thứ đồng, lại chia làm ba: Một: một hàng kệ, tụng việc từng thấy cùng nay đã đồng. Hai: mười lăm hàng rưỡi, tụng việc từng thấy cùng nay đang đồng. Ba: hai mươi hai hàng rưỡi, tụng việc từng thấy cùng nay sẽ đồng.

Từ “Phật thuyết kinh Đại thừa” trở xuống, mười lăm hàng rưỡi tụng hiện nay đồng, lại chia làm hai: Một: mười bốn hàng, tụng sáu điềm lành của cả hai cõi. Hai: từ “Bấy giờ bốn bộ chúng” trở xuống, một hàng rưỡi là tụng Bốn chúng ôm lòng nghi.

Trong mười bốn hàng kệ lại chia làm hai phần: Một: bốn hàng kệ, tụng sáu điềm lành cõi này đồng, mà ở phần trường hàng thiếu câu “Trống trời tự nhiên vang” là tiêu biểu không ai hỏi mà đức Phật tự thuyết. “Hiện các việc hi hữu” tức tổng tụng các điềm lành. Hai: từ “Ánh sáng chiếu phương Đông” có mười hàng tụng ở cõi khác sáu điềm lành đồng. Văn trường hàng chỉ nói: “Như nay đang thấy ở cõi Phật đây”, văn xuôi thì lược, tụng thì rộng. Văn này chia làm năm phần. Phần một: ba hàng tụng thấy chúng sinh trong sáu đường đồng. Phần hai: từ “Lại thấy các Như Lai” trở xuống, một hàng rưỡi, tụng thấy Phật đồng. Phần ba: từ “Thế Tôn trong đại chúng” trở xuống, nửa hàng, tụng nghe Phật thuyết pháp Đốn giáo bảy thiện đồng. Phần bốn: từ “Mỗi mỗi các cõi Phật” trở xuống, ba hàng, tụng thấy các vị tam thừa như Thanh văn v.v… tức là đức Phật xưa khai pháp Tiệm giáo đồng. Phần năm: từ “Lại thấy các Bồ-tát” trở xuống, hai hàng, tụng thấy các thứ nhân duyên tu hành Bồ-tát, tức là tụng khai giáo Phương đẳng Bát-nhã đồng. Phần một gồm ba hàng, như văn. Phần hai gồm một hàng rưỡi, giải thích. “Tự nhiên thành Phật đạo”, phương tiện đạo thì là gia tâm tu tập, phát chân thật đạo tức là không cần dụng công, chỉ tùy thuận sự tự nhiên của các pháp mà vẫn phù hợp với lí tánh. Căn cứ theo bốn giáo có thể biết…

Hỏi: Phát sinh đạo chân thật ấy nếu tự nhiên, thì đâu cần chư Phật thuyết pháp?

Đáp: Như thuyền thuận dòng, nếu gặp gió lại thêm sức chèo thì nhanh chóng đến nơi. Gió dụ cho thấy Phật nghe pháp. Chèo dụ cho sự tu hành. Thí dụ như hàng Sơ quả nhậm vận bảy phen sinh trở lại, nếu được gặp Phật gia công tu hành thì chỉ còn một hoặc hai phen sinh trở lại rồi đắc đến quả vô học… “Tự nhiên thành Phật đạo” là báo thân, lưu ly” là pháp thân vốn tịnh, “kim tượng” là ứng vật hiện hình. “Thế Tôn trong đại chúng, diễn bày nghĩa pháp sâu”: nửa hàng này nhờ pháp mà biết căn cơ người. Pháp đã sâu xa mầu nhiệm hẳn biết nhất định là chuyển căn cơ Đại thừa khai Đốn giáo. Đây là tụng phần văn: “Thuần nhất không tạp, bảy điều thiện” bên trên.

Ba hàng kết từ “Mỗi mỗi các cõi Phật, chúng Thanh văn vô số” trở xuống, tức nhờ người mà biết pháp. Người đã là Nhị thừa, ắt biết khai Tam tạng thuyết, tức là tụng văn xuôi: “vì hàng Thanh văn mà thuyết pháp tứ đế” bên trên. Tuy không tụng Duyên giác nhưng gồm nhiếp trong đó. “Hành thí nhẫn nhục đẳng”, “đẳng” là chỉ bốn độ kia vậy. Một hàng tụng đây là nói về lục độ Đại thừa bên trên. “Lại thấy hàng Bồ-tát, thâm nhập các thiền định” trở xuống, hai hàng là phần năm: tụng thấy hàng Bồ-tát các cõi khác và các thứ nhân duyên tín giải tướng mạo, lược không tụng đáp việc xây tháp bên trên. Văn trên không thấy tướng Pháp Hoa ở các cõi khác. Tiếp đây là thấy xây tháp, nay đáp thấy tướng Pháp Hoa xuất hiện, cho nên việc nhập diệt xây tháp sau sẽ đáp. Từ “Bấy giờ bốn bộ chúng” trở xuống, một hàng rưỡi: nhắc lại sự nghi ngờ của bốn chúng ở cõi Phật xưa, như văn.

Từ “Đấng người trời kính thờ” trở xuống, hai mươi hai hàng rưỡi,

tụng việc từng thấy cùng nay sẽ đồng. Văn chia làm sáu phần: Một là: hai hàng hai câu, tụng người nhận ủy thác đồng. Hai là: “Liền thuyết kinh Pháp Hoa” một câu, tụng thuyết pháp đồng như trên. Ba là từ “Đủ sáu mươi tiểu kiếp” trở xuống, một hàng và một câu, tụng thời tiết đồng. Ước tính trí tuệ trải qua các kiếp lâu dài không thể nghĩ bàn, mà suốt thời gian này Diệu Quang đều thọ trì pháp của Phật xưa, cũng như Thân-tử thọ nhận sự phó chúc của đức Phật Thích-ca. Bốn là từ: “Phật thuyết Kinh Pháp Hoa” trở xuống năm hàng, tụng trên là xướng diệt đồng, tức đáp ý chư Phật các cõi nhập diệt ở bên trên. Theo văn đây có xướng diệt có chúc lụy. Chúc lụy như kinh Di Giáo. Có thương xót khóc lóc như trong kinh Niết-bàn. Có an ủi vỗ về cũng như trong kinh Di Giáo, người đắc độ thảy đều được độ, người chưa được độ thì tạo nhân duyên được độ, cũng như đức Phật đây sẽ giao phó cho Di-lặc… Năm là từ “Đức Tạng Bồ-tát đây”, trở xuống, một hàng rưỡi, tụng thọ ký bên trên. Sáu là từ “Đêm đó Phật diệt độ” trở xuống, mười hai hàng, tụng lưu thông kinh bên trên. Phần này lại chia làm năm. Một là: Có hai hàng tụng thời gian sau khi Phật diệt độ, bốn chúng được lợi ích như ở trên. “Như củi hết lửa tắt”, theo Tiểu thừa, thì Phật lấy thân quả báo làm củi, trí tuệ làm lửa, tuệ y cứ báo thân, thân diệt trí mất. Theo Đại thừa, thì Phật lấy căn cơ làm củi, ứng hợp làm lửa, chúng sinh căn cơ hết thì ứng hình cũng diệt. “Lại càng thêm tinh tấn”, nên dùng diệt độ để độ người. Hai là từ: “Diệu Quang Pháp sư ấy” có hai câu, tụng người năng hoằng hóa kinh bên trên. Ba là từ “Trong tám mươi tiểu kiếp” có hai câu, tụng thời gian thuyết kinh. Bốn là từ “Tám vị vương tử ấy” có tám hàng tụng đệ tử được lợi ích, lại chia làm hai phần: Ba hàng đầu tụng đệ tử đã thành Phật. Năm hàng kế tiếp từ “Diệu Quang Pháp sư đó” trở xuống, tụng đệ tử sẽ thành Phật. Năm là từ “Sau Phật kia diệt độ” có một hàng, tụng kết hợp xưa nay. Bốn hàng kệ sau, xưa gọi là kết thành khiến vạn vật ngưỡng mộ, nay giải thích không như vậy.

Văn trường hàng trên có Phân minh phán đáp, tức văn tụng này. Văn chia làm ba:

1. Từ “Ta thấy Phật Đăng Minh” trở xuống, có một hàng, tụng lại văn trên “sẽ thuyết kinh Đại thừa”.

2. Từ “Tướng nay như điềm xưa” trở xuống, hai hàng tụng văn trên: “giáo Bồ-tát pháp”.

3. Từ “Các người cầu tam thừa” trở xuống, một hàng tụng văn trên: “được Phật hộ niệm”, xem văn có thể biết. Lại, trước ngài Di-lặc giải thích bốn phục nạn khiến cho Văn-thù ắt phải có đáp, trong đó là Văn-thù đoạn trừ bốn phục nghi, khiến cho Di-lặc chẳng hỏi lại nữa. Nghi thứ nhất: Nhân Văn-thù rộng dẫn đức Phật trước từng thuyết kinh Pháp Hoa, cho nên Di-lặc ngầm nghi muốn hỏi : “Chư Phật phó duyên cho người thời đều có sự sai khác. Cổ Phật tuy nói tên Pháp Hoa, Phật nay đâu hẳn giống như thế?” Văn-thù liền dùng bài kệ thứ nhất để đoạn nghi: “Tôi thấy Phật Nhiên Đăng, điềm sáng trước như thế”, cho nên biết Phật nay, muốn thuyết kinh Pháp Hoa, đây là đoạn nghi câu hỏi về tên kinh. Di-lặc nhân đây lại nghi, vì có tên đồng nghĩa đồng, và có tên đồng mà nghĩa khác, tên đây hiển bày loại nào? Văn-thù liền dùng bài kệ thứ hai để đoạn, rằng: “Tướng nay như điềm xưa, là phương tiện của Phật, nay Phật phóng ánh sáng, giúp bày nghĩa thật tướng”. Đây là trả lời câu hỏi để đoạn nghi về thể của kinh. Di-lặc nhân đây lại nghi: “Thật tướng vô tướng, người làm sao hiểu?” Văn-thù liền dùng bài kệ thứ ba để đoạn nghi: “Các người nay nên biết, chắp tay một lòng chờ, Phật sẽ rưới mưa pháp, đầy đủ người cầu đạo”, đây là trả lời câu hỏi để đoạn nghi về tôn chỉ Kinh. Di-lặc nhân đây lại nghi: “Phật rưới mưa pháp chỉ thấm ướt Bồ-tát, cũng thấm ướt Nhị thừa ư?” Văn-thù liền dùng bài kệ thứ tư để đoạn nghi: “Các người cầu Tam thừa, nếu có chỗ nghi ngờ, Phật sẽ dứt trừ cho, khiến hết không còn thừa”. Đây tức trả lời câu hỏi để đoạn nghi về dụng. Di-lặc liên tiếp gây sự nghi, Văn-thù nhiều lần đoạn sự phiền nhiễu ấy, đã sự cùng lý tận tức được yên lòng. Có thể gọi là khéo léo trong việc vấn đáp, cả hai thứ trang nghiêm.

Ngài Quang Trạch chỉ biết thuật lại. Kiếm sư giải thích bốn thứ phục nạn, khiến Văn-thù cần phải trả lời, làm nổi bật sự khéo léo của Di-lặc mà không thấy Văn-thù giải thích bốn phục nghi khiến Di-lặc không thể hỏi tiếp bởi vì ngưỡng mộ tài năng của Diệu Đức (tức Vănthù). Nghĩa này rút ra chính từ Tổ Thiên Thai, không phải được truyền từ sớ khác. Như bảo với các Hiền giả đời sau đừng ngăn cản người có khả năng phát triển nghĩa thêm. Từ ngài Kiếm sư về sau trong vài trăm năm, người giảng Pháp Hoa nhiều vô số, có thể có người thấy được ý này chưa? Nếu chưa, thì làm sao phát triển?!

Phẩm Thứ 2: PHẨM PHƯƠNG TIỆN

Giải thích phẩm này có lược có rộng.

I. LƯỢC chia làm hai:

  1. Tóm lược.
  2. Liệu giản.

Thứ nhất: Tóm lược: “Phương” là pháp, “Tiện” là dụng. Pháp thì có vuông tròn. Dụng thì có cơ hội khác nhau. Tam quyền là khuôn phép là vuông. Nhất thật là khuôn tròn là tròn, nếu trí hướng đến khuôn phép vuông, thì khéo dùng thiên pháp hợp cơ duyên chúng sinh. Nếu trí hướng đến khuôn tròn, thì khéo dùng viên pháp hợp cơ duyên chúng sinh.Ví như theo ngón tay chỉ một phía, thì chỉ thấy một phía, đó là nêu thiên pháp dùng mục trí, tức là dùng Pháp để giải thích “Phương”, đem Dụng để giải thích “Tiện”. Nếu chỉ chung hết cả, thì thấy khắp chỗ viên mãn, tức là đem pháp bí mật để giải thích “Phương”, đem Diệu để giải thích “Tiện”. Nêu pháp thiên lệch để giải thích “phương tiện”, là vì chúng sinh ham muốn chứ chẳng phải bản hoài của Phật. Như kinh dạy: “khiến lìa các chấp đắm vượt khổ trong ba cõi”. Thế nên, Như Lai ân cần xưng tán phương tiện. Nghĩa đây có thể giải thích ý các kinh khác, không phải ý phẩm này. Lại phương tiện là môn vậy. Môn gọi là năng thông, thông các sở thông. Phương tiện quyền lược đều là giả dẫn. Vì chân thật mà làm môn, để chân thật được hiển bày, thế thì công do phương tiện. Từ năng hiển mà được tên, cho nên dùng môn mà giải thích phương tiện. Như kinh “khai phương tiện môn, chỉ bày tướng chân thật”, nghĩa này có thể giải thích các kinh khác, chẳng phải ý phẩm này. Lại, “Phương” là bí mật, “Tiện” là diệu. Diệu đạt nơi phương, tức là chân thật bí mật. Dạy bảo : Hãy nhận “hạt châu vô giá trong áo lót” (nội y lý vô giá chi châu). Hạt châu này cùng với hạt châu trên đỉnh đầu của vua, chỉ là một, không hai không khác. Chỉ gã cùng tử và bảo với mọi người rằng: Hắn là con ông Trưởng giả, không hai không khác. Nói như thế, là bí mật là diệu. Như kinh nói: “Chỉ có ta biết tướng đó, mười phương Phật cũng như vậy”. “Thôi thôi! không cần nói nữa, pháp của ta vi diệu khó hiểu”. Cho nên, dùng nghĩa Bí mật để giải thích “Phương”, dùng nghĩa Diệu để giải thích “Tiện”, chính là ý của phẩm này, cho nên nói “phẩm Phương Tiện”.

Thứ hai: Giải thích, có ba bước: Ban đầu giải thích là “Phương tiện ngoài thể”, quyền hóa vật, tùy theo ý người khác mà nói. Tiếp đến, giải thích cũng là “Phương tiện ngoài thể”, quyền tự hành hóa tha, tùy theo ý mình và ý của người khác mà nói. Sau, giải thích là “Đồng thể phương tiện”, tức là quyền tự hành, chỉ theo ý của mình mà nói.

Ban đầu, giải thích Phương tiện chẳng phải năng nhập chẳng phải sở nhập. Tiếp đến, giải thích Phương tiện là năng nhập, chẳng phải sở nhập. Sau, giải thích Phương tiện là sở nhập chẳng phải năng nhập. Cho nên, phải biết rằng tên tuy đồng mà nghĩa thì hoàn toàn khác. Người đời phần nhiều không thấy ý này, mà chỉ rộng thích phẩm Phương Tiện.

Hỏi: Phương tiện cùng với quyền, là thế nào?

Đáp: có bốn câu phân biệt:

  1. Tự có phương tiện phá quyền.
  2. Quyền phá phương tiện.
  3. Phương tiện tu quyền, quyền tu phương tiện.
  4. Phương tiện tức quyền, quyền tức phương tiện.

Phương tiện phá quyền: bốn thứ đều là phương tiện bí mật vi diệu, phương tiện này phá quyền tùy theo ý người khác. Quyền phá phương tiện: quyền là quyền đồng thể, phá phương tiện ở ngoài thể. Tương tu ấy cũng có thể hiểu. Tương tức ấy cũng có thể hiểu. Ba câu đầu có thể giải thích kinh khác, câu thứ tư là ý phẩm này. Cho nên kinh Chánh Pháp Hoa gọi là Phẩm Thiện Quyền. Quyền tức phương tiện, không hai không khác. Cúi đầu, giơ tay, đều thành Phật đạo. Phương tiện thiện quyền đều là chân thật.

II. GIẢI THÍCH RỘNG: Trước hết nêu ra xưa giải thích năm thời quyền thật, mười hai năm trước chiếu sự vô thường là quyền, chiếu lý vô thường là thật, chỉ A-tỳ-đàm. Nay cho rằng Thích luận phá vô thường là pháp đối trị ,đều thuộc tam Tất-đàn. Sao nói có thật ư ? Chẳng phải chỗ dùng của kinh này. Sau mười hai năm thì Bát-nhã chiếu “giả có” là quyền, chiếu “giả có tức không” là thật, Thích luận cũng phá nghĩa này, quán niệm tưởng đã trừ, pháp ngôn ngữ đều diệt. Chiếu “giả có tức không”, thì cũng như quán tưởng đó thôi, chẳng phải chỗ dùng của kinh này. Tiếp theo là kinh Tịnh Danh và kinh Tư Ích: bên trong thì tranh luận, soi rõ “hai cảnh Không và Có” làm thật trí, bên ngoài thì biến động ứng dụng làm quyền trí. Nay nói rằng: “bên trong xem xét, bên ngoài ứng dụng” là hai, chẳng phải nhập môn bất nhị, chẳng phải chổ dùng của kinh này. Tiếp nữa Pháp Hoa chiếu Tam tam (Tam nhân, Tam cơ, Tam giáo) là quyền, chiếu Tứ nhất là thật (Tứ nhất: giáo nhất, hành nhất, nhân nhất, lý nhất). Nay cho rằng tam quyền nhất hướng không hội nhập thật, nhất thật không liên quan đến tam quyền, cũng chẳng phải chổ dùng của kinh này. Tiếp, kinh Niết-bàn thì cho rằng “vô thường trước Kim Cang” là quyền, và “thường sau Kim Cang” là thật. Nay nói: “đạo tiền chân như” cũng là thường, “đạo hậu như lượng trí” cũng là quyền. Năm thời quyền thật đó chẳng phải chổ dùng của kinh này. Cho đến hai trí Quyền Thực bán mãn mà bốn tông chỉ đã nói, không phải chổ dùng của kinh này. Lại có người giải thích: phương tiện là quyền, “như vậy thật” là đúng thật. Lại, phương tiện là quyền xảo, thật là trí tuệ. Lại, phương tiện là quyền giả, giả ba xe ở ngoài cửa. Lại, phương tiện là quyền nghi, vì thích nghi thuyết tam thừa. Lại, quyền là tên gọi của Thí dụ. Thí dụ như quả cân, trước là phép tắc, ở chổ coi trọng (nó) vẫn là phép tắc, ở chổ coi nhẹ (nó) vẫn là phép tắc,bình thường, hợp với Phật trí chiếu soi quan sát xứng lượng. Các giải thích như vậy, mỗi mỗi dùng một cách. Quyền như vậy, quyền giả thì căn cứ xứ sở. Quyền nghi thì theo pháp môn. Quyền xảo ví như quả cân, dựa theo trí năng. Tất cả cách giải thích đó thì nghĩa không bao hàm, không dung thông vi diệu, không thể dùng để giải thích phẩm này.

Lại, có người dùng bốn loại nhị tuệ: Loại một: một là quyền, một là thật. Loại hai: hai trí quán Không và Có: quán Không, thì chẳng chứng, lìa Nhị thừa; quán Có thì chẳng nhiễm, ra khỏi phàm phu. Loại ba: “tĩnh lặng bên trong cái Không và Có” là thật, cái dụng bên ngoài là quyền. Loại bốn : Vô thường trước Kim-cang là quyền, Thường sau Kim-cang là thật. Hai tuệ đầu khiến sinh tín, hai tuệ thứ hai khiến sinh giải, hai tuệ thứ ba khiến hóa tha, hai tuệ thứ tư là quả. Các nhị tuệ này gồm có ba phen chuyển: Phen thứ nhất: coi Có là tục, Không là chân. Phen thứ hai: coi Không và Có là tục, phi Không phi Có là chân. Sau cùng Không và Có là nhị, phi Không phi Có làm bất nhị. Nhị và bất nhị, đều là tục, phi nhị phi bất nhị, là chân. Giáo trí cũng như thế. Vì sao vậy? Vì Vị nhân Tất-đàn, do có người trước nghe chẳng ngộ, sau nghe liền ngộ, cho nên nhị đế không đồng. Lại đức Như Lai thường nương nhị để mà thuyết pháp, cho nên nhị đế có ba môn. Lại, giáo lý Phật tuy nhiều mà không vượt ngoài ba môn. Lại, dần dần mà dẫn dắt chúng sinh. Bởi vì phàm phu chấp tâm hình là thật, cho nên dạy họ rằng tâm hình đó chẳng thật, mà pháp tánh Không mới là chân. Phàm phu liền xả Có chấp Không, nên Phật dạy Không và Có đều là tục, phi Không phi Có mới là chân. Họ xả nhị biên, lại đắm Trung đạo, cho nên lần thứ ba dạy viễn ly nhị biên không chấp đắm Trung đạo, mới là chân. Đây gọi là ngũ thừa nhân. Ban đầu dẫn phàm phu sinh tín lìa chấp Có, tiếp đến dẫn Nhị thừa khiến nhập Trung đạo. Tiếp nữa, dẫn Bồ-tát khiến Trung đạo thiên kiến đều xả. Lại, vì người học Trung đạo mà nói ba giả là thế tục, ba giả Không là chân, đây chỉ hiểu được ý ban đầu. Tiếp đến, chẳng phải ba thứ Giả, Không, Có, đều là tục, chẳng phải Không chẳng phải Có là chân… Nay nói rõ giải thích như thế là bên cạnh ngũ thời mà hiển bày ý mình, là từ chối từng bước leo lên các bậc thang, là không hợp lý vậy! Có thể giải thích các kinh khác, chẳng phải ý của phẩm này.

Kinh dạy: “Đều khiến cho chúng sinh thảy đều nhìn thấy”. Dù trước hay sau lúc nào mà khai ngộ không đồng? Lại nói “chính trực xả phương tiện”, thì sao lại dùng tiệm thứ (dần dần) hợp với viên diệu? Lại nữa, ban đầu dẫn sinh tín, sinh giải, hóa tha, quả… đâu có liên quan gì đến ý ngộ nhập của kinh này? Như ngài Thiên Thân nêu mười bảy tên gọi, tên gọi thứ mười ba là Đại Xảo Phương Tiện. Lại, Kinh Đại Thừa Phương Tiện nêu tên của mười thứ phương tiện, tên thứ chín là Thiện xảo phương tiện, chuyển đổi nhị thừa khiến nhập Đại thừa phương tiện Ba-la-mật. Nên biết phẩm này chính là Như Lai phương tiện, thâu nhiếp hết thảy pháp, như hư không bao trùm sắc, như biển thâu nạp các dòng. Há có thể lấy một nhánh một phái của các sư mà giải thích toàn bộ pháp giới? Nay nêu rõ quyền thật, trước hết làm bốn câu: tất cả pháp đều là quyền, tất cả pháp đều là thật, tất cả pháp cũng quyền cũng thật, tất cả pháp phi quyền phi thật. Tất cả pháp đều là quyền: Như văn nói: “Các pháp tướng như vậy, tướng như vậy, thể như vậy, lực như vậy, bản mạt… như vậy”, do đó có nói thì đều là quyền. Tất cả pháp đều là thật: Như văn: “Như Lai khéo thuyết các pháp, lời lẽ êm dịu làm vui đẹp lòng chúng”. Lòng chúng lấy hội nhập thật làm vui. Lại, “Các pháp từ xưa nay, tướng thường tự vắng lặng”. Lại nói: “Những lời Như Lai thuyết đều đạt đến Nhất thiết trí địa”. Lại nói: “đều thật, không hư dối”. Lại bốn câu trong Đại kinh đều là bất khả thuyết. Tất cả pháp cũng quyền cũng thật: Như văn nói: “Các pháp như thật tướng”, là nêu cả hai tất cả cũng quyền cũng thật. Thí dụ như quán bất tịnh, cũng quyền cũng thật…

(Phần Hạ)

Tất cả pháp phi quyền phi thật: Văn nói “Không như không dị”, lại nói “Cũng không hành pháp thượng trung hạ, pháp hữu vi vô vi, thật không thật”. Không hư không thật, là như thật tướng. Nếu tất cả pháp đều quyền, thì có pháp nào mà không phá? Dù khiến trăm ngàn vị sư, mỗi một vị sư tạo trăm ngàn thứ thuyết, cũng đều là quyền. Những điều Như Lai thuyết, cũng là quyền, huống là thầy của con người thuyết thì đâu được chẳng quyền? Như trước đã nói cái gì nêu ra đều là quyền. Nếu tất cả pháp đều thật, thì có chỗ nào mà không phá? Chỉ một sự này thật, có cái thứ hai nào khác thì không phải chân. Chỉ một đạo cứu cánh, đâu được nhiều đạo cứu cánh! Như trước nêu, các sư đều phá nhập thật, đâu lại giữ gìn sào huyệt kia ư? Nếu tất cả pháp cũng quyền cũng thật, thì có pháp nào mà không phá? Tất cả đều có quyền có thật, đâu được tự cho là một đường chẳng phải đường khác, hiểu khác. Trong mỗi một pháp đều có quyền thật, không được hoàn toàn quyền hoàn toàn thật. Nếu tất cả pháp phi quyền phi thật, thì có pháp nào mà không phá? Sao lại phân vân, gượng sinh mà kiến lập pháp? Dù chỉ diễn tả theo lệ thường mà còn như đây, xa xem sự mầu nhiệm rộng rãi mênh mông sáng suốt theo như đây, huống chi luận về chỉ thú ư! Nay căn cứ câu “có quyền có thật” lại chia làm mười pháp. Trong mười pháp làm tám phen giải thích:

  1. Nêu tên mười pháp.
  2. Sinh khởi.
  3. Giải thích.
  4. Dẫn chứng.
  5. Kết mười pháp làm ba thứ quyền thật.
  6. Phân biệt ba thứ quyền thật chiếu ba thứ nhị đế.
  7. Căn cứ các kinh xét quyền thật.
  8. Căn cứ Bản Tích xét quyền thật.

1. Nêu tên mười pháp: Sự lý, lý giáo, giáo hạnh, phược thoát, nhân quả, thể dụng, tiệm đốn, khai hợp, thông biệt, Tất-đàn, tức là mười thứ danh.

2. Sinh khởi: Từ gốc Vô trụ mà lập tất cả pháp. Vô trụ là lý, tất cả pháp là sự. Có lý sự, cho nên có giáo. Do giáo cho nên có hạnh. Do hạnh cho nên có phược thoát. Do thoát cho nên thành nhân quả. Do quả cho nên hiển bày thể dụng. Do có dụng cho nên có giáo hóa tiệm đốn. Do khai tiệm đốn cho nên có khai hợp. Do có khai hợp cho nên có lợi ích thông biệt. Do phân biệt hai thứ lợi ích cho nên có tứ Tất-đàn. Đó gọi là mười chương thứ tự…

3. Giải thích: Lý là chân như, chân như vốn tịnh, dù có Phật hay không Phật thì nó vẫn thường không biến đổi, nên gọi lý là thật. Sự là các tâm ý thức khởi tịnh, bất tịnh nghiệp. Vì biến động bất định, nên gọi sự là quyền. Nếu không có lý, thì không thể lập sự. Nếu không có sự, thì không thể hiển lý. Sự có công hiển lý, cho nên ân cần xưng tán phương tiện. Lý giáo, gộp chung lý sự trước đều gọi là lý, thí dụ như chân tục đều gọi là đế, thể của chư Phật mà được thành Thánh, Thánh là chánh thật vậy. Muốn dùng pháp mình mà độ chúng sinh, nhân lý mà thiết lập giáo, giáo tức quyền. Không có giáo thì không thể hiển rõ lý. Hiển lý do giáo, vì vậy cho nên Như Lai khen ngợi phương tiện…

Giáo hạnh: y giáo cầu lý thì sinh chánh hạnh. Hạnh có tiến thú sâu cạn sai khác, cho nên hạnh gọi là quyền. Giáo không có tiến thú sâu cạn sai khác, cho nên giáo gọi là thật. Không có giáo, thì không thể lập hạnh. Không có hạnh thì không hội nhập giáo.Hội nhập giáo do hạnh, cho nên Như Lai khen ngợi phương tiện…

Phược thoát: Hạnh trái lý thì bị phược (trói buộc). Phược là hư vọng, cho nên gọi là quyền. Hạnh thuận lý thì sinh giải thoát. Giải trừ ngu tối về lý, nên gọi là thật. Không có phược, thì không do đâu mà cầu thoát. Được thoát do phược. Như nhờ vào tử thi vượt qua biển, tử thi có sức cứu giúp ta đến bờ, cho nên khen ngợi phương tiện.

Nhân quả: Nhân có tiến thú tạm thời dùng, cho nên gọi là quyền. Quả có đích cuối cùng thành tựu vĩnh viễn chứng cho nên gọi là thật. Không có quả, thì nhân không có chỗ trông mong. Không có nhân, thì quả không tự hiển bày. Đó là lấy hai loại quán làm phương tiện đạo. Đoạn Hoặc thành nhân, được nhập quả Trung đạo giải thoát. Nếu không có hai loại quán thì làm sao khế hợp với Trung đạo? Quả do nhân mà thành, nên khen ngợi phương tiện.

Thể dụng: Trước phương tiện là nhân, chánh quán nhập trụ là quả,

trụ xuất là thể dụng. Thể tức thật tướng, không có phân biệt. Dụng tức lập tất cả pháp sai khác không đồng. Như đất sinh ra hạt giống, chẳng phải đất thì không thể sinh được, không sinh thì chẳng thể hiển bày. Dựa vào dòng mà được nguồn, nhờ dụng mà biết thể. Dụng có công hiển thể, cho nên khen ngợi phương tiện.

Tiệm đốn: Tu nhân chứng quả, từ thể khởi dụng đều có tiệm đốn. Nay nêu khởi dụng. Dụng tiệm là quyền dụng, đốn là thật. Nếu chẳng có tiệm dẫn, thì không do đâu nhập đốn. Từ tiệm mà đắc thật, cho nên khen ngợi phương tiện.

Khai hợp: Từ đốn khai tiệm, tiệm tự nó không hợp cũng không hợp đốn, cho nên gọi là quyền. Tiệm khiến cứu cánh trở lại hợp với đốn, cho nên gọi là thật. Do khai cho nên hợp. Khai có lực hợp từ khai mà thọ tên, cho nên khen ngợi phương tiện.

Thông biệt lợi ích: Thông thì bán tự chữ lợi ích vô thường. Biệt thì mãn tự lợi ích thường trụ. Nhưng “Thường” giúp ích cho đạo tăng trưởng, tâm hoan hỉ thì không còn ý muốn thoái lui, cho nên dùng hóa thành để tiếp dẫn, làm cho chúng sinh tưởng là an ổn, rồi sau khi dừng ở hóa thành thì dẫn đến bảo sở.Nếu không có lợi ích của “bán” thì không hợp với thường.”Bán” có công hiển bày “mãn” cho nên khen ngợi phương tiện.

Tứ Tất-đàn: Ba thứ Tất-đàn thuộc thế gian, thì gọi là quyền. Đệ nhất nghĩa Tất-đàn thuộc xuất thế gian, cho nên gọi là thật. Không có thế gian thì không có xuất thế gian, do ba thứ Tất-đàn mà được Đệ nhất nghĩa Tất-đàn, vì vậy cho nên Như Lai khen ngợi phương tiện. Phải dùng bốn câu giải thích mười phen về quyền thật. Ba phen là ý của các kinh khác, một phen là ý của phẩm này v.v…

4. Dẫn chứng: Mười nghĩa này thông cả Đại thừa, Tiểu thừa giáo, thông suốt tất cả pháp. Lại dẫn kinh này, “không như ba cõi mà thấy ba cõi”, “ba cõi” là sự, “không như ba cõi mà thấy” là lý. Các pháp vắng lặng không thể nói, là lý. Dùng sức phương tiện vì năm Tỳ-kheo mà thuyết, gọi là giáo. Nếu nghe kinh này khéo thực hành Bồ-tát đạo thì chứng giáo hạnh. Lại, việc các ông hành trì là Bồ-tát đạo, Phật tử hành đạo rồi đời sau được làm Phật. Lại, dùng các thứ nhân duyên mà cầu Phật đạo. Chỉ lìa hư vọng, gọi là giải thoát, chưa đắc nhất thiết giải thoát, tận hành tất cả đạo pháp của chư Phật thì nơi đạo tràng được thành quả… Ta dùng Phật nhãn xem thấy chúng sinh trong sáu đường, ban đầu thấy thân ta nghe ta thuyết pháp thảy đều tín thọ nhập Như Lai tuệ, trừ bỏ sự tu tập học theo Tiểu thừa trước kia v.v…

Cùng tử ban đầu trốn đi, thời gian giữa làm khách làm người hốt phân, sau cùng được giao phó gia tài; ban đầu dừng nơi hóa thành sau dẫn đến bảo sở; các thứ ham muốn, các thứ tánh tướng ức niệm… đây là dẫn thông suốt một bộ kinh để làm chứng. Nay riêng dẫn một phẩm, tuy không theo thứ lớp mười phần đầy đủ. “Trí tuệ chư Phật rất sâu vô lượng, môn trí tuệ ấy khó hiểu, khó nhập”, tất cả cảnh trí sự lý ấy đều gọi là thật, thiết lập giảng giải rõ A-hàm ngôn giáo đều là trí tuệ môn. Đây là dùng chứng lý giáo mà luận quyền thật. “Khó hiểu khó nhập, hết thảy Thanh văn Bích-chi-phật không thể biết được” tức là dùng phược thoát mà luận quyền thật. “Sở dĩ vì sao? Phật từng gần gũi danh tốt vang khắp” tức là dùng giáo hạnh mà luận quyền thật. “Thành tựu pháp rất sâu… ý thú khó hiểu” tức dùng thể dụng mà luận quyền thực. “Ta từ khi thành Phật đến nay”, thành Phật tức là quả, quả ắt có nhân, tức là dùng nhân quả mà luận quyền thật. “Dùng các thứ nhân duyên thí dụ…. khiến cho xa lìa lòng chấp” tức là dùng tiệm đốn mà luận quyền thật. “Sở dĩ vì sao? Vì Như Lai đã đầy đủ phương tiện tri kiến” tức là dùng khai hợp mà luận quyền thật. “Chư Phật vì đại sự nhân duyên nên xuất hiện ở đời, vì muốn chúng sinh khai thị ngộ nhập tri kiến Phật”, đó là dùng lợi ích mà luận quyền thật. “Tóm yếu mà nói…. Phật thảy đều thành tựu” tức là tam Tất-đàn thành tựu. “Thôi, thôi! Không cần nói nữa” tức là đệ Nhất nghĩa Tất-đàn. Đó gọi là dùng tứ Tất-đàn mà luận quyền thật. “Sở dĩ vì sao? Vì pháp khó hiểu ít có bậc nhất mà Phật thành tựu… thật tướng của các pháp” tức là lý. “Nghĩa là các pháp tướng như vậy…” tức là sự. Đó gọi là dùng lý sự mà luận quyền thật. Một đoạn trường hàng đây nêu rõ năm quyền thật của Phật, mỗi mỗi Phật đều như vậy. Song, Pháp Hoa luận giải thích: Trí tuệ của chư Phật rất sâu, vì chứng rất sâu. Rất sâu thậm thâm có năm: Nghĩa, Thật thể, Nội chứng, Y chỉ, Vô thượng. Vô thượng thậm thâm, nghĩa là chứng đại Bồ đề. Gọi “trí tuệ môn” vì thuyết nghĩa A-hàm thậm thâm, đây cùng lý giáo quyền thật, ý đồng. Luận giải thích: “Phật từng gần gũi trăm ngàn đức Phật” là tu hành thậm thâm, “dũng mãnh tinh tấn danh tốt vang khắp” là tăng trưởng công đức thậm thâm. Đây cùng giáo hạnh quyền thật, ý đồng. Luận giải thích: “thành tựu pháp thậm thâm chưa từng có” là sự vi diệu thậm thâm, “ý thú khó hiểu” là vô thượng thậm thâm nhập thậm thâm. Đây cùng thể dụng quyền thật, ý đồng. Luận giải thích: “Ta từ khi thành Phật đến nay” vì thuyết pháp thành tựu công đức Như Lai. Đây cùng nhân quả quyền thật, ý đồng. Luận giải thích: “Vô số phương tiện” tức là giáo hóa thành tựu, thuyết pháp thành tựu. Đây cùng tiệm đốn quyền thật, ý đồng, Luận giải thích: Như Lai phương tiện tri kiến …. thâm nhập không giới hạn, là tự thân thành tựu cảnh bất khả tư nghì, hơn hẳn hết thảy các Bồ-tát. Đây là nêu lợi. Luận giải thích: “Có thể phân biệt các món, làm vui lòng chúng…” là ngôn ngữ thành tựu. Đây là ích; cùng với lợi ích quyền thật,ý đồng. Luận giải thích: “Tóm yếu mà nói đó…. Thôi! Chẳng cần nói” là có thể hóa độ chúng sinh thành tựu, đây cùng tứ Tất-đàn phân biệt có thể hóa và không thể hóa độ, ý đồng. Luận giải thích: “Chỉ có Phật với Phật mới có thể thấu hiểu cùng tận” là vô lượng phước thành tựu. Chư Phật có thể biết, nghĩa là thể pháp thân Như Lai bất biến, cho nên gọi là giác, năng tự chứng thành tựu, năng tùy thuận chúng sinh. “Thuyết hết thảy các pháp tướng…” đây cùng lý sự quyền thật, ý đồng. Luận kia giải thích kinh Phật, sớ này sâu xa hợp với nhị thánh. Có thể nói rằng cùng Tu-đa-la, U-ba-đề-xá đều phù hợp.

5. Kết quyền thật: Mười thứ này thông bốn giáo, hợp thành bốn mươi thứ quyền thật. Nếu trong Tam tạng mười pháp tự chứng gọi là tự hành quyền thật. Mười pháp hóa tha đều hợp, là quyền, mười pháp tự hành đều hợp, là thật, gọi là tự tha quyền thật. Đối với ba giáo còn lại thì mười pháp xếp thành ba thứ quyền thật cũng như vậy. Lại ngay nơi giáo mỗi mỗi đều dùng bốn thứ: sự lý, giáo hạnh, phượt thoát, nhân quả làm tự hành quyền thật, đều dùng hai loại lý giáo, khai hợp làm hóa tha quyền thật, đều dùng bốn thứ thể dụng, tiệm đốn, thông biệt, Tất-đàn… làm tự tha quyền thật. Danh kia tuy đồng mà nghĩa kia đều khác. Biệt kết: tam giáo hoặc Thông hoặc Biệt, đương phần đều là hóa tha quyền thật, vì tùy tha ý nói. Viên giáo hoặc Thông hoặc Biệt, đương phần đều là tự hành quyền thật, vì tùy tự ý nói. Hóa tha cả ba đều gọi là quyền, tự hành đều gọi là thật.

Tiếp đến kết thành bốn câu: tùy tha ý nói, tức hết thảy pháp quyền; tùy tự ý nói, tức hết thảy pháp thật, chọn cả hai, thì hết thảy pháp vừa quyền vừa thật, cả hai đều phi, thì hết thảy pháp chẳng quyền chẳng thật.

Tiếp đến là kết thành ba phen giải thích phẩm: Nếu tự hành tự ý: kinh này gọi là “Pháp chứng nơi đạo tràng”. Đại kinh nói: “Do tu đạo đắc”. Nhiếp Đại Thừa luận gọi là: Như lý, như lượng trí. Đều là Viên giáo tự hành quyền thật, tùy tự ý nói. Đức Phật tuy có thể đối với pháp bất khả thuyết này mà phương tiện năng thuyết, còn chúng sinh thì không kham nổi. Nếu phát chẩn riêng thuyết pháp này, áp dụng cho chúng sinh thì không thể được, cho nên nói bất khả thuyết bất khả thuyết. Lại, sắp đặt sự này, lấy tự hành quyền thật và Biệt giáo quyền thật cùng áp dụng cho chúng sinh, thì chỉ người đại cơ lợi, thì đắc ngay, người độn cơ thì quanh co mới đắc, hàng tiểu cơ lợi độn đều không đắc, đó là ý của Hoa nghiêm. Lại, sắp đặt sự này, riêng dùng Tam tạng quyền thật áp dụng cho chúng sinh thì người đại cơ lợi độn ngầm đắc mà hiển bày không đắc, tiểu cơ lợi độn chỉ bảo thủ tự chứng, thì cũng không đắc, đó là ý của Tam tạng. Lại, sắp đặt sự này, hợp dùng bốn thứ quyền thật và áp dụng cho chúng sinh thì người đại cơ lợi độn, trực tiếp gián tiếp đều đắc, người tiểu cơ lợi độn bảo chứng đều không đắc, đó là ý của Phương Đẳng. Lại,sắp đặt sự này, xả Tam tạng quyền thật, dùng ba thứ quyền thật và áp dụng cho chúng sinh thì đại cơ lợi độn đều đắc, tiểu cơ lợi độn bảo chứng đều không đắc, đó là ý của Bát-nhã. Lại, sắp đặt sự này, xả ba thứ quyền thật, riêng dùng Viên giáo tự hành quyền thật, áp dụng cho chúng sinh thì đại cơ tiểu cơ lợi độn đều đắc, đó là ý của Pháp Hoa. Trí tuệ của đức Như Lai thì không gì mà không thông đạt, biết rõ thời cơ thích nghi mà sử dụng. Cho nên giải thích tên phẩm này: “Phương” là các phương pháp, “tiện” là khéo dùng. Khéo dùng phương pháp khiến cho chúng sinh đắc, vì vậy nên ân cần khen ngợi phương tiện.

Lại nữa, Như Lai tự chứng quyền thật đều bất khả thuyết, thương xót chúng sinh mà nói tự chứng là quyền, làm môn, đối với vật chẳng thích nghi, chúng sinh không thể đắc nhập, cho nên tự chứng của Như Lai cũng bất khả thuyết. Nói Biệt quyền thật làm môn, người lợi căn được nhập người độn căn không nhập, đối vật chẳng thích nghi thì Biệt quyền thật cũng bất khả thuyết. Nói Tam tạng quyền thật làm môn, người lợi căn ngầm nhập, người độn căn cũng không nhập, đối với vật chẳng thích hợp thì cũng bất khả thuyết. Nói ba thứ hóa tha quyền thật làm môn, người lợi căn được nhập, người độn căn cũng không nhập, đối với vật chẳng thích nghi thì cũng bất khả thuyết. Nói hai thứ hóa tha quyền thật làm môn, đối với người lợi căn được nhập, độn căn cũng không nhập, cũng bất khả thuyết. Đối với vật chẳng thích nghi, xả ba thứ hóa tha quyền thật, chỉ nói tự hành là quyền, người lợi người độn đều được nhập, từ đầu đến cuối dùng phương tiện làm môn, cho nên Như Lai tán thán phương tiện. Giải thích tên phẩm rằng: “Phương tiện” là cửa để nhập thật, tức là ý đây vậy. Một phen trước là nêu Như Lai biết được phương tiện, dùng được phương tiện. Một phen này nêu hành giả có thể tùy thuận phương tiện v.v…

Lại nữa, Như Lai tự chứng tu đạo đắc hết thảy phương tiện, tức là chân thật, mà chân thật này bất khả đắc, bất khả thuyết. Tuy có thể thuyết điều đó nhưng chúng sinh không có khả năng tức thật. Dùng sức phương tiện, ở chổ bất tức mà nói nhất tức. Người lợi thì năng tức, người độn thì chẳng năng tức. Lại, thuần thuyết nhất bất tức, người lợi thì ngầm tức, người độn thì bất tức. Lại, ở chổ tam bất tức mà thuyết nhất tức, người lợi thì năng tức, người độn thì bất tức. Lại, ở chổ nhị bất tức mà thuyết nhất tức, người lợi thì năng tức người độn thì bất tức. Lại, phế bỏ tam bất tức mà thuần thuyết nhất thiết tức, thì người lợi người độn đều năng tức, đối với phương tiện được thấy chân thật. Hai ý trên dùng phương tiện theo phương tiện, một ý này tức phương tiện tức chân thật. Chân thật tức viên nhân, viên nhân tức tự hành phương tiện. Như vậy tự hành phương tiện nay mới chứng nhập. Hãy giải thích tên phẩm rằng: “ Phương tiện “ tức là chân thật, từ nơi tự hành phương tiện mà đặt tên, cho nên nói “phẩm Phương tiện”.

6. Phân biệt chiếu đế: trước đã Thông Biệt đương phần kết thúc quyền thật, nay vẫn căn cứ trí chiếu này,về nghĩa thì dễ thấy. Nếu Thông dùng mười thứ nêu rõ tự hành hai trí, tức chiếu tùy trí nhị đế. Thông dùng mười pháp hợp duyên, tức chiếu tùy tình nhị đế. Nếu gom bốn làm hai, tức chiếu tùy tình trí nhị đế. Nếu sẽ phân ra chiếu đế thì Sự lý, Giáo hạnh, Phược thoát, Nhân quả đều là tự chứng, tức chiếu tùy trí nhị đế. Lý giáo, Khai hợp, hai thứ này thuộc hóa tha, tức chiếu tùy tình nhị đế. Bốn thứ: Thể dụng, Tiệm đốn, Thông biệt, Tất-đàn là thông tự tha, tức chiếu tùy tình trí nhị đế. Tam giáo chiếu đế, chuẩn theo đây có thể hiểu. Lại, Tam tạng có ba mươi thứ nhị trí, là hóa tha nhị trí, đều chiếu tùy tình nhị đế. Nếu Thông Biệt sáu mươi thứ, là tự tha nhị trí, tức chiếu tùy tình trí nhị đế. Thông giáo hoặc có khi cùng Tam tạng trước, cùng là tùy tình nhị đế. Nếu Viên giáo ba mươi thứ quyền thật là tự hành nhị trí, chiếu tùy trí nhị đế. Lại, Tam giáo hoặc Thông hoặc Biệt, đều là hợp duyên, đều là hóa tha nhị trí, chiếu tùy tình nhị đế. Viên giáo hoặc Thông hoặc Biệt, đều là tự hành nhị trí, tức chiếu tùy trí nhị đế. Nếu buộc cái thật của tam giáo làm quyền, buộc cái quyền của Viên giáo làm thật, tức tự tha nhị trí, chiếu tùy tình trí nhị đế.

7. Căn cứ các kinh để luận quyền thật: Kinh Hoa Nghiêm luận về giáo chỉ là mãn tự, luận thời chỉ là vị Sữa, luận pháp thì một tự hành, một hóa tha. Hoặc đối người chỉ là Bồ-tát, hàng nhị thừa câm điếc, sinh thân Bồ-tát cũng chưa phát quyền tự hành và thật tùy trí. Nếu dựa theo kinh văn này, thì chưa từng hướng đến con người mà nói việc như thế. Căn cứ vào Tam tạng: Nếu luận giáo thì chỉ là bán tự, nếu luận pháp thì là một thứ hóa tha, nếu luận thời tức là vị Lạc. Nếu y văn này thì đứng bên ngoài cửa, mặc áo dơ xấu, cầm đồ hốt phân, là người Nhị thừa đó thôi! Căn cứ Phương đẳng giáo: Nếu luận về giáo thì đối bán tự mà luận mãn tự, nếu luận thời thì đều là Lạc chuyển sang Sinh tô, nếu luận pháp thì có ba thứ hóa tha và một thứ tự hành. Nếu y văn này tức: “Tâm tướng thể tín vào ra không ngại”. Căn cứ Bát-nhã: nếu luận về giáo tức ở nơi bán mà luận mãn, nếu luận thời thì từ Sinh tô đến Thục tô, nếu y pháp thì có hai thứ hóa tha và một thứ tự hành. Nếu y văn này thì là: “Trong đó có thứ nhiều, có thứ ít, có thứ nên giữ lấy có thứ nên cho, ngươi phải biết hết đó”. Căn cứ Pháp Hoa: Luận về giáo, tức phế bỏ bán mà luận về mãn, nếu luận thời thì toàn là vị Đề-hồ, nếu luận pháp thì chỉ có tự hành. Nếu y văn này thì khai quyền hiển thật: “đây thật là con ta, do ta sinh ra, ta thật là cha”, giao phó gia nghiệp thọ ký làm Phật, giáo trước không nói nay đều nói ra. Chính ngay ở chỗ xả phương tiện, chỉ nói vô thượng đạo nên là quyền tự hành, nên gọi “phẩm Phương tiện”, vì các chổ khác hoặc là tự tha nhị trí, hoặc là hóa tha nhị trí. Lại nữa, Hoa Nghiêm đối nhị Bồ-tát nói một tự, một tha, không giống như nhị thừa không nghe không hiểu. Tam tạng đối nhị thừa nói một hóa tha, không giống như Bồ-tát, cho nên không có tự hành. Phương đẳng đầy đủ đối Tiểu thừa Đại thừa, đối nhị thừa thì nói hai hóa tha, đối Bồ-tát thì nói một tự, một tha. Bát-nhã cũng đối cả ba, nói một tự, hai tha, đối nhị thừa nói một tha, đối Bồ-tát nói một tự, một tha. Pháp Hoa thì đối khắp hạng căn cơ thuần thục, chỉ nêu một tự, không còn luận về tha. Văn nói: “Bồtát nghe pháp ấy lưới nghi đều đã trừ, một ngàn hai trăm vị La-hán đều cũng sẽ làm Phật”. Hết thảy chúng sinh đều nhập phương tiện tự hành, cho nên nói “phẩm Phương tiện”.

8. Căn cứ Bản tích xét quyền thật: Bản địa của Như Lai đã từ lâu chứng đắc nhất thiết quyền thật, gọi là tự hành, khoảng giữa (trung gian) thùy tích thuyết bốn thời giáo Kiêm, Đãn, Đối, Đái, ngày nay thùy tích tịch diệt đạo tràng, kèm theo hóa tha Biệt giáo thuyết tự hành, tiếp đến nói một hóa tha, tiếp nữa nói ba, tiếp lại nói hai, tiếp nói phế bỏ ba… đều gọi là hóa tha quyền thật. Bó quyền và bản lại gọi là thật, bó tích và thật lại, gọi là quyền, tức là tự tha quyền thật. Tổng kết đây có bốn câu: hết thảy thật, hết thảy quyền, hết thảy cũng quyền cũng thật, hết thảy phi quyền phi thật… Thân-tử bản chứng hết thảy quyền thật, tức tự hành, tích tại vườn Lộc uyển riêng thọ hóa tha, tại Phương đẳng thọ nhất bị tam chiết, tại Bát-nhã mang hai chuyển một, đến Pháp Hoa phế ba ngộ một, đều là hóa tha quyền thật. Bó quyền và bản lại làm thật, bó tích và thật lại, làm quyền, tức tự tha quyền thật, cũng đủ bốn câu v.v… Nếu từ Phật tích thuyết, thì cũng là hóa tha quyền thật, cũng gọi là “phẩm Phương tiện”. Nếu theo dẫn nhập viên nhân, thì tự hành cũng là “phẩm Phương tiện”. Nếu theo Thân-tử tích quyền, thì cũng là “phẩm Phương tiện”. Nếu từ Thân-tử tích nhập thật, thì cũng là “phẩm Phương tiện”. Vì các nghĩa đây, cho nên gọi là “phẩm Phương tiện”. Từ phẩm này xuống đến mười chín hàng kệ sau cùng của phẩm Phân Biệt Công Đức, hoặc đến sau kệ hiện tại tứ tín đệ tử, văn tận, gọi là phần Chánh thuyết. Nếu làm hai phần chánh thuyết, thì từ đây trở xuống đến hết phẩm Thọ Học Vô Học Nhân Ký là tích môn chánh thuyết. Nay lại tùy theo cận, căn cứ tích môn chánh thuyết lại chia làm hai phần:

  1. Từ đây trở xuống, là lược khai tam hiển nhất.
  2. Từ “Phật bảo Xá-lợi-phất ông đã ân cần” trở xuống, là rộng khai tam hiển nhất.

I. Lược Khai Tam Hiển Nhất: lại chia làm hai phần:

  1. Từ “Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn” trở xuống, là lược khai tam hiển nhất.
  2. Từ “Lúc bấy giờ, đại chúng” trở xuống, là động chấp sinh nghi.

Lược khai tam hiển nhất có văn trường hàng và kệ tụng: Văn trường hàng chia làm hai: Một là dùng ngôn ngữ tán thán nhị trí. Hai là dứt nói năng tán thán nhị trí. Nếu không nhờ vào ngôn ngữ thì không thể biết, tuy lại khen ngợi ngôn ngữ mà không thể cùng tận. Hai thứ trí của chư Phật như trước đã nói. Dựa vào ngôn ngữ có hai: Một là nêu quyền thật của chư Phật, Hai là nêu quyền thật của Phật Thích-ca. Đạo của chư Phật đồng, nên đều tán thán. Trên nói hào quang chiếu các cõi khác, đức Di-lặc hỏi về hoành (không gian), Văn-thù dẫn việc xưa, đại chúng nghe dọc (thời gian) chính là tiêu biểu điều này, cho nên đức Phật thương xót chúng sinh mới ra khỏi định, tức nêu rõ chư Phật đạo đồng.

Căn cứ văn tán thán chư Phật chia làm ba phần: Một, tán thán cả hai. Hai, là giải thích cả hai. Ba, là tổng kết cả hai.

Trong phần tán thán cả hai, thì trước hết kinh gia đề khởi, tiếp theo là chánh thán. “Nhĩ thời” là thời bấy giờ. Phật thường ở trong định vì sao nói khởi? Đây có biểu thị về: chư Phật từ xa xưa trước khi thuyết kinh này ắt phải nhập định Vô lượng nghĩa, tức nhập Pháp Hoa. Nay đức Phật cũng như vậy, đây là biểu thị thế giới Tất-đàn. Đức Phật vì thương xót chúng sinh nên ra khỏi định. Lý lịch pháp duyên cả hai đều suy xét kỹ, thuyết ắt không lầm lại tăng trưởng lòng tin cho chúng sinh, đây là biểu thị Vị nhân Tất-đàn. Thương xót chúng sinh nên từ trong định ra, Phật tịch lặng và thường chiếu, mà còn phải nhập định mới thuyết pháp, huống lại tán tâm mà vọng có pháp được thuyết, đây là Đối trị Tất-đàn. Thương chúng sinh mà xuất định, nhập định thì duyên lý an tâm nơi thật tướng, xuất định thì khiến cho người khác an tâm nơi thật tướng, đây là Đệ nhất nghĩa Tất-đàn. Thương chúng sinh nên từ trong định ra. An bốn pháp này cho nên nói “an tường mà khởi”. “bảo Xá-lợi-phất”, Xá-lợiphất là hàng trí tuệ đệ nhất trong tiểu thừa, muốn nhân đó mà phá tiểu trí hiển đại trí, phá hợp khai nhân trí kia mà phá tiểu trí hiển đại trí, phá hợp khai che gồm có mười thứ, như trong Huyền Nghĩa nói đây chính là văn mà kinh gia đề khởi. Pháp Hoa luận nói: Đức Phật nhập Tam-muội rất sâu, chánh niệm bất động, như thật trí quán, từ Tam-muội mà khởi, hiện Như Lai đắc lực tự tại, nên Như Lai nhập định không ai có thể làm kinh động, luận cùng nghĩa này tương ưng. Vì đệ Nhất nghĩa Tất-đàn vượt qua thế gian cho nên không ai có thể làm kinh động, Tứ Tất-đàn không chướng ngại cho nên được tự tại… “Ngồi kết già”: Xưa chư Phật nhiều như số vi trần và đệ tử đã tập hành pháp này. Lại ngồi kết già giác được niệm ác khởi mà còn làm cho người sinh tâm cung kính huống chi nhập sâu cảnh giới mà không thích hợp vừa lòng thiên nhân ư ? Lại, chẳng phải pháp mà thế gian thọ dụng, không cùng chung với ngoại đạo, có thể phá ma quân phiền não. Lại, năng sinh ba thứ đạo Bồ-đề, nên riêng gọi đây là ý của Tứ Tất-đàn.

Hỏi: Các kinh nói buộc niệm tại trước, là thế nào?

Đáp: Bỏ các cảnh giới sắc tưởng sinh tử phiền não ở sau. Quán tịch diệt Niết-bàn sở duyên, ở trước, cho nên lẽ ra giải thích theo bốn nghĩa.

Hỏi: Tại sao ở trước mặt?

Đáp: Giải thích theo bốn nghĩa:

Thứ nhất, người phàm phu đối trước mặt sinh khởi dục năng sinh ưa thích, sau mới đến khắp toàn thân. Lại, chín chỗ mà ô uế thường chảy thì mặt có bảy lỗ, dùng bất tịnh để trị dục cho nên buộc duyên ở trước mặt.

Thứ hai, sáu thức nơi mặt tâm phần nhiều là thượng duyên, tiêu biểu tất cả các bậc hiền thánh, chuộng Không, tương ưng với Không, cho nên buộc duyên trước mặt.

Thứ ba, nếu quán nơi mặt thì năng phân biệt sáu thức, vì phân biệt cho nên cố buộc duyên trước mặt.

Thứ tư, thân có sáu phần thì đầu mặt là trên hết, tiêu biểu trong các pháp thì thật tướng là đệ nhất, pháp đệ nhất cho nên buộc duyên trước mặt.

Căn cứ song tán nhị trí, trước tán thật, sau tán quyền. Thật, là “trí tuệ của chư Phật”, không phải ba loại hóa tha quyền thật,cho nên nói “chư Phật”. Hiển thật tự hành, cho nên nói “trí tuệ”, trí tuệ này thể tức nhất tâm tam trí.

“Thậm thâm vô lượng” tức là lời xưng tán, nêu thật trí của Phật, về thời gian thì thấu tận nguồn gốc như lý, cho nên nói “thậm thâm”, về không gian thì cùng tận bờ mé pháp giới, cho nên nói “vô lượng”. Vô lượng thậm thâm cao sâu rộng lớn, thí như gốc sâu thì nhánh cây tươi tốt, nguồn nước ở xa thì dòng chảy dài. Thật trí đã vậy, thì quyền trí theo đó cũng vậy. “Trí tuệ môn kia” tức là tán thán quyền trí, bởi vì là phương tiện tự hành trước khi chứng ngộ thật đạo (đạo tiền), có sức tiến tới cho nên gọi là “môn”, theo môn vào chứng ngộ thật đạo (đạo trung). Đạo trung gọi là thật, đạo tiền gọi là quyền. “Khó hiểu khó nhập” là lời tán thán quyền, không mưu cầu mà hiểu rõ, không phương pháp mà đại dụng, bảy thứ phương tiện không thể so lường. Thập trụ mới hiểu, Thập địa mới nhập, là nêu lên ban đầu và sau, chặng giữa thì khó chỉ bày khó ngộ, nên biết. Riêng nêu “Thanh văn, Duyên giác đều không biết được”, vì nặng chấp nên riêng phá đó thôi! Pháp thân bản ý vốn đem tự hành quyền thật mà phác thảo cái ấy, vì không có căn cơ nào trốn thoát, cho nên nói “không biết”. Hoa Nghiêm đốn chiếu Nhị thừa như đui điếc câm ngọng, cho nên nói “không biết”, Phương Đẳng chê trách bài xích việc bám trụ thảo am, cho nên nói “không biết”, Bát-nhã chuyển giáo, không muốn giữ một chút ý nào, cho nên nói “không biết”. Nay đại cơ duyên khởi phát, phóng hào quang, chấn động đất, kia và đây, xưa nay chư Phật đạo đồng, do ôm lòng nghi hoặc cho nên nói “không biết”. Hàng lợi căn Bồ-tát thì việc nào cũng biết. Hạng độn căn, đồng với Nhị thừa, thì cũng “không biết”. “Môn” ấy là ngài Quang Trạch chọn Nhị thừa là phương tiện vì kinh này là trí tuệ môn, môn này cần phải buông thả hay nắm bắt (Dữ đoạt).

Nếu vậy tức là được môn, thì sao đức Như Lai phá, nói “không biết”? Vì “không biết” thì không phải môn. “Buông” thì đây là khả năng rất nông cạn, vĩnh viễn không biết như thế… Nay giải thích tự có phương tiện trí tuệ làm môn để nhập trí tuệ Phật, như kinh Anh Lạc nói: Nhị quán làm phương tiện đạo để nhập trung đạo Đệ Nhất nghĩa đế, cũng là tam giáo mỗi giáo có bốn môn làm phương tiện để nhập trung đạo. Ngài Quang Trạch giải thích: nhị quán chỉ là nhất quán, mười hai môn chỉ là một môn… Phương tiện trí tuệ làm môn để thích ứng với phương tiện trí, tức là tam giáo mỗi mỗi có bốn môn đều dạy hợp với chứng. Tự có Phật trí làm môn được nhập trí tuệ Phật, như trên nói Viên nhân gọi là phẩm Phương Tiện, tức là tự hành quán trí làm môn, tức là kinh này tán thán trí tuệ môn kia. Bốn môn của Viên giáo tức là một môn kia, tự có thật làm môn nhập phương tiện trí, song chiếu nhị đế, tức nghĩa kia. Giải thích như đây thì phong phú rộng rãi, tại sao ngài Quang Trạch chỉ chọn một thứ nhỏ? Nếu y luận lấy A-hàm làm môn, thì đây cần phải khai thác các giáo, chuẩn theo quán có thể biết. Từ “Vì sao vậy?” Trở xuống ngài Quang Trạch nói chương tán thán đức Phật Thích-ca, nay suy tìm ý văn là cả hai giải thích nhị trí của chư Phật: “Đức Phật đã từng thận cận vô lượng chư Phật… tu hành hết thảy đạo pháp” là giải thích thật trí của chư Phật. Bởi bên ngoài được gặp nhiều Phật, vâng thọ thừa sự hết sức quan trọng nên thật trí thậm thâm. Bởi trong tu hành thuần hậu (hòa thuận…) hành hết thảy đạo pháp của chư Phật nên thật trí vô lượng. Vô lượng thì giải thích ngang rộng, thậm thâm thì giải thích dọc cao. “Dũng mãnh tinh tấn danh tốt vang khắp” là giải thích quyền trí của chư Phật. “Trí tuệ môn kia khó hiểu khó nhập”, bởi do dũng mãnh thì tinh tấn có thể nhập môn khó nhập, đã nhập môn rồi thì thấm nhuần gia bị không cưỡng ép, vạn vật kính phục thắng đức, cho nên “danh tốt vang khắp”. Cũng có thể phân biệt câu “dũng mãnh tinh tấn” là năng nhập pháp môn, tức giải thích quyền trí sâu xa, “danh tốt vang khắp” tức giải thích quyền trí rộng rãi. Xem văn về quyền trí thì không có nói sâu rộng. Theo văn nói về thật trí thì có các nghĩa đó… Từ “thành tựu thậm thâm” trở xuống là song kết nhị trí của chư Phật, xứng lý cứu cánh cho nên nói “thành tựu”. Đến cùng tận bờ bên kia, cho nên nói “thậm thâm”. Đây là kết thành thật trí. Xứng căn cơ thích hợp, cho nên nói “tùy nghi” , chẳng phải dùng bảy phương tiện mà biết được, cho nên nói “khó hiểu”. Đây là kết thành quyền trí. Tùy tình thì che lấp lý, nên nói “khó hiểu”, liễu nghĩa thì cố ý hiển bày, cho nên nói dễ biết. Nhiếp Đại Thừa luận nói: “Kinh liễu nghĩa thì dựa vào văn mà xét nghĩa, kinh bất liễu nghĩa thì dựa vào nghĩa mà xét văn”, tức nghĩa đây vậy. Có khi giải thích “thành tựu pháp thậm thâm chưa từng có” là kết tự hành quyền thật, “tùy nghi mà nói pháp ý thú khó hiểu” là kết hóa tha quyền thật… Từ “Ta từ khi thành Phật đến nay” là tán thán quyền thật của Phật Thích-ca. Xưa nói: “Mỗi mỗi Quyền Thật của Phật Thích-ca đều được tán thán”. Từ “Ta từ khi thành Phật” trở xuống, là tán thán Quyền. Vì sao vậy? Là giải thích Quyền. Từ “Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa” trở xuống, là tán thán Thật, từ “vô lượng, vô ngại” trở xuống, là giải thích Thật. Từ “Như Lai lại có thể phân biệt các thứ” trở xuống, là kết văn tán thán Thật.

Xưa giải thích trước sau có ba ý:

1. Hợp thán nhị trí của chư Phật, là nêu rõ hai trí thể đồng, khai thán nhị trí của đức Thích-ca, là nêu công dụng của nhị trí có khác.

2. Nêu rõ bản của thùy tích, cho nên chư Phật trước tán thán thật, nêu khả năng hiển bản, cho nên đức Thích-ca trước tán thán quyền.

3. Chư Phật hiển bày tự hành, trước phải đắc Thật, đức Thích-ca nêu hóa tha, trước hết dùng Quyền dẫn dắt chúng sinh mông muội dại dột. Lúc hiện lúc ẩn xen kẻ nhau để chứng minh rằng thể Viên mãn thì không có Thiên lệch tồn tại, nếu tồn tại thì mất tôn chỉ. Nay nói không như vậy, vì chỉ y văn thứ lớp thì nghĩa đã dễ hiểu, không cần phải quanh co biện minh. Lại ông nói chư Phật đạo đồng, vì sao giải thích khác?. Như người thường khen sự hiếu thuận mà lại đánh đập cha mẹ… Căn cứ nói về đức Thích-ca văn cũng chia làm ba phần: Ban đầu cả hai tán thán, tiếp cả hai giải thích, sau cả hai tổng kết. “Ta từ khi thành Phật đến nay” là tán thán thật trí. Nếu thật trí không viên mãn, thì Phật đạo không thành. Đã nói thành Phật, một thành thì hết thảy đều thành, tức là tán thán thật trí. “Các thứ nhân duyên” trở xuống, là tán thán quyền trí. Hơn bốn mươi năm, dùng ba thứ hóa tha quyền thật phù hợp với chúng sinh, cho nên nói “các thứ nhân duyên”.

“Các thứ thí dụ”, trong kinh Tiểu thừa thì dùng cây chuối, bọt nước làm thí dụ, trong kinh văn Đại thừa thì dùng thành Càn-thát-bà, cảnh huyễn… làm thí dụ. Các luận thì dùng Tiểu thừa dụ như Sữa, Đại thừa dụ như Đề-hồ. “Rộng diễn nói”, là có thể nơi một pháp mà xuất ra vô lượng nghĩa, “vô số phương tiện” là bảy thứ phương tiện. “Dẫn dắt chúng sinh làm cho họ xa lìa lòng chấp” là nói rộng thập thiện để xa lìa chấp đắm khiến rơi vào ba đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nói tịnh thập thiện để lìa chấp ở Dục giới, nói Tam tạng để lìa chấp Kiến Tư hoặc, nói pháp Bồ-tát để lìa chấp Niết-bàn, nói pháp Phật để lìa ái trước pháp thuận đạo. Từ “Vì sao vậy?” trở xuống, là giải thích nhị trí. “Như Lai” nửa câu, tức là giải thích Thật trí. Từ trong chân như thật tướng đến mà được thành Phật đạo, cho nên gọi “Như Lai”, tức giải thích thành Thật trí. “Phương tiện” là giải thích Quyền trí. Do phương tiện thiện xảo nên có các thứ nhân duyên. “Tri kiến Ba-la-mật” tức là nêu cả hai Quyền Thật tri kiến. Nhất thiết chủng trí gọi là Thật tri. Phật nhãn gọi là Thật kiến. Đạo chủng trí gọi là Quyền tri. Pháp nhãn gọi là Quyền kiến. Đều đạt đến biên của sự lý, đều gọi là “Ba-la-mật”. “Đều đã đầy đủ” là quyền thật đều cứu cánh. Nếu không có ý giải thích cả hai, sao bỗng nói “đều đã” ? “Đều đã”, là rõ ý đã giải thích cả hai. Từ “Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa” trở xuống, là cả hai kết và giải thích nhị trí của Phật Thích-ca. “Tri kiến của Như Lai” như trước đã nói, “rộng lớn” là nêu ngang, “sâu xa” là nêu dọc. Thật trí như đây thì chẳng ngang chẳng dọc, nhưng nhờ lời nói để qua tán thán mà luận tri kiến kia ngang dọc chiếu soi không giới hạn, như cái tráp lớn và nắp lớn. “Vô lượng, vô ngại” trở xuống tức là kết quyền trí. Tự hành là quyền là phương tiện ở ngôi vị Đạo tiền. Căn cứ các pháp môn, cho nên biết đây là kết quyền trí, thật trí không có bao nhiêu. Ngài Quang Trạch cho là đây giải thích thật trí. Chẳng những Quang Trạch không biết thật trí, mà còn cả triều Lương cũng đều không biết vô ngại tuệ kia không có bao nhiêu. “Vô lượng” tức Phật địa tứ đẳng. “Vô ngại” tức Phật địa tứ biện, có thể đối với một từ một nghĩa mà lập tức xuất ra vô lượng nhạo thuyết không cùng tận, so với Biệt Thông Bồ-tát như phương cõi trên hết. “Lực” tức thập lực, “úy” tức tứ vô sở úy, “thiền” tức là thiền tận cùng, là thật tướng, “định” tức định Thủ Lăng-nghiêm, “Tam-muội” tức Tam-muội vương. “Thâm nhập không ngằn mé” là kết thành chiều dọc sâu, “thành tựu tất cả pháp chưa từng có” là kết thành chiều ngang rộng. Từ “Xá-lợi-phất! Như Lai hay phân biệt các thứ” trở xuống, xưa cho rằng kết thành Quyền Thật ở trước, nay dùng để dứt nói năng ở phần sau. Lại, nêu Quyền Thật là nguyên do dứt ngợi khen, văn chia làm hai: ban đầu nêu nguyên nhân dứt tán thán, sau là chỉ cảnh dứt nói năng. Trịnh trọng là tiêu biểu ân cần. “Như Lai năng khéo phân biệt, khéo thuyết các pháp”, tức nêu Quyền vậy. “Lời nói êm dịu làm vui lòng chúng”, là nêu Thật. Làm sao biết được? Trên thấy chư Phật các cõi khác thuyết đốn rằng: “Tiếng của ngài thanh tịnh, giọng nói ra êm dịu” trở xuống. Thân-tử lãnh giải rằng: “Nghe tiếng Phật êm dịu, sâu xa rất nhiệm mầu”. Căn cứ hai văn trước sau này thì biết là nêu Thật trí. Trong phần tán thán trước, thì khen thật trước, khen quyền sau, nay vì sao lại nêu trước quyền sau thật? Bởi vì trước thì muốn dựa lời nói, cho nên từ Thật mà bày Quyền, nay muốn dứt nói năng nên phải thu Quyền trở về Thật. Từ “Tóm yếu mà nói đó” là chỉ cảnh thật. “Yếu” là không pháp gì qua Thật, “vô lượng vô biên pháp chưa từng có” là chỉ cảnh Quyền. Lại, “Yếu” là khởi đầu, là chỉ đầu mối, “vô lượng vô biên” là chỉ Quyền, “Pháp chưa từng có” là chỉ Thật. Nói hai pháp này “Phật đều thành tựu”, vì tu đạo đắc nên có thể thuyết nhiều. Nếu chỉ riêng nêu một việc, thì không nên nói “đều”, đã chỉ cả hai thứ Quyền Thật, thì ý kia đã rõ.

Từ “Thôi!” trở xuống là phần thứ hai, tức tuyệt ngôn tán thán. Sư Ấn nói: Muốn do bảo “Thôi !” mà hội chúng sẽ sinh tâm nghi ngờ thỉnh hỏi. Sư Quán nói: “Pháp thật thì khó biết, cho nên trước bảo Thôi!” là để làm kinh động thường tình của chúng”. Luận này thì nói : pháp này sâu xa vắng lặng, ngôn ngữ đạo đoạn, thể bất khả thuyết cho nên bảo “Thôi!” mà là tán thán. Giả sử vì từ bi mà nói chúng nghe cũng không thể hiểu, khiến tổn hại thiện căn, cho nên nói “Thôi”. Từ “Vì sao ?” trở xuống, là giải thích ý tán thán “Thôi”, chia làm hai:

1. Đức Phật là người tối thượng thành tựu tu đắc pháp tối thượng, cho nên bất khả thuyết.

2. Nêu cảnh giới thậm thâm bất khả tư nghì, cho nên bất khả thuyết. Từ “Phật thành tựu” trở xuống, là nêu pháp quyền thật của bậc thượng nhân theo chiều ngang thì đầy đủ bất khả thuyết. Từ “chỉ có Phật cùng với Phật” trở xuống, là nêu pháp quyền thật của bậc thượng nhân theo chiều dọc thì sâu xa bất khả thuyết. Thành tựu đối bất thành tựu, cho đến nan giải đối bất nan giải tức là theo chiều ngang mà nêu thành tựu, vì tu đạo đắc cho nên bất khả thuyết. “Chỉ có Phật với Phật mới có thể thấu hiểu cùng tột”, là phần đầu và giữa thì thu hoạch chưa tận nguồn, như ánh trăng đêm mười bốn chưa tỏa sáng khắp, chỉ có Phật với Phật mới rốt ráo tận cùng, như ánh sáng đêm mười lăm, thể nó không nơi nào là không tròn sáng, không nơi nào là không biến khắp. Tu đạo đắc sâu theo chiều dọc như đây, cho nên bất khả thuyết. Từ “Thực tướng của các pháp” trở xuống, tức là cảnh giới thậm thâm bất khả tư nghì, cho nên bất khả thuyết. Ngài Quang Trạch nói: một câu đầu nêu nhị trí, “các pháp” nêu cảnh quyền trí, tam tam chẳng phải nhất cho nên nói “các pháp”. Trong ba pháp thì Giáo hiển rõ nhất. Giáo ắt phù hợp căn cơ vì thế mà có Nhân (người) của giáo, cho nên biết tam tam là quyền, “thật tướng” là cảnh thật trí. Lý Nhất chẳng hư vọng cho nên nói “thật tướng”. Trong tứ Nhất khắp nêu lý Nhất. Bởi vì lý là bản, cho nên là Thật. Trong đó có chín câu trở lại giải thích hai đoạn trên, năm câu trước giải thích Quyền. “Tướng như vậy” là ngôn giáo tam thừa nắm lấy tất cả mà có thể phân biệt. “Tánh như vậy” là tánh chất giáo tam thừa thì không thể thay đổi.“Thể như vậy” là giáo tam thừa thì có bát âm, chương cú mỗi mỗi đều có Thể, giáo Bồ-tát dùng lục độ làm Thể. “Lực như vậy” là tam thừa giáo dùng lực giáo huấn dẫn dắt. “Tác như vậy” là giáo tam thừa gia bị cho người trước, có tạo tác. Rộng là cảnh thật trí, lược thì không có lời giải thích. Cảnh thật trí có tứ nhất, dùng bốn rộng để nêu lý Nhất. “Nhân như vậy”, cảnh sinh sự hiểu biết chân thật, là “nhân”, vạn điều thiện hướng về quả. “Duyên như vậy”, cảnh phát sinh thật trí, là duyên. Dùng chỗ hướng về từ nhân, làm “quả”. Quả khởi đáp lại nhân, là “báo”. Hai câu sau là song kết. Câu đầu là kết quyền, “bản” tức nêu tướng, “mạt” tức nêu tác. Câu tiếp là kết thật, “cứu cánh” tức kết nhân, “đẳng” tức kết báo. Các sư ở phương Bắc nói: “Pháp tam thừa đều có tướng, tánh, quả, báo, bản, mạt”. Dao sư nói: “Tướng, tánh như vậy” đây là giải thích chiếu dụng của Trí tuệ. Mầm tam thừa nảy sinh cái khác, là “tướng”. Hẳn như vậy thành tam, là “tánh”. Phát tâm, là “thể” tùy tâm. Sở kham, là “lực”. Lực có sở tạo, là “tác”. Tác hành dẫn tới quả, là “nhân”. Nhân là nói phần đã có. Sở do, là “duyên”. Duyên là nói lực bên ngoài. Thành được, là “quả”. Đáp nhân, là “báo”. Tướng là “bản”. Báo là “mạt”. Cái có được cuối cùng đồng nhất, là “cứu cánh đẳng”. “Như thị” là việc kia không sai. Sư Sướng chỉ căn cứ các tạo tác ở Phật. “Tướng”, là thập lực đều có tướng mạo. “Tánh”, là từ căn đều có sự huân tập, cái mà sự huân tập không làm biến đổi được, là tánh, là cảnh tánh lực vậy. “Thể”, là căn tánh không đồng nên sự mong muốn cũng khác, nói cái dụng của tâm kia trói buộc cho nên lấy thể làm danh (đặt tên) đây là cảnh dục lực. “Lực” là tên riêng của Định. Thần thông biến, nếu động không định thì không vận được. Làm yên tâm, tĩnh các loạn, nếu không định thì không tịch. Cho nên, lực là cảnh thiền định. “Tác” là nghiệp, tức cảnh nghiệp lực. “Nhân”, đạo làm nhân, năng đạt đến Niết-bàn, tức đến xứ cảnh đạo lực. “Duyên” là duyên cảnh lực đời trước. “Quả”, do nhân đời này mà chiêu cảm quả đời vị lai, gọi là cảnh lực thiên nhãn. “Báo”, báo đời này là bằng chứng của nhân các đời trước, tức cảnh lậu tận lực, cho nên nói báo là lậu tận vậy. “Bản” là tướng, “mạt” là báo. Tóm lại mà nhìn, đều là cảnh xứ phi xứ lực. Từ trước các sự giải thích đều là một đường, nhưng xét về lý thì không thông, xét về văn thì không công bằng. Về văn không công bằng, là kinh nói “các pháp” thì pháp nào mà không thâu nhiếp, đâu chỉ tam thừa? Về lý không thông, là kinh dạy “thật tướng” thì chỗ nào mà không tồn tại, đâu chỉ ở thể nhân quả? Nếu thật riêng chỉ ở Phật thì Phật chẳng quyền, mà quyền riêng ở tam thừa, thế thì tam thừa vĩnh viễn không có thật. Nếu tam thừa chỉ là ngũ, thì pháp Quyền không đủ, lại hoàn toàn không Thật. Nếu bốn câu chỉ ở Phật, thì Phật hoàn toàn không có Quyền, Thật, cũng không đủ nghĩa, không liên quan đến phàm phu, thế thì văn nói “các pháp” là vô dụng, thật tướng không cùng khắp, ngoài thật tướng lại riêng có pháp. Vì các lỗi này nên đều không dùng. Thích Luận quyển ba mươi mốt nêu mỗi một pháp đều có chín thứ:

  1. Đều có Thể.
  2. Đều có pháp, như nhãn nhĩ tuy đồng do tứ đại tạo, nhưng mắt có công dụng thấy, tai không có công dụng thấy, như lửa hồng dùng thiêu đốt làm pháp thì không thể thấm ướt được.
  3. Đều có lực, như lửa lấy sự thiêu đốt làm lực, nước lấy sự thấm ướt làm lực.
  4. Đều có nhân.
  5. Đều có duyên.
  6. Đều có quả.
  7. Đều có tánh.
  8. Đều có hạn ngại.
  9. Đều có khai thông, phương tiện.

Ngài Đạt-ma-uất-đa đem chín thứ này hợp với mười Như trong kinh Pháp Hoa. “Đều có pháp” tức là “như thị tác” trong Pháp Hoa. “Đều có hạn ngại” tức là “như thị tướng” trong Pháp Hoa. “Đều có quả” tức là “như thị quả, như thị báo” trong Pháp Hoa. “Đều có khai thông phương tiện” tức là “như thị bản mạt cứu cánh đẳng” trong Pháp Hoa. Những thứ còn lại đều đồng tên, có thể hiểu. Nay nêu rõ cảnh đây chia làm hai: một câu đầu lược nêu chương quyền thật như văn, mười câu tiếp rộng giải thích tướng quyền thật.

– Nay chia làm bốn phen giải thích:

  1. Theo mười pháp giới.
  2. Theo Phật pháp giới.
  3. Theo ly hợp.
  4. Theo địa vị.

Kinh dạy “các pháp”, cho nên dùng mười pháp giới giải thích. Kinh dạy “Phật đã thành tựu pháp hy hữu đệ nhất”, cho nên dùng Phật pháp giới giải thích. Kinh dạy “Thôi ! Thôi ! Không cần nói nữa, pháp ta vi diệu khó nghĩ bàn”, cho nên dùng ly hợp giải thích. Kinh dạy “Chỉ có Phật với Phật mới có thể thấu hiểu cùng tạn” cho nên dùng địa vị giải thích.

1. Giải thích theo mười pháp giới: nghĩa là lục đạo, tứ thánh gọi mười pháp. Pháp tuy vô lượng mà số không ra khỏi mười, trong mỗi một cõi tuy lại nhiều phái nhưng không ngoài mười Như, như địa ngục giới, ngay đương địa tự có đủ tướng tánh bản mạt, cũng đủ cả tướng tánh bản mạt của súc sinh giới, cho đến đủ tướng tánh bản mạt của Phật pháp giới, không có thiếu hụt. Cho nên, luận Tỳ-đàm Tỳ-bà-sa quyển bảy nói: đường địa ngục thành tựu pháp Tha hóa thiên tức là theo lệ đó chín pháp giới còn lại cũng như vậy. Nên biết mỗi một cõi đều có chín cõi mười như. Nếu chiếu theo tự vị của chín giới, thì mười như của chín giới đều gọi là quyền. Chiếu theo tự vị Phật giới, thì mười như của Phật giới gọi là thật. Trong một đầy đủ vô lượng, trong vô lượng đầy đủ một, do đó mà gọi là bất khả tư nghì. Nếu chiếu theo lục đạo tam thánh, thì ngũ như là quyền. Nếu chiếu Phật giới, thì tứ như là thật. Khi phân chia trải qua lớp lớp, là có thể thuyết có thể chỉ bày, đâu đợi “Thôi ! thôi!” tuyệt lời tán thán? Bởi vì trong một có vô lượng pháp, phàm phu tuy có tuyệt lý mà tình còn mê, nhị thừa tuy có xả ly mà cầu thoát, Bồ-tát tuy có chiếu mà không cùng khắp, gọi là bất liễu liễu (không rõ ràng), đức Như Lai thấu suốt dọc ngang đầy đủ, chỉ có đức Phật tự hiểu rõ những điều mà người khác không thể biết không thể thấy không thể chỉ bày, nên Phật bảo: “Thôi! thôi! Đừng nói nữa”, tức là nghĩa này. Trong Huyền Nghĩa kia đã nói, nay không ghi thêm.

2. Giải thích theo Phật pháp giới: Phật giới phi tướng phi bất tướng mà gọi “như thị tướng”, là chỉ vạn điều thiện duyên nhân, cho nên văn dưới nói: “các báu trang sức” là nghĩa ấy vậy. Phật giới phi tánh phi bất tánh mà gọi “như thị tánh”, là chỉ trí tuệ liễu nhân cho nên văn dưới nói “có trâu trắng lớn”. Phật giới phi thể phi bất thể mà gọi “như thị thể” là chỉ thực tướng chánh nhân, nên văn dưới nói “xe ấy cao rộng”. Phật giới phi lực phi bất lực mà gọi “như thị lực”, là chỉ Bồ-đề đạo tâm từ thiện căn lực… cho nên văn dưới nói: “Lại ở trên đó giăng treo màn trướng phan cái”. Phật giới phi tác phi bất tác mà gọi “như thị tác”, là chỉ nhậm vận vô công dụng đạo, cho nên văn dưới nói “phóng nhanh như gió”. Phật giới phi nhân phi bất nhân mà gọi “như thị nhân”, là chỉ bốn mươi mốt địa vị, cho nên văn dưới nói “cưỡi xe báu dạo chơi bốn phương”. Phật giới phi duyên phi bất duyên mà nói “như thị duyên”, là chỉ tất cả trợ Bồ-đề đạo, cho nên văn dưới nói “nhiều tôi tớ đi theo hộ vệ”. Phật giới phi quả phi bất quả mà gọi “như thị quả”, là chỉ quả diệu giác rõ ràng là cái được từ Viên nhân, cho nên đoạn văn dưới nói “thẳng đến đạo tràng”. Phật giới phi báo phi bất báo mà gọi “như thị báo”, là chỉ Đại Bát-niết-bàn, cho nên văn dưới nói “được vô lượng quả báo thanh tịnh vô lậu”. Phật Giới phi bản phi mạt mà nói “như thị bản mạt”, bản tức Phật tướng, mạt tức Phật báo là tự hành quyền. Phật giới phi đẳng phi bất đẳng mà nói “cứu cánh đẳng”, là chỉ thật tướng, cho nên nêu chương nói thật tướng, là tự hành thật, tức thật mà quyền cho nên nói “bản mạt”, tức quyền mà thật cho nên gọi là “đẳng”. Đây là Như Lai tự hành quyền thật vô thượng trên hết, vo thượng tướng cho đến vô thượng quả báo, rộng theo chiều ngang, sâu theo chiều dọc mà không gì hơn được. Cho nên, nêu chương nói thật tướng của pháp. Theo lệ thường cũng nên nói “các pháp thật tánh, thật thể, thật lực” cho đến nên nói “thật cứu cánh đẳng”. Chỉ lược nêu một mà bao trùm nhiều. Đức Như Lai chiếu soi ngang dọc cùng khắp, như xem quả trong lòng bàn tay. Chỉ vì phàm phu thì như đui như điếc, hàng nhị thừa thì như chột một mắt, hàng Bồ-tát thì như thấy đêm mông lung không rõ, không thể thuyết được. “Thôi thôi đừng nói” là ý tại chổ này.

3. Giải thích theo ly hợp: nếu quán đúng cách như dùng tâm Phật mà quán thì mười giới mười như đều là vô thượng tướng, cho đến vô thượng quả báo, chỉ là một Phật pháp giới, như biển chứa vạn dòng, ngàn xe cùng một dấu bánh xe, đây tức tự hành quyền thật. Nếu tùy tha ý, thì có chín pháp giới mười như tướng, tánh v.v… tức là hóa tha quyền thật. Hóa tha mặc dù có thật, đều buộc làm quyền. Tự hành mặc dù có quyền, đều buộc làm thật. Đây tức tự hành hóa tha quyền thật, tùy tha thì khai, tùy tự thì hợp, ngang dọc chiếu khắp khai hợp tự tại. Tuy khai vô lượng, vô lượng mà một, tuy hợp làm một, một mà vô lượng. Tuy vô lượng một, mà chẳng phải một chẳng phải vô lượng. Tuy chẳng một chẳng vô lượng mà một mà vô lượng. Chỉ có Phật cùng Phật mới có thể thấu hiểu cùng tận, hàng phàm phu thì phỉ báng không tin, hàng nhị thừa thì lẩn quẩn trong mê cho nên không nhận ra, Bồ-tát thì còn bụi trần chưa sáng tỏ. Vì nghĩa này, cho nên bảo “Thôi! Thôi! Đừng nói”.

4. Giải thích theo vị: “Tướng như vậy” là hết thảy chúng sinh vốn đều tự có thật tướng, chính là tướng mạo Như Lai tạng. “Tánh như vậy” tức là tánh đức trí tuệ đệ nhất nghĩa không. “Thể như vậy” tức là lý trung đạo pháp tánh, đó gọi là tam đức thông mười pháp giới, mỗi vị đều có. Nếu nghiên cứu ba đức đây khế hợp với vị thập tín, thì gọi là “như thị lực như thị tác”, khế hợp với bốn mươi mốt địa gọi là “như thị nhân như thị duyên”, nếu đạt đến Phật địa thì gọi “như thị quả như thị báo”. Ba thứ đầu gọi là bản, ba thứ sau gọi là mạt. Từ đầu đến cuối đồng là ba đức, cho nên nói “cứu cánh đẳng”, Ở vị ban đầu, ba đức thông ác thông thiện, thông hiền thông thánh, thông tiểu thông đại, thông đầu thông cuối (đầu đến cuối cùng). Tuy ở nơi ác mà không bị đắm chìm, tuy tại thiện mà không thăng lên, tuy tại Hiền mà không hạ thấp, tuy tại Thánh mà không cao, tuy tại tiểu mà không chật hẹp, tuy tại đại mà không rộng rãi, tuy tại ban đầu mà chẳng mới, tuy tại cuối cùng mà chẳng cũ, cho nên gọi bất khả tư nghì, bất khả đắc thuyết, nên nói: “Thôi! Thôi! Đừng nói”. Lại nữa ba đức “cứu kính đẳng” mười giới tánh tướng quyền thật khai hợp sai khác bao nhiêu, dùng đại tuệ bình đẳng mà quán như thật thì “cứu cánh” đều bình “đẳng”. Nếu mê cảnh này, thì có tướng tánh của sáu cõi, gọi là thế đế. Nếu hiểu cảnh này, thì có tướng tánh của Nhị thừa, gọi là chân đế. Thông đạt điều này chẳng mê chẳng hiểu, thì có tánh tướng của Bồ-tát Phật giới, gọi là Trung đạo đệ nhất nghĩa đế. Nếu dùng tuệ này, bình đẳng với tục đế, thì tục đế chẳng mê, bình đẳng với chân đế thì chân đế chẳng hiểu. Cả hai không mê không hiểu, gọi là bình đẳng. Nếu song chiếu, thì quyền tức là thật, thật tức là quyền. Tuy hai mà không hai, cũng gọi là “cứu cánh đẳng”. Lại, cảnh quyền thật không hai, bảy thứ phương tiện, không thể dùng trí bất nhị bình đẳng với cảnh bất nhị. Chỉ có chư Phật dùng trí bất nhị bình đẳng với cảnh bất nhị, cho nên nói “cứu cánh đẳng”. Lại, nay Đại thừa cơ động không nêu tánh tướng của chín giới, mà nói thẳng tất cả tánh tướng đều nhập tánh tướng của Phật giới. Xưa giáo không thuyết, nghĩa là xưa không cùng với nay bình đẳng giáo nay thuyết. Biết xưa cùng nay bình đẳng, cho nên nói “cứu cánh đẳng”. Ban đầu căn cứ Hoặc và giải bình đẳng, tiếp đến căn cứ người bình đẳng, sau căn cứ về giáo bình đẳng; đây nói rất rộng, người ghi chép không thể lĩnh hội hết. Nếu đến chỗ dứt ngôn ngữ, tuyệt tư duy, thì rõ ràng là bất khả tư nghì. Thích Luận quyển bảy mươi chín nói: Bất khả tư nghì gọi là không quyết định, vượt ngoài tất cả tâm, tâm số pháp, ngoài hết thảy mọi đường ngôn ngữ, không thể hành không thể đạt đến, cho nên gọi là bất khả tư nghì. Nếu căn cứ thí dụ để nêu bất khả tư nghì, thì như Thích luận quyển mười bốn giải thích: “Không dùng sắc bại hoại để hướng đến đạo bình đẳng được, mà quán sắc không khác mới có thể bình đẳng với Đại thừa. Như sáng với tối cùng hợp, mà ông không thấy, cho là sáng tối có sai khác. Muốn biết nghĩa kia như mặt trăng kia sáng. Lại, khi mặt trời xuất hiện thì bóng tối không hướng mười phương, bóng tối thường không có chỗ hướng về, ánh sáng cũng như vậy cùng bóng tối hợp. Sinh tử cùng đạo hợp, đạo tức là sinh tử. Đức Phật chỗ tận đã tận, chỗ đáng độ đã độ, đều bất khả tư nghì. Các kinh các luận liệt kể điều này rất nhiều. Nếu bất khả tư nghì trong sự, thì kinh A-hàm nêu rõ bốn thứ bất khả tư nghì, đó là: Chúng sinh, thế Giới, Rồng và Phật. Chúng sinh từ đâu đến rồi đi về đâu? Từ đâu mà sinh rồi do đâu mà tử? Thế giới là hữu biên hay vô biên? Là có thể đoạn hay bất khả đoạn? Trời, rồng, người, quỉ là do ai tạo ra? Kinh A-hàm nói: Một sĩ phu ở thành Vương xá bên ao Câu-hi-la tư duy “Thế gian là hữu biên hay vô biên?” chợt thấy bốn binh trốn vào trong lỗ ngó sen, mà tự sợ hãi nghĩ: ta bị cuồng ư? Ở thế gian không có sự loạn cuồng này, liền đi hỏi Phật. Phật dạy: Chẳng phải cuồng, mà là loài Tu-la bị chư thiên đuổi chạy trốn vào trong lỗ ngó sen. Đây chính là thế gian tư duy, chẳng phải đạo Niết-bàn, không có nghĩa lợi ích, không pháp lợi ích, không phạm hạnh lợi ích…

Rồng phun mưa, là từ mắt mũi miệng lưỡi lỗ tai phun ra ư? Thật chẳng phải từ các thứ như vậy mà chỉ từ ý niệm mà lưu xuất ra. Niệm thiện niệm ác đều có thể lưu xuất ra mưa, do bản hạnh trước cho nên nay được lực này. Giữa núi Tu-di có trời gọi là Đại lực, cũng có thể làm mưa. Lại, kinh nêu ra năm đường, mỗi một đều có nghĩa bất khả tư nghì. Địa ngục có đoạn, tục (đứt, nối), súc sinh có thể bay, quỷ có thể biến ít thành nhiều, người có thể khiến đốt cháy củi, trời có thể tự nhiên hưởng quả báo, đều là pháp sự quả báo bất khả tư nghì… Đây là căn cứ việc nhân duyên mà giải thích bất khả tư nghì, huống chi cảnh giới thậm thậm đâu chẳng phải là bất khả tư nghì ư!

Kệ có hai mươi mốt hàng chia làm hai phần: Mười bảy hàng rưỡi đầu là tụng trường hàng. Ba hàng rưỡi sau là lược khai tam hiển nhất, động chấp sinh nghi. Mười bảy hàng rưỡi đầu lại chia làm hai: Bốn hàng đầu, tụng khen có nói. Mười ba hàng rưỡi sau, tụng khen dứt nói. Xét rằng kệ tụng và trường hàng xen lẫn nhau có rộng có lược, khiến cho nghĩa dễ hiển bày rõ thôi! Văn trường hàng nêu hai Phật, quyền thật đều tán thán tiêu biểu sự hóa duyên có sai khác, cho nên trong phần tụng hai đức Phật hợp chung tán thán, chỉ bày lý Nhị trí đồng. Trong phần Khen có nói lại chia làm hai: Một là, hai hàng hợp tụng Nhị trí của hai Phật. Hai là, hai hàng hợp tụng hai Phật, giải thích tán thán và tổng kết tán thán… Hai hàng đầu lại chia làm hai: nay giải thích câu đầu “Thế hùng” là tụng trí tuệ chư Phật bên trên. “Bất khả lượng” là tụng thậm thâm vô lượng bên trên, đây là tụng thật trí của chư Phật. Tiếp ba câu là tụng quyền trí của chư Phật bên trên. Đây có ba điều sai khác:

1. Trường hàng thì nêu người và nêu pháp cho nên nói “chư Phật trí tuệ”, nay tụng chỉ tụng người, đem người để làm tốt pháp cho nên nói “Thế hùng”.

2. Trên khai thán, nay hợp thán. Bởi nêu pháp và người riêng biệt, cho nên phải khai, chỉ nêu người cho nên phải hợp.

3. Trên nói hết thảy hàng nhị thừa không biết, nay nói tất cả loài chúng sinh không biết. Từ “Phật lực vô sở úy” trở xuống, một hàng sau, là tán thán nhị trí của đức Thích-ca. “Phật” là tụng lại câu “Từ khi ta thành Phật” ở trên, chính tụng thật trí, “lực vô sở úy…” là tụng các công đức, là tụng quyền trí, “các pháp khác” tức chỉ quyền hóa tha, là các thứ khác trợ giúp thật trí, chính tụng các thứ nhân duyên trên…Từ câu “Vốn từ” trở xuống sau hai hàng, hợp tụng hai ý giải thích khen và kết khen Phật. “Vốn từ vô số Phật, đầy đủ tu các đạo” là tụng phần giải thích tán thán chư Phật bên trên: “đức Phật đã từng thận cận trăm ngàn chư Phật trọn tu hết thảy đạo pháp”. “Pháp thậm thâm vi diệu” là tụng phần kết thán thật bên trên: “thành tựu pháp thậm thậm chưa từng có”. “Khó thấy khó rõ được” là tụng kết thán pháp quyền bên trên: “ý thú khó hiểu”. “Trong vô lượng ức kiếp, tu các đạo đó rồi” là tụng phần trên nói “đức Thích-ca tri kiến Ba-la-mật đều đã được đầy đủ”. Hai câu trên nêu nhân tu hành đầy đủ, một câu tiếp theo nêu quả đầy đủ, một câu “Ta đều đã thấy biết” là tụng phần kết nhị trí của đức Thích-ca bên trên: “tri kiến của Như Lai rộng lớn”. Hoặc có khi dùng bốn câu kệ hợp tụng hai trí quyền thật của Phật bên trên, văn chia làm sáu: l. “Thế hùng…” một câu, là tổng tụng hai trí của hai Phật. 2. “Chư thiên cùng người đời” trở xuống, ba câu: tụng nêu người. 3. “Phật lực” trở xuống, một hàng: tụng đức Thích-ca giải thích quyền thật. 4. “Vốn từ” trở xuống, một hàng: tụng chư Phật giải thích quyền thật. 5. “Trong vô lượng” trở xuống, nửa hàng: là tụng hành nhân bên trên. . “Đạo tràng được chứng quả” trở xuống, hai câu: tụng đắc quả bên trên.

Từ “Quả, báo lớn như vậy” có mười ba hàng rưỡi tụng phần Khen dứt nói bên trên. Văn chia làm năm phần:

1. Nửa hàng đầu “Quả, báo lớn như vậy” tức tụng cảnh bất tư nghì, chỉ nêu đầu và cuối của “thập như thị”, giữa thì lược, có thể biết, chữ “nghĩa” là tụng “cứu cánh đẳng”. Chữ “đại” trong câu một và “chủng chủng” trong câu hai như trong Huyền Nghĩa nói.

2. “Ta cùng mười phương Phật” nửa hàng, tụng lại phần: “Tóm yếu mà nói… đức Phật đều thành tựu”.

3. ”Pháp đó không chỉ được“ nữa hàng, tụng lại phần bên trên: “Thôi! Không cần nói nữa”, thật tướng chẳng có nơi chốn, cho nên không chỉ bày được, không có đường ngôn ngữ cho nên nói “Vắng bặt tướng nói năng”.

4. Từ “Các loại chúng sinh khác” trở xuống, mười hàng rưỡi kệ: tụng nêu người không biết, bởi vì văn trường hàng bên trên nêu “Không người nào biết nổi, cho nên “Thôi! không nói””: Trong phần tụng này nêu các hạng người không biết, văn chia làm tám phần nhỏ:

  1. Nửa bài kệ đầu, thì nêu chung người không thể nhập, tức bảy phương tiện.
  2. Hai câu từ “Trừ các chúng Bồ-tát” nêu người năng nhập, tức Viên giáo thập tín cho nên nói: “Người sức tin bền chặt”. Trường hàng thì nêu: “chỉ có Phật mới biết rốt ráo”, trong bài tụng thì nêu: “hàng sơ tín biết”, nêu xen nhau đó thôi!
  3. “Các hàng đệ tử Phật” trở xuống, có một hàng rưỡi: nêu nhị thừa không biết,
  4. “Giả sử đầy thế gian” trở xuống, một hàng nêu Thân-tử không biết.
  5. “Dù cho khắp mười phương” trở xuống, một hàng rưỡi: nêu các đại đệ tử Phật cũng không biết.
  6. “Bích-chi-Phật trí lanh” trở xuống. hai hàng: nêu Bích-chiphật cũng không hiểu.
  7. “Bồ-tát mới phát tâm” trở xuống, hai hàng rưỡi nêu Bồ-tát phát tâm cũng không biết. “Phát tâm” là nói chung. Hoặc là có thể Bồtát lục độ trải qua ba A-tăng-kỳ mà chưa đoạn lậu hoặc, gọi là phát tâm. Hoặc là có thể riêng chỉ trong hàng nhân thiên bên trên tự nhiếp được lục độ mà phát tâm. Chung cũng như riêng, đều là phát tâm.
  8. “Hàng bất thoái Bồ-tát” trở xuống, một hàng: nêu Bất thoái Bồ-tát cũng không biết. Thông giáo bất thoái đoạn giới nội Hoặc, cho nên không biết Biệt lý. Biệt giáo địa tiền cũng có chứng Vị bất thoái và Hạnh bất thoái, cũng không biết.

5. “ Lại bảo Xá-lợi-phất, vô lậu bát tư nghì” trở xuống, một hàng rưỡi, tụng phần bên trên:”pháp khó hiểu chỉ có Phật mới biết cảnh thật tướng”. “Vô lậu bất tư nghì” tụng phần bên trên: kết tóm yếu quyền thật và cảnh “bảo Thôi!”. Một câu “Pháp thậm thâm vi diệu” là tụng văn bên trên “pháp đệ nhất hy hữu khó hiểu”. “Ta nay đã đắc đủ” trở xuống, ba câu tụng phần bên trên: “chỉ có Phật với Phật mới có thể thấu hiểu cùng tột”. Nêu rõ chư Phật đạo đồng, đồng đều cứu cánh, cho nên nói “Chỉ ta biết tướng đó, Mười phương Phật cũng vậy” là giải thích bất khả tư nghì, như ngọc như ý không có sở hữu một hào ly mà có thể mưa các báu, thật tướng không sinh mà năng sinh Bát-nhã. “Vô lậu bất tư nghì”, một hàng rưỡi làm gốc, sinh ra bốn thứ giải thích, như trên nói. Từ “Vô lậu” nửa câu, giải thích mười pháp giới là gốc, mười như của mười pháp giới thâu tóm hết Lý tánh các phàm thánh không sai sót, thâu tóm tam đế không sai sót, quyền thật trí không sai sót. Căn cứ bất tư nghì làm khai hiệp giải thích làm gốc tức quyền mà thật tức thật mà quyền cho nên nói bất khả tư nghì. Căn cứ pháp thậm thâm vi diệu dùng Phật pháp giới giải thích làm gốc đây có thể biết, ước theo câu “chỉ ta biết tướng đó” là ước về địa vị giải thích làm gốc đây cũng có thể biết…

Từ “Xá-lợi-phất nên biết, lời chư Phật không khác” trở xuống, ba hàng rưỡi, là lược khai tam hiển nhất động chấp sinh nghi. Căn cứ khai hiển, chia làm hai. Ban dầu nêu chư Phật hiển thật, sau nêu Đức Thích-ca khai tam, xen nhau nêu nhất biên đó thôi! “Lời chư Phật không khác”, đây luận về chư Phật hóa đạo đồng. Tiếp đến hai câu khuyến tín, hai câu sau chính hiển bày thật, “Pháp của Phật lâu sau, cần phải nói chân thật” tức hiển chân, động cái chấp ngày xưa, sinh cái nghi ngày nay. “Nhất dịnh chẳng phải ma làm Phật”, chính do nghe lời này, đức Phật đã dùng lời chân thật khuyến tin, vì sao trở lại nghi? Vì phòng ngừa do nghi mà khởi tâm phỉ báng, cho nên phải khuyến tín.

Từ “Bảo các chúng Thanh văn” trở xuống, là nêu đức Thích-ca khai tam. Văn chia làm ba phần: Một hàng đầu chính nêu khai tam, muốn nêu cái sai lầm của nhị thừa, cho nên nói “đến chứng đắc Niếtbàn”. Lại, giải thích “Ta khiến cho thoát khổ, đến chứng đắc Niết-bàn” là nêu lục độ Bồ-tát thừa. Vì sao biết? Vì tu hạnh lục độ thì thoát sự trói buộc trong bốn đường, nhưng chưa thể nhập diệt độ mà phải trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp và một trăm kiếp mới đắc Niết-bàn, nói “đến” là còn lâu xa mới kịp. Lại, hành lục độ thì trước là độ người, cho nên nói “Ta khiến cho thoát khổ”, sau mới được vô lậu cho nên nói “đến chứng đắc Niết-bàn”. Nghĩa đây suy nghĩ thì biết là Lục độ thừa. Lại, dùng số để suy tìm thì thấy ở câu dưới “Phật dùng phương tiện lực, dạy cho ba thừa giáo”. Nếu không có ý chỉ đó thì sao gọi là ba? Không nên thêm số nhị thừa làm tam thừa. Tiếp đến nửa hàng, chính bài xích tam thừa đều là hư giả. Tiếp hai câu, nêu ý lập ra giáo Tam thừa. Ý đó là quyền dẫn lìa các khổ, chẳng phải là chân thật, chỉ là cửa phương tiện mà thôi!

Từ “Lúc bấy giờ trong đại chúng“ trở xuống, là chúng khởi nghi đến thỉnh hỏi, do nghe nói ba thừa đó là ngụy, chỉ có một chân, chấp động sinh nghi. Văn làm hai phần: 1. Trình bày nghi. 2. Chính thỉnh quyết định. Phần Trình bày nghi lại chia làm hai phần nhỏ: Một là kinh gia trình bày, Hai là chính sinh nghi. Phần nhỏ một: nêu chúng một ngàn hai trăm người đều nghi, tiếp theo là nêu bốn chúng. Trên đã chê tam thừa đều là phương tiện. Bây giờ trình bày nghi chỉ ở hàng nhị thừa, do chấp nặng nghi sâu nên riêng nêu lên, như đến phần dưới trình bày nghi, tức nói: “Bồ-tát cầu thành Phật, số nhiều có tám muôn”, cũng đều có nghi, cho nên biết là hàng tam thừa đều nghi mà lại riêng nêu nhị thừa đó thôi! Từ “Đều nghĩ rằng” trở xuống, là chánh nghi, lại chia làm hai phần: 1. Nghi Phật nhị trí. 2. Nghi mình sở đắc. Từ “cớ sao ân cần ngợi khen phương tiện” tức là tổng nghi quyền thật nhị trí. Từ “mà nói rằng pháp của Phật chứng rất sâu xa” là nghi thật trí, “có nói ra thì ý thú cũng khó biết” trở xuống là nghi quyền trí. Do nghe “Lời chư Phật không khác, Cần phải nói chân thật”, từ đây sinh nghi: vì sao Phật xưa thuyết, hàng tam thừa trí tuệ đồng chứng không sai khác, chỉ là tập khí còn sót lại hết hoặc chưa hết, mà nay bỗng xưng tán Nhị trí của Như Lai chẳng phải là điều ta theo kịp. Vì vậy cho nên nghi nhị trí của Phật. Từ “Phật thuyết một nghĩa giải thoát, chúng ta cũng chứng được pháp đó” trở xuống, đây là tự nghi sở đắc. Tam thừa thánh đạo đúng là con đường quan trọng để giải thoát khỏi vòng sinh tử, ta tu lý này cũng đạt đến Niết-bàn, mà nay bỗng nói đều là phương tiện, chưa biết chân thật là thế nào? cho nên nói “chẳng biết nghĩa ấy về đâu?” Trên đây là chê Tam thừa là giả mà sinh nghi.

(Nhĩ thời) “Lúc bấy giờ Xá-lợi-phất” trở xuống là phần thứ hai: Chánh thỉnh. Văn có ba phen thỉnh, hai lần bảo “Thôi!”.Kể cả văn trước thì gồm ba lần “thôi”, Dao sư và sư Long nói: Lần “thôi” ban đầu vì lý sâu khó hiểu, nên lần thỉnh ban đầu là vì tự tha cầu quyết nghi. Lần “ thôi “ thứ hai vì chúng kinh sợ nghi ngờ không tin, lần thỉnh thứ hai vì số đông chúng đã từ lâu gieo trồng trí tuệ ắt hiểu được. Lần “thôi” thứ ba vì chúng hủy báng sẽ đọa đường ác, lần thỉnh thứ ba vì lợi căn được lợi ích. Nay các sư có khi nói: Phật dự biết trước ba lần được lợi ích trước sau không đồng, cho nên ba phen “thôi” là đợi ba phen thỉnh vậy.

Lần thỉnh ban đầu, văn chia làm hai phần: 1. Trường hàng. 2. Kệ tụng.

Trường hàng lại chia làm hai: 1. Trình bày nghi. 2. Trình bày thỉnh. Trình bày nghi là nghi nhị trí. Trình bày thỉnh, là mình thỉnh và chúng thỉnh.

Phần tụng có mười một hàng kệ, văn chia làm sáu: 1. Hai câu tụng nghi thật trí. 2. “Tự thuyết pháp mình chứng” trở xuống, ba hàng: tụng nghi quyền trí. 3. “Hàng vô lậu La-hán” trở xuống, ba hàng: nêu tam thừa tứ chúng có nghi. Câu đầu nói La-hán, hai hàng cuối nêu Duyên giác, khoảng giữa gọi là “Cùng người cầu Niết-bàn” tức là nêu lục độ Bồ-tát. Vì sao biết được? Trên nói “đến chứng đắc Niết-bàn”, trong đây gọi là “cùng”. “Cùng” là Bồ-tát đây tự cầu Niết-bàn, lại vì “cùng” người khác, cho nên khác nhị thừa, thì biết là Bồ-tát. 4. “Trong các chúng Thanh văn” trở xuống, một hàng rưỡi: nêu Thân-tử nghi. 5. “Con từ miệng Phật sinh” trở xuống, một hàng nêu rõ Phật tử nghi. . “Các trời rồng thần thảy” trở xuống, hai hàng tổng nêu đồng nghi thỉnh. Xét rằng kệ tụng và trường hàng có thể lấy ý suy tìm, nếu không ở tụng thì ở trường hàng, đối với nghĩa chẳng cần gấp, không được rườm rà chia chẻ lời văn, cho nên lược thôi! Từ “Lúc ấy Đức Phật bảo” trở xuống, là hai lần bảo “thôi”, lại trình bày nghi để thỉnh, tất cả đều như văn kinh…

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10