VĂN CÚ KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

SỐ 1718

QUYỂN 06

Đời Tùy, Thiên Thai Trí Giả Đại sư thuyết

(Phần Thượng)

Phần thứ hai: Kệ có một trăm sáu mươi lăm hàng, chia làm hai phần: Phần một: một trăm hàng, tụng phần trường hàng bên trên. Phần hai: sáu mươi lăm hàng, nêu phương pháp lưu thông kinh.

I. Văn trường hàng trên có khai thí hợp thí, kệ tụng cũng có hai: l. Sáu mươi lăm hàng rưỡi, tụng khai khí; 2. Ba mươi bốn hàng rưỡi, tụng hợp thí. Sáu mươi lăm hàng rưỡi cũng chia hai:

l. Ba mươi ba hàng kệ, tụng Tổng thí. 2. Ba mươi hai hàng rưỡi, tụng Biệt thí.

Tụng Tổng thí có sáu ý, trong sáu ý chỉ tụng bốn ý mà bao gồm hai ý kia. Tụng nhà thì bao gồm ý chỉ có một cửa. Tụng năm trăm người thì bao gồm ý ba mươi người con.

Một câu đầu nêu trưởng giả, tức tụng vị hiệu trên, tức gồm cả danh hạnh tán thán đức, đã có đức của người lớn, tức biết danh hạnh vang khắp, được mọi người trong nước tôn kính, cũng biết đức độ tuổi tác trong ngoài đều cao, trong hợp với Bà-già-bà (Phật), tức vị hiệu, tự biết đầy đủ Trí đức Đoạn đức, từ bi vạn đức.

“Có một một nhà rất lớn”… trở xuống, ba hàng và một câu, là tụng dụ thứ hai bên trên nói về nhà, chia làm hai: Một câu đầu tụng nhà rộng lớn. “Nhà đó đã lâu, cũ” xuống ba hàng là rộng nêu ra thể của nhà nêu rõ tướng nhà cháy, cho nên biết đây là thể của nhà. Ba cõi từ vô thủy là “lâu”, chẳng phải nay mới tạo, gọi là “cũ”. Vô thường thấp kém, gọi là “xấu xa”. Cũng nói đầu, bụng, lưng là “phòng, nhà” . Niệm niệm tương tục vô thường gọi là “cao, nguy”. Có người nói Sắc giới là “phòng”, Dục giới là “nhà”. Không tránh khỏi rơi xuống gọi là “cao, nguy”. Mạng căn chống đỡ giữ gìn, như “gốc cột”. Quá khứ hành nghiệp là “nền móng”. Cũng nói: hai chân là “gốc cột”, ba tướng biến đổi là “gãy mục”, ý thức ràng buộc dụ như “trính xuyên”, các khổ hủy hoại như bị “xiêu vẹo”. Cũng nói xương sống là “trính xuyên”, mạch máu là “nền móng”, khi suy yếu già cả là “nát rã”. “Vách phên”, có người nói bốn đại là “vách phên”, lớp da bọc ngoài là “đất bùn”. Bốn oai nghi bất chính là “sụp đổ”. Năm thức không thông minh, không làm chủ cảnh, là “rời khớp”. Cũng nói “vách phên sụp đổ” như lớp da nứt nẻ, mục nát, sắc tráng kiện tốt đẹp sạch sẽ ví như đất bùn còn ướt, già cả ví như bùn khô rơi lả tả, râu tóc già suy thì đều rơi rụng, như “tranh lợp sa tán loạn”, gân cốt già yếu chi tiết không níu kéo được ví như “kèo đòn tay rời khớp, bốn bề đều cong vẹo (Chuyên lữ sai thoát, Chu chướng khuất khúc)”. Ấn sư nói: Ba mươi sáu vật không hợp nhau làm chướng ngại cho nên nói “chu chướng”, ruột già, ruột non chằng chịt uốn khúc nên nói “khuất khúc”. Chẳng những vô thường biến đổi mà cũng có bất tịnh khổ… cho nên nói “tạp uế đầy khắp”. Nay nói “chu chướng” là sáu thức, “khuất khúc” là sáu căn. Sáu thức duyên sáu căn chấp cảnh, khó khăn nguy hiểm cho nên nói “khuất khúc”. Sáu trần nhiễm sáu căn, cho nên nói “khắp đầy những tạp dơ”. Nhân duyên, Quán tâm hai phen giải thích.

Nửa hàng kệ nói: “Có đến năm trăm người” trở xuống, tụng ý thứ ba của thí dụ trên: “Năm trăm người”. Căn tánh Tam thừa là năm đường sở nhiếp, bao gồm dụ ba mươi người con.

Từ “Chim sí hiêu” trở xuống,có hai mươi chín hàng kệ, chính tụng ý thứ năm của thí dụ trên: lửa bốc cháy.

– Đây lại chia làm bốn phần:

l. Hai mươi hai hàng kệ, nêu việc trên đất, dụ cho cõi Dục bốc lửa.

  1. Ba hàng rưỡi, nêu việc trong hang huyệt, dụ cho cõi Sắc bốc lửa.
  2. Hai hàng rưỡi, nêu việc trên không, dụ cho cõi Vô sắc bốc lửa.
  3. Một hàng kệ, tổng kết nhiều nạn không phải một.

– Đây nói cõi Dục bốc lửa, lại chia làm bốn:

  1. Mười bảy hàng rưỡi, nêu loại bị thiêu, dụ mười sử của chúng sinh.
  2. Một hàng kệ, nêu nguyên do lửa bốc cháy, dụ nguyên do sinh khởi ngũ trược.
  3. Hai hàng, chính nêu sức mạnh của lửa bốc cháy, dụ chánh khởi ngũ trược.
  4. Một hàng rưỡi, nêu tướng bị cháy, dụ cho thọ bát khổ ngũ trược.

– Mười bảy hàng rưỡi ấy lại chia làm hai:

  1. Mười sáu hàng đầu, chính nêu cảnh bị cháy.
  2. Một hàng rưởi tiếp, tổng kết.

– Mười sáu hàng tụng cảnh bị cháy lại có hai:

  1. Sáu hàng nêu cầm thú bị thiêu, dụ năm độn sử của chúng sinh
  2. Mười hàng tiếp nêu rõ quỷ thần bị thiêu, dụ năm lợi sử của chúng sinh.

– Năm độn sử chia làm hai:

  1. Năm hàng rưỡi, nêu năm độn sử.
  2. Nửa hàng, tổng kết

– Đây là phần đầu, năm độn sử chia làm năm:

1. Nửa hàng đầu, dụ Mạn sử, chúng sinh tự nâng mình khinh người, như tánh của chim chích trên cao nhìn xuống. Tám loại chim dụ cho tám mạn. Kinh Văn-thù Vấn nêu rõ tám kiêu, nay dùng phối hợp với tám loại chim. Mạnh mẽ kiêu ngạo như chim “Sí”, tánh kiêu ngạo như chim “hiêu”, giàu có kiêu ngạo như “điêu”, tự tại kiêu ngạo như “thứu”, thọ mạng kiêu căng như chim “quạ”, thông minh kiêu ngạo như “chim thước”, hành thiện kiêu căn như chim “cưu”, sắc đẹp kiêu căng như chim “cáp”. Xâm lấn hiếp người khác là kiêu, tự tôn quý mình là kiêu, tự yêu mình là tham, ái người khác là dâm, tự phẫn hận là nhuế, phẫn hận người khác là sân, tự mê hoặc là ngu, mê hoặc người là si…

2. Nửa hàng tiếp, từ: “Loài ngoan xà…” dụ cho Sân sử. Sân có ba: Rắn “Ngoan” có độc mạnh, không xúc chạm mà phun độc, dụ cho phi lý sinh sân, loài “phúc yết (bọ cạp)”, xúc chạm thì chích nọc độc ngay dụ cho chấp lý mà sân. Loài “ngô công (rít)” dụ cho hý luận sân. Người đời nói loại có cổ màu đỏ thì gọi là “ngô công”, cổ không đỏ thì gọi là “du diên”.

3. Hai hàng tiếp, từ: “Loài thủ cung”… trở xuống, dụ cho Si sử. Si có tự mình khởi, tương ưng khởi. “Loài thủ cung” có một trăm chân, ngu si, dụ cho Độc đầu vô minh. “Vượn, chồn và chuột” dụ cho Tương ưng vô minh. “Các loài độc trùng dữ” do từ căn bản si sinh khởi các kết, nêu các sử tương duyên, hoặc duyên tam giới như “ngang dọc xen”, khởi lên nhanh chóng như “ruỗi chạy”. “Chỗ phân tiểu” trở xuống, một hàng nêu cảnh tâm si chấp đắm, đều là vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh, do si mê không hiểu biết nên ở trong đó mà chấp là tịnh v.v… sinh nhiễm đắm cho nên gọi là “Các loài trùng khương lang, bu nhóm ở trên đó”.(Khương lang là con bọ hung).

4. Hai hàng tiếp: “Cáo, sói …” nêu rõ Tham sử. Tham có hai loại:

  1. Hữu lực (có sức): là dùng uy thế đoạt lấy như loài “cáo sói”.
  2. Vô lực: chỉ có thể theo người khác để cầu xin những thứ bỏ xấu, như loài “dã can”.

“Gặm nhấm” là nêu tham chấp cảnh, dẫn vật hướng về mình, ví như “gặm nhấm”. Không dùng đạo lý, ví như “dày đạp”. Tham tâm chấp cảnh, hoặc chấp một thành, hoặc chấp một nước, kia có bờ ruộng, ví như “cắn xé”. Cũng nói tham tâm chấp cảnh có dụng không dụng, có dụng nên chấp, ví như “gặm nhấm”, không dụng mà chấp, ví như “dày đạp”. Lại, ít thì “gặm nhấm”, nhiều thì “dày đạp”. “Xương thịt bừa bãi ra” là tích tụ ngũ trần không biết dừng đủ. “Do đó mà bầy chó đua nhau đến ngoạm lấy”, đây là tham có sức. “Ngoạm lấy không có sức” là dụ cho giặc vua. “Ốm đói và sợ sệt”: thường không biết đủ, ví như “đói”; cầu mà không được, ví như “ốm”; mưu tính đủ thứ tìm kiếm, ví như “sợ sệt”. Nên nói: người tham muốn nhiều thì dù giàu mà nghèo vậy. Ái tâm tham, tham “thịt” ngũ trần. Kiến tâm tham, tham “xương” đạo lý. Tìm cầu tri kiến cho nên nhiều sở giải, tức là “nhiều xương” nên bầy chó đua nhau đến ngoạm lấy xương kia. Các kiến giải trong tâm thì chưa ăn được chánh pháp, gọi là “đói”. Không thể hàng phục đoạn kiến, gọi là “ốm”. Ở khắp nơi tìm cầu sự giải thoát, gọi là “sợ sệt”. Có người nói: “Ốm đói và sợ sệt” là dụ cho người tham hay mong cầu nhớ tưởng hy vọng trông mong.

5. Từ “Giành giựt cấu xé nhau” trở xuống, hai câu dụ do Nghi sử. Do dự hai bên, gọi là nghi. Chưa quyết định phải trái, gọi là “giành giựt”; ý cho là đúng, gọi là “cấu”; lại cho là sai, thì gọi là “xé”. “Gầm gừ gào sủa rân”, là phát ra lời nói quyết định lý phải trái.

Hai câu tiếp theo: “Nhà đó sự đáng sợ…” là tổng kết ngũ độn sử bên trên.

Từ “Khắp chỗ đều có những” trở xuống, mười hàng nêu Ngũ lợi sử, chia làm hai: Nửa hàng đầu, tổng nêu lợi sử. Lợi sử duyên khắp năm ấm Tứ đế, cho nên nói khắp mọi nơi đều có. Quỷ thần thì có thần thông có trí, loài cầm thú thì không, cho nên dùng “lợi sử” dụ cho “quỷ thần”, “độn sử” dụ cho “cầm thú”.

– Chín hàng rưởi tiếp, nêu chi tiết năm lợi sử chia làm năm:

1. Ba hàng đầu nêu “Dạ-xoa” là Tiệp-tật quỷ, ví như tà kiến bác không nhân quả. Người là quả báo thiện, ví như nhân quả xuất thế, không xen lẫn phiền não. Vì chúng bác không nhân quả, tức như ăn thịt người. “Các loài trùng độc dữ” là ác báo, như nhân quả thế gian xen lẫn các phiền não, bác bỏ không có lý này thì như ăn nuốt các loài độc dữ. “Ấp, cho bú sản sinh” là pháp thế gian, từ nhân tự loại mà sinh quả tự loại. “Đều tự giấu, giữ gìn” tức nhân năng có quả gọi là cất “giấu”; chắc được không mất, gọi là “giữ gìn”. Lại, ăn thịt người là thiện độc, trùng độc là ác. Tâm tà kiến bác bỏ không có nhân quả thiện ác, ví như việc nuốt ăn. “Ấp, cho bú sản sinh” là tổng nói thiện ác đều có cái dụng của nhân quả tương sinh. “Ăn đó no nê rồi” là kiến tâm thành tựu. “Tâm hung dữ thêm hăng”, tà kiến tăng rộng. “Tiếng mắng đánh chửi nhau”, là trong tâm thành tựu, bên ngoài hiện rõ ngôn giáo tức là tuyên bày pháp không nhân không quả, có thể khiến cho người nghe đọa lạc ba đường, cho nên nói “rất đáng sợ”.

2. Hai hàng rưỡi tiếp từ: “Những quỷ Cưu-bàn-trà” trở xuống dụ do Giới thủ. Cưu-bàn-trà là quỉ thắng, ví như hữu lậu thiện năng thắng các độc trùng. “Ngồi xổm trên đống đất” là tu thập thiện giới năng sinh cõi trời Lục dục, là chỗ cao của Dục giới. Sự như “trên đống đất”. Lại, ngoại đạo trì giới năng tu thiền định, ban đầu đắc định Dục giới hoặc đắc định vị lai, định vị lai chưa thoát khỏi Dục giới. Trên đỉnh Dục giới ví như “trên đống đất”. “Hoặc cách đất một thước hai thước”, đắc định Sắc giới như “cách đất một thước”, đắc định Vô sắc giới như “cách đất hai thước”. Đắc lên các cõi trên, gọi là “đi qua (vãng)”, thoái lui rơi xuống gọi là “đi lại (phản)”. Khởi lên các Kiến chấp, che lấp tâm thanh tịnh, ví như “Buông lung cùng chơi giỡn, nắm hai chân của chó”. Có người nói: hủy báng không có nhân khổ, ví như “nắm lấy hai chân của chó”; Bác không có quả khổ, ví như “lấy chân đạp lên cổ”. Tập nhân xưa trổ quả, ví như “âm thanh chó”. Lợi kiến bác bỏ, nói lý “không tập nhân, không đắc quả khổ”, ví như “Đánh cho la thất thanh”.

Giải thích theo Quán tâm: tu hành sáu quán hàng phục tâm tham. Tham không hành tưạ như bị đoạn mất âm thanh(thất thanh), “chó” là dục tham, “hai chân” là giác quán. Giác quán qua lại thường ở nơi cảnh tham. Quán sổ tức, nghĩa là đình chỉ tâm năng trói buộc, là nắm được giác quán. Lại “đánh” là giác tham, nếu mạnh thì hướng đến cảnh bất tịnh, cho nên quán bất tịnh để hàng phục tham giác. Tham giác bẻ gãy hàng phục, ví như chó bị đánh vì vậy “la thất thanh”. Lại, nói quán bất tịnh ví như “đánh chó”, có thể sinh thiền định như chó bị “đánh cho la thất thanh”. “Đè chân lên cổ” như chó bị đánh mà còn vùng vẫy không phục, nên đè thêm chân. Cũng vậy, tham tuy dùng quán bất tịnh để đình chỉ, nhưng tham vẫn còn vẫn chưa tĩnh, lại dùng quán vô thường ví như “chân” để đè lên cổ, “cổ” dụ cho chấp thường, thì sinh sợ hãi thì tham giác không khởi. Lại nói: một khi hướng về chế phục tâm, ví như hướng xuống đất mà “đánh”. Thường buộc tại duyên, ví như “chân đè lên cổ”, khiến không khởi được. “Làm chó sợ để tự vui”, là do tu vô thường giác ngộ tham tâm, ví như “làm chó sợ”, do vậy đắc thiền vị, gọi là”tự vui”.

3. Một hàng rưỡi, từ “Thân nó rất cao lớn” trở xuống, dụ cho Thân kiến. Theo chiều dọc, đời chấp ngã cả ba đời, gọi là “trưởng” (cao), theo chiều ngang chấp ngã khắp ngũ ấm, gọi là “đại” (lớn). Chấp ngã tự tại, không tu thiện pháp, tức không biết tàm quý cho nên nói “loã hình”. Dùng pháp ác để trang nghiêm, cho nên nói “hắc” (đen), không nuôi dưỡng công đức, cho nên nói “sấu” (xấu xí). Người chấp ngã thì không ra khỏi ba cõi, cho nên nói “thường trụ ở trong đó”. Chấp ngã tại tâm, phát ra lời nói có ngã tướng, cho nên gọi là: “rền tiếng hung ác lớn”. Hy vọng do nói như thế mà đắc đạo quả, cho nên nói “kêu la tìm món ăn”.

4. Nửa hàng, từ “Lại có các giống quỉ” trở xuống, dụ cho Kiến thủ. Cổ rất nhỏ tưởng chừng nguy hiểm đến sinh mạng mà vẫn bảo đảm thọ mạng, phi tưởng vô thường mà chấp Niết-bàn, cho nên nói “cổ nó nhỏ bằng kim”.

5. Hai hàng tiếp, từ “Lại có các giống quỷ, Đầu nó như đầu trâu” trở xuống, dụ cho Biên kiến, suy tìm ngã đoạn thường. Nhị biên đoạn thường như đầu trâu có hai sừng, vì thân là Ngã, hay Ngã là thân, dựa vào Ngã kiến khởi biên kiến, ví như đầu có hai sừng. Lỗi chấp đoạn thường, năng đoạn thiện xuất thế, ví như “ăn thịt người”; hay đoạn thiện căn thế gian, cho nên nói “hoặc lại ăn thịt chó”. Hoặc có khi chấp thường, hoặc lại chấp đoạn, trước sau xoay chuyển, ví như “đầu tóc rối tung lên”. Chấp thường tức phá đoạn, chấp đoạn tức phá thường, ví như “Rất tàn ác hung hiểm”. Không có trí, định,ví như không có thức ăn thức uống để tự nuôi sống, nên nói “Bị đói khát bức ngặt”.

Một hàng rưỡi sau, từ “Dạ-xoa cùng quỷ đói” trở xuống, tổng kết tướng phiền não cõi Dục giới, cũng là tổng kết tướng lợi độn của chúng sinh. Đều là tâm hữu lậu, thường không có đạo vị, cho nên nói “Đói gấp rảo bốn bề”. “Rình xem nơi cửa sổ” là tà quán lý “Không”, ngưỡng mộ đạo vị tuy lại quán sát mà tâm đắm chìm, phần nhiều không hiểu lý chánh, như dòm cửa sổ thấy Không, không thể được vô ngại.

Từ “Nhà cũ mục trên đó, thuộc ở nơi một người” trở xuống, một hàng kê nêu nguyên do không bị cháy. Tam Giới là chỗ của Phật hóa ứng, phát tâm rồi lại thệ nguyện độ thoát, cho nên nói “thuộc ở nơi một người”. Trưởng giả ở nhà hay khiến cẩn thận lửa, do ông đi ra khỏi nhà rồi, về sau các con không biết cho nên khiến lửa bốc cháy. Bên trong hợp với nguyên do chính, là vào thời đức Phật Đại Thông Như Lai thường giáo hóa những người ấy, khiến cho hàng phục chúng sinh thời ngũ trược. Tuy cảm tận hết Như Lai dạy bảo, nhưng bỏ, nên những người này sau bèn khởi ngũ trược. Phật đến cõi khác hóa duyên, chẳng phải vĩnh viễn bỏ đi, cho nên nói “vừa mới ra”. Lại nói, từ khi đắc Vô sinh rồi thì không còn sinh trong tam giới, cho nên nói “ra”, không lâu lại đến cho nên nói “vừa mới”. Phẩm Thọ Lượng nói: “thường hiện Niết-bàn”, tức là ý nói “ra khỏi nhà”.

Từ “Rồi sau nhà cửa đó” trở xuống, hai hàng chính nêu rõ sức mạnh của lửa bốc cháy. “Bốn mặt”, tức là ở nơi “thân, thọ, tâm, pháp” đẳng khởi Tứ đảo ngũ trược bát khổ, cho nên nói “nhất thời”. Liên tục tăng dần, gọi là “hừng hực”. Mạng căn đoạn, gọi là “nổ”, gió như dao “chẻ tách thân thể ra”(liệt). Lại nói, tiếng kêu la rên rĩ thương xót gọi là “tiếng nổ”. Hơi thở đứt đoạn, gân cốt chia lìa, như “nát gãy rơi rớt xuống”, tứ đại rã tan như “tường vách đều sụp đổ”.

Từ “Các loại quỷ thần thảy” trở xuống, một hàng rưỡi, nêu tướng bị thiêu. Hoặc nói thân thuộc là “quỷ thần”, khóc lóc là “tiếng kêu to”, nay theo lệ như trên dùng “lợi sử” để dụ cho “quỷ thần”. Người lợi sử hoặc chấp đoạn hoặc chấp thường. Nếu chấp thường, thì cho rằng pháp nhất định không; đã có rồi lại không, thì không tức là thường. Người chấp đoạn thì cho rằng pháp nhất định đoạn, chỉ có một đời này chết rồi thì không còn tiếp nối. Cả hai đều xướng lên định thuyết, thì việc kia đã hiển bày, cho nên nói: “đồng cất tiếng kêu to”. Nếu là độn sử và các giới thủ, thì vốn không chấp đoạn, nay thấy vô thường chỉ sinh nghi sợ, không biết phương pháp xuất ly cho nên nói “Kinh sợ chạy sảng sốt, vẫn không tự ra đặng”.

Từ “Loài thú dữ độc trùng” trở xuống, ba hàng rưỡi, nêu việc trong hang, dụ cho cõi Sắc giới bốc lửa. Các bộ giải nghĩa sân chung cả ba cõi, tức văn này vậy. Văn chia làm bốn phần:

1. Một hàng đầu, nêu loại bị thiêu. Định tứ thiền dụ như “lỗ hang”, dù không sánh bằng ngoài cửa mở rộng nhưng cũng còn có thể thoát khỏi lửa dữ, vào trong thiền định này cũng có thể thoát khỏi thô ác của Dục giới. Chúng sinh lợi sử cũng đắc thiền định này, như “quỷ Tỳ-xáxà” cũng có ở trong đó.

2. “Vì phước đức kém vậy”, một câu, nêu nguyên do lửa bốc cháy, do phước ít nên gần ác gặp khổ.

3. “Bị lửa đến đốt bức”, môt câu, nêu thế mạnh của lửa cháy, trong lỗ hang tuy không có lửa dữ nhưng vẫn bị hơi nóng bức não, tứ thiền tuy không có ác Dục giới nhưng cũng có vị ái và khổ vi tế, cho nên nói “Bị lửa đến đốt bức”.

4. Từ “Cùng tàn hại lẫn nhau” trở xuống, hai hàng nêu tướng bị thiêu đốt, nêu lợi độn lấn đoạt lẫn nhau. Các sử chúng sinh đắc thiền thì đồng, nhưng sở chấp thì khác, khác cho nên xen lẫn phải trái, nên nói “tàn hại lẫn nhau”. Đã ở trong thiền khởi các kiến thì không thể phát sinh định tuệ vô lậu, chỉ chấp nơi sự im lặng, nên ví như “uống máu”, lại đắm năm chi, cho nên ví như “ăn thịt”. “Loài thú dã can” là tham ở Dục giới, định vị lai đã đoạn cho nên nói “đều đã chết trước”, cũng gọi là “ăn nuốt”. Tham thiền định như “đại ác thú” năng “nuốt” tham ở Dục giới. Tứ đảo, bát khổ ở Dục giới, ví như lửa dữ. Tứ đảo, các khổ ở Sắc giới, ví như “khói tanh”, cũng chung cả thân, thọ, tâm, pháp, tứ đại da thịt… cho nên nói “phủ bít khắp bốn bề”.

Từ “Loài ngô công, du diên” trở xuống, hai hàng rưỡi, nêu Sự trong Không, dụ cho cõi Vô sắc lửa bốc cháy, chia làm hai phần:

l. Một hàng, nêu rõ loại bị thiêu. 2. Một hàng rưỡi, nêu tướng bị thiêu.

Nhàm chán định cõi Sắc, vượt thoát hướng đến Vô sắc. Chán cảnh thô cõi Sắc, quán pháp Vô sắc, ví như loài rắn độc bị lửa cháy chạy ra khỏi hang. Như vậy, tức là sân chung cả ba cõi. Nếu đắc định Vô sắc, thì diệt các duyên thấp ở dưới, cho nên nói “liền bắt lấy mà ăn”. Nơi cõi trời Phi tưởng tối cao còn không thể tránh khỏi các khổ điên đảo, ví như “trên đầu lửa bốc cháy”. Cõi Phi tưởng cũng có lửa bát khổ, tâm sinh niệm sai khác, gọi là Sinh khổ, niệm niệm không dừng, gọi là Lão khổ; tâm hành nhiễu loạn làm ngăn ngại định, gọi là Bệnh khổ, thoái lui định, gọi là Tử khổ, cầu định không được, gọi là Cầu bất đắc khổ, cầu định không được ắt có chướng, tức Oán tắng hội khổ, tâm bốn ấm, tức ngũ ấm xí thạnh khổ. Không thể liền đoạn hạt giống cõi Hữu-đảnh, cho nên “trên đầu lửa bốc cháy”, không có vô lậu cho nên “đói khát rất nóng khổ”. Do luân hồi bao phủ sầu muộn, nên “sảng sốt chạy quàng lên”.

Từ “Nhà lửa đó như vậy” trở xuống, một hàng, tổng kết tam giới nhiều nạn chẳng phải một.

Tụng tổng thí dụ đã xong.

Từ “Lúc bấy giờ chủ nhà đứng ở nơi ngoài cửa” trở xuống, ba mươi hai hàng rưỡi kệ, tụng Biệt thí. Biệt thí có bốn, nay tụng chỉ có ba:

  1. Hai hàng rưỡi đầu, tụng trưởng giả thấy lửa.
  2. Mười ba hàng, tụng bỏ ghế dùng xe, dụ cho tạm thôi Đại thừa, thiết lập Tiểu thừa.
  3. Mười bảy hàng, tụng dụ ban cho xe lớn.

– Hai hàng rưỡi đầu, tụng thấy lửa, có ba:

  1. Năng kiến.
  2. Sở kiến.
  3. Khởi kinh sợ, trong đây tụng đầy đủ.

Ba câu đầu từ “Chủ nhà” trở xuống, tức là người năng kiến, bên trên nói “thấy”, đây nói “nghe”, dùng nghe thay vì thấy, nghe ắt từ người khác. “Đứng ngoài cửa”, chính là tụng ý bên trên: “Ta tuy có thể ở cửa nhà cháy mà ra ngoài được an ổn”. “Đứng” là tại pháp thân địa thường có tâm đại bi, vì muốn cứu độ chúng sinh nên không trú nơi tòa Đệ nhất nghĩa không. Xưa nói: Mười phương Phật bảo Phật Thích-ca rằng: “Các người con của ông có duyên ở trong tam giới”, tức là thiện căn sắp diệt. Lại, nói: “Chúng sinh có căn cơ cảm Phật, tức là vì người khác”. Nay nói: pháp là thầy của Phật, gọi là pháp Tam-muội. Pháp này làm thầy, tức là người khác. Nếu nhập Tam-muội, thì có thể thấy căn cơ. Vì Tam-muội khiến Phật thấy, cho nên nói “có người mách rằng”. Lại nói: Đại bi là người khác v.v…

Từ “Các người con của ông” trở xuống, một hàng một câu, tụng thấy lửa cháy.

Hỏi: “Con vốn chưa ra, tại sao nói “vì dạo chơi mà vào nhà này”?

Đáp: Hoặc từng phát tâm, gọi là ra khỏi Tam giới, vì còn thoái lui trở lại nên gọi là “vào”, như người cất chân muốn ra khỏi cửa nhưng đến gần bên cửa mà trở lại thì cũng gọi là “ra” cũng gọi là “vào”. Lại nữa lý tánh vốn tịnh, không phải pháp của Tam giới, do vô minh mà khởi hý luận liền có sinh tử, cho nên nói “trước đây vì dạo chơi mà đến vào nhà này”. Đại thiện chưa tích chứa, nên nói là “thơ bé”. Bị vô minh che lấp nên “không hiểu biết”.

“Trưởng giả vừa nghe xong, kinh sợ vào nhà lửa”. Hai câu này tụng “tức rất sợ hãi mà khởi tâm đại bi” bên trên.

Từ “Tìm phương nghi cứu tế” trở xuống mười ba hàng, tụng thí dụ bỏ ghế dùng xe, chia làm hai: Năm hàng rưỡi đầu, tụng thí dụ “cứu con không được”bên trên. Trong phần Khai thí bên trên có hai nghĩa khuyên và răn, trong phần hợp bên trên chỉ hợp khuyên, nay chỉ tụng răn. Văn răn có ba, nay tụng cũng có ba:

  1. Bốn hàng rưỡi, tụng phần “ta sẽ nói sự sợ hãi nghĩ nghi” bên trên.
  2. Từ “Các con nhỏ không hiểu” trở xuống, ba câu, tụng các con không nhận lời răn.
  3. Một câu: “Vui chơi mãi không thôi”,chính tụng dứt hóa. “Phương nghi”: là dự định dùng Đại thừa để giáo hóa. “Dù có nghe cha dạy” tức là nghĩa bên trên nói về các hoạn nạn, nghĩa là răn dạy. Chỉ một câu “Vui chơi mãi không thôi” là tụng trên nói “Cứ đông tây chạy giỡn nhìn cha mà thôi”, nghĩa là bỏ mặc cha khổ nhọc khuyên răn.

Từ “Khi ấy Trưởng giả kia liền nghĩ như thế này” trở xuống bảy hàng rưỡi, tụng thí dụ “dùng xe” bên trên. Trên có bốn:

  1. Dự định thích hợp ba xe.
  2. Biết tâm lúc trước của con.
  3. Tán thán ba xe hiếm có.
  4. Thích hợp sở nguyện của con.

Nay trong tụng chỉ có ba nghĩa, lược bớt nghĩa: “biết tâm lúc trước của con”. Ba hàng tụng đầu là dự định thích nghi. Từ “Bảo với các con rằng” trở xuống, ba hàng, là khen ngợi ba xe hiếm có. Bên trên có ba nghĩa: khuyên, chỉ bảo, chứng minh. Nay tụng cũng ba nghĩa đó và thêm nghĩa thứ tư là khuyên thành: Một hàng đầu tụng ý khuyên nhủ. Ba câu kế từ câu “Nào xe dê, xe hươu” tụng ý chỉ bảo. Một câu tiếp “Các con mau ra đây” tụng ý khuyên. Một hàng tiếp từ “Cha chính vì các con” trở xuống, là chứng minh. Từ “Các con nghe cha nói” trở xuống, một hàng rưỡi, tụng hợp sở nguyện của con. Sáu câu này tụng tổng bên trên. “Rảo chạy” tức Kiến đế bên trên. “Đất trống” là địa vị Vô học bên trên.

Từ “Trưởng giả thấy các con được ra khỏi nhà lửa” trở xuống, mười bảy hàng kệ, tụng thí dụ đồng ban xe lớn bên trên. Văn trên có bốn:

  1. Khỏi nạn.
  2. Đòi xe.
  3. Đồng ban xe lớn.
  4. Được xe hoan hỷ.

– Nay tụng cũng có bốn:

  1. Năm hàng tụng khỏi nạn hoan hỷ.
  2. Ba hàng tụng đòi xe.
  3. Bảy hàng rưỡi, tụng đồng ban xe lớn.
  4. Một hàng rưỡi, tụng được xe hoan hỷ.

– Năm hàng tụng các con khỏi nạn lại có hai:

  1. Một hàng, tụng khỏi nạn.
  2. Từ “Ông bèn tự mừng rằng” trở xuống, bốn hàng tụng hoan hỷ.

– “Ngồi tòa sư tử” có hai ý giải thích: l. Các con ngồi tòa được ra khỏi tam Giới cho nên không còn sợ. 2. Trưởng giả ngồi tòa, thấy con được thoát nạn thì không còn sợ. Ban đầu ở ngoài cửa còn lo lắng cho nên nói là đứng, nay được ra khỏi cửa mới ngồi không sợ hãi. Cho nên, phẩm Phương Tiện nói: “nay ta vui vô úy”. Văn khỏi nạn đã xong “Ông bèn tự mừng rằng” bốn hàng, tụng trưởng giả hoan hỷ, như văn.

Từ “Khi ấy các người con, biết cha đã ngồi yên” trở xuống, ba hàng, tụng đòi xe, như văn.

Từ “Trưởng giả giàu có lớn” trở xuống bảy hàng rưỡi, tụng là thí dụ Đồng ban cho xe lớn bên trên. Văn trên có hai phần nêu chương, hai phần nói rộng, hai phần giải thích, hợp lại là sáu. Nay chi tụng bốn, không tụng phần nói rộng và phần giải thích tâm bình đẳng. Một hàng đầu siêu tụng thứ tư giải thích xe lớn. Nhà đầy đủ gọi là “khố” (kho), đất ruộng nhiều gọi là “tàng”. Hành đủ tất cả pháp, gọi là “tàng”, nhãn nhĩ lục căn đầy đủ tất cả pháp, gọi là “khố”. Từ “Dùng các thứ vật báu” trở xuống sáu hàng, tụng nói rộng xe lớn. Tiếp hai câu tụng hai chương môn. “Đem xe đẹp như thế”, một câu, tụng chương môn xe lớn phần thứ hai bên trên. “Đồng ban cho các con”, một câu tụng chương môn tâm bình đẳng phần đầu bên trên.

Từ “Các con lúc bấy giờ, rất vui mừng hớn hở” trở xuống, một hàng rưỡi, tụng các con được xe vui mừng. “Dạo đi khắp bốn phương” tức vận chuyển tuệ Trung đạo, theo chiều ngang dạo chơi khắp tứ chủng, Tứ môn, tứ chủng Tứ đế, theo chiều dọc dạo khắp bốn mươi mốt vị, rốt ráo bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh cho nên nói “vui chơi tự tại”.

Từ “Bảo Xá-lợi-phất này, Đức Phật cũng như vậy” trở xuống, ba mươi bốn hàng rưỡi, tức tụng Hợp thí.

Bốn hàng đầu tụng hợp Tổng thí, chỉ làm bốn ý mà bao gồm được sáu thí dụ. “Đức Phật cũng như vậy”, một hàng tụng hợp trưởng giả, nửa hàng trên tụng hợp vị hiệu, nửa hàng dưới tụng hợp danh hạnh, kiêm nghĩa tán đức. “Tôn cả trong hàng Thánh” bảy thứ phương tiện, “Cha lành của (chín loài) thế gian, tất cả chúng sinh đều là con của ta”, một bài kệ tụng hợp năm đường, nghĩa bao gồm ba mươi người con. Ba mươi người con là con duyên nhân, tất cả chúng sinh là con chánh nhân. “Ba cõi hiểm không an”, nửa hàng tụng hợp nghĩa nhà ở kiêm nghĩa được một cửa, “Các nạn khổ đầy dẫy” một hàng rưỡi, tụng hợp thí lửa khởi. Hợp tổng thí xong.

Từ “Đức Như Lai đã lìa nhà lửa ba cõi đó” trở xuống, ba mươi

hàng rưỡi, tụng hợp Biệt thí, trên tụng Khai không hư dối, nay tụng Hợp thì có. Ba hàng kệ đầu tụng thấy các chúng sinh bị sinh già v.v… là hợp thí dụ thấy lửa. Bên trên tụng dụ thấy lửa, văn có ba nay hợp cũng có ba:

1. Một hàng tụng Như Lai năng kiến bên trên, chính do nhàn cư lặng lẽ vô tư lự, năng thấy các con đắm ngũ trược, tức hợp với “Nghe có người mách rằng”.

2. Từ “Hiện nay ba cõi này” trở xuống, một hàng rưỡi, tụng trên thấy các chúng sinh bị sinh lão bịnh tử thiêu cháy, hợp thí dụ trên thấy cảnh lửa cháy.

3. Từ “Chỉ riêng một mình ta” trở xuống, nửa hàng tụng “Phật thấy việc này rồi suy nghĩ rằng” bên trên, hợp với “kinh hãi vào nhà lửa”.

Từ “Dù lại đã dạy bảo” trở xuống, bốn hàng, tụng thí dụ Bỏ ghế dùng xe, có hai phần: Một hàng, tụng bỏ ghế… Phần Khai thí có ba: Nghĩ nghi, Không có cơ duyên và Thôi giáo hóa. Nay một hàng kệ này cũng có ba ý: “Dù là đã dạy bảo”, một câu tụng Nghĩ nghi “Mà vẫn không tin nhận” tụng không có duyên, hai câu dưới tụng Thôi giáo hóa. Hoặc có thể hai câu dưới tụng ý không có duyên. “Rất sinh lòng tham mê” tụng “chưa thoát khỏi sinh lão bệnh tử ưu bi khổ não” bên trên.

Từ “Bởi thế nên phương tiện” trở xuống, ba hàng tụng hợp thí “dùng xe cứu được con”, văn trên có bốn, nay chỉ tụng ba, hợp cũng có ba, lược bớt không hợp, “biết tâm trước của con”.

1.  “Bởi thế nên phương tiện” một câu tụng trên “chỉ dùng trí tuệ phương tiện dự định muốn thích nghi”.

2. Từ “Vì chúng nói tam thừa” trở xuống, một hàng và một câu tụng hợp với ý thứ ba bên trên khen ngợi ba xe hiếm có.

3. Từ “Các người con đó thảy” trở xuống một hàng rưỡi, tụng hợp ý thứ tư trên “thích ứng sở nguyện”. Trên hợp tam thừa đều có bốn câu, nay thì tổng tụng. “Nếu nơi tâm quyết định”, là từ Khổ pháp nhẫn trở lên là chân quyết định, một câu này tổng tụng vị tam thừa rảo chạy. Từ “Đầy đủ cả tam minh” trở xuống, một hàng, đều tụng địa vị tam thừa tranh ra.

Từ “Xá-lợi-phất phải biết, ta vì các chúng sinh” trở xuống tám hàng, tụng hợp với thí dụ thứ ba trên “đồng ban cho xe lớn”. Văn trường hàng không hợp đòi xe và cùng hoan hỷ, tụng khai thì tụng đủ, nay hợp với ý đồng ban xe hoan hỷ, không hợp ý thoát nạn đòi xe. Bỏ trước lấy cuối cùng thành có hai văn, lại chia làm hai:

  1. Năm hàng, tụng hợp “đồng ban xe”.
  2. Ba hàng, tụng sau là hoan hỷ…

Trên hợp “đồng ban xe” có bốn, không tụng hai thứ kia, nay hợp lại lược bớt, chỉ hợp hai chương môn và phần thứ ba nói rộng “xe lớn”; lại tụng giải thích nguyên do có xe. Đầu tiên từ “Xá-lợi-phất phải biết” trở xuống một hàng, tụng chương môn về xe lớn. Văn trên nói “chư Phật thiền định”…Từ “Các ông nếu có thể” trở xuống, một hàng tụng hợp chương môn “tâm bình đẳng”, trên nói “các chúng sinh này được thoát khỏi ba cõi”. Từ “Phật thừa đây vi diệu” trở xuống hai hàng, tụng hợp chánh phần nói rộng về xe lớn, trên nói” đều nhất tướng nhất chủng v.v…”. Từ “Đủ vô lượng ngàn ức các trí lực giải thoát” trở xuống một hàng, tụng “nguyên do có xe” bên trên.

Từ “Chứng đắc thừa như thế” trở xuống ba hàng, tụng được xe hoan hỷ. Đây lại chia làm hai: 1. Hai hàng nêu đều được xe lớn. 2. Từ “Vì bởi nhân duyên đó” trở xuống,một hàng, kết khuyên tin. Nay hai hàng kệ đầu: “Ngày đêm”: ban đầu đắc tri kiến Phật, Trung đạo trí sáng như phần ngày, vô minh như ban đêm. Tự đắc Trung đạo trí, ví như ban ngày. Từ bi nhập dòng sinh tử, ví như ban đêm. Thường hành hai pháp nên nói “vui chơi”. Hàng tam thừa đồng nhập Phật trí, cho nên nói: “Cùng các hàng Bồ-tát cùng với chúng Thanh-văn”. Lại đây nêu rõ tự hành hóa tha, tự thâu hoạch thừa này cho nên nói “ngày đêm dạo chơi”. Lấy đây hóa tha, cho nên nói “Cùng các hàng Bồ-tát cùng với chúng Thanh văn”, năng hóa tam thừa cùng cưỡi xe báu này. Tiếp đến một hàng nói nhân duyên Phật nói nhất thừa không nói ba thừa, ở trong mười phương cõi xét thật mà cầu “chỉ có một không hai, trừ Phật phương tiện thuyết” tức là không cốt ở nói năng. Người khác nói: Bồ-tát nếu không đòi xe, thì do đâu mà cưỡi xe hoan hỷ?

Từ “Bảo với Xá-lợi-phất, bọn ông các người thảy” trở xuống, mười lăm hàng rưỡi; tụng ý thứ tư bên trên hợp với dụ “không hư dối”. Hợp bên trên có hai: trước nêu hai thí dụ, sau hợp không hư dối. Nay chỉ tụng hợp “không hư dối”.

– Văn chia làm hai:

1. Ba hàng rưỡi đầu, chính tụng hợp với chương môn không dối gạt.

2. Từ “Nếu có Bồ-tát nào” trở xuống mười hai hàng, tụng hợp giải thích không dối gạt. Thân-tử nêu thí dụ “xứng với bản tâm không dối gạt”. Cha muốn cho các con được thoát nạn, cho nên bày đặt ba xe, các con đã được thoát nạn, thậm chí không cho xe nhỏ cũng không trái với tâm trước kia, cho nên nói “không dối gạt” nêu rõ bản ý của Phật, tức chỉ muốn thuyết nhất nhưng vì chúng sinh ngũ trược không chịu tự nhận, cho nên thuyết tam; trược chướng đã trừ, nên lại thuyết Nhất đại, tức xứng bản tâm.

Nay chương môn không dối gạt chia làm ba:

1. Một hàng trước định cha con, nêu rõ bản ý muốn cho Đại thừa cho nên văn nói “đều là con của ta”, theo lý nên bình đẳng cho xe lớn.

2. Từ “Các ông trải nhiều kiếp ” trở xuống một hàng nêu liền thuyết tam thừa, ý vì trừ chướng cho nên nói “các ông trải nhiều kiếp bị các sự khổ đốt”.

3. Từ “Ta dù ngày trước nói” trở xuống một hàng rưỡi, nói chướng đã trư, trở về bản tâm tham dự pháp Đại thừa, cho nên nói: “Nay việc phải nên làm, chỉ có trí tuệ Phật”.

– Từ “Nếu có Bồ-tát nào” trở xuống mười hai hàng tụng hợp thích, lại giải thích ba ý trước:

  1. Hai hàng giải thích đều đồng là con, lý nên bình đẳng.
  2. Từ “Nếu có người trí nhỏ” trở xuống bảy hàng, giải thích: không thể thọ nhận, cho nên mới thuyết tam thừa.
  3. Từ “Kỳ thiệt chưa phải được” trở xuống, ba hàng, giải thích sau nếu có khả năng thọ nhận thì có thể trở lại cho pháp Đại thừa.

Nay hai hàng đầu, nói “Nếu có Bồ-tát nào”, là chúng sinh được Phật dung Tam thừa làm phương tiện để hóa độ, đều là Phật tử kết duyên ngày xưa, cũng đều đồng có chân như Phật tánh, cho nên nói “đều là Bồ-tát cả”. Từ “Nếu có người trí nhỏ” trở xuống bảy hàng, nêu hạng trí nhỏ chướng nặng không thể tin thọ, vì vậy nên dùng phương tiện khai Tam tiếp dẫn. Vì hàng trí nhỏ này mà thuyết Khổ đế, hàng Thanh văn ở trong tam thừa rất nhỏ, lại dùng Khổ đế làm sơ môn. “Chúng sinh nghe lòng mừng”, là xứng với nguồn gốc tu tập thì vui, vốn nhàm chán sinh tử tự cầu Niết-bàn, nay nghe xuất ly hiểu xưa có tu tập cho nên vui mừng. Trong đây chính nêu Hữu tác tứ đế. “Chỉ xa rời hư vọng”, vì vô minh đã là không thực, “Thông hoặc” phụ giúp vô minh khởi lên, cho nên gọi đó là “hư vọng”. Hữu tác tứ đế chỉ trừ “Thông hoặc” này, gọi là giải thoát, mới thoát Phần đoạn, mà chưa thoát Biến dịch cho nên chẳng được tự tại.

Từ “Kỳ thật chưa phải được” trở xuống ba hàng, giải thích: chướng đã trừ, tình căn lại lợi, trở về bản tâm ban cho pháp Đại thừa. Đức Phật vốn muốn “giải thoát hẳn tất cả”, nay ông mới chỉ đoạn trừ Phần đoạn sinh tử, chẳng phải Đại Niết-bàn. Bởi vì chưa được giải thoát tất cả, trọn chưa xứng với bản tâm, cho nên nói “Ý của ta không muốn cho đó đến diệt độ”. Nay thì lại khiến đắc vô thượng đạo, nhập Đại Niết-bàn, mới là cứu cánh xứng bản tâm Phật. “Giải thoát hẳn tất cả” tức là Vô tác Diệt đế. “Vô thượng đạo” tức là Vô tác Đạo đế. Dùng nhị đế phá Vô tác Khổ Tập. Xưa muốn thuyết điều này nhưng vì chúng sinh không kham nổi, nay chướng đã trừ nên mới thuyết điều này. Phật là đấng pháp vương, đối với pháp quyền thật đã được tự tại, khai tam hiển nhất thật, đâu có hư dối.

II. Từ “Xá-lợi-phất phải biết, pháp ấn của ta đây” trở xuống sáu mươi lăm hàng kệ, khuyên tín lưu thông Tín, là tin Phật thuyết hay không thuyết. Khuyến, khuyến có thể thông suốt và không thể thông suốt. Đây có hai nghĩa này,cho nên nói “khuyến tín”. Văn chia làm hai.

  1. Nêu hai chương.
  2. Giải thích.

Một hàng đầu, nêu pháp Phật nói và không nói. Đức Như Lai nói pháp ấn này, vì lợi ích thế gian cho nên “nói”. “Không nói” là hơn bốn mươi năm chưa đúng thời nói, năm ngàn người chưa rời khỏi pháp hội, cho nên không nói.

“Tại chỗ ông đi qua” trở xuống, nửa hàng, nêu chương có thể thông và không thể thông, là “Chớ có vọng tuyên truyền”. Đối kẻ ác mà gượng thuyết thì khiến họ rơi vào đường khổ. Đối người thiện mà không thuyết thì bỏ lỡ cơ hội, khiến họ mất lợi lạc. Nếu vì đại bi thương kẻ ác mà nói pháp, thì họ không thể lưu thông kinh. Nếu đại từ nghĩ đến người thiện thì họ cảm ứng có thể lưu thông, đó gọi là chương nêu có thể thông, không thể thông.

Từ “Nếu có người nghe đến” trở xuống, là phần giải thích, lại chia làm hai:

  1. Tám hàng, giải thích có thể thuyết, không thể thuyết.
  2. Năm mươi hàng rưỡi, giải thích có thể thông, không thể thông.

Tám hàng đầu, nêu tướng Như Lai làm lợi ích thế gian. Thông luận lợi ích ba đời, biệt luận khiến hàng nhị thừa nhập tín. “A-bệ-bạttrí” là quán lợi ích hiện tại. “Đã từng thấy” là quán thiện quá khứ vì thuyết. “Tin chịu lời ông nói, thời chính la thấy ta” là quán thiện vị lai vì thuyết. Văn dưới nói: “Nếu tin hiểu sâu xa là thấy Phật thường ở núi Linh Thứu”, tức nghĩa ấy vậy.

Từ “Phật vì người trí sâu, thuyết Kinh Pháp Hoa này” trở xuống một hàng kết trên khai dưới, đức Như Lai quán sát biết lợi ích ba đời, thế nên vì họ mà thuyết. Người trí cạn không hiểu, thì không thuyết cho họ, đây là giải thích chương Như Lai nói và không nói.

Từ “Kẻ kiêu mạn biếng lười” trở xuống, giải thích chương nói hành nhân thông và không thông. Văn có hai:

1. Ba mươi sáu hàng rưỡi đầu, nêu nếu dùng Đại bi môn thì đừng vì kẻ ác mà thuyết, trước dẫn tâm số ác ắt khởi ác phi báng, thâu hoạch quả báo ác, cho nên vì đại bi không thể thuyết cho họ. “Đoạn mất hạt giống Phật ở thế gian”, theo kinh Tịnh Danh thì coi phiền não là hạt giống Như Lai, đây là chấp tánh cảnh giới. Kinh Đại Phẩm thì dùng Nhất thiết chủng trí học Bát-nhã, đây là lấy liễu nhân Phật tánh làm Phật chủng. Kinh Niết-bàn thì dùng lý tâm tánh chẳng đoạn, đây là lấy chánh nhân Phật tánh làm Phật chủng. Nay kinh nêu “tiểu thiện thành Phật”, đây là lấy duyên nhân làm Phật chủng. Nếu không tin “tiểu thiện thành Phật” thì đoạn Phật chủng thế gian.

Từ “Nếu có người lợi căn” trở xuống, mười chín hàng, giải thích khi hoằng kinh dùng tâm Đại từ vì người thiện mà tuyên thuyết, khiến họ không mất lợi lạc. Xét rằng hoằng thông kinh thì cốt yếu hài hòa hai môn khiến kia hiểu được, tức khéo lưu truyền, nếu không được thì là vọng tuyên truyền. Văn có hai: l. Mười bảy hàng, có năm cặp, mười tướng người thiện riêng có thể vì họ tuyên thuyết.

2. Hai hàng tổng kết nên thuyết. Năm cặp: “Quá khứ- hiện tại” là một cặp, “lợi căn” là hiện tại, “Trồng các cội đức lành” là quá khứ. “Học rộng và nhớ dai” là hiện tại. “Thấy trăm ngàn ức Phật” là quá khứ. “Thượng hạ” là một cặp thứ hai, tu từ là thương xót người dưới, cung kính là tôn trọng người trên. “Nội ngoại” là một cặp thứ ba, xả ác gần gũi thiện là cầu bên ngoài, giữ giới như giữ hạt châu là gìn giữ bên trong. “Tự hành, hóa tha” là một cặp thứ tư, chất trực kính Phật là tự hành, thí dụ thuyết pháp là hóa tha. “Thủy chung” là một cặp thứ năm, cầu pháp khắp bốn phương thỉnh ích, là “thủy”, cúi đầu lãnh thọ chuyên tu, là quay về nương tựa, gọi là “chung”…

Từ “Bảo cùng Xá-lợi-phất” trở xuống hai hàng, tổng kết: thiện tín rất nhiều, lược nêu mười tướng trạng, chỉ bày phương pháp lưu thông. Hiển bày hai môn Từ Bi, có thể thông và không thể thông, là chủ yếu.

Phẩm Thứ 4: TÍN GIẢI

Có người nói: Tín giải ba pháp: Nghĩa là: Nhất vãng hóa (một lần đã hóa độ), Tùy trục hóa (theo đuổi hóa độ), Tất cánh hóa (cuối cùng hóa độ). Xưa thuyết Đại là Nhất vãng, trái với đại sau là Tùy trục, cha con gặp nhau là Tất cánh. Lại, nói Nhân thiên thiện là Nhất vãng, thuyết Tiểu thừa cùng Pháp Hoa là Tùy trục, thuyết Pháp Hoa đắc thọ ký là Tất cánh. Lại, sơ thuyết Nhị thừa là Nhất vãng, chuyển giáo là Tùy trục, Pháp Hoa là Tất cánh. Lại, chuyển giáo là Nhất vãng, trải qua Phương đẳng là Tùy trục, ngộ Nhất thừa là Tất cánh. Lại, thuyết Pháp Hoa là Nhất vãng, Thập địa thường giáo hóa là Tùy trục, đến Kim cang tâm là Tất cánh. Lại, kết liền vơí Tứ hoằng thệ nguyện (kết Tăng-na) là Nhất vãng, trung gian là Tùy trục, đắc Phật là Tất cánh. Riêng cho rằng: các sự hiểu biết lớp lớp như trên, chồng chất như ngọc vụn, chẳng phải bảo vật. Nhất vãng thì chẳng phải bản hoài, Tất cánh là tông cùng cực. Thuyết Nhân thiên Nhị thừa là Nhất vãng, có thể chẳng phải bản hoài. Xưa vì thuyết Đại nay thuyết Pháp Hoa, ấy là Tất cánh, đâu được gọi Nhất vãng? Nếu Pháp Hoa Tất cánh mà lại thành Nhất vãng, nhân thiên Nhất vãng lại thành Tất cánh thì đại điên đảo. Lại, hàng Nhị thừa là Nhất vãng, thảo am nên phá, xưa Đại là Nhất vãng, buộc hạt châu cũng nên phá. Hoặc là một phá một không phá, một là Nhất vãng một chẳng phải Nhất vãng. Lại, nếu cha con tương kiến là Tất cánh, thì trước Tất cánh phải ngộ Nhất, tức là về sau Tất cánh không còn dùng. Nếu sau Tất cánh mới ngộ Nhất, thì cái Tất cánh trước như thế không phải là Tất cánh. Liên tiếp có ngăn ngại, cho nên nay đều không dùng.

Có người nói: Phẩm này là Tích. Vì sao? Vì Như Lai thành đạo đã lâu, cho đến trong thời gian giữa, dừng lại cũng là Tích. Riêng cho rằng: nghĩa lý đúng như thế, nhưng ở văn không thuận tiện. Vì sao? Phật chưa thuyết bản tích, thì sao bổng vui mừng nhận lãnh? như chưa hội Tam đã phải ngộ Nhất v.v…

Nay giải thích phẩm: xét rằng căn cơ thì có lợi độn, hoặc có dày mỏng. Thuyết thì có Pháp thuyết, Thí thuyết. Ngộ thì có trước sau. Trước tòa Pháp Hoa thì cũng như oản đậu. Văn nói “Như Lai thuyết pháp đã lâu, lúc đó chúng con ngồi nơi tòa thân thể mỏi mệt, chỉ nhớ ba pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, đối với các pháp của Bồ-tát thì không một niệm ưa thích”. Ban đầu nghe lược thuyết thì động chấp sinh nghi, rộng nghe năm đức Phật thì mông lung chưa hiểu. Nay nghe thí dụ thì vui mừng hơn hở, “Tín” phát “Giải” sinh, nghi trừ, lý sáng. Vui mừng là

Thế giới Tất-đàn, Tín phát là Vị nhân, nghi trừ là Đối trị, lý sáng là Đệ nhất nghĩa. Do nhân duyên đó, cho nên đặt tên phẩm này là Tín Giải. Lãnh thọ giáo từ Tiểu đến Đại, ban đầu đổi phàm thành Thánh, đều có thứ bậc. Nhưng Tiểu thừa Tín hành thì từ nghe mà sinh Giải. Khổ nhẫn phát sinh tín, thì gọi là hành. Pháp hành trải qua pháp quán sát. Khổ nhẫn phát sinh pháp, thì gọi là hành. Nếu người Tín hành chuyển nhập tu đạo, thì chuyển gọi là Tín giải. Người Pháp hành nhập tu đạo, thì chuyển gọi là Kiến đắc. Chuẩn Tiểu thừa hướng về Đại cũng như đây. Hạng người trung căn nghe thuyết Thí dụ, ban đầu phá nghi- hoặc nhập Đại thừa Kiến đạo cho nên gọi là “Tín”, tiến tới nhập Đại thừa Tu đạo cho nên gọi là “Giải”. Văn nói: “Vô lượng trân báu không tìm cầu mà tự được”, “Chúng con ngày hôm nay, Mới thật là Thanh văn, Dùng âm thanh Phật đạo, Khiến tất cả đều nghe”. Nghe Viên giáo, nhập Viên vị, cho nên gọi là phẩm Tín Giải.

Bản Tích: Bốn đại đệ tử từ lâu nhập Đại thừa thành tựu Phật pháp, Tích môn dẫn trung căn chỉ bày ban đầu tín giải cho nên gọi “phẩm Tín Giải”.

Đây là đoạn lãnh giải, gần lãnh Nhà lửa, xa lãnh Phương tiện. Văn chia làm hai: l. Kinh gia trình bày sự hoan hỷ. 2. Bạch Phật tự trình bày. Trước trình bày nội tâm, tiếp nêu sự cung kính bên ngoài.

Thiện Cát riêng xưng là Tuệ mạng. Ba người kia đều là “Maha”, là Đại, là Tuệ. Riêng luận về Thiện Cát giải Không, Không Tuệ là Mạng, đây là căn cứ hành. Trong các trí tuệ của loài người thì trí tuệ Phật là bậc nhất. Phật lấy trí tuệ làm thọ mạng để chuyển giáo, là mạng của người trí tuệ cho nên gọi là Tuệ mạng. Ba đệ tử bị Tuệ mạng ít, chẳng dùng Không làm Tông yếu để tu hành. Đây là căn cứ vào giáo. Giải thích chữ “Ma-ha” thì như trước đã nói…

Nguyên do “hoan hỷ”, là xa nghe phương tiện, năm đoạn pháp thuyết. Kinh gia chỉ trình bày hai loại: nghe pháp hiếm có và nghe thọ ký. Hoặc có thể nghe pháp hy hữu trình bày bốn đoạn, thấy thọ ký là đoạn thứ năm. Nghe thấy như đây xưa nay chưa từng có, đó là nguyên do hoan hỷ. “Phát tâm hy hữu”, là trình bày gần nghe thuyết bốn phen thí dụ, thì tâm hy hữu phát. Tâm phát cho nên gọi là tín, do tín cho nên nhập, nhập vị Hoan hỷ, tức là ý của phẩm Tín Giải. “Từ chỗ ngồi đứng dậy” là trình bày ngoại kính, như văn. Theo lệ Thân-tử cũng nên ba nghiệp lãnh giải. Căn cứ phần trước thì có thể hiểu.

Từ “Bạch Phật” trở xuống, là miệng tự trình bày. Văn chia làm hai phần:

  1. Trường hàng và bảy mươi ba hàng rưỡi, chính trình bày được hiểu.
  2. Mười ba hàng tán thán ân sâu của Phật. Sự hiểu biết đây do đức Phật, cho nên trước trình bày sau tán thán.

Trường hàng lại có hai: Lược Pháp thuyết và Rộng Thí thuyết.

-Lược lại có hai: 1. Pháp thuyết; 2. Lược nêu thí dụ.

-Pháp thuyết lại có hai:

  1. Xưa theo Tam cho nên không cầu.
  2. Nay hiểu Nhất cho nên tự được.

Trong không cầu có hai: Nêu và giải thích.

– Nêu có ba:

  1. Đứng đầu chúng Tăng.
  2. Tuổi đời già nua.
  3. Chứng đắc.

“Đứng đầu chúng Tăng” là trong Phật pháp thì hạ lạp cao, học theo pháp của Phật làm mô phạm bỗng thay đổi đường hướng bỏ Tiểu cầu Đại, bị hậu học chê gièm, tự cố gắng giữ gìn do đó không cầu tìm. Tuổi đời già nua, nếu làm Bồ-tát phải chuyên gánh vác Đại đạo, rộng độ chúng sinh, thì già yếu không thể gánh vác nổi, cho nên không tìm cầu. “Đã đắc Niết-bàn”, chánh vị vô vi không thể phát tâm Đại thừa, như cao nguyên đất liền thì không thể sinh hoa sen. Tận trí và Vô sinh trí đã lập, không còn chỗ nương cầu.

Từ “Vì sao vậy?” trở xuống, là giải thích ba thứ không cầu trên, văn không có thứ tự này. Trước giải thích ý đắc Niết-bàn nên không cầu. Tiếp đến, giải thích tuổi già, tức bao gồm đứng đầu trong Tăng, hoặc chỉ xưa nói pháp đã lâu mà không sinh tâm ưa thích. Giải thích đứng đầu Tăng chúng, không cầu: Đã nói “ngồi nơi tòa, lại tuổi già yếu” là biết giải thích đứng đầu Tăng chúng, giải thích không cầu thì như văn.

Từ “Chúng con hôm nay ở trước Phật” trở xuống, là trình bày nguyên do được hiểu: Do xa nghe năm chương, lược, rộng, khai tam hiển thật, cho nên “vui mừng vì may mắn”. “Được thiện lợi lớn” là chánh nêu được hiểu; gần nghe bốn phen pháp thí dụ hy hữu mà được khai ngộ, khai ngộ thiện lợi.

Từ “Vô lượng trân bảo” trở xuống, là lược nêu thí dụ. Dụ cho xưa không cầu mà nay tự được pháp bảo hy hữu. Từ “Thế tôn! Chúng con hôm nay muốn nói thí dụ để chỉ rõ nghĩa đó” trở xuống, là rộng lãnh giải; có khai thí và hợp thí, muốn khai trước hết hỏi han triễn khai.

Thí dụ chia làm năm phần:

1. “Bỏ cha trốn đi” trở xuống, gọi là dụ “Cha con thất lạc nhau”, nghĩa gần là lãnh hội Tổng thí Nhà lửa, nghĩa xa là lãnh hội lược tụng của phẩm Phương Tiện.

2. Từ “Cùng tử làm thuê làm mướn” trở xuống, gọi là dụ “Cha con gặp nhau”, gần lãnh hội thấy lửa trong dụ Nhà lửa, xa lãnh hội “Ta dùng Phật nhãn xem thấy” trong phẩm Phương Tiện.

3. Từ “Liền sai người hầu đuổi theo gấp bắt lại” trở xuống, là dụ “Đuổi theo khuyên về”, gần lãnh hội bỏ ghế dùng xe trong dụ Nhà lửa, xa lãnh thôi Đại dạy Tiểu trong phẩm Phương Tiện.

4. Từ “Qua đó về sau tâm tướng thể tín” trở xuống, là dụ “Cho con biết gia nghiệp”, đây chẳng phải lãnh gần xa như trên, chính là lãnh ý “nhớ lại dùng giáo Phương đẳng quở trách Tiểu thừa và Bát-nhã chuyển giáo”.

5. “Lại trải qua ít lâu sau, cha biết ý chí con” trở xuống gọi là dụ “Giao phó gia nghiệp”, gần thì lãnh ý ban cho một thứ xe lớn trong dụ Nhà lửa, xa thì lãnh ý ngay thẳng bỏ phương tiện trong phần Pháp thuyết. Lại, hợp phần thứ tư thứ năm lại làm một dụ “giao phó”, ở dưới lại nêu rõ ý kia.

Xưa cho rằng: Phật Vô Lượng Thọ ở Tây phương ví như Trưởng giả. Nay không quan niệm như thế, vì ở Tây phương Phật biệt duyên khác. Phật biệt, cho nên nghĩa ẩn hiển không thành; duyên khác cho nên nghĩa cha con không thành. Lại, kinh này từ đầu đến cuối hoàn toàn không có ý chỉ này như nhắm mắt xuyên tạc. Nay dựa theo văn phụ thêm nghĩa.

Nếu giải thích “cùng tử”, thì lấy nghĩa “người Nhị thừa” trong pháp môn Tiểu thừa để tiêu hóa kinh văn. Nếu giải thích “Trưởng giả”, thì chọn nghĩa Phật Lô Xá Na trong pháp môn Đại thừa để tiêu hóa kinh văn. Vì sao? Vì Trưởng giả ở trong nhà, cởi hết châu ngọc áo tốt, mặc áo thô xấu. Áo anh lạc có khác, còn người chỉ một. Dụ đức Phật Lô Xá Na ẩn vô lượng thần đức, hiện tướng một trượng sáu vàng sáng chói, tay cầm đồ hốt phân, thiết lập Tam thừa giáo. Ẩn hiển có khác, đâu có quan hệ gì đến thể biệt? Đức Lô Xá Na mặc áo, cởi áo gần mà còn không biết, thì Đức Di Đà ơ xa sao biết thay đổi…

Đây là phần một: Dụ cha con thất lạc nhau, lại có bốn đoạn:

  1. Con bỏ cha trốn đi.
  2. Cha tìm kiếm con, giữa chừng dừng lại tại một thành.
  3. Con gặp phải quê hương.
  4. Cha nhớ thương lo lắng.

– Bốn đoạn mỗi đoạn đều có hai ý. Đoạn một có:

1. “Con bỏ cha mà đi”, là lãnh “Năm trăm người” trong Tổng thí (chữ “lãnh” nghĩa là hiểu được ý). Xưa đã kết cha con trong Đại thừa rồi lại quên, là hiểu chúng sinh lưu lạc trong năm đường cho nên nói: “hoặc mười năm hai mươi năm cho đến năm mươi năm”. Nói chung đều là con Phật, nhưng nghĩa con còn yếu ớt, cho nên nói “thơ dại”, chẳng kết duyên kỹ giới cho nên nói “ở lâu nơi nước khác”.

2. Hướng bản xứ trở về, lãnh “ba mươi người con” trong Tổng thí. Đây vì có nghĩa tích chứa vi diệu cho nên nói “tuổi trưởng thành”. Vì đã trải qua khổ, liên quan lòng Đại bi của Phật, cho nên nói “gặp đường trở về nước mình”.

Đoạn hai: Cha tìm kiếm con, giữa chừng dừng lại tại một thành có hai ý:

1. “Cha tìm con không được”, lãnh “Trưởng giả” trong Tổng thí, từ sau khi chúng sinh thoái thất Đại thừa, dò xét cơ Đại thừa của chúng, thì thấy họ chưa hội được cho nên nói “không được”.

2. “Dừng lại tại một thành Nhà ông” là lãnh “nhà” trong Tổng thí. “Giàu có lớn” là lãnh ý “Trưởng giả đức nghiệp trong ngoài giàu có” trong Tổng thí.

– Đoạn ba: Người con đến thành của cha, có hai ý:

1. Nguyên do đến thành, lãnh hội tướng khổ não qua thí dụ lửa bốc cháy. Từ khi thoái Đại thừa về sau thì trải qua khắp nơi, đủ mùi cay đắng.

2. “Cuối cùng đến thành nơi cha ở”, tức là coi cái Khổ là cơ duyên hợp với Đại bi, cho nên nói: “cuối cùng đến thành nơi cha ở”.

– Đoạn bốn: Cha lo buồn và vui mừng, có hai ý:

1. Mất con nhớ khổ.

2. Được gặp lại con vui, lãnh “một cửa”trong Tổng thí, con đã nhỏ dại chọn cửa không đúng làm cho cha lo lắng, giỏi dùng cửa này để đi ra cho nên nói làm cho cha vui.

Phân chương đã xong.

– Giải thích văn: Ban đầu con bỏ cha trốn đi có hai:

l. “Thí như có người”, lãnh “hai mươi người con” dụ cho “hàng Nhị thừa”. Hạnh vị của Bồ-tát thì khó biết, hơn nữa đều đã lãnh. “Tuổi còn thơ dại”. Xưa nói: nghe pháp ít, gọi là “thơ dại”. Nếu như vậy thì văn dưới nói “trưởng thành” tức là nghe pháp nhiều?! Nay cho rằng: do vô minh sâu dày che lấp làm chướng ngại Tâm hiểu biết, tâm hiểu biết không đủ sức cho nên nói “thơ dại”. Thiện căn huân tập gia bị dần dần cần phải tích chứa, gọi là “trưởng thành”. “Bỏ cha trốn đi mất”:

Thoái đại là “bỏ”, vô minh tự che lấp là “trốn”, hướng đến sinh tử là “đi mất”.

Hỏi: Đức Phật bỏ, lẽ ra về sau chúng sinh khởi Hoặc, tức là cha bỏ con chứ không phải con bỏ cha? Đáp: Do chúng sinh không cảm đến Phật bỏ thế gian, mà ngược lại thành nghĩa con bỏ cha.

“Ở lâu nơi nước khác”: Pháp giới Niết-bàn là cõi Phật của mình, sinh tử ngũ dục là “nước khác”. Vốn cầu xuất ly mà thoái đoạ không trở lại, cho nên nói “ở lâu”. “Hoặc mười” là Thiên đạo, “hai mươi” là Nhân đạo, “năm mươi” là Ngũ đạo (năm đường). Căn cứ nơi “một người” luân hồi khắp các đạo.

2. Từ “Tuổi đã lớn” trở xuống, là ý thứ hai: hướng trở về nước.

– “Thơ ấu” có hai nghĩa:

  1. Si mê Tiểu thừa.
  2. Chưa gặp khổ nên không biết trở về.

Dụ kết duyên về sau chưa hiểu nhiều về Đại thừa, như si mê không trở về, người thiếu phước thì đam mê không trở về. Nay tập nghiệp ngầm huân vi diệu biết đường hướng, gặp khổ mất vui tư duy mong cầu xuất yếu. Hai điều này làm cơ duyên hợp với Phật, gọi là “du hành dần dần tình cờ gặp đường hướng về bản quốc”. Văn trên nói: Nếu người gặp khổ thì vì họ thuyết Niết-bàn. Nếu ở hai đường thiện nhân thiên mà chẳng cảm Phật duyên, thì ở trong ba cõi không thấy Phật ví như cha, gọi là “cùng”. Không biết cách xuất yếu, gọi là “cùng”. Lửa bát khổ thiêu đốt, gọi là “khốn”. “Rong ruổi bốn phương để cầu ăn mặc”. Xưa nói: Nhân, Thiên ngũ giới thập thiện đều có nhân quả, coi đó là vật dụng bốn phương để tự cung cấp nuôi dưỡng, lại mưu sinh trong bốn loài (tứ sinh) để cầu ăn mặc.

Văn dưới nói: Một trăm ba mươi kiếp nay mới thấy được một lần, trong các kiếp ấy chẳng phải không có quả báo nhân thiên nhưng không năng cảm Phật. Cho nên, biết thiện đây chẳng phải cơ duyên để thấy Phật. Nay Phật chưa xuất thế, những người phàm phu khởi bốn kiến về thân thọ tâm pháp, ở trong đó cầu chánh đạo như “cầu ăn”, cầu trợ đạo như “cầu mặc”. Lấy “sự nhàm khổ mà cầu lý” làm duyên được độ. Khi đức Phật mới xuất thế, chúng ngoại đạo đều được độ trước, tức ý đây vậy. Đại Kinh nói: “Đế quán bốn phương dụ cho Tứ đế”. Căn cứ theo đây thì có thể biết.

“Du hành dần dần tình cờ gặp đường hướng về đến bản quốc”, là nói kia chán khổ hy vọng thoát tà cầu đắc Niết-bàn, tuy chẳng phải bản ý mà cũng nhờ đó được gặp Phật, cho nên nói “tình cờ gặp đường hướng về bản quốc” như trên nói. Dưới đây nêu “thành, xá” làm sao phân biệt? Hết thảy Phật pháp là nước (quốc), nghĩa này thì rộng, nói “thành” thì nhỏ hơn và thân thiết hơn. Coi “Đoạn đức Niết-bàn, ngăn ngừa điều trái chống lại việc ác” là “thành”. “Xá” là tự thân, đồng thể đại bi làm “Xa”.

Từ “Người cha từ trước đến nay tìm con không được” trở xuống, là đoạn hai: thí dụ “Tìm con, giữa chừng dừng lại tại một thành”, cũng chia làm hai:

1. Từ thoái Đại thừa sau tìm cơ duyên mà không găp. Không gặp cho nên gọi là “không được”.

2. “Giữa chừng dừng lại tại một thành”, không vì một người con mà phế bỏ gia nghiệp, dụ cho Phật không vì một chỗ không có cơ duyên mà phế bỏ việc giáo hóa các phương khác. Xưa nói: Sau hai vạn đức Phật và trước Phật Thích-ca, thì giữa hai mốc thời gian này là “giữa chừng dừng lại”. Nay cho rằng nghĩa “giữa chừng” thì có thể như vậy, “dừng lại tại nước, thành nhà” thì đều không thể dùng. Nay chọn Phương tiện hữu dư độ là “nước”. Giữa hai cõi Đồng cư và Thật báo là “giữa chừng”. Hữu dư Niết-bàn là “thành” Trụ nơi thành Niết-bàn này gọi là “dừng lại”. Ở Niết-bàn này làm “nhà”, khởi hai ứng thân Thắng, Liệt. Liệt ứng thì ứng với Thanh văn, Thắng ứng thì ứng với Bồ-tát. Năm hạng người đoạn Thông hoặc, đồng sinh ở cõi Phương tiện hữu dư kia, đều là Bồ-tát. Phật dùng Thắng ứng thân mà ứng phó, thuần dùng gia nghiệp Đại thừa mà dạy bảo khiến tu học. “Giữa chừng dừng lại” ở đây là dò xét tìm con căn cơ ở cõi Đồng cư, không phải chỉ nghĩa “giữa chừng” được hợp, mà “nước, thành, gia nghiệp” thảy đều phân minh. “Nhà ông giàu lớn”: Cảnh thật tướng là “nhà”, đầy đủ vạn đức gọi là “giàu”, ngũ độ phước đức gọi là “của cải”, trí tuệ Bát-nhã gọi là “của báu”. Chỉ dẫn cho hết thảy biết Ma-ha-diễn, gọi là “vô lượng”. “Vàng, bạc, châu báu v.v…”. Là ba mươi bảy phẩm trợ đạo của Đại thừa. Đây tức lãnh hội nghĩa “trưởng giả đại phú” bên trên. “Kho đụn đầy tràn”, ở trong là “đầy”, ở ngoài là “tràn”. Nhiều lúa gạo gọi là “đụn (thương)”, nhiều vật gọi là “kho”. “Đụn” dụ cho thiền định, thiền phát sinh một trăm lẻ tám Tam-muội. “Kho” dụ cho thật tướng, có thể sinh mười tám Không trí tuệ. Tự nuôi gọi là “đầy”, ngoài giáo hóa gọi là “tràn”, lãnh hội nghĩa “có nhiều ruộng nhà” trong thí dụ trên. “Tôi tớ” là phương tiện tri kiến Ba-la-mật thảy đều đầy đủ, uyển chuyển tùy cơ duyên xứng sự xứng lý, đây là lãnh hội nghĩa trên: “lại nhiều người theo hầu hạ”. Căn cứ địa vị mà nói, Nhị thừa cho đến Thông giáo Bồ-tát, Biệt giáo tam thập tâm đều như “tôi tớ”, Biệt giáo, Viên giáo Thập địa như “đại thần”(bầy tôi của vua), Thập hồi hướng như “trợ tá”, Thập hạnh như “tùy phái”, Thập trú như “dân”. Ban đầu vào cảnh giới Phật, là khách của Suất độ, đều là dân của vua. Tuy được làm dân, nhưng so với trợ tá, tùy phái thì còn cách xa. Thập hạnh trải qua việc biệt tu tập các pháp, chạy vạy đủ thứ như “tùy phái”. Thập hồi hướng thì sự lý sâu dần, chức vị gần bên vua như “trợ tá”. Thập địa phụ giúp đức Phật hành hóa, hàng phục ma ngăn địch, cho nên như “đại thần”. Nhất tâm tam quán như “voi”, vận chuyển Đại thừa Viên giáo. Thứ đệ tam quán như “ngựa”, vận chuyển Đại thừa Biệt giáo. Tức Không, Tích Không quán như “trâu”, vận chuyển Đại thừa Thông giáo… Tích pháp quán thì tự hành như xe hươu dê… vận chuyển pháp nhị thừa.

“Vô số” các pháp Quyền, Thật đều gọi là “xe cộ”. Quyền, Thật trí quán gọi là “voi, ngựa, trâu, dê”, chẳng những giáo pháp rất nhiều mà quán trí cũng lại “vô số”. “Xuất nhập” nghĩa là: hai mà không hai, gọi là “nhập”, không hai mà hai, gọi là “xuất”. Lại, không hai mà hai, gọi là “nhập”, hai mà không hai, là “xuất”. Vô lượng trở lại một, gọi là “nhập”, vô lượng trong một, gọi là “xuất”. Dụng hóa tha, gọi là “xuất”, dụng tự hành, gọi là “nhập”. Xuất pháp lợi ích chúng sinh gọi là “tức”, công sức hóa tha quy về mình gọi là “lợi”. “Khắp đến nước khác” tức khắp cả ba cõi, hành nơi phi đạo thông đạt Phật đạo tức là nghĩa ấy vậy. Chỉ có pháp tánh là nước mình mà thôi! “Khách thương buôn bán cũng rất đông nhiều”: Các Bồ-tát là người buôn bán, lại nhập khắp ba cõi để cầu pháp lợi, cho nên nói “đông nhiều”. Bồ-tát cõi này đến cõi khác nghe pháp, Đại sĩ ở các phương khác đến đây nghe kinh, như buôn bán qua lại kiếm lời. Lại, hai thân Ứng, Hóa như khách bán, đem Thật pháp nhập khắp trong ba cõi, giáo hóa làm lợi ích chúng sinh khiến họ trở về pháp thân, cho nên nói “rất nhiều”, như người ở thế gian khiến người khác mua bán với mình, đôi bên cùng lợi.

Từ “Bấy giờ cùng tử kia dạo đến các làng xóm”, trở xuống, là đoạn ba: thí dụ con trở về gần cha. Đây cũng có hai ý:

  1. Cầu cơm áo.
  2. Đến thành cha.

Ý thứ nhất: bên trong hợp nghĩa thoái thất Đại thừa đã đầy đủ, gặp các sự khổ sinh tâm rất lo, chán muốn cầu ra khỏi, chấp lý, chẳng đúng dẫn đến thành tà tích. Vì tà tuệ đã trải qua, nên tâm dễ có thể nhập chánh, muốn cầu xuất thế là nguyên do cảm Phật. Quán sát năm ấm làm “làng xóm”, mười hai nhập làm “ấp”, mười tám giới làm “nước”, trải qua đây để cầu lý gọi là “cầu y thực”. Ý thứ hai: “Lần hồi đến thành chỗ cha ở”, đây là chánh hướng đến thành của người cha ở, cảnh khổ làm cơ duyên cảm Đại bi của Phật gọi là “đến thành”. “Thành” tức Niết-bàn, Niết-bàn chung cả Tiểu thừa và Đại thừa. Chúng sinh quen hiểu nghĩa có thể có được Niết-bàn, cho nên nói “đến thành”.

Từ câu: “Người cha hằng nhớ con” trở xuống, là đoạn bốn: dụ lo lắng nhớ đến con; đây cũng có hai ý: Ý thứ nhất: Khổ nhớ mất con, đức Như Lai từ xưa đến nay thường tư duy đến cơ duyên Đại thừa của con, cho nên nói “hằng nhớ”. “Hơn năm mươi năm” là năm đường. Trừ bỏ loài quỷ, vượt xuất loài Tu-la, nên gọi là “hơn”. “Chưa từng hướng người mà nói việc như thế”: là chưa từng hướng đến đại thần, trợ tá, tùy phái, dân (thần, tá, lại, dân) trong cõi Phương tiện hữu dư, mà nói có con cơ duyên như thế. Lại, từ khi ứng hiện ở đời về sau, từ xưa qua các thời Hoa Nghiêm, Phương đẳng, Đại Phẩm, ở các pháp hội đó chưa từng hướng đến các Đại sĩ mà nói rằng: hàng Thanh văn này vốn là con của Đại thừa. Đã không phải con Phật thì không hiểu Phật pháp, hoặc như điếc như câm, hoặc dâng hoa kính lạy Tòa, hoặc bỏ bát mà mờ mịt không biết gì, bao nhiêu thứ không theo kịp. “Ôm lòng hối hận”. “Hối” xưa kia không ân cần dạy bảo, để đến nổi chúng không được dạy mà trốn bỏ đi, “hận” con không nghĩ đến ân nghĩa, xa lạ với cha mà thân cận người khác.Trong hợp với Như Lai “hối” không ân cần khiến nhập nội phàm đến nổi thoái thất bản giải; “hận” chúng vô tâm không thể tinh tấn cố chí mà bỏ trốn, mê muội không trở lại, cho nên nói “hối hận”. “Tự nghĩ mình đã già yếu”: Kỳ hạn hóa đạo sắp hết mà không có người để truyền trao pháp Đại thừa, như người thế gian già yếu mà không có con.

Hỏi: Đối tượng được Pháp thân giáo hóa là các Bồ-tát đều có khả năng bổ xứ, thì cần gì phải lo sợ?

Đáp: Đối tượng được Pháp thân giáo hóa, vốn không có hưng phế, sao lại bàn luận về việc già yếu? Đây chẳng phải điều đáng luận bàn.

Nay nêu rõ quyến thuộc Hóa thân có hai thứ:

1. Pháp thân đại sĩ hiện tướng làm chúng ảnh hưởng trong pháp hội kia, tích tuy là đệ tử, nhưng bản thì có khi là thầy, cũng không căn cứ đây tự nghĩ già yếu.

2. Phàm phu ở cõi Đồng cư, bắt đầu theo hóa Phật đến sơ phát đạo tâm, gọi đây là con. Con kế tiếp gia nghiệp của cha, nối dõi giống nòi không dứt. Nếu Thân-tử thọ quyết định làm Hoa Quang Phật, thì hạt giống một phương Phật tiếp nối không dứt, gia nghiệp Đại thừa lần lượt nối tiếp truyền phó. Nếu Thân-tử không có cơ duyên được hóa, thì tài pháp Đại thừa hiện không có phó chúc, thì chúng sinh đời sau hạt giống Phật nương cậy nơi nào? Vì già yếu nên cất tiếng than, chính là đây vậy!

Ý thứ hai: Từ “Ông lại suy nghĩ: Nếu ta gặp được con” trở xuống, là vui tìm gặp được con vì căn cơ có thể độ gọi là “được con”, được Phật thọ ký gọi là “giao phó pháp tài”, xứng với bản tâm, cho nên nói:

“khóai lạc”. Lãnh hội Tổng thí bên trên đã xong.

(Phần Hạ)

Từ “Lúc bấy giờ cùng tử làm thuê làm mướn” trở xuống, là phần hai: dụ Cha con gặp nhau. Gần thì lãnh hội nghĩa “thấy lửa” trong dụ Nhà lửa, xa thì lãnh hội nghĩa “ngũ trược” trong phẩm Phương Tiện. Có ba ý:

  1. Nêu cùng tử làm thuê làm mướn, lãnh “thấy lửa cháy” trong dụ Nhà lửa và “thấy ngũ trược” trong phần Pháp thuyết.
  2. Cha thấy con, lãnh “trưởng giả thấy” trong dụ Nhà lửa và “Dùng Phật nhãn thấy” trong Pháp thuyết.
  3. Hoan hỷ thích ứng sở nguyện, lãnh hội nghĩa “kinh bố” trong dụ Nhà lửa và “khởi tâm Đại bi” trong Pháp thuyết.

Trong Pháp thuyết và Thí thuyết đều nêu cha trước thấy con, ở đây thì nêu con trước thấy cha. Căn cứ đức Phật tức trí tuệ linh thiêng sáng suốt, thì trước hết biết căn cơ rồi sau mới khởi ứng, cho nên nói cha trước thấy con. Nếu căn cứ chúng sinh, thì ắt trước có căn cơ sau mới ứng, cho nên nói con trước thấy cha. Cơ ứng bất khả tư nghì, không sau không trước, cho nên trước sau hỗ tương nêu ra. Dựa theo ý đó, nay để thuận tiện chỉ chia văn làm hai đoạn.

  1. Con thấy cha.
  2. Cha thấy con.

– Trong hai đoạn này mỗi đoạn có bốn ý. Đoạn một: Con thấy cha, có bốn ý:

  1. Nguyên do thấy cha, là do cầu y thực.
  2. Nơi thấy cha, đứng cạnh cha.
  3. Thấy tướng cha ngồi giường sư tử.
  4. Sinh tâm lo sợ tránh, hối hận đến nơi này.

– Ý thứ nhất: Nguyên do thấy cha. Do chán khổ ưa vui, tìm cầu vị lý, tích tập dần dần, rốt cuộc thành thiện căn xuất thế, cho nên nói “làm thuê làm mướn lần hồi”. Dùng thiện căn này có thể gỏ cửa từ bi của Phật, cho nên nói “tình cờ đến nhà cha”. “Cha” dụ cho đạo hậu pháp thân, “Nhà” dụ cho vô duyên đại từ bi. Hai căn cơ Đại, Tiểu đều bám lấy nhà này, do có Đại cơ cho nên nói “xa thấy cha”, có Tiểu cơ nên nói “đứng ở cạnh cửa”. Nếu căn cơ chỉ có Tiểu mà không có Đại thì lẽ ra không thấy thân đặc tôn và cha không nên nói “tài vật của ta đầy kho tàng, nay có người để giao phó”. Nếu chỉ có Đại mà không có Tiểu, thì không nên đứng ở cạnh cửa và con không nên nói “đây chẳng phải là chỗ để ta làm thuê mướn kiếm được tiền vật”.

Nơi thấy cha tức đứng cạnh cửa. Nhị quán là phương tiện, tức hai bên cửa. Nếu căn cơ trong Viên giáo, thì chính diện cửa nhìn thẳng. Nhị thừa thiên chân, cho nên nói “cạnh cửa”. Chỉ vì Không Tam-muội thiên chân tuệ nhãn, cho nên đứng bên mà trộm nhìn pháp thân. “Xa thấy cha”, tức chánh kiến có hai thứ:

  1. Gần thấy.
  2. Xa thấy.

Nay nói Đại cơ bắt đầu phát, dẫn đến việc xa, cho nên nói là “xa”. Lại, căn cơ nhỏ thì chẳng nên giao phó, gọi là “xa”.

“Ngồi giường sư tử”: là Báo Pháp thân Viên giáo an trú nơi lý Không, không còn bị Thông hoặc, Biệt hoặc, tám ma… làm sợ hãi, cho nên nói “ngồi giường sử tử”. Kinh Hoa Nghiêm nói: Đệ nhất nghĩa không, tứ vô sở úy là “giường”. “Ghế báu đỡ chân”: Định tuệ làm “chân”, Thật đế làm “ghế”, định tuệ vô sinh dựa cảnh chân như. “Bàla-môn”, xưa gọi là dòng họ lớn cao quý lương thiện từ Bát địa trở lên.

“Sát-lợi”: Là từ Thất địa trở lại. “Cư sĩ” là nội phàm phu…

Xưa nói: trong kinh này nêu Pháp thân. Chẳng phải Pháp thân Bồ-tát thường trú, chính là ứng thân ở các cõi khác cũng sẽ ứng thân ở cõi này, tức là Pháp thân Bồ-tát cõi này vậy, cho nên có các người nội phàm bao quanh. Nay nói không như vậy. Nếu tác Phật phương khác, thì cha con căn cơ cảm ứng, thể dụng thoát khỏi sự chấp trước (trước thoát), đều không thành như trước nói. Lại không bao hàm Tiểu cơ, khế hợp Đại cơ cõi này, khế hợp cõi khác, cũng không nên kết Đại duyên ở nơi phương kia, kết Tiểu duyên ở nơi đây, cũng không nên kết cả hai tại đây, ứng cả hai tại kia, như vậy là đại hoặc loạn. Nay nêu Thắng ứng thân Bồ-tát tức thân đặc tôn Lô-xá-na là nơi Đại căn cơ khế hợp. Liệt ứng thân ứng với Tiểu thừa là thân một trượng sáu, mặc áo xấu là nơi Tiểu cơ khế hợp. Nay kinh nêu thường trú Đề-hồ cùng Niết-bàn đồng, Pháp thân viên đốn cùng Hoa Nghiêm đồng. Dụ trưởng giả oai đức đặc tôn kẻ hầu người hạ, Sát-lợi Bà-la-môn đều cung kính bao quanh, thảy đều chỉ quyến thuộc trong Hoa Nghiêm đều không khác. Pháp tướng được thuyết như kia đã nói lại không sai khác. Bà-la-môn gọi là Tịnh hạnh, hàng quý tộc cao khiết tức là Đẳng giác Ly cấu Bồ-tát. “Sát-lợi” tức là dòng dõi vua chúa, là từ Cửu địa trở xuống Sơ địa trở lên. Cư sĩ giàu mà không tôn quý, tức tam thập tâm. Chân châu anh lạc, tức giới định tuệ, Đà-la-ni Tam-muội tứ anh lạc vậy. “Giá trí ngàn vạn” tức công đức của bốn mươi địa, dùng trang nghiêm pháp thân. “Các dân lại tôi tớ”, là khác môn mà rõ nghĩa, tức là thọ lãnh phương tiện giáo. Đoạn Thông hoặc, gọi là “dân”. Bẩm thọ Biệt giáo đoạn Thông hoặc, gọi là “lại”. Hoặc đồng môn rõ nghĩa, rốt cuộc là phương tiện Ba-la-mật. Trong đồng với thật trí, ngoài đồng với cơ duyên. Dụ như “lại dân”, có nghĩa là trong tôn phụng, ngoài sai khiến. “Tay cầm phất trần trắng”: tức là dụng quyền trí. “Tả hữu”: Hữu tức nhập dụng Không trí, phủi bụi Tứ trụ. Tả tức nhập dụng Giả trí, phủi bụi vô tri. Hai thứ này là phương tiện Trung đạo, cho nên nói “đứng hầu”. “Màn báu che trên”: là chân thật từ bi. “Treo hoa phan đẹp rũ xuống”: “hoa” tức Tứ nhiếp. “Phan” tức thần thông. “Nước thơm rưới đất”: Rót nước pháp thân rưới khắp đất tâm của các Bồ-tát, làm trôi đi các bụi bặm phiền não, cũng là nước định rưới tâm tán loạn. “Rải các thứ danh hoa”: là rải đầy bảy thứ hoa đẹp sạch nghĩa là: giới, định, tuệ, đoạn nghi, đạo phi đạo tịnh, tri kiến tịnh, đoạn tri tịnh. Giới: ba loại giới: nhiếp luật nghi v.v… Định: Thủ Lăng-nghiêm v.v… Tuệ: thật trí tuệ. Đoạn nghi: đã vượt qua cái nghi của nhị đế. Đạo phi đạo tịnh: hành nơi phi đạo thông đạt Phật đạo. Tri kiến tịnh: Trí đức viên mãn thấy rõ Phật tánh. Đoạn tri tịnh: Đoạn đức, thành tựu vĩnh tận vô minh. “Các vật báu trưng bày” là công đức chân thật khắp các địa. “Phát ra thâu vào”, như trước đã giải thích… “Uy đức đặc tôn” là sắc tượng vô biên, tướng hải vô biên, lồng lộng rực rỡ. Nghĩa này phải như đức Phật Xá-na, đâu được giải thích khác ư!

Từ “Cùng tử thấy cha có thế lực mạnh” trở xuống, là ý thứ tư: thấy cha sợ tránh. “Lực thế lớn” trí đại cho nên gọi là “lực lớn”, thần thông đại cho nên gọi là “thế lớn”, như nghĩa “thân tay có sức mạnh” ở phẩm trên. “Sợ hãi”: hạng Tiểu cơ yếu kém khiếp sợ Đại đạo. “Hối hận vì đã đến đây”: tức Phật vốn muốn dùng Đại pháp, dự định là thích ứng, nhưng không xứng cơ, chỉ có ý thoái đại, cho nên nói “hối hận vì đã đến đây”. “Thầm nghĩ rằng”: trong cơ duyên tiềm ẩn ngầm có việc này, chẳng phải hiển bày đối diện thấy Thắng ứng thân. “Hoặc là vua hoặc là đồng vua”: Ma Ba-tuần là “vua”, bọn ma lính là “đồng”, nên nói là “đồng vua”. Căn cơ Tiểu thừa đã đoạn dứt, mà đạo vô ngôn thuyết thì tuyệt sắc tượng, đã thấy tượng Thắng ứng thân chẳng phải thiên nhân sánh kịp, pháp được thuyết thì tướng khác xa nhị thừa, hàng tiểu trí đức mỏng chưa từng thấy nghe, liền cho đó là “ma”, là “do ma thuyết”. Lược khai tam hiển nhất, Thân-tử hồ nghi “E chẳng phải là ma giả Phật để não loạn tâm ta”? Nếu ban đầu dùng Đại để hấp dẫn Tiểu, thì nghi Phật là ma, còn quá hơn ngày nay.

Lại nữa, Thắng ứng thân dụ cho trưởng giả. Trưởng giả tức tiêu biểu báo thân Phật, cho nên là “đồng vua”. Pháp thân là báo Sư. Sư tức như “vua”, trong các kinh phần nhiều gọi là vua kinh. Trí khế hợp với pháp, tức là trí và pháp đồng, cho nên gọi báo Phật là “đồng”. Đây chính là Đại thừa pháp báo, chẳng phải chỗ Tiểu thừa được lợi ích, cho nên nói “hoặc là vua hoặc là đồng vua” vậy.

“Chẳng phải là chỗ mà sức mình làm thuê làm mướn có thể kiếm được tiền vật”: Tiểu cơ không thể thọ Đại hóa. “Chẳng bằng ta qua đến xóm nghèo, có chỗ cho ta ra sức làm để dễ kiếm áo cơm”: Kinh Tịnh Danh nói: “Có thể nhờ nghèo nàn mà tu đắc pháp”, là nói hạng thấp kém này vậy. Nhưng lý Không không phù hợp vạn đức, chẳng phải Như Lai tạng, cho nên nói “xóm nghèo”. Vì thiên Không thì xứng với tiểu trí, cho nên nói “có chỗ cho ta ra sức làm”. “Dễ kiếm áo cơm”(Y thực dị đắc): năng đắc hữu dư Niết-bàn, vô lậu y thực, hành hạnh là “y”, tuệ hạnh là “thực”. “Nếu như ta đứng lâu ở đây, nhỡ họ bức bách ép sai ta làm”: hành đạo Đại thừa trải qua vô lượng kiếp cho nên nói “đứng lâu”. Ta vốn nhàm chán sợ sinh tử, nếu tu Đại thừa thì phải vào sinh tử, rộng học vạn hạnh, cho nên nói “bức bách”. Ta vốn ưa Tiểu thừa mà nay khiến ta phát tâm Bồ-đề Đại thừa, là “ép sai ta làm”. Xả bỏ Đại chấp Tiểu, cho nên nói “chạy mau”.

– Đoạn hai: từ “Lúc bấy giờ Trưởng giả” trở xuống, là dụ “Cha thấy con” cũng có bốn ý:

  1. Nơi cha thấy con.
  2. Thấy con liền biết.
  3. Thấy con hoan hỷ.
  4. Thấy con, hợp sở nguyện của cha.

Nơi cha thấy con: tức “tòa sư tử”, Pháp thân Như Lai ở cảnh đệ nhất nghĩa Không vô úy, chiếu rõ căn cơ.

“Thấy con liền biết”: Biết là chúng sinh đã kết duyên ngày xưa “Tâm rất hoan hỷ”: Đức Phật thường xem xét căn cơ chúng sinh. Nay căn cơ đến xứng hợp lòng từ, cho nên “hoan hỷ”, tức là lãnh hội nghĩa pháp thuyết mà khởi đại bi. Nhà lửa thì rất sợ hãi, kia nêu ý cứu khổ cho nên nói “sợ hãi”. Đây nêu ý ban vui, cho nên nói “hoan hỷ”.

“Liền nghĩ rằng: Của cải kho tàng của ta nay đã có người giao phó”: thấy con thích hợp sở nguyện. Xưa thấy chúng sinh thoái Đại chấp Tiểu, đến xóm nghèo cầu lương thực để nuôi sống rất khó khăn gian nan, thường muốn ban cho tài vật, nhưng không có căn cơ nên không được. Ngày nay căn cơ đến, xứng với Đại bi tâm, cho nên nói “của cải kho tàng nay đã có người giao phó”. “Ta thường nhớ nghĩ”: nêu người con kia chẳng những nghèo khổ không có của nhiều, lại còn lưu chuyển trong vòng sinh tử bị các khổ bức bách, vì lòng đại bi thương xót cho nên nói “thường nhớ nghĩ”. Dù muốn cứu vớt nhưng không có cơ duyên nên không thể cứu giúp, cho nên nói: “không sao gặp được”. Nay có thể độ chúng sinh có cơ duyên cho nên nói: “nay nó bỗng tự đến”. Xứng với tâm đại bi, cho nên nói: “rất hợp điều ý muốn của ta”. “Ta dù tuổi già vẫn còn tham tiếc” : giải thích nguyên do thích hợp sở nguyện, do sự giáo hóa một đời đã xong cho nên nói “tuổi già”. Chưa thấy đại cơ, nên pháp không có người ủy thác, đời sau chúng sinh nương vào đâu mà được giải thoát? Vì những người đáng độ cho nên nói “tham tiếc”. Nay căn cơ tự đến, không còn có sự lo nghĩ này, cho nên “rất hợp ý muốn của ta”.

– Phần thứ ba: từ “Liền sai người hầu đuổi theo gấp bắt lại” trở xuống, nêu dụ “Đuổi theo khuyên về”. Gần thì lãnh hội nghĩa “bỏ ghế dùng xe” trong dụ Nhà lửa, xa thì lãnh hội nghĩa “thôi Đại dạy Tiểu” trong Pháp thuyết. Văn đây chia làm hai:

1. Sai người hầu đuổi theo.

2. Sai hai người dẫn dụ. Trước đuổi theo lãnh hội nghĩa trên nói “thân tay có sức mạnh mà không dùng”, chỉ vì phẩm Phương Tiện nêu chung Giới (răn bảo) và Khuyên làm một, văn giải thích có ba: Nhà lửa khai Khuyến xuất Giới, giải thích mỗi mỗi chia làm ba, mà lược phần văn nói về buông bỏ. Trường hàng hợp Khuyến, không hợp Giới mà văn Thôi hóa lại nói rộng. Trong kệ, chỉ tụng Giới, không tụng Khuyến, lại không tụng ý Thôi hóa, đều có nêu ra và không nêu ra. Nhà lửa phần trường hàng thì Giới Khuyến giải thích mỗi mỗi có ba. Nay thì đều lãnh hội, tức “sai người hầu chạy mau qua bắt lại”, lãnh hội ý dự định thích nghi ở môn Khuyến bên trên, “cùng tử kinh ngạc” là lãnh hội ý trên: không có cơ duyên ở môn Khuyến. “Cưỡng dắt đem về” là lãnh hội ý trên: dự định thích nghi ở môn Giới, “cùng tử tự nghĩ vô tội” đến “ngất ngã xuống đất” là lãnh hội ý trên: không có cơ duyên ở môn Giới.

Từ “Người cha xa thấy vậy” trở xuống, là đều lãnh hội “thôi hóa” Khuyến, Giới. Đây là ý Phật muốn dò xét để áp dụng. Đức Phật tuy Khuyến môn dự định thích nghi không có cơ duyên, mà ý vẫn chưa thôi hóa độ. Lại dùng Giới môn dự định thích nghi, sự không thâu hoạch rồi, sau đó mới thôi hóa độ. “Sai người hầu”: ban đầu Khuyến môn dự định thích nghi. Trí là năng khiến, giáo là sở khiến. Lý nghĩa, là chánh; giáo nghĩa, là phụ. Từ khi đức Phật nêu ra Đại thừa thập nhị bộ kinh, dự định thử xem coi có thích nghi với chúng sinh hay không (Nghĩ nghi) nhưng vì không có cơ duyên nên không thọ lãnh, giáo này ví như “sữa”, cho nên nói “sai người hầu”. Lại,”người hầu” là đại thần, trợ tá… bầy tôi của vua… Tức là sai pháp thân Bồ-tát vì thuyết Đại thừa. Như trong kinh Hoa Nghiêm sai bốn vị Bồ-tát thuyết bốn mươi địa, tức “sai người hầu”. “Chạy mau qua bắt”: Đại thừa nêu nghĩa hiển lộ chánh trực, dùng đây ứng cơ mau đến Bồ-đề, cho nên trong Phẩm Phương Tiện nói xe lớn kia “phóng nhanh như gió”. Nếu coi Bồ-tát là “người hầu”, thì Bồ-tát tự có thần lực, lại được Phật gia hộ thêm cũng có thể khiến kia mau nhập Bồ-đề. “Cùng tử kinh ngạc” tức Khuyến môn không có cơ duyên. Vì hiện tại không có cơ duyên, dù xưa đã từng phát nhưng bỏ lâu không nhớ, chợt nghe Đại giáo trái tâm, cho nên “kinh”, không biết cho nên “ngạc”. “Lớn tiếng kêu oan”: Tiểu thừa coi phiền não là kẻ thù (oán), sinh tử là khổ, nếu khuyên “phiền não tức Bồ-đề” thì “lớn tiếng kêu oan uổng”, nếu nghe “sinh tử tức Niết-bàn” thì “lớn tiếng kêu khổ quá”, tức không có cơ duyên, không nhận lời khuyên. “Tôi không hề xúc phạm”: tôi không dự vào cầu xin, thì ý gì mà dùng Đại thừa giáo hóa tôi? Đây là lãnh hai ý Khuyến môn, chưa lãnh ý Thôi hóa. Tiếp lại kêu lớn không đến “bắt nó càng gấp” là lãnh ý Nghĩ nghi Giới môn. Trước nêu khuyến thiện cũng là chấp nhận cho,“ta sẽ vì thuyết việc sợ hãi” tức là rất cần thiết; “cưỡng dắt đem về”, là răn bảo, dùng lời nói khổ, khiến cho chúng sinh xa điều ác. Trong đã không có căn cơ, ngoài thì bức Đại hóa là “cưỡng dắt đem về”. “Tự nghĩ mình vô tội”: là lãnh hội không nhận Giới môn. “Tội” là từ bi vậy. Chúng sinh mắc tội nên vào ngục sinh tử, Bồ-tát cũng đồng tội vào ngục. Người Nhị thừa không có đại bi, gọi là “vô tội” khiến nhập sinh tử, tức là “lại bị bắt bớ”. Không có đại phương tiện mà vào sinh tử, ắt phải vĩnh viễn mất tuệ mạng Tam thừa cho nên nói: “ắt phải chết”. Suy nghĩ những việc như vậy cho nên nói: “lại càng sợ sệt” ép dùng đại giáo hàng tiểu trí không hiểu cho nên nói “mê ngất”, tức khởi phỉ báng ắt đọa ba đường, cho nên nói: “ngã xuống đất”, cũng là mê muội chìm trong vô minh địa.

Từ “Người cha xa thấy vậy” trở xuống, là phần thứ ba: buông bỏ Khuyến, Giới môn và Thôi hóa độ Đại thừa. Đây chia làm bốn phần:

  1. Tư duy Thôi hóa.
  2. Giải thích Thôi hóa.
  3. Chánh Thôi hóa.
  4. Thôi hóa được thích nghi.

Phần một: Tư duy thôi hóa, có hai ý: a. Biết chí Đại thừa yếu. b. Biết chí Tiểu thừa mạnh. Đây là ý thứ nhất: “Cha xa thấy”: tiểu cách xa đại, cho nên gọi là “xa”, là kết duyên con, cho nên gọi là “thấy”. “Bèn nói với sứ giả”: Nếu coi Giáo là sứ giả, thì trí là gốc thuyết giáo, trí biết không có cơ duyên, trí thôi cho nên giáo cũng dừng nghỉ. Nếu coi người là sứ giả thì nói: các Bồ-tát không cần hiện thân tôn quý tuyệt diệu của các ông khiến cho hàng nhị thừa thấy. Trong kinh Tịnh Danh nói: “Giữ gìn hương thơm nơi thân của các ông, không để cho các chúng sinh kia khởi mê đắm”. Phổ Hiền nhập cõi Ta-bà thì hiện thân khiến nhỏ, đều là nghĩa này. “Chớ ép đem đến”: đã không có đại cơ, e rằng tổn thương thiện căn kia cho nên nói “chớ ép”. Riêng cho rằng không cần người đó, mới tư duy thôi Khuyến môn nghĩ nghi. “Chớ ép đem đến” là tư duy thôi Giới môn nghĩ nghi. Ý thứ hai: “Lấy nước lạnh rưới trên mặt”: biết có chí Tiểu thừa, thích nghi dùng nước lý thôi đoạn để trừ nhiệt Kiến hoặc Tư hoặc. “Mặt”(Diện): chán sinh tử thì gọi là lưng (bối), hướng Niết-bàn như “mặt” (diện). “Cho tỉnh ngộ”: Khai Tiểu thừa đậu cơ thì được lìa phiền muộn, “ngộ” tứ chân đế. “Đừng nói chi với nó”: quyết định phải thôi giáo hóa Đại thừa.

Từ “Vì sao vậy?” trở xuống, là phần hai: Giải thích ý thôi hóa: chính nhàm chán khổ, ưa thích Không, thân cận hạng thấp kém không có tâm từ bi, sợ Đại pháp khó lại mặc cho hạng Tiểu chí kia ức chế bản hoài của Phật, do đó thôi hóa. Xét biết nó (cùng tử) ở chỗ hai vạn ức đức Phật đã từng phát đạo tâm, chẳng phải hoàn toàn không có đại cơ. Vả lại tạm thôi dùng pháp Đại thừa hóa độ, ý Phật chưa thôi, mà còn đợi kỳ sau. “Chẳng nói với người khác”: khi xưa trong Tiểu thừa giáo, tùy ý người khác mà nói phương tiện bảo vệ che chở, gọi là Thanh văn, không nói theo ý mình gọi nó là Bồ-tát.

“Sứ giả nói với cùng tử” trở xuống, là phần ba: chính nêu thôi hóa. “Ta nay thả ngươi”: tức là biết Đại cơ yếu. “Đi đâu tùy ý”: tức là biết Tiểu thiện mạnh. Do hai duyên này cho nên tạm thôi giáo hóa pháp Đại thừa.

Từ “Gã cùng tử vui mừng” trở xuống, là phần bốn: Thôi hóa được

27 thích nghi. Không bị giáo Đại thừa bức bách, cho nên “vui mừng”. Không có tội phỉ báng Đại thừa, được miễn ba đường ác, cho nên nói “từ dưới đất”. Có Tiểu thiện sinh, cho nên nói “mà đứng dậy”.

Lại, lúc trước nghĩ nghi Đại pháp, mà mê muội không hiểu ví như “nằm dưới đất vô minh”. Nay đậu cơ, dùng Tiểu pháp thì tỉnh ngộ được, cho nên nói “từ dưới đất mà đứng dậy”.

Đối với lý Tứ đế, thì muốn cầu đạo pháp, cho nên nói “qua đến xóm nghèo để kiếm áo cơm”. Hoặc là ở trong Tứ kiến mà cầu đạo, cho nên nói “xóm nghèo”.

“Toan muốn dụ dẫn” trở xuống, là “ngầm sai nhị nhân” dẫn dụ.

Đây chia làm hai phần:

1. Tề giáo: gần thì lãnh ý “ba xe cứu con”. Xa thì lãnh ý “ở Bala-nại dạy Quyền”.

2. Thủ ý: từ “Lại, vào ngày khác” trở xuống, lãnh ý “Pháp thân địa cửu chiếu phương tiện, chẳng phải tại cây Bồ-đề mới bắt đầu dùng Tiểu giáo”. Từ lâu đã xem xét chúng sinh, thấy rằng không thể dùng thân Tôn-đặc để gần gũi được, mà phải dùng áo dơ xấu mới điều khiển nổi. Lãnh hội được những điều trước đây, bây giờ giải thích.

Hỏi: Bốn đệ tử lớn vì sao mà biết được Pháp thân cửu chiếu?

Đáp: Từ việc gần mà suy ra thì biết việc xa. Nếu lúc đầu tại cây Bồ-đề biết không có cơ duyên Đại thừa, thì không cần phải từ Đâu suất mà giáng thần chính tuệ thác thai, cho đến thị hiện có phiền não, có vợ sinh con, có ba mươi bốn tâm hậu thân đoạn phiền não. Cái Biết mà Phật chứng nghiệm thì thoát khỏi tướng lớn nhỏ, như biển anh lạc vi diệu. Mà lại khóac áo dơ vào thân một trượng sáu thô xấu. Thế thì biết:

Pháp thân cửu chiếu (chiếu đã lâu) vậy!

– Sau đây là giải thích phần Tề giáo. Phẩm Thí Dụ văn có bốn ý:

  1. Dùng phương tiện, dự định thích hợp.
  2. Biết tâm lúc trước.
  3. Ca ngợi ba xe.
  4. Hợp với sở nguyện của con.

– Phẩm Phương Tiện cũng có bốn ý. Nay lãnh hội cũng bốn ý:

  1. Từ “Toan muốn dụ dẫn” trở xuống, là lãnh ý “Dự định thích hợp (Nghĩ nghi)” bên trên.
  2. “Khi đó nhị nhân được sai, liền đi tìm gã cùng tử, dã tìm được rồi”: lãnh ý “Biết tâm lúc trước của con, có cơ duyên” bên trên.
  3. “Thuật đủ việc như trên”: lãnh ý “Ca ngợi ba xe hy hữu” bên trên.
  4. Từ “Gã cùng tử trước hỏi lấy giá cả” trở xuống, là lãnh ý “Hợp với sở nguyện của con, tranh nhau ra khỏi nhà lửa” bên trên.

Bây giờ xét ý thứ nhất: “Toan muốn dụ dẫn” Đã thôi Đại hóa, nhưng không phải là vứt bỏ hết không dạy gì, mà muốn dùng phương tiện, cho nên nói “toan muốn”.

“Ngầm sai khiến nhị nhân”: bốn đệ tử đều đã lãnh hội tùy theo khả năng của mình, chẳng liên quan Bồ-tát, cho nên nói “nhị nhân”.

“Nhị nhân”: nếu căn cứ vào pháp, thì Nhân duyên và Tứ đế. Nếu căn cứ vào lý, thì Chân đế và Tục đế. Nếu căn cứ vào hạng người, thì Thanh văn và Duyên giác.

Ban đầu dự định dùng Đại thừa giáo hóa, nên nói “liền sai khiến người hầu”, tiêu biểu “nhất Thật đế, nhất Đại thừa giáo, nhất Bồ-tát nhân”. Nay nêu phương tiện, ẩn Thật nên gọi là “ngầm”, chỉ dạy thiên chân nên gọi là “sai khiến”.

Nếu căn cứ vào giáo, thì ẩn Đại thừa gọi là “ngầm”, chỉ dạy Tiểu thừa gọi là “sai khiến”. Nếu căn cứ vào hạng người, thì hạnh Bồ-tát ẩn bên trong, cho nên gọi là “ngầm”, bên ngoài hiện tướng Thanh văn cho nên gọi là”sai khiến”.

“Hình”: trong giáo của Nhị thừa không tu tướng hảo, chỉ nói “Khổ, Vô thường, Bất tịnh”, tức là “hình sắc tiều tụy”. Nếu căn cứ hạng người thì các Bồ-tát ẩn Bản sắc của mình, mà biểu hiện thoe Tích hình. Chẳng thuyết liễu nghĩa, không có Thập lực vô úy, cho nên nói “không có oai đức”.

“Các ngươi nên qua xóm kia”: tức dùng Tiểu giáo, nghĩ Tiểu cơ. Đại giáo nêu lý trực Thật, cho nên nói “chạy mau qua bắt”. Tiểu giáo nêu lý ẩn quanh co, cho nên nói “từ từ nói”.

“Đây có chổ làm”: Kiến đạo và Tu đạo là “chổ làm” đoạn lậu hoặc.

“Trả giá gấp bội”: Ngũ giới Thập thiện chỉ thoát ba đường ác. Nay Tứ đế, Mười hai nhân duyên có thể thoát sinh tử, đây là “nhất bội’. Lại, Lục hạnh của ngoại đạo thì chỉ có thể chế phục lậu hoặc. Nay tu Tứ đế thì có thể đoạn dứt lậu hoặc được đến Niết-bàn, đây là “nhị bội”.

“Cùng tử nếu chịu”: có cơ duyên, gọi là “chịu”, tức là thiết lập giáo. Không có cơ duyên, là không chịu, không lập giáo.

“Muốn sai làm gì?” Nhị thừa chỉ muốn trừ lậu hoặc, thủ chứng, mà không bàn đến Tịnh Phật độ, thành tựu chúng sinh, cho nên nói “thuê nhà ngươi hốt phân”.

“Nhị nhân chúng ta cũng cùng làm với nhà ngươi”: Nhị thừa độn

căn nhờ vào Giáo và Hạnh, thực hành rồi mới có thể tu nghiệp. Nếu căn cứ vào lý, thì là Trí đế giúp nhau. Nếu căn cứ vào hạng người, thì là Quyền nhân cùng tu hành với Thật nhân.

“Khi đó nhị nhân được sai liền tìm gã cùng tử” là ý thứ hai: xét biết có cơ duyên cho nên nói: “được rồi”, lãnh ý là “biết tâm trước của con” ở Thí dụ trên.

“Thuật đầy đủ việc như trên” là ý thứ ba: thuê người cùng chung làm, lãnh ý “ca ngợi ba xe” bên trên. “Dọn” phân Khổ Tập để “lấy tiền công” Diệt Đạo.

“Cùng tử trước hỏi lấy giá tiền công, theo lời dạy mà làm công việc dọn phân” trở xuống, là ý thứ tư: lãnh “Hợp với sở nguyện của con, tranh nhau ra khỏi nhà lửa” bên trên. “Tầm” là “làm”.

Hàng Nhị thừa hâm mộ quả mà hành nhân do đó nên “trước hỏi giá tiền công”. “Người cha thấy con thì thương xót mà trách nó”:“Trách nó” không cầu Phật đạo, “thương xót” nó ham chọn A-la-hán, chỗ mất thì lớn, chỗ được chỉ có chút ít, cho nên “trách”.

Phần Tề giáo, lãnh ý trong văn Pháp thuyết và Thí thuyết xong.

“Lại, vào ngày khác” trở xuống, là phần hai: Thủ ý lãnh hội phẩm trước: Linh trí trước đã chiếu soi, từ lâu đã thiết lập Quyền, mưu tính lăn bánh xe pháp gập ghềnh đuổi theo, chẳng phải chỉ dưới gốc cây mới thấy nhân duyên. Như đã nói trên. Đây văn có bốn ý: 1. “Lại vào ngày khác”: thủ ý lãnh hội trước dùng Quyền trí từ lâu muốn Nghĩ nghi. 2. “Thấy con tiều tụy”: từ lâu biết phương tiện là thứ đồ chơi mà các con ưa thích. 3. “Cởi áo tốt mặc áo xấu”: lãnh ý từ lâu biết nên tán thán ba xe. 4. “Thân gần dạy con làm”: từ lâu đã biết hợp với nguyện của con, nó sẽ nhận làm.

Đây là ý thứ nhất: chữ “Lại” là từ có ý trịnh trọng, sắp muốn thủ ý lãnh Pháp thân địa, từ lâu đã biết căn cơ Đại tiểu (ba thừa, một thừa) mà thiết lập giáo hóa. Đây thuật lại ý Phật, cho nên gọi là “Lại”. “Ngày khác” (Tha nhật): hàng Nhị thừa tự cho rằng phương tiện là vì mình, không phải pháp Nhị thừa vì người khác, tức so sánh Pháp thân. “Ngày”(Nhật) là thời gian cũng là trí. Y thời pháp thân, dùng trí chiếu soi căn cơ, cho nên nói “ngày khác”. Nếu theo nghĩa này, thì Thật trí chiếu thật, gọi là “tự”, Quyền trí chiếu phương tiện, gọi là “tha”. Tề giáo lãnh: Lãnh hội ý hóa thân dụng sự làm “kỷ nhật”, không phải hóa thân dụng sự làm “tha nhật”. Nếu căn cứ đức Như Lai tự hành trí quyền thật, thì đều gọi là vì mình, Như Lai hóa tha chiếu soi quyền thật, đều gọi là vì người khác. Như Lai tự tha quyền thật chiếu, chiếu Thật là vì mình, chiếu Quyền là vì người khác. Đây là dò xét lãnh ý thời pháp thân, dùng quyền trí hóa tha, chiếu quyền cơ hoặc có hoặc không, chiếu dụng Quyền sự hoặc có thể hoặc không thể, đều là Quyền trí sở chiếu, cho nên nói “tha nhật”. Nếu theo nghĩa này thì Tề giáo lãnh là lãnh Quyền sự hóa tha, cho nên hàng Nhị thừa gọi là “kỷ sự” (việc của mình). Dò xét lãnh, là lãnh Quyền của tự tha, Quyền này chẳng phải sự của nhị thừa, cho nên gọi là “tha sự”. Tuy có hai ý nhưng đều thành nghĩa “tha nhật”. Nay dựa theo chỗ lãnh hội của Nhị thừa như trên, lại theo văn nói: “tha nhật” để dò xét lãnh, lãnh ý trong pháp thân chiếu căn cơ. “Cửa sổ”: thiên kiến thì nhỏ, tiêu biểu Quyền trí chiếu căn cơ thiên lệch. “Xa”: tiểu cách đại rất xa, cho nên nói là “xa”. “Thấy con”: xưa từng gieo trồng Đại căn, gọi đó là “con”, vì định dùng Đại hóa độ cho nên nói là “thấy”. Cửa sổ hẹp, ở một bên nhà, nên chưa thích hợp Đại hóa, cho nên “thôi Đại mà dạy Tiểu”.

Từ “Gầy yếu” trở xuống, là ý thứ hai: lãnh “biết tâm trước của các con thích đồ chơi nhỏ” bên trên. Vì tu nhân trí lực ít, gọi là “yếu”; tu nhân phước lực kém, gọi là “gầy”. Trong thì sợ vô thường, gọi là “tiều”, ngoài thì gặp tám khổ gọi là “tụy”. Tứ trụ là “phân đất”, vô tri là “bụi bặm”.

Từ “Ông liền cởi chuỗi anh lạc” trở xuống, là ý thứ ba: lãnh “biết tâm trước của các con nên tán thán ba xe hi hữu”. “Cởi y phục tốt đẹp”: dụ cho ẩn Báo thân vô lượng công đức. Bốn mươi hai địa, giới định tuệ, Đà-la-ni v.v.. là “chuỗi anh lạc”. Tịch diệt nhẫn là “áo tốt mịn màng”. Tướng hải đại tiểu là “đồ trang sức”. Nếu dung mạo, trang phục đầy đủ thì làm con sợ hãi, hàng nhị thừa không thích hợp thấy tướng hảo này, cho nên nói “cởi”. “Lại mặc áo thô rách”: hiện hình một trượng sáu, là “thô”, Sinh nhẫn Pháp nhẫn là “rách”. “Đất bụi lấm thân”: hiện có phiền não hữu vi hữu lậu. “Tay phải cầm đồ hốt phân” trở xuống, chỉ trị pháp hữu lậu Kiến hoặc Tư hoặc, không luận đến trí tuệ thanh tịnh của các địa. “Tay trái” dụ Thật, “tay phải” dụ Quyền. Quyền dụng thuận tiện dễ tự dùng pháp này để đoạn kết thành Phật. Lại, dùng pháp này giáo hóa chúng sinh. “Bộ dạng có vẻ e sợ”: thị hiện đồng sợ sinh tử. Lại, có quả báo gió lạnh, lúa ngựa.

“Bảo những người làm” trở xuống, là ý thứ tư: dụ thân cận dạy con cùng làm, tức là bảy khoa pháp môn trong đạo phẩm, để hiển bày “tướng dọn phân”, lãnh ý trên nói “tâm các con đều mạnh mẽ, xô đẩy lẫn nhau, cùng đua nhau ruổi chạy tranh ra khỏi nhà lửa”.

  1. Dụ “bảo những người làm”: dụ Tứ niệm xứ là địa vị Ngoại phàm.
  2. “Các ngươi phải siêng làm việc, chớ có lười nghỉ”: dụ Tứ chánh cần.
  3. “Ôi! Gã nam tử này! Chớ bỏ đi nơi khác”: dụ Tứ như ý túc.
  4. “Nên tự an tâm” trở xuống, gọi là dụ an ủi, dụ cho Ngũ căn.
  5. “Vì sao?” Trở xuống, gọi là dụ không có năm lỗi, dụ cho Ngũ lực.

Bốn câu trước đây là địa vị Nội phàm thứ hai.

  1. “Tức thời Trưởng giả đặt tên cho cùng tử, gọi là con,” dụ Bát chánh đạo.
  2. “Dù mừng việc tình cờ đó” trở xuống, gọi là dụ dạy thường làm tốt công việc dọn phân, dụ cho Thất giác. Hai câu cuối này là ngôi Thánh vị thứ ba.

-Khoa thứ nhất: “Bảo những người làm”, tức nói Tam tạng giáo dạy Tứ niệm xứ, là công cụ để dọn phân, đoạn trừ cảnh kết sử. Kinh Di Giáo nói: “Thường nương Niệm xứ mà hành đạo, thì có thể phá Tứ đảo”, lãnh ý “hợp sở nguyện mạnh mẽ” trong dụ Nhà lửa, tức là Văn tuệ.

-Khoa thứ hai: “Chớ có lười nghỉ” tức khiến siêng tu Tứ Niệm xứ. Nếu sinh lười nghỉ thì không thể diệt hai điều ác, không thể sinh hai điều thiện. Do hai việc siêng năng cho nên có thể phát sinh Noãn hỏa, xô đẩy lẫn nhau để ra khỏi nhà lửa là nhập Noãn vị Tu tuệ. “Dùng phương tiện đó nên đến được gần con”: là Niệm xứ chưa được lửa Lý làm ấm lòng, cũng như xa lạ bên ngoài, không thể thân cận phụ giúp. Do ban đầu được Noãn phương tiện, thì có thể thân cận phụ giúp.

-Khoa thứ ba: “Ôi! Gã nam tử này”: “Ôi” là tiếng kinh hãi, làm cho thức tỉnh, cũng là trách phận. Trong Chánh cần trên thì động nhiều, tức là Trí pháp, như nam tử là dương tính. Như ý túc là Định pháp, như nữ nhân là âm tính. Bởi do Chánh cần tác động, nên không được cùng Chân đế tương ưng, cho nên kêu: “Ôi!” trách phận nó, khiến xả tán nhập tĩnh, cho nên kêu: “Ôi! gã nam tử này!”. “Ngươi thường làm ở đây, chớ đi nơi khác”: Niệm xứ, Chánh cần mà động, không chuyên nhất, thì không gọi là “thường”. Trong Tứ như ý, định không lìa duyên, tư duy thì định, tư duy thì đoạn, định đoạn chuyên nhất, cho nên “thường”. Không động nhiều cho nên nói “chớ đi nơi khác”. Đây cũng trong ý “xô đẩy lẫn nhau”, tức là vị Đảnh pháp. “Ta sẽ trả thêm tiền công cho ngươi”: là trong Noãn pháp ý quán không thể phát chân, trong Như ý quán năng phát vô lậu cho nên nói “thêm tiền công”. “Những đồ cần dùng”: là lậu, vô lậu thiện trợ đạo, chánh đạo đều từ Như ý quán mà cầu, muốn cần tức được. Thể Tứ thiền bao hàm nơi tu hành, ví như “bồn chậu”. “Sinh không” thì thô ví như “gạo”. “Pháp không” thì tế ví như “bột”, đây tức là chánh đạo. Quán mười sáu hành tướng của Tứ đế để diệt trừ các kiến chấp. Vô thường ví như “muối”, khổ ví như “dấm”, đây tức trợ đạo. Như gạo bột khó ăn cần phải có muối dấm hòa vào, chánh đạo khó hiển bày, cần phải có trợ đạo trợ giúp. “Chớ tự nghi ngại”: là kết chánh đạo, trợ đạo bên trên. Thật rõ ràng trong quán Như ý, nên “chớ nghi”, và quyết định có thể làm tưởng như vật của mình, cho nên nói: “chớ ngại”. “Cũng có kẻ tớ già yếu”: Nếu muốn gánh vác mà dùng thần thông để thay thế tay chân, thì ví như “kẻ tớ”. Trong quán Như ý cũng có thần thông này, nhưng thần thông còn yếu kém cho nên nói “già yếu”, tuy không là trai tráng mạnh nhưng cũng có khả năng vận động phục dịch. Lại, dùng chánh đạo cầu lý, chánh đạo yếu chưa có thể phát chân, muốn cần trợ đạo: cửu tưởng ( tưởng), thập tưởng, bát bối xả v.v… Trợ đạo ví như người đầy tớ, trong quán Như ý cũng có pháp này. Nếu đắc trợ trợ chánh, thì thành người cộng giải thoát.

-Khoa thứ tư: “Nên tự an tâm”: đắc ngũ căn an ổn kiên cố khó hoại. “Ta như cha ngươi”: là Nhẫn giải gần giống như Chân nhưng chưa phải là Thật, cho nên nói “như cha” cũng là như con. “Chớ có sầu lo”: khiến cho ý nó yên tĩnh, phá hoại Kiến Tư hoặc.

-Khoa thứ năm: “Ta tuổi tác già lớn mà ngươi thì trẻ mạnh”: Đức Phật an trú nơi đạo trọn đã đầy đủ Trí đức và Đoạn đức cho nên nói “già lớn”, ngươi trong đạo ban đầu chưa có Trí Đoạn, cho nên gọi là “trẻ mạnh”, đây tức Nhẫn pháp vị. “Không có năm lỗi”: Đắc ngũ lực lìa năm pháp ác, đắc Tín lực cho nên “không dối”, Tinh tấn lực cho nên “không biếng trễ”, Niệm lực cho nên “không sân”, Định lực nên “không hận”, Tuệ lực nên “không nói lời thán oán”. “Như các người làm công khác”: Xa thì chỉ ngoại đạo các kiến cầu tìm lý gọi là “các người làm công khác”. Gần thì chỉ bốn vị: Noãn v.v… chưa tránh khỏi năm lỗi, cũng gọi là “các người làm công khác”. Văn đây không nêu “lìa năm pháp ác” tức đắc ngũ lực. “Từ nay về sau như con đẻ của ta”: hạ nhẫn mười sáu sát na thời tiết còn dài, trung nhẫn tuy lại thẳng quán cũng chưa là một sát na, như thượng nhẫn thế gian một sát na tâm cuối cùng bên cạnh Chân, gần giáp Thánh, cho nên gọi vị này là “như con đẻ của ta”, tức vị Thế đệ nhất pháp.

-Khoa thứ sáu: “Tức thời trưởng giả lại đặt tên cho cùng tử, gọi nó là con”: Được Bát chánh đạo, nhập Kiến đạo, cùng đua nhau ruổi chạy, cho nên “gọi vị này như là con trẻ”. Thế đệ nhất pháp và Chân, cách nhau không lâu, cho nên nói “tức thời”. Kinh A-hàm nói có năm loại con Phật: Tứ quả và Bích-chi-phật gọi là con thật của Phật. Bồ-tát không đoạn kết, nên nghĩa con chưa thành tựu.

-Khoa thứ bảy: “Khi ấy cùng tử dù mừng việc tình cờ đó” trở xuống, là dụ “thường làm tốt công việc dọn phân”. Ví như tuy là con, mà tư duy nó chưa thấu đáo, như còn ở Học vị chưa thoát khỏi nạn cho nên “trong hai mươi năm thường làm tốt công việc dọn phân”. Cũng lại tự biết không có khả năng nối dõi Đại thừa, chính là y giáo tu hành hết khổ đó thôi! Cho nên nói: “vẫn còn tự cho mình là khách, là người làm công hèn”.

Nếu đắc sơ quả, thì nhàm chán Tiểu ưa thích Đại. Cơ duyên Đại thừa phát sinh, thì được trao cho Đại thừa. Lại, không cần tiến lên đoạn các kết sử còn sót lại. Chính do không xả Tiểu chí, nên Đại cơ không phát, vì thế tạm khiến nương giáo để tận trừ các lậu. Cho nên, nói “do đó mà trong hai mươi năm thường làm tốt công việc dọn phân”. “Hai mươi năm”: Kiến đế một giải thoát một vô ngại, Tư duy thì chín giải thoát chín vô ngại, cho nên nói “hai mươi năm”. Lại, nói trong Kiến đạo và Tư đạo đoạn kết, gọi là “hai mươi năm”. Hoặc là nói ngũ hạ phần kết và ngũ thượng phần kết, là “hai mươi năm”. Lại, nói cũng như trong pháp nhị thừa đoạn Tư hoặc gọi là “hai mươi năm”. Lại nói nương tựa nhị nhân được sai khiến, cùng đoạn các kết còn lại, gọi là “hai mươi năm”. Từ khi có cơ duyên Nhị thừa đến khi cảm Phật thì gọi là: “Từ khi thấy con đến nay đã hai mươi năm”. Nếu trú trong địa vị Nhị thừa chuyển Đại thừa giáo, gọi là trong hai mươi năm thường làm việc nhà. Nói: “hai mươi” thảy đều có nguyên do. Chỉ một câu này tức là vị tranh ra khỏi nhà lửa tam giới.

“Qua đó về sau” trở xuống, là dụ lãnh giao phó gia nghiệp. Gần thì lãnh ý “đồng ban cho xe lớn” trong dụ Nhà lửa. Xa thì lãnh ý “Vô thượng đạo” trong Pháp thuyết. Văn đây chia làm hai phần: Trước, Lãnh hội. Sau, Giao phó. Mỗi phần lại chia làm hai: cùng lãnh bốn ý trong dụ Nhà lửa đồng ban cho xe lớn, cũng là trong phẩm Phương tiện hiển thật bốn ý. Chương đầu có hai:

  1. “Lòng dần thể tin (Tâm tướng thể tín)”, tức lãnh ý “thoát khỏi nạn” bên trên.
  2. Ủy thác cho gia nghiệp, dần dần con đã thông thạo bình yên, thành tựu chí Đại thừa, tức lãnh ý “đòi xe” bên trên.

– Chương sau có hai:

  1. Giao phó gia nghiệp, tức lãnh ý “đồng ban cho xe lớn”.
  2. Được giao phó vui mừng, tức lãnh ý trên “được xe hoan hỷ”.

Do “tâm tướng thể tín” cho nên được ủy thác giữ lấy gia nghiệp, gia nghiệp đã thông thạo, đều đầy đủ tri kiến, thì thành tựu chí Đại thừa. Bởi ý chí thông thái, cho nên được giao phó gia nghiệp, được giao phó gia nghiệp cho nên hoan hỷ. Nguyên do có từ xa đến gần. Nếu trước không dạy làm thuê, trả công từng ngày, thì làm sao thể nghiệm được thực chất mà được ủy thác gia nghiệp giao phó tài sản? Nội hợp: do thời Tam tạng giáo thì đoạn kết, kham các việc đều nghe Đại giáo, đều thọ thời Tịnh danh phá chấp, chuyển giáo Bát-nhã, mà đạt được giao phó gia tài. Nên biết: “làm thuê nhận tiền công” tức là nguyên do xa, “thể nghiệm tin theo”, được giao phó gia nghiệp, tức là nguyên do gần.

Lại, trong thí dụ Dẫn dụ ở trước, có Tề giáo lãnh ý, bắt đầu là từ gốc cây Bồ-đề đến cuối cùng là ra khỏi nhà lửa. Lại, có Dò xét lãnh, bắt đầu là từ pháp thân đến cuối cùng là suy nghĩ xong. Nay lãnh ý cũng có hai: Ban đầu dò xét lãnh ý từ bi bốn vị điều hòa thuần thục, cuối cùng lãnh giao phó gia tài một vị rốt ráo. Xa gần đầu cuối hợp luận năm vị. Nghĩa là gì?

1. Nhũ vị: Tức “sai người hầu cận”(bàng nhân).”Bàng nhân sở thuyết” chính là dụ cho giáo Hoa Nghiêm viên đốn, giáo này là tối sơ. “Bàng nhân” dụ cho “trâu” sở thuyết dụ cho “sữa”. Nội hợp: từ khi đức Phật xuất ra mười hai bộ kinh, tức vị ban đầu. Lại, lấy pháp ban đầu này dự định cho người Nhị thừa, nhưng họ không có cơ duyên nên không thọ nhận, mà “mê ngất ngã xuống đất”. Pháp ấy hoàn toàn nguyên chất như hương vị sữa tươi mới vắt chưa qua chế biến (Nhũ vị).

2. Lạc vị: nêu “ngầm sai khiến nhị nhân”(mật khiển nhị nhân) nói pháp dọn phân, đây là dụ cho “sau khi thôi hóa Đại thừa, Phật đến vườn Lộc uyển nói tam thừa”. Tiểu thừa liền tin, chuyển phàm thành thánh như chuyển “sữa” thành “lạc”. Nội hợp: từ mười hai bộ xuất Tu-đa-la, tức vị thứ hai.

3. Sinh tô vị: nêu “tâm tướng thể tín nhập xuất vô nan” là dụ sau thời Tam tạng thì thuyết kinh Phương Đẳng như kinh Tịnh Danh… tán dương Đại bắt bẻ Tiểu, hàng Nhị thừa nghe Đại mà không hủy báng dẹp bỏ Tiểu, không thoái. Bởi đã trải qua thời Tam tạng đã đoạn kết sử, như được giá tiền công một ngày, cho nên kham nổi sự khen chê đó. Nếu chưa đoạn kết, thì không kham nghe tán dương Đại, như ở trước không thọ Khuyến môn, cũng không kham nghe bắt be Tiểu, như trước không thọ Giới môn. Nay không hủy báng không thoái lui, là vì “tâm tướng thể tín” vậy. Tự thân đã chứng Tiểu, thì tin Đại không hư dối, được giá trị của Niết-bàn, vì thể nghiệm được cho nên bị bắt bẻ mà không sân, tuy chẳng việc mình mà không nghi ngờ phỉ báng. Tâm này thuần thục, như từ Lạc làm ra Sinh tô. Nội hợp: từ Tu-đa-la xuất kinh Phương-đẳng, là vị thứ ba.

4. Thục tô vị: nêu “Trưởng giả có bệnh, tự biết mình không bao lâu sẽ chết” trở xuống, là dụ Phương-đẳng, “tâm tướng thể tín ra vào không ngại” về sau là giao phó giữ gia nghiệp, khiến cho kia lãnh giáo làm Đại Bồ-tát thuyết Ma-ha Bát-nhã, đã lãnh biết các vật, thông suốt tất cả pháp môn, tâm sáng, thuyết pháp hay, chỉ ân hận trụ Tiểu thừa chẳng phải phận mình, nay bỗng mở kho ra hứa cho, lẽ nào không vui ư?! Do đó tâm dần dần thông thái, thành tựu Đại chí, giống như từ Sinh tô tạo ra Thục tô, là từ Phương-đẳng xuất sinh Ma-ha Bát-nhã là vị thứ tư.

5. Đề hồ vị: nêu “Đến giờ sắp chết, ông gọi người con đến”: đây là dụ sau Bát-nhã, phân rõ thiên tánh, định cha con, hội tam qui nhất, giao phó gia tài, thọ ký thuyết giáo Pháp Hoa, khai tri kiến Phật, chỉ bày tướng chân thật, Bồ-tát nghi trừ, Thanh văn làm Phật đều dùng pháp Như Lai diệt độ mà mình diệt độ, như từ Thục tô làm ra Đề-hồ, là từ Ma-ha Bát-nhã xuất sinh Đại Niết-bàn, tức vị thứ năm.

Bốn đại đệ tử hiểu sâu ý Phật, lãnh sâu giáo một đời gồm năm vị, từ đầu đến cuối thứ lớp mà văn đã nêu ra đây. Lãnh gia nghiệp, văn chia làm hai:

  1. Tương thể tin.
  2. Ra lệnh lãnh gia nghiệp.

– Phần “Tương thể tin” lại có hai phần:

  1. Nêu thể tin.
  2. Còn ở bản vị.

Đây là phần đầu: Nêu thể tin. “Tương” là tin lẫn nhau, nghĩa là ở trong Tam tạng giáo được giá trị Niết-bàn, biết đây đã không hư dối, nay vì Bồ-tát thuyết Đại thừa, biết đây cũng lại chẳng hư dối, đây là con tin cha. Đức Phật biết các hàng đã đoạn Kiến Tư hoặc này, nghe ắt không hủy báng, hàng vô lậu lợi căn nghe, ắt sinh lòng tin, đây là cha tin con. Do đó thấy thân đặc tôn, nghe Đại thừa giáo, gọi là “vào”. Lại bị quở trách vì thấy thân trượng sáu thuyết pháp Tiểu thừa, gọi đây là “ra”. “Vào ra” Đại thừa Tiểu thừa mà “không nghi nan” là nghĩa đó vậy.

Phần hai: Còn ở bản vị. “Nhưng chỗ của cùng tử vẫn ở chỗ cũ”: Tuy ra vào không ngăn ngại, được nghe Đại thừa mà cho là việc của Bồ-tát, chẳng phải phần trí của mình, không khẳng định hồi Tiểu hướng Đại. Còn ở nơi La-hán, thì không nói đời vị lại sẽ được làm Phật, đây là lãnh giáo các kinh Đại tập, Tịnh Danh v.v… như vị Sinh tô.

Phần thứ hai: Ra lệnh lãnh gia nghiệp. Từ “Thế Tôn! Khi đó Trường giả có bệnh” trở xuống, là ủy thác giữ gia nghiệp, đây lãnh hội ý kinh Đại Phẩm, Phật bảo chuyển giáo Bát-nhã, giáo Thục tô. Đây chia làm hai chương: 1. Ra lệnh biết gia sự. 2. Nhận lệnh lãnh biết. Mỗi chương mỗi đều có bốn ý: Chương một có bốn ý: 1. Nêu thời tiết. 2. Chánh thức bảo cho biết gia sự. 3. Răn bảo khiến theo ý cha. 4. Ra lệnh không để sót mất.

– Ý thứ nhất: “không bao lâu sẽ chết”: có cơ duyên thì nên hiện hữu, là sống; cơ duyên hết thì nên từ tạ là chết, nay cơ duyên giáo hóa sắp xong, nên từ tạ “không bao lâu”.

Từ: “Nói với cùng tử rằng: Ta nay có nhiều” trở xuống là Ra lệnh biết gia sự. “Vàng” là lý Biệt giáo, “bạc” tức lý Thông giáo. Đại Phẩm nêu rõ chân đế không ngoài hai lý này, mà nói “có nhiều” tức xét theo lý thì chẳng phải nhiều, xét theo các loại pháp môn thì cũng được nói “nhiều”, ví như lý Không chẳng phải mười tám, căn cứ vào việc phá mười tám pháp mà gọi là mười tám Không. Trong Khuyến học nêu tất cả pháp môn đều là trân bảo. “Kho” là định môn, một trăm lẻ tám Tam-muội. “Đụn” là tuệ môn, mười tám cảnh không, Thông Biệt hai thứ “kho đụn” định tuệ gồm chứa tất cả thiền định trí tuệ không thiếu sót món nào. Trong đầy ngoài dư tràn, cho nên nói “tràn đầy”. “Trong đó nhiều ít”: thuyết Bát-nhã thì có rộng lược hai môn. Bồ-tát hành Bátnhã nên biết tướng lược rộng, lược thì “ít”, rộng thì “nhiều”. Tự hành là “giữ lấy”, hóa tha là “đem cho”. Trong kinh Đại Phẩm nói: “Ông nên vì Bồ-tát mà thuyết”, cho nên nói: “Ngươi phải biết hết”.

Từ “Lòng ta như thế” trở xuống, là Răn bảo khiến hiểu thấu tâm ta. Đức Phật dùng Bát-nhã làm tâm, ông nay nối tiếp đèn Pháp nên theo ý Phật mà thuyết. Lại, hàng Nhị thừa vốn hiểu là phân tích pháp không; bảo phải “thể theo ý đây”: là bảo khiến chuyển giáo dùng răn bảo khiến đồng thể pháp không của ta. Xưa thì được lệnh rằng: Sự nối tiếp đèn pháp giao cho người khác, nay mới biết Phật khiến ta biết cách thể nghiệm, nên nói: “nên thể theo ý ta”. “Nay ta cùng ngươi bèn là không khác”: Giải thích đây có ba:

1. Được gia bị tốt nên nói cùng Phật không khác.

2. Theo lý, vì các pháp đều như, cho nên “không khác”, Thiện Cát như , Như Lai như, Nhất như, không có hai như, cho nên nói: “bèn là không khác”.

3. Căn cứ thời nay, mới ngộ ra thiên tánh cha con xưa nay không khác, mà người Nhị thừa tự cho được gia bị là có khác đó thôi. “Nên gắng dụng tâm” trở xuống là lệnh “chớ để sót mất”. Ông vì Bồ-tát thuyết giáo Bát-nhã chớ để sót mất, đối với Nhị thừa thì đây tức pháp của ông sau sẽ dùng, vì vậy cho nên không để sót mất.

Từ “Liền nhận lời bảo” trở xuống, là chương thứ hai, cũng có bốn ý:

1. Nhận lệnh lãnh biết.

2. “Không mong cầu lấy”, Thiện Cát tuy nói Bát-nhã tự cho là ta không có phần đó.

3. Chưa bỏ tâm thấp kém, “vẫn còn ở chỗ cũ”: trú La-hán vị, tuy hâm mộ Đại cũng chưa định nói muốn làm Bồ-tát. “Chưa bỏ tâm thấp kém”: Tuy thẹn vì tâm Tiểu thừa cũng chưa quyết định nói bỏ chứng Tiểu thừa.

4. “Lại trải qua thời gian ngắn cha biết ý con” trở xuống, tức là lãnh ý dụ “đòi xe” bên trên. “Tự chê tâm ngày trước”: muốn cầu Đại đạo, tức là Đại cơ phát.

Hỏi: Thế nào gọi là thời gian ngắn?

Đáp: Có người nói thuyết Bát-nhã xong, ở nơi khác dạo xem, Tầm tư pháp môn Đại thừa đã lãnh thọ, sinh tâm vui thích, như thế là sót hay không sót? Tầm tư như thế tức là thời căn cơ Đại thừa phát, thời đó cách Pháp Hoa chưa lâu, cho nên nói là “thời gian ngắn”. Lại nữa, lúc đang thuyết Vô Lượng Nghĩa thì căn cơ Đại thừa phát, làm sao biết? Trong Vô Lượng Nghĩa nêu bảy thứ phương tiện, vô lượng tiệm đốn từ một pháp sanh. Vì nghe đây thuyết, tư duy xưa Tam tạng Tam thừa đều từ một pháp sanh. Như thế Tam thừa nay cũng nên nhập vào nhất, tư duy như vậy dần dần đã thông thái tâm Đại thừa, liền phát, cho nên nói “thành tựu Đại chí”.

Từ “Đến giờ sắp chết” trở xuống, là chính giao phó gia nghiệp, lại chia làm hai phần:

  1. Giao phó gia nghiệp.
  2. Hoan hỷ.

– Giao phó gia nghiệp có bốn ý:

  1. Thời gian giao phó gia nghiệp.
  2. Bảo con mời mọi người làm chứng.
  3. Kết hội cha con.
  4. Chánh giao phó gia nghiệp.

Ý thứ nhất: “Khi sắp chết” nêu thời tiết, hóa duyên sắp xong, ở núi Linh Thứu tám năm thuyết kinh Pháp Hoa, thời gian xướng nhập Niết-bàn.

Ý thứ hai: Từ “Gọi người con đến” trở xuống, là tập hợp mọi người, tức là đồ chúng được thọ hóa từ hai vạn ức Phật, gọi là con, người có căn cơ Đại thừa thuần thục khắp mười phương đều đến vân tập, mà trên nói là “bốn chung vây quanh” vậy. “Hội cả thân tộc”: Xưa nói phân thân Phật như “thân tộc”, Thập địa như “quốc vương”, Cửu địa như “đại thần”, Bát địa như “Sát-lợi”, Thất địa như “Cư sĩ”. Người ở phía Bắc dùng phân thân làm “thân tộc”, Đa Bảo làm “quốc vương”, Thập địa làm “đại thần”, Bát địa làm “Sát-lợi”, Tam thập tâm làm “cư sĩ”. Nếu vậy, lúc Tích môn thuyết pháp, thì Phật phân thân và Phật Đa Bảo đều chưa hiện tiền, sao được nói như vậy? Kia giải thích rằng: chính là lúc Thân-tử hoài nghi, ở trong Pháp Hoa chưa thể sinh lòng tin, vì vậy cho nên Đa Bảo phân thân nhất thời đến làm chứng. Nếu nghi trừ, tin hiểu thọ ký đã xong, thì dùng Đa bảo để làm chứng chỗ nào? Cho nên biết vào thời Pháp thuyết thì Phật Đa Bảo đã xuất hiện. Chỉ vì lời Kinh gia nói không để trùng lặp mà muốn cho thứ tự sắp xếp Nhân môn về sau đó thôi. Nay cho rằng đây là do lòng người, không nên lấy làm căn cứ. Vì thuyết Tích môn việc gần, chưa dùng đến xưa làm chứng. Nếu thuyết Bản môn việc xa, thì cần phải trước lấy xưa làm chứng. Nay không dùng giải thích kia, y Tát Vấn kinh v.v… Nay nêu Pháp thân Bồ-tát khắp mười phương, là chúng ảnh hưởng, làm “thân tộc”. Chúng ảnh hưởng, phần nhiều là đồng nghiệp đức Thích-ca ngày xưa, đều cùng Như Lai ở nơi hai vạn đức Phật cùng được khai hóa, đối với kia đều là chú bác cùng tu hành, cho nên dùng đây làm “thân tộc”. “Quốc vương”: hết thảy các kinh tiệm đốn, kinh nào cũng gọi nơi sở thuyên là Kinh vương. Vì lợi ích cho đương cơ nên hưng phế có thời, bộ bộ không đồng, gọi đó là “quốc”, đều nói Đệ nhất tức là “vương”. Lại, kinh này hội thông các giáo, đâu chẳng phải tụ tập quốc vương? Cho nên, trong lúc thuyết Vô Lượng Nghĩa trước đã thâu tập. Kia nói: Ban đầu thuyết Tứ đế, Thập nhị duyên sinh, tiếp thuyết Phương đẳng Thập nhị bộ kinh, tiếp thuyết Ma-ha Bát-nhã, Hoa Nghiêm Hải Không, đây tức tập hợp khắp các kinh, dung thông tiệm đốn, hội nhập Kinh điển này cho nên gọi là “hội cả quốc vương”. Các Đại Bồ-tát như Di-lặc… đều là Đẳng giác, làm “đại thần”, Sơ địa đến Cửu địa làm “Sát-lợi”, tam thập tâm sinh trong chủng tánh Pháp vương làm “cư sĩ”. Các hạng này đều theo đức Thích-ca thọ hóa.

Từ “Các ngài nên biết” trở xuống, là kết hợp cha con: thật theo ta thọ học thật “là con ta”, từ nơi ta mà khởi hiểu là “ta sinh ra”, Ta đã từng ở Pháp hội của hai vạn ức đức Phật, thường giáo hóa pháp Đại thừa cho nó, cho nên ta thật là cha. “Ngày trước trong thành nọ”: kinh này đối văn ở các nước phương Tây phần nhiều ít bỏ qua chi tiết này, hoặc có thể nêu tên riêng của cõi nước thời trước như nhân duyên Đại Thông Trí Thắng v.v… Nay giản lược danh tự, chỉ nói “thành nọ”. Chính vì chúng sinh trái với Đại thừa đây, khởi vô minh tối tăm, vào đường sinh tử, cho nên nói “bỏ ta trốn đi”. Trải qua đủ sáu đường, cho nên nói “hơn năm mươi năm”. “Xưa ta ở tại thành này lòng lo lắng tìm kiếm”: từ xưa ở trong Pháp thân địa, thường dùng nhị trí quán tìm kiếm cơ duyên để hóa độ, bắt đầu ngày nay cảm ứng đạo giao, cho nên nói “bỗng ở nơi này gặp được nó”.

Từ “Nay ta co bao nhiêu” trở xuống, là chính giao phó gia nghiệp: hết thảy vạn hạnh vạn đức Đại thừa, cho nên nói “tất cả của cải”. “Các thứ xuất ra nạp vào trước kia, là thứ mà con đã biết”: Tức nhớ lại ý chỉ ngày xưa đã lãnh giáo trong Đại phẩm. Cái được ủy thác có rộng có lược, như cộng Bát-nhã, bất cộng Bát-nhã. Là thứ mà ông đã biết, tức là ông có. Cho nên Pháp Hoa chỉ nêu tri kiến Phật, không còn rộng thuyết tất cả hành tướng.

Từ “Cùng tử nghe cha nói như vậy” trở xuống, tức là được giao phó hoan hỷ, lãnh hội ý trên nói “đều cưỡi xe lớn, được điều chưa từng có”. Tự xét mình vốn không có tâm mong cầu Phật đạo, mà nay bỗng nghe được thọ ký làm Phật, cho nên nói không cầu mà tự được. Trong thời Tam tạng thì tâm vốn không cầu. Trong thời Phương Đẳng thì thẹn Tiểu thừa tuyệt dứt hy vọng, cho nên không cầu. Trong thời Bát-nhã tuy lãnh nhận mà chẳng phải phần mình, cho nên không cầu. Như thế không cầu, mà nay tự được.

Từ “Thế Tôn! Ông trưởng giả đại phú đó” trở xuống, là phần Hợp thí. Theo ngài Quang Trạch thì hợp với Thí dụ trước hoặc sau, giải thích rất sơ lược. Nay chỉ nương văn điểm ý không nói lại quan hệ của con. Hợp thí lược, quí ở đạt ý, không cần phí lời. “Trưởng giả đại phú”: là hợp với Thí dụ cha con lạc nhau. Văn thí dụ chia làm bốn. Chỉ hợp thí dụ cha con mà tổng được ý khác. “Như Lai” hợp cha, “tương tự” hợp con. “Tương tự” có hai nghĩa:

1. Chọn Đại cơ làm con, xưa chưa bỏ trốn đã chẳng phải địa vị chân thật, mà còn ở ngoại phàm, cho nên nói “tương tự”.

2. Chọn Tiểu cơ làm con, bởi vì Tiểu cơ gần giống căn tánh Đại thừa. Con đã trốn cha, đáng trách, nên nói “tương tự”.

Hỏi: Ban đầu giải thích phẩm này nói rằng “đã được nhập chân”, sao đây nói là “tương tự”?

Đáp: Hợp lúc con bỏ cha trốn, cho nên nói “tương tự”. Đầu phẩm nói “khi con khai ngộ”, ông hỏi sai rồi vậy.

Từ “Như Lai thường nói chúng con là con” trở xuống, là hợp ý cha con gặp nhau, chỉ hợp Trưởng giả thấy con liền biết. Từ “Chúng con vì ba món khổ” trở xuống, là hợp ý truy tìm dẫn dụ đem về. Trên có hai dẫn dụ sai người hầu đuổi theo, nay hợp cũng có hai. Trên ban đầu sai người hầu đuổi theo, tiếp lại lần nữa truy tìm, tiếp lại phóng xả, nay hợp hai môn và không có căn cơ. Sao gọi là thấy bắt tự nghĩ không có tội? tức hợp không có Đại cơ. “Ưa Thích-các pháp Tiểu thừa”, là hợp có Tiểu chí, không hợp ý phóng xả. “Ngày nay đức Thế Tôn khiến chúng con” trở xuống, là hợp hai dẫn dụ. Bên trên có Tề giáo và Dò xét lãnh. Nay hợp hai ý. Từ “dẹp trừ” trở xuống, là hợp Tề giáo trình bày đầy đủ việc trên. “Chúng con ở trong đó siêng năng tinh tấn”: hợp “Theo lời dạy mà làm công việc dọn phân” bên trên. Từ “Được đến Niết-bàn” trở xuống, hợp ý trên “trước hỏi lấy giá tiền công”. “Nhưng đức Thế Tôn biết trước là chúng con” trở xuống, hợp Dò xét lãnh bên trên. Thí dụ trên có bốn, nay hợp ba, không hợp Chánh thức dạy làm, tức chỉ ý trên siêng năng dọn phân, bao gồm đủ ý, không hợp nữa. Trên nói “xa thấy con”, nay nói “biết trước”, trên nói “xấu xí tiều tụy”, nay nói “tâm chấp trước vào cái ham muốn tệ xấu”, trên nói “liền cởi chuỗi anh lạc… lại mặc áo thô xấu”, nay nói “bị Phật buông bỏ không vì phân biệt rằng: Các ông…bửu tàng tri kiến Như Lai”. Từ “dùng sức phương tiện nói bày trí tuệ của Như Lai” trở xuống, là hợp thí dụ giao phó gia nghiệp, trên thì có nguyên do, có giao phó, nay hợp cũng có hai. Nguyên do có hai phần:

  1. Tin nhau.
  2. Ủy thác gia nghiệp.

– Nay hợp cũng có hai: Tin nhau có hai: trước hợp “thể tín” dùng phương tiện lực nói bày trí tuệ của Như Lai, Xưa nói: nhân trí tuệ Như Lai, đem làm quả nhị thừa. Nay nêu: mang phương tiện tam thừa, thuyết thật tướng Đại thừa, cho nên nói “dùng sức phương tiện… Phật vì chúng con mà thuyết pháp Đại thừa”, cũng là hợp “xuất nhập không nghi ngại”. Dùng sức phương tiện để xuất biện Nhị thừa, dùng trí lực Phật để nhập, rõ thật tướng. Nếu không “thể tín” thì làm sao mà “đối trước con nêu rõ trí tuệ Phật”. Từ “Chúng con theo Phật, được Niết-bàn giá một ngày công” trở xuống, là hợp “vẫn còn ở chỗ cũ”.

“Chúng con lại nhân trí tuệ của Như Lai” trở xuống, là hợp lãnh gia nghiệp. Trên có ra lệnh và nhận lệnh. Nay chỉ hợp nhận. Nhận có bốn ý:

  1. Nhận mệnh lệnh.
  2. Không mong lấy.
  3. Không bỏ tâm thấp kém.
  4. Dần thông thái.

Nay chỉ hợp hai: ban đầu hợp nhận lệnh lãnh nghiệp. “Mà tự chính mình” trở xuống, là hợp không mong giữ lấy và được các sở hữu… “Không có chí nguyện”: nêu Phật thêm oai lực khiến như tâm Phật mà thuyết, cho nên nói “con không có chí nguyện”. “Vì sao vậy?”… là giải thích ý không mong cầu. Bởi Phật dùng sức phương tiện tùy tâm Tiểu thừa mà thuyết pháp, nên nói “không có phần”. Do đó “chúng con không tự biết thật là Phật tử”, cho nên không lấy. “Đức Phật dùng sức phương tiện thuận theo chúng con mà nói pháp”: Phật dùng sức phương tiện đem pháp Thật tướng cho Nhị thừa, chúng con không biết ý “bất cộng” cho nên chẳng phải Phật tử. Từ “Ngày nay chúng con mới biết” trở xuống, là hợp giao phó gia nghiệp. Trên có hai ý: giao phó và hoan hỷ. Nay hợp cũng có hai. Trên giao phó gia nghiệp có bốn, nay thì hợp chung ý giao phó, có hai:

  1. Nêu rõ Đức Phật vốn đối với Đại thừa không xẻn tiếc.
  2. Giải thích nghĩa không xẻn tiếc.

Chính do ưa pháp Tiểu thừa, cho nên không thể sớm giao phó Đại thừa đó thôi! Trong kinh này, nêu việc nay để chứng minh việc xưa. Nay lý chỉ có Nhất thừa, cho nên biết Tam thừa xưa là chẳng phải thật, chỉ vì chưa kham nổi cho nên đối trước Đại thừa hủy báng Tiểu tâm, muốn cho bỏ ngụy chọn chân, nhất định “biết Phật không xẻn tiếc”, nhưng đức Phật thật dùng Đại thừa mà giáo hóa. Từ “Chúng con nói vốn không có tâm mong cầu” trở xuống, là hợp “hoan hỷ”, cũng là ý không mong cầu Tam thừa.

Kệ có tám mươi sáu hàng rưỡi. Bảy mươi ba hàng rưỡi đầu, tụng các phần trên. Mười ba hàng tiếp, tán thán ân sâu của Phật.

– Bảy mươi ba hàng rưỡi lại chia làm hai:

  1. Hai hàng, tụng Pháp thuyết.
  2. Bảy mươi mốt hàng rưỡi, tụng Thí thuyết.

-Trong tụng Pháp thuyết, không tụng ý không cầu, chỉ tụng ý tự được.

-Tụng Thí thuyết, Bảy mươi mốt hàng rưỡi chia làm hai phần:

  1. Bốn mươi mốt hàng, tụng Khai thí .
  2. Ba mươi hàng rưỡi, tụng Hợp thí .

– Phần Khai thí trên có bốn: a. Cha con thất lạc.

  1. Gặp nhau.
  2. Ủy thác gia nghiệp.
  3. Giao phó tài vật. Nay đều tụng.

– Mười ba hàng tụng Cha con thất lạc, thí dụ trên có bốn ý:

  1. Con trốn cha.
  2. Cha tìm con.
  3. Con lần hồi trở về.
  4. Cha nhớ con.

Nay tụng cũng bốn ý nhưng không theo thứ tự, như sau:

Một hàng rưỡi, tụng ý thứ nhất: con trốn cha đi. Bảy hàng, tụng ý thứ hai: cha tìm con không được. Hai hàng, tụng vượt qua ý thứ tư: lo nhớ càng nặng. Hai hàng rưỡi, tụng ý thứ ba trước: con lần hồi trở về gần cha. Bốn ý này văn trên đều có hai:

Đây là tụng Khai thí. Từ “Thí như gã cùng tử” trở xuống, một hàng rưỡi chỉ tụng ý “con trốn cha đi”, không tụng ý “hướng bản nước mà trở về”. Trong thí dụ Nhà lửa, nêu “trưởng giả sở hữu vương quốc ấp tụ lạc” là nói rộng. Trong đây nêu cùng tử luân hồi trong ba cõi, gọi là “các nước”; sáu đường gọi là “hơn năm mươi năm”.

“Cha gã lòng buồn nhớ” trở xuống, bảy hàng, tụng “Cha tìm con không được”.

– Trên có hai ý. Nay tụng cũng có hai:

1. Nửa hàng, tụng ý tìm con không được.

2. “Kiếm tìm đó đã mệt” trở xuống, sáu hàng rưỡi, tụng ý không vì lạc một đứa con mà phế bỏ việc gia nghiệp. “Tìm kiếm khắp bốn phương”: không giống bên trên, “bốn phương” bên trên là căn cứ Tứ đế suy tìm lý. Nay “bốn phương” là quán trong Tứ sinh, để tìm kiếm căn cơ đáng độ. “Tạo dựng nên nhà cửa”: là Hữu dư Niết-bàn trong quốc độ Hữu dư, xây nhà từ bi, ở nương nhà tánh Không. “Người lui tới rất đông”: là Bồ-tát các cõi qua lại nghe pháp.

“Mà tuổi đã già nua” trở xuống, hai hàng, tụng vượt qua ý thứ tư: lo nhớ con càng nặng. Văn trên có hai, đây chỉ tụng ý “trước mất con nên nay khổ”, không có ai để giao phó cho nên buồn!

“Bấy giờ gã cùng tử, đi tìm cầu ăn mặc” trở xuống, hai hàng rưỡi, tụng ngược lên ý thứ ba: lần hồi hướng về gần cha. Văn trên có hai, nay tụng cũng có hai:

1. Hai hàng, tụng nguyên do gần cha, do cầu y thực.

2. “Dần dần đi trải qua” trở xuống, nửa hàng tụng chính đến gần thành của cha. Trong phần đầu “nguyên do gần cha” nói: “Ấp này đến ấp khác”: căn trần liên quan với nhau ví như “ấp”, thập bát giới như “nước”. Tu hữu lậu thiện ví như “có được của”, tu nhị thừa thiện ví như “không được gì”, không được pháp thực Đại thừa nên bị “đói khát”, không dụng Đại lực nên “yếu”, không có Đại công đức nên “gầy”. Trên cái thiện Có, Không đó mà khởi Kiến, Tư, ví như “ghẻ lác”.

“Xoay vần làm thuê mướn” trở xuống, bảy hàng rưỡi, tụng ý thứ hai trong phần Khai thí: “cha con gặp nhau”. Văn trên có hai, nay tụng cũng hai:

  1. Sáu hàng rưỡi, tụng Con thấy cha.
  2. Một hàng, tụng Cha thấy con.

– Trong phần con thấy cha, văn trên có bốn, nay tụng có ba:

1. Nửa hàng, tụng nguyên do thấy cha, do làm thuê làm mướn mà đến nhà cha.

2. “Lúc ấy ông trưởng giả” trở xuống hai hàng rưỡi, tụng ý thứ ba thấy tướng cha. Trên nêu chỗ thấy cha, chỗ ấy là bên cửa. Nay nói trưởng giả “đang ở trong nhà ông”, là gồm ý chỗ được nhìn thấy. “Giăng màn châu báu lớn v.v…”: chỗ ma thấy tướng cha, là “tòa sư tử”. Pháp thân là thầy là vua. Báo, Ứng thân là trưởng giả. “Biên chép ghi giấy tờ”(Chú ký khóan sớ), tức thọ ký nói rõ sự tu hành. Theo ý riêng: dùng quảng hiển lược là “chú”, trao quyết định gọi là “ký”. Tứ hoằng thệ nguyện là “khóan”, tu hành là “sớ”. “Gã cùng tử thấy cha” xuống ba hàng rưỡi, tụng ý thứ tư Sinh tâm sợ lánh. “Lúc bấy giờ trưởng giả” xuống một hàng tụng ý thứ hai: cha thấy con.

– Văn trên có bốn:

  1. Chỗ thấy.
  2. Thấy liền biết.
  3. Thấy hoan hỷ.
  4. Hợp với sở nguyện.

– Nay chỉ tụng hai:

  1. Nửa hàng tụng chỗ thấy con.
  2. “Xa trông thấy con mình” xuống nửa hàng, tụng thấy con liền biết.

Từ “Ông liền sai kẻ sứ, Đuổi theo bắt đem về” trở xuống, mười

hàng rưỡi, tụng phần “truy tìm dẫn dụ đem về” bên trên.

(1) Nay, ba hàng đầu, tụng sai người hầu đuổi theo. Trên “sai người hầu đuổi theo” văn có ba:

  1. Gọi con không đến.
  2. Gọi lại cũng không đến.
  3. Thả ra.

Nay ba câu đầu, tụng ý lần đầu kêu, không có cơ duyên nên không đến. Tiếp “Mê ngất” một câu tụng lại kêu cũng không đến. Tiếp nữa “Người này theo bắt tôi” trở xuống, hai hàng tụng không có cơ duyên, tức trên giải thích ý buông bỏ.

(2) “Ông liền dùng phương tiện” trở xuống, bảy hàng rưỡi, tụng mật khiển nhị nhân dẫn dụ. Văn trên có hai nay tụng cũng hai:

  1. Ba hàng đầu tụng dụ thuê làm.
  2. Bốn hàng rưỡi tụng dụ dạy cho làm.

– Văn thuê làm bên trên có bốn:

  1. Thiết lập phương tiện.
  2. Cầu liền được.
  3. Trình bày công việc.
  4. Chọn giá cả hốt phân.

Nay chỉ tụng hai: Hai hàng đầu, tụng ý thứ nhất “thiết lập phương tiện”. “Gã cùng tử nghe rồi” trở xuống, một hàng, tụng ý thứ tư chọn giá cả hốt phân. Đây giải thích phần đầu thiết lập phương tiện, “mắt chột” là chấp thiên Không. “Thân lùn” là theo chiều dọc thì ngắn, không đến tận cùng nguồn thật tướng. “Xấu” là theo chiều ngang thì hẹp không có Ma-ha-diễn các Thiện để trang nghiêm. Không có Tứ vô úy gọi là “không oai”. Khác với thường lạc ngã tịnh, gọi là “không đức”. “Gã cùng tử nghe rồi” trở xuống, chọn giá cả, tức thanh tịnh phòng sáu nhà năm ấm. “Trưởng giả trong cửa sổ” trở xuống, bốn hàng rưỡi, tụng dụ “dạy cho làm” bên trên.

– Văn trên có bốn, nay cũng có bốn:

1. Nửa hàng, tụng “Trong cửa sổ”…

2. “Nghĩ con mình ngu dại” trở xuống, một hàng, tụng ý gầy gò.

3. “Lúc đó ông trường giả” trở xuống, một hàng, tụng “cởi áo đẹp mặc áo thô rách”.

4. “Phương tiện lần gần gũi” trở xuống, hai hàng rưỡi, tụng chính dạy làm. Trên có bảy khoa pháp môn. “Bảo rằng” tức Tứ niệm xứ, “siêng làm tốt” tức Tứ chánh cần. “Đã thêm giá cho ngươi” trở xuống, một hàng, tụng Tứ như y túc. “Dầu xoa chân”: có thể lội nước sâu, ví như thần thông. Lại, “dầu” có thể trừ bệnh phong tê, khiến định thì không loạn. “Đồ ăn uống đầy đủ”, tức gạo bột ở trên. “Thêm đệm chiếu dầy ấm” tức là quán luyện huân tu định, có thể trừ tán động. “Cặn kẽ nói thế này, ngươi nên siêng làm việc”: nửa hàng, tổng tụng pháp thứ tư “an ủi”, thứ năm “không có năm lỗi” bên trên. Căn lực đã thành mới có khả năng nhận lời cặn kẽ. “Lại dùng lời dịu dàng”: nửa hàng, tổng tụng pháp thứ sáu “đặt tên” và thứ bảy “khiến thường làm” bên trên. Đều là con ta vậy.

Từ “Ông trưởng giả có trí” xuống, mười hàng, tụng ý thứ tư lãnh giao phó gia nghiệp trong phần Khai thí. Văn trên có hai nay tụng cũng hai:

  1. Ba hàng rưỡi, tụng nguyên do giao phó gia nghiệp.
  2. Sáu hàng rưỡi, tụng chánh thức giao phó gia nghiệp.

Phần đầu nguyên do, văn trên có hai, nay tụng cũng có hai:

“Ông trưởng giả có trí” trở xuống, nửa hàng, tổng tụng “tâm tương thể tin”, tức nhập xuất.

“Trải qua hai mươi năm” trở xuống, ba hàng, tụng ủy thác lãnh gia nghiệp. Bên trên, ủy thác gia nghiệp có ra lệnh, có nhận lệnh, nay chỉ tụng ý nhận lệnh. Trên nhận lệnh có bốn, nay chỉ tụng ba:

1. Một hàng rưỡi, tụng ý nhận lệnh.

2. “Gã vẫn ở ngoài cửa” trở xuống, một hàng tụng ý còn ở chỗ cũ chưa bỏ tâm thấp kém.

3. “Cha biết tâm con mình” trở xuống, nửa hàng, tụng thông thái Đại chí cơ duyên Đại thừa khởi động. Đây giải thích phần đầu, “hai mươi năm” không được giống như trên. Trên trừ Kiến Tư hoặc, gọi là “hai mươi”, đây nêu làm việc nhà. Hoặc là nói chuyển Đại thừa giáo, dạy các Bồ-tát, đoạn Đại thừa Biệt hoặc Kiến Tư, gọi là “hai mươi năm”. Hoặc là nói thuyết Bát-nhã là thời gian dài, gồm hai mươi năm. Hoặc là nói trụ vị Nhị thừa chuyển Đại thừa giáo, gọi là hai mươi năm. Kinh Nhân Vương Bát-Nhã nói: “Hai mươi tám năm thuyết Ma-ha Bátnhã”.

Từ “Muốn giao tài vật cho” trở xuống, sáu hàng rưỡi tụng giao phó gia nghiệp. Văn trên có hai, nay tụng cũng hai:

  1. Bốn hàng rưỡi đầu, tụng chính giao phó gia nghiệp.
  2. Hai hàng tiếp, tụng được giao phó hoan hỷ.

– Trên chánh giao phó có bốn, nay chỉ tụng ba, không tụng thời tiết:

  1. “Muốn giao tài vật cho” trở xuống một hàng, tụng ý thứ hai trên: hợp thân tộc.
  2. “Rồi ở trong đại chúng” trở xuống, hai hàng rưỡi, tụng ý thứ ba bên trên: định thiên tánh cha con.
  3. “Phàm của cải ta có” trở xuống, một hàng, tụng ý thứ tư trên: chính giao phó cho.

“Người con nhớ xưa nghèo” trở xuống, hai hàng, tụng được giao phó hoan hỷ.

Từ “Đức Phật cũng như thế” trở xuống, ba mươi bài kệ rưỡi, tụng Hợp thí. “Đức Phật cũng như thế” hợp với ý thứ nhất: cha con thất lạc nhau.”Biết con ưa Tiểu thừa”: một câu, hợp với dụ cha con thấy nhau. “Nên chưa từng nói rằng” trở xuống hai câu, tụng hợp dụ thứ ba đuổi theo gọi lại. Trên hợp có hai:

  1. Gọi lần nữa không đến.
  2. Hợp ý phóng xả.

Nay tổng tụng ý kia! “Mà chỉ nói chúng con” trở xuống, một hàng, tụng hợp thí mật khiển nhị nhân dẫn dụ. Trên hợp với hai chương Tề giáo, Dò xét giáo. Nay một hàng này, chỉ tổng tụng ý kia. “Đức Phật bảo chúng con” trở xuống, hai mươi tám hàng rưỡi, tụng hợp thứ tư lãnh gia nghiệp. Trên hợp có hai: tin nhau và ủy phó gia nghiệp. Nay ban đầu mười tám hàng rưỡi, chỉ tụng hợp ủy thác gia nghiệp. Tiếp mười hàng, tụng hợp chính giao phó. Trên trong phần nhận lệnh chỉ có hai:

  1. Nhận lệnh.
  2. Không mong cầu lấy.

Nay một hàng đầu, tụng vâng lệnh lãnh biết, trên tụng không gì không biết, đạo tối thượng tức là Bát-nhã không. Lại không vượt qua ý trên. Tiếp đến mười bảy hàng rưỡi, chánh tụng vâng lệnh và không mong cầu. Không nơi nào không xả bỏ và thông thái. “Chúng con vâng lời Phật” trở xuống năm hàng, tụng vâng lệnh trên. “Phật tử nghe pháp được thọ ký”, là nêu chuyển giáo làm lợi tha. Lúc bấy giờ gọi là chuyển giáo giáo hóa Bồ-tát, không nói vì chúng con. “Như gã cùng tử kia” trở xuống, mười hai hàng rưỡi, tụng ý thứ hai: không mong cầu, văn đây rộng hơn trên.

– Trong đó lại có hai:

  1. Một hàng ghi ý hợp của thí dụ trước.
  2. Từ “Chúng con dầu diễn nói” trở xuống, mười một hàng rưỡi, chính hợp ý không mong cầu.

– Phần này lại chia làm ba:

1. Hai hàng, chính tụng ý không mong cầu.

2. “Chúng con diệt bề trong” trở xuống, chín hàng rưỡi tụng đầy đủ Trí đức và Đoạn đức nên không mong cầu, lại chia làm ba: Nêu lên, Giải thích, và Tổng kết. Nêu lên lại chia làm hai:

a) Một hàng đầu, nêu Đoạn đức đầy đủ cho nên không mong cầu.

b) Từ “Chúng con dầu có nghe” trở xuống, một hàng, nêu Trí đức đầy đủ cho nên không mong cầu. Từ “Như thế là vì sao?” trở xuống, sáu hàng, giải thích hai chương Trí đức, Đoạn đức.

3. Từ “Chúng con dầu lại vì” trở xuống, một hàng rưỡi, tổng kết giải thích tự không mong cầu.

4. Từ “Đấng Đạo sư buông bỏ” trở xuống, một hàng, nêu đức Phật bỏ chúng con, hợp không mong cầu.

Từ “Như ông trưởng giả giàu” trở xuống, có mười hàng tụng chính giao phó gia nghiệp. Trên hợp có hai:

  1. Chánh giao phó gia nghiệp.
  2. Được giao phó hoan hỷ.

– Nay tụng cũng có hai:

1. Ba hàng, tụng chánh giao phó.

2. Bảy hàng, tụng được giao phó cho nên hoan hỷ. Trong ba hàng đầu, trên tổng hợp chính giao phó gia nghiệp, nay cũng tổng tụng, nhưng một hàng rưỡi đầu ghi chép hợp với dụ trước. Tiếp, một hàng rưỡi chính tụng hợp. Từ “Chúng con ngày hôm nay” trở xuống, bảy hàng được giao phó hoan hỷ. “Đắc đạo”: Đắc thật tướng đạo. “Đắc quả”: Phần đắc quả tập Đại thừa. Hai câu này nêu khai tri kiến Phật. “Ở nơi pháp vô lậu, đắc được nhãn thanh tịnh”: hai câu này nêu khai Phật kiến, thấy lý thật tướng. Ngày xưa thấy vô lậu, không rơi vào phàm phu. Ngày nay thấy vô lậu, không rơi vào nhị thừa. Ngày xưa tuệ nhãn thấy Không, nay tịnh nhãn thấy Trung đạo. Giữ gìn tịnh giới được quả báo. Xưa trì giới phạm hạnh cùng hiển vô lậu, khôi thân diệt trí, không có người thọ quả báo này. Ngày nay “phạm hạnh” năng đắc vô lậu, tức là nghĩa liễu nhân nhận lấy quả, “trì giới” tức nghĩa duyên nhân. Lý mà thấy được do nhãn thanh tịnh, tức nghĩa chánh nhân. “Chúng con ngày hôm nay mới thiệt là Thanh văn”: tức địa vị chân thât Đại thừa. Hàng thập tín dùng một âm biến vang khắp ba ngàn cõi, tương tự Đạo, không chân. Nhập Thập trụ, tức là chân. “Chân A-La-hán” có ba nghĩa trong đây chỉ nêu một nghĩa Ứng cúng. Nếu không sinh Biến dịch, sát Thông Biệt hoặc, thì không sinh nghĩa Sát tặc, có khả năng làm phước điền trong mười pháp giới tức nghĩa Ứng cúng. Ứng cúng Sát tặc xen nhau hiển bày.

Mười ba hàng kệ cuối tán thán ân sâu của đức Phật khó báo đáp, như văn. Theo ý riêng cho rằng: “Ân lớn của Thế Tôn” là:

1. Đức Phật ban đầu nêu từ bi, cứu khổ cho lục đạo chúng sinh, ban vui cho Tứ thánh, khắp mười pháp giới nhập trong Tứ hoằng thệ nguyện, đây là ân ở nhà Như Lai.

2. Như Lai hành đạo Bồ-tát dạy bảo làm lợi ích vui vẻ, từng dạy Đại thừa cho chúng con, dù chúng con giữa chừng quên nhưng trí nguyện không mất, bởi nhà Như Lai mát mẻ ấm áp, tức ân đại từ ban vui.

3. Chúng sinh gặp khổ thân cận cha mà thôi, như con nghé con theo trâu mẹ đức Phật xem xét căn cơ để thích nghi, hành đủ lục độ làm lợi ích chúng sinh, bởi nhà Như Lai ngăn che lạnh nóng, là ân đại bi cứu khổ.

4. Đức Phật thành đạo rồi, lẽ ra thọ lạc vô vi tịch diệt, mà ẩn thần đức kia lại dùng pháp lạc nghèo nàn như ngũ giới thập thiện, như dùng nước lạnh dội vào mặt khiến chúng sinh được tỉnh ngộ. Đây là ân mặc áo Như Lai, bởi vì áo Phật ngăn nhiệt não do tham dục;

5. Thị hiện hình bóng Tỳ-kheo già, phương tiện gần gũi trả công thuê mướn từng ngày. Đây là ân mặc áo Như Lai, bởi vì trừ bỏ “thấy lạnh ưa nóng”.

6. Qua đó về sau, “tâm tướng thể tín”, quở trách chê bai khiến thẹn Tiểu hâm mộ Đại, Đây là ân mặc áo Như Lai, bởi vì ngăn che sự xấu xí thấp kém.

7. Ra lệnho lãnh gia nghiệp, vàng bạc đầy kho đều khiến biết hết. Đây là ân mặc áo Như Lai, bởi vì trang nghiêm cho chúng con;

8. Hội tụ thân tộc quyết định cha con, giao phó dùng gia nghiệp, vô thượng tài bảo không cầu mà tự được. Đây là ân ngồi tòa Như Lai

9 & 10. Đã ngồi tòa rồi, thân ý thản nhiên, mau được an ổn, dùng âm thanh Phật đạo khiến tất cả đều nghe, tất cả hàng thiên nhân đều ở trong đó nên thọ sự cúng dường. Đây là ân được ngồi tòa Như Lai, bởi vì khiến cho chúng con đầy đủ Tự hành và Hóa tha. Ân lớn của Thế Tôn, hai vai cùng gánh vác cũng không thể báo đáp, là nghĩa đây vậy.

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10