LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 39

Phẩm thứ 4: BIỆN VỀ NGHIỆP, phần 7

Luật nghi biệt giải thoát từ đâu mà được? Lại từ đâu mà được hai luật nghi còn lại? Tụng nêu:

Từ tất cả, hai, hiện

Được luật nghi cõi dục

Từ căn bản, hằng thời

Được tĩnh lự, vô lậu.

Luận nói: Luật nghi của cõi dục, nghĩa là biệt giải thoát. Luật nghi này từ nơi tất cả nghiệp đạo căn bản cùng từ nơi cận phần trước sau mà được.

Từ hai được: Nghĩa là từ hai loại, tức tánh tội, già tội của các hữu tình, phi tình.

Về tánh tội đối với hữu tình: nghĩa là các nghiệp như sát v.v… Già tội: Nghĩa là người nữ đồng tá túc qua đêm v.v… chung trong nhà.

Về tánh tội đối với phi tình: Nghĩa là trộm của cải bên ngoài. Già tội: Nghĩa là đào xới đất, cắt phá cỏ tươi v.v…

Từ hiện được: Nghĩa là từ uẩn, xứ, giới của đời hiện tại được, không phải từ quá khứ, vị lai. Do xứ hữu tình của luật nghi này chuyển biến. Vì khứ, lai không phải là xứ của hữu tình.

Xứ hữu tình: Nghĩa là các hữu tình cùng nơi chốn nương dựa của các hữu tình. Uẩn, xứ, giới nội của hiện tại: Tức là đối tượng nương dựa của hữu tình. Ngoài: Gọi là chỗ cư ngụ của hữu tình, không phải là quá khứ, vị lai.

Nếu được luật nghi tĩnh lự vô lậu, nên biết chỉ từ nghiệp đạo căn bản, do trong định chỉ có nghiệp đạo căn bản, không phải từ định cận phần trước sau mà được. Vì ở nơi phần vị định chỉ có căn bản. Ở trong phần vị bất định thì không có luật nghi này. Từ số hữu tình đã phát khởi già tội hãy còn không được hai thứ luật nghi này, huống chi là già tội được phát khởi từ phi tình.

Từ hằng thời: Nghĩa là từ uẩn xứ giới quá khứ, hiện tại, vị lai mà được. Như cùng với giới này là đều cùng có tâm. Do chỗ bất đồng ấy, nên tạo ra bốn trường hợp.

Có uẩn, xứ, giới từ hằng thời kia, chỉ được luật nghi biệt giải thoát, không phải là hai thứ v.v… còn lại.

Trường hợp thứ nhất: Nghĩa là từ cận phần trước sau của hiện đời và các già tội.

Trường hợp thứ hai: Nghĩa là từ nghiệp đạo căn bản của quá khứ, vị lai.

Trường hợp thứ ba: Nghĩa là từ nghiệp đạo căn bản của hiện đời.

Trường hợp thứ tư: Nghĩa là từ cận phần trước sau của quá khứ, vị lai.

Có thuyết cho: Không phải khi được luật nghi thiện, là có thể có nghiệp đạo ác v.v… của hiện đời, nên cần phải lập riêng văn của bốn trường hợp này. Nghĩa là nên nói có một loại pháp, đối với nghiệp đạo kia, chỉ được luật nghi biệt giải, không phải là hai luật nghi còn lại, cho đến nói rộng.

Trường hợp thứ nhất: Nghĩa là ở nơi hiện tại đạt được cận phần trước sau và xa lìa già tội. Các trường hợp còn lại, tùy chỗ ứng hợp, đều nêu bày như vậy. Ở xứ của nghiệp đạo v.v… đặt để tiếng nghiệp đạo v.v… nên về nghĩa của bốn trường hợp trước cũng không có lỗi.

Do lý như thế, cũng chung cho việc phòng hộ, nghiệp đạo v.v… của quá khứ, hiện tại không phải chỉ phòng hộ vị lai, do tiếng nghiệp đạo v.v… là nói về xứ nương dựa kia. Nếu khác với đây, tức nên chỉ nói phòng hộ luật nghi vị lai, vì chỉ có thể đề phòng tội vị lai khiến chúng không khởi, không phải ngăn chận quá khứ, hiện tại đã diệt, vì luật nghi đã sinh ở nơi xứ kia không có tác dụng đề phòng.

Các hữu tình đạt được luật nghi, không luật nghi, từ tất cả nhân của chi hữu tình đều như nhau chăng? Hay là không phải tất cả như nhau? Tướng của chúng như thế nào? Tụng nêu:

Luật từ các hữu tình

Nhân chi, nói bất định

Không luật, từ tất cả

Chi hữu tình, không nhân.

Luận nói: Luật nghi nhất định do điều phục ý lạc thiện, duyên khắp nơi tất cả hữu tình mới được, không phải duyên của phần ít, vì tâm ác đã tùy theo. Nhân chi không nhất định. Chi nghĩa là nghiệp đạo. Lại, ở trong các luật nghi biệt giải, có từ tất cả chi. Tức giới Bí-sô có từ bốn chi được. Nghĩa là luật nghi còn lại thừa nhận nhân không đồng, lược có hai thứ: (1) Ba thứ căn thiện như không tham v.v… (2) Tâm cùng khởi hạ, trung, thượng.

Căn cứ riêng nơi nhân đầu tiên nói tất cả luật nghi, do tất cả nhân nơi một tâm có. Căn cứ ở nhân sau để nói tất cả luật nghi, đều do một nhân, vì phẩm hạ v.v… không cùng thời khởi, như trước đã nói.

Trong đây lại căn cứ nơi ba nhân sau để nêu bày: Hoặc có một loại người trụ nơi luật nghi, ở nơi tất cả hữu tình được luật nghi, không phải là tất cả chi, không phải là tất cả nhân. Nghĩa là dùng tâm phẩm hạ, hoặc trung, hoặc thượng, để thọ giới Cận sự, Cần sách.

Hoặc có một loại người trụ nơi luật nghi, ở nơi tất cả hữu tình được luật nghi, do tất cả chi, không phải là tất cả nhân. Nghĩa là dùng tâm phẩm hạ, hoặc trung, hoặc thượng, để thọ giới Bí-sô.

Hoặc có một loại người trụ nơi luật nghi, ở nơi tất cả hữu tình được luật nghi, do tất cả chi và tất cả nhân. Nghĩa là dùng ba tâm để thọ giới Cận sự, Cần sách, Bí-sô.

Hoặc có một loại người trụ nơi luật nghi, ở nơi tất cả hữu tình được luật nghi, do tất cả nhân, không phải là tất cả chi. Nghĩa là dùng ba tâm để thọ giới Cận sự, Cận trụ, Cần sách. Không có người nào không đối khắp các hữu tình được luật nghi.

Đã nói về nhân, nên không phải ở nơi một phần. Các hữu tình đã thề thọ luật nghi, thì tâm ác hoàn toàn dứt. Nay nên xét chọn. Đối với thân Phật, cho đến trên thân con kiến, luật nghi đã đạt được là có riêng khác không? Nếu có riêng khác, thì nẻo là không nhất định, nên đối với các hữu tình đã được luật nghi, tức nên có tăng giảm. Nếu không có riêng khác, thì do đâu giết người, phạm tội tha thắng, còn giết hàng phi nhân thì chỉ phạm thô ác. Nếu giết bàng sinh, thì phạm tội đọa lạc. Không phải thân, cảnh của hữu tình có sai biệt, nên khiến giới đã thọ cũng có sai biệt. Tuy nhiên, việc trị phạt nghiệp tội có sai biệt, nên biết chỉ do gia hạnh riêng, nên gia hạnh giết người so với giết phi nhân, cho đến giết loài kiến, đều có sai biệt.

Lại, trong tội giết đồng nẻo, đồng bộ, do gia hạnh khác nên nghiệp hãy còn có khác. Như giết Hương tượng thì đắc tội nhiều, nếu giết loài muỗi, nhặng thì đắc tội ít. Huống chi là gia hạnh của nẻo khác có dị biệt? Trong tội của các bộ khác mà không có nhẹ, nặng? Do nơi ý lạc chung mà kiến lập luật nghi. Nghĩa là đối khắp hữu tình không có sai biệt, khởi điều phục ý lạc thiện, cầu được luật nghi, không phải ở nơi một hữu tình, không xả bỏ ý lạc ác, mà có thể cầu được luật nghi biệt giải, nên được luật nghi không có sai biệt. Vì người được luật nghi, tất không quán riêng về duyên, thời, xứ, chi của Bổ-đặc-già-la. Nghĩa là nhất định không tạo ra quán riêng như thế này: Đối với hữu tình kia, ta lìa sát v.v… Đối với chi giới kia, ta quyết định có thể thọ trì. Đối với phương xứ kia, ta lìa sát v.v… Ta chỉ ở nơi ấy trong thời gian một tháng v.v… trừ duyên như chiến tranh v.v…, ta có thể lìa sát v.v…

Người thọ như thế, không được luật nghi, chỉ được hành diệu tương tợ với luật nghi. Thế nên không có do thân của các hữu tình có sai biệt nên giới có sai biệt. Lại, đối với tự thân, không được luật nghi biệt giải thuộc về nghiệp đạo căn bản. Chớ nên cho tư pháp v.v…, do tự mình sát hại, thành nghiệp tội thuộc về vô gián v.v…. Được quyến thuộc gồm thâu về lý là không có ngăn chận. Nghĩa là lìa chúng tội v.v… còn lại đầu tiên. Lại, luật nghi biệt giải đã thọ này là chung nơi tất cả cảnh có thể không thể đạt được. Không phải chỉ ở nơi cảnh có thể đạt được luật nghi này. Chủ yếu là đối khắp hữu tình, khởi ý lạc không có tổn não, vì không có phương riêng có thể đạt được.

Nếu cho không như vậy, thì đối với người ngủ nghỉ phiền muộn

v.v… đều không thể giết, thế nên không được luật nghi.

Nếu cho người kia biết được bản tâm rồi, trở lại có thể giết, thì điều này cũng nên như vậy. Vì không phải đối tượng chủ thể, có thể chuyển đổi làm cảnh của chủ thể rồi trở lại có thể giết.

Có thuyết nói: Nếu chỉ ở nơi chủ thể thì luật nghi này nên có tăng, giảm, vì cảnh của đối tượng, chủ thể so với không phải đối tượng chủ thể nơi vì hai loại hữu tình có chuyển đổi. Điều này không thành vấn nạn, vì khi cảnh chuyển đổi, thì không có luật nghi này để được nhân xả. Nghĩa là cảnh của đối tượng chủ thể và không phải đối tượng chủ thể, về sau chuyển đổi làm cảnh có thể, không thể, thì không có lý nào khiến hữu tình kia xả bỏ luật nghi đã được. Nói chung là ở nơi đối tượng chủ thể đạt được luật nghi, nếu tất muốn khiến cho cảnh có thể, không thể, có chuyển đổi, nên giới có xả, được, tức thành lỗi luật nghi có tăng giảm.

Há không phải là có cỏ vốn không có mà sinh có, các hữu tình vĩnh viễn nhập viên tịch. Do đấy, nên có luật nghi xả, được, cũng không lìa ngoài lỗi tăng giảm của giới trước.

Thế nên, thuyết trước nói, về lý là không có lỗi. Lại, không phải nơi quá khứ, mỗi mỗi Đức Như Lai và chúng sinh được hóa độ nhập viên tịch, nên Phật sau đối với chúng sinh kia không được luật nghi. Có luật nghi sau giảm, đối với luật nghi mất ở trước. Không phải đối với mỗi mỗi hữu tình đều cùng nối tiếp khác, vì phát khởi riêng được. Lại, chi giới của Phật trước sau là bằng nhau. Nghĩa là các luật nghi đều tùy thuận không tham v.v… vì nhân có sai biệt nên sinh loại chi riêng, mỗi mỗi loại chi đều có một vô biểu, chung nơi tất cả xứ hữu tình được.

Như thế, vô biểu đã không có phần vi tế, không thể phân tích làm ít, làm nhiều. Vì sao nói có sau giảm, trước mất? Lại, tất cả Phật đối khắp hữu tình, gồm đủ tất cả chi luật nghi vô biểu, do số chi là như nhau, không có sai biệt, nên không có giới của Phật sau giảm, ở nơi trước mất.

Đã nói từ nơi nhân kia được các luật nghi, được không luật nghi, nhất định từ nghiệp đạo của tất cả hữu tình, không có cảnh của phần ít và chi không đủ. Không luật nghi: Đây nhất định không có do tất cả nhân nơi tâm thuộc phẩm hạ v.v… không cùng khởi.

Nếu có một loại do tâm thuộc phẩm hạ được không luật nghi, về sau ở vào thời gian khác, do tâm phẩm thượng đoạn mạng chúng sinh, hữu tình kia chỉ tạo thành không luật nghi phẩm hạ, cũng thành biểu v.v… của sát sinh phẩm thượng. Phẩm trung, phẩm thượng, so với đây nên biết cũng như vậy.

Trong đây, nên suy xét về sự việc của đồ tể dê v.v…

Có người chỉ thọ một được không luật nghi, tức không nên nói cũng có thọ một sự việc được.

Nếu như vậy vì sao không có trường hợp từ tất cả nhân được không luật nghi?

Như người được luật nghi, tuy ở trong biểu có sai biệt như sát v.v… trước đó đã thọ một, về sau lại thọ riêng, nhưng không luật nghi thì không phải lại mới được. Nghĩa là trước là đối chiếu chung với tất cả hữu tình, khởi ý lạc tổn hại không bị ngăn chận, vì để nuôi sống, nên thọ nhận không luật nghi. Người ấy ở vào thời nay, đâu có được lại? Nên không luật nghi này không có từ tất cả nhân. Nhưng trong luật nghi có từ Cận sự thọ giới Cần sách. Cần sách lại thọ luật nghi Bísô. Mỗi mỗi riêng thọ nơi thời hạn nghiệp đạo đã thọ, vì quyến thuộc khác, nên tùy theo kỳ hạn khác mà được luật nghi trước chưa được.

Do đấy có thể đạt được từ tất cả nhân.

Trong đây, vì sao gọi là người không luật nghi?

Nghĩa các đồ tể giết mổ dê, gà, heo, người bắt chim, bắt cá, thợ săn thú, kẻ trộm cướp, làm nem thịt, cai ngục, bắt giết rồng, nấu thịt chó, đặt lưới bắt thỏ v.v… Chữ vân vân là so sánh làm rõ về những kẻ gièm pha, chê bai, đâm thọc, dò xét, nhằm vạch lỗi người, thích thú nói về những sai trái của người khác, đeo đuổi cầu tìm phi pháp để nuôi mạng. Cùng những kẻ bị quan xử trị, trừng phạt theo phép vua v.v… chỉ luôn có tâm hãm hại, gọi là người không luật nghi.

Do chủng loại như thế, trụ nơi không luật nghi, vì có không luật nghi, nên hành không luật nghi, vì xảo trá tạo không luật nghi, thường tập không luật nghi, nên gọi là người không luật nghi.

Nói kẻ giết mổ dê: Nghĩa là vì để nuôi mạng nên theo kỳ hạn là suốt đời luôn muốn giết hại dê. Các nghề giết mổ v.v… khác tùy theo không luật nghi thích hợp, nên biết cũng như thế.

Các người giết mổ dê, chỉ đối với các loài dê có tâm tổn hại, không phải đối với các loài khác, đâu thể đối với tất cả được không luật nghi, đối khắp cảnh giới hữu tình được các luật nghi. Lý ấy có thể như thế.

Do muốn tạo lợi lạc khắp A-thế-da thù thắng mà thọ nhận được, nên không phải người không luật nghi như kẻ giết mổ dê v.v… đối với người chí thân của mình, có ý tổn hại. Cho đến trường hợp để cứu thân mạng của chính mình cũng không muốn giết. Vì sao có thể nói là đối khắp tất cả được không luật nghi? Điều này cũng có thể đúng.

Người không luật nghi, đối khắp nơi cảnh của hữu tình, thì ý lạc thiện dã hoại. Tuy không có điều này, nhưng giả thuyết nói: Nếu như các hữu tình cùng cha mẹ v.v… tất cả đều làm hình tượng dê hiện ở trước, thì kẻ giết mổ dê duyên khắp, đều có ý hại. Nghĩa là kẻ giết mổ dê kia từ lâu đã quen với tâm không luật nghi, cho đến người thân của mình, cũng không đoái hoài. Vì để nuôi mạng sống, nếu như người chí thân của mình hiện biến thành dê, hãy còn ý có hại, huống chi sau khi mạng chung, thật sự thọ thân dê, đối với kẻ giết mổ dê kia, có thể không có ý giết hại.

Kẻ ưa thích không luật nghi, lúc thọ giới ác, tất đã khởi ý lạc hung ác như đây. Nếu như thân của mẹ v.v… ta tức là dê, ta cũng sẽ giết, huống chi là sinh loại khác. Do ý lạc này được không luật nghi. Khác với đây chỉ nên đắc tội ở giữa (Phi luật nghi, phi bất luật nghi). Do đấy, tuy biết rõ người thân của mình hiện không phải là dê, nhưng cũng có tâm sát hại. Cho nên khắp được giới ác. Tuy không có Thánh giả sẽ làm thân dê, nhưng vì đồng với người chí thân nên cũng có ý hại.

Ở đây, Kinh chủ nêu ra so sánh thế này, nói: Nếu quán xét tự thể của dê v.v… ở vị lai đối với người thân v.v…. của hiện tại, được không luật nghi. Dê v.v… vị lai, có Thể của người thân v.v… Đã đối với Thể của người thân kia, không có tâm tổn hại, thì nên quán Thể của người chí thân v.v… nơi vị lai, dê v.v… ở nơi hiện tại, không được giới ác.

So sánh như thế v.v… về lý không cân xứng. Vì không có ý lạc thiện, nên có ý lạc ác. Nghĩa là khi người giết mổ dê kia đang thọ bất luật nghi, không có chánh tư duy, điều phục ý lạc thiện. Ta sẽ không hại tất cả hữu tình, mà có tư duy tà nơi ý lạc hung ác. Ta sẽ sát hại khắp tất cả hữu tình. Về sự, tuy chủ yếu là giết dê, nhưng tâm thì rộng khắp. Thế nên cùng có quán xét dê vị lai, đối với người thân, Thánh hiện tại, cũng phát khởi giới ác, không phải quán xét Thánh và người chí thân của đời vị lai, đối với thân dê hiện tại, không phát khởi giới ác. Hoặc không nhọc sức tranh cãi, về lý nên đồng thừa nhận.

Lại, như có một người thọ nhận sự việc giết mổ dê, tuy trong một đời, không cho không lấy, đối với thê thiếp của mình, trụ nơi tâm biết vừa đủ, nhưng vì câm không thể nói, nên không có bốn lỗi của ngữ, mà nhân nơi dê đã hủy hoại A-thế-da (ý lạc) thiện, được đủ bảy chi tội không luật nghi.

Như thế, đối với người chí thân v.v… tuy không có tâm hại, nhưng A-thế-da thiện, vì nhân nơi dê đã hoại, nên đối khắp cảnh giới hữu tình được không luật nghi. Hoặc như trước đã có kỳ hạn thọ học xứ thiện, về sau không hoàn toàn tổn hại A-thế-da thiện. Do gặp duyên riêng, chỉ thọ sát hại, đắc tội ở giữa là phi bất luật nghi. Chỉ được không luật nghi tất nên hoàn toàn tổn hại A-thế-da thiện, được đủ bảy chi.

Các sư Kinh bộ đối với điều này đã chấp hẹp hòi, tùy chỗ kỳ hạn, chi đủ, không đủ cùng toàn phần, một phần đều được không luật nghi. Luật nghi cũng như vậy, chỉ trừ tám giới. Do tùy ở tánh tướng của Thi la theo lượng thiện ác kia cùng trái nhau hỗ tương ngăn chận.

Nếu như vậy tức nên người thọ không luật nghi cũng gọi là Cận sự, nên các Cận sự cũng được gọi là người không luật nghi?

Vì sao phải nên như thế? Về lý, vì bức bách nên như thế. Nghĩa là người giết mổ dê, lập lời thệ như thế này: Ta vì mạng sống, tuy thọ nhận việc giết mổ dê, nhưng thọ nhận lìa các thứ khác như không cho mà lấy v.v… Hoặc các Cận sự nói lời thề: Ta nhất định thọ trì giới lìa sát sinh, vì nuôi mạng sống, nên chỉ thọ nhận trộm cắp v.v…

Lý không như thế, vì có hai A-thế-da trong một phần cùng nối tiếp, là cùng trái nhau, lý nên như vậy. Vì sao? Vì người không luật nghi, nếu ở nơi xứ này A-thế-da đã hoại thì chỉ ở nơi xứ ấy, chớ cho là có luật nghi. Cận sự cũng như thế. Nếu ở nơi xứ này A-thế-da không hoại, thì chỉ ở nơi xứ ấy, chớ cho là có không luật nghi. Thừa nhận tùy nơi tánh tướng của Thi la theo lượng thiện, ác kia là cùng trái nhau, hỗ tương ngăn chận.

Nếu mỗi mỗi xứ được không luật nghi, tức có thể ngăn chận chung về tất cả giới thiện và mỗi mỗi xứ được luật nghi thiện tức có thể ngăn chận chung tất cả giới ác. Thế nên không có người không luật nghi, cũng gọi là Cận sự và không có Cận sự cũng được gọi người không luật nghi.

Điều này cũng phi lý, vì trái với ở trước đã nói. Tuy người giết mổ dê, vì nhằm nuôi mạng sống, chỉ thọ nghiệp giết hại, nhưng đối với hữu tình ý lạc đã hoại, tức cũng nên tạo thành các bất luật nghi như không cho mà lấy v.v…

Do lý ấy, nên người lìa trộm cắp v.v… cũng nên ngăn chận dứt trừ được không luật nghi sát hại. Hoặc như ý ông cho các người giết mổ dê, đối với vật v.v… của người khác, ý lạc không hoại, thì không nên đạt được không luật nghi kia.

Há không phải cũng nên là người lìa trộm cắp v.v… đã có đối với dê, ý lạc đã hoại, thì không nên ngăn chận không luật nghi sát hại.

Như thế tức nên trở lại không tránh khỏi lỗi như trước. Nếu ở nơi xứ này có ý lạc thiện, tức ở nơi xứ ấy, chỉ được Thi la thiện và ở nơi xứ này, có ý lạc ác, tức ở nơi xứ ấy chỉ được Thi la ác, thì không nên thừa nhận do tùy nơi Thi la theo lượng thiện, ác kia đã hỗ tương ngăn chận dứt trừ.

Đây là làm rõ về Thi la thiện, ác đã nhận, vì không phải mỗi mỗi chi có thể ngăn chận khắp.

Nếu ý của ông cho: Như luật nghi thiện có chi không đủ thì không luật nghi này cũng nên như thế. Nghĩa là như có người thọ luật nghi Cận sự, Cận trụ, Cần sách, tuy không đủ chi, nhưng cũng được giới thuộc về chi thiếu kia. Thọ không luật nghi cũng nên như thế.

So sánh này không phải là nói về dụng công, không dụng công của luật nghi, không luật nghi là như nhau đã được có khác. Nghĩa là các giới thiện chủ yếu là nhờ dụng công nơi A-thế-da thiện mới có thể thọ được. Do khó được tức về lý thường tất nên không phải thọ một thời, đều được chung tất cả. Nếu các giới ác không nhờ dụng công nơi A-thế-da ác, liền có thể thọ được, vì không phải khó được, tức về lý thường tất nên tùy thọ một thời đều được chung tất cả. Vì ở cõi dục, sức của bất thiện mạnh, A-thế-da ác tùy tiện mà khởi, tạo các ác nặng, không đợi dụng công. A-thế-da thiện dễ bị hủy hoại nên tùy thọ một thứ, liền đều được chung các thứ khác. Thiện thì không như vậy, nên so sánh là không cân xứng.

Hiện thấy cỏ uế tạp không dụng công mà sinh, chủ yếu cần phải hành tác khó nhọc thì mầm tốt mới khởi. Lại, như có người thọ không luật nghi, tạo ra kỳ hạn này: Tôi, ở nơi suốt đời, mỗi ngày, hoặc đêm, nửa tháng, một tháng v.v… một lần giết mổ dê v.v… cũng được không luật nghi, do không luật nghi dễ thọ nhận đạt được. Vì ở nơi cõi dục, sức của bất thiện mạnh, tuy không thường làm nhưng vẫn được giới ác.

Các hữu tình muốn thọ luật nghi xuất gia, nếu tạo nên kỳ hạn: Tôi ở nơi suốt đời, mỗi ngày, hoặc đêm, nửa tháng, một tháng v.v… một lần lìa sát v.v… thì không được luật nghi thiện, do luật nghi thiện khó thọ được, vì ở nơi cõi dục sức của pháp thiện yếu kém. Nếu không luôn giữ gìn, thì không được giới thiện. Ở đây cũng như vậy. So sánh như thế là không cân xứng. Các sư Kinh bộ đã tránh lỗi không có căn cứ, trái lại còn rơi trong lỗi khó kéo ra. Người trí nên xem kỹ việc lấy bỏ thuận hợp.

Đã nêu rõ từ nơi các hữu tình kia được không luật nghi. Được không luật nghi và vô biểu khác như thế nào? Phương tiện chưa nói, sẽ nói. Tụng nêu:

Các được không luật nghi

Do tạo và thệ thọ

Được có vô biểu khác

Do ruộng thọ hành trọng.

Luận nói: Người không luật nghi gồm có hai loại: (1) Sinh vào nhà không luật nghi. (2) Sinh vào nhà khác, về sau thọ nghiệp này.

Các hữu tình sinh vào nhà không luật nghi, nếu đầu tiên hiện hành gia hạnh như sát v.v…, thì người ấy do làm mà được không luật nghi. Nếu sinh vào nhà khác, về sau mới lập thề, nghĩa là: Ta sẽ tạo nên hành nghiệp như thế để mưu cầu của cải vật dụng nuôi sống thân mình.

Từ lúc đầu tiên lập thệ, liền phát khởi giới ác, thì người này là do thọ nhận nên được không luật nghi.

Do ba thứ nhân nên được vô biểu khác. Vô biểu khác: Nghĩa là thuộc về ở giữa, tức phi luật nghi, phi bất luật nghi. Do ba nhân:

1. Do ruộng: Nghĩa là ở nơi chốn có ruộng đức như đây, đầu tiên, thí cho vườn rừng v.v… thì vô biểu thiện liền sinh. Như nói: Có dựa vào các sự việc của nghiệp phước.

2. Do thọ: Nghĩa là tự đặt ra kỳ hạn, nói: Tôi từ hôm nay, nếu không cúng dường Phật và Tăng chúng thì không ăn trước v.v… Hoặc lập lời thề có hạn định: Vào những ngày trai, nửa tháng, tháng và năm, thường xuyên bố thí thức ăn v.v… Do đấy, có vô biểu thiện nối tiếp sinh.

3. Do hành trọng: Nghĩa là khởi tác ý lớn nặng để hành thiện, hành ác như thế. Tức có tâm tin thuần tịnh, hoặc vây buộc mãnh liệt, nên lúc tạo việc thiện, ác, có thể phát khởi vô biểu cùng nối tiếp trong thời gian dài. Cho đến có uy lực ràng buộc tâm tin trọn đời, như trước đã nói.

Như thế là đã nêu bày về được luật nghi v.v… Về xả luật nghi v.v… nay tiếp theo sẽ nói.

Lại, thế nào là xả luật nghi biệt giải thoát? Tụng nêu:

Xả biệt giải điều phục

Do nên xả mạng chung

Và hai hình cùng sinh

Đoạn căn thiện, đêm hết.

Có thuyết: Do phạm trọng

Thuyết khác: Do pháp diệt

Ca-thấp-di-la nói

Phạm hai như nợ của.

Luận nói: Tiếng “Điều phục” là hiển bày tên khác của luật nghi, do luật nghi này có thể khiến các căn được điều phục. Do năm duyên nên xả luật nghi biệt giải thoát:

1. Do cố ý xả: Nghĩa là đối với luật nghi, do A-thế-da (ý lạc) không còn mang giữ vui thích, hâm mộ. Vì xả bỏ học xứ, đối với người có hiểu biết, phát khởi biểu nghiệp trái nhau có sai biệt. Không phải chỉ do khởi tâm xả học xứ, như được luật nghi, tâm không có khả năng. Lại, ở trong mộng thì xả không thành. Không phải chỉ do khởi biểu nghiệp có sai biệt mà xả do phẫn nộ, điên cuồng v.v… không thành. Không phải chỉ do hai tâm đối nơi bàng sinh cùng khởi, phát sinh biểu, xả đều không thành.

2. Do mạng chung: Nghĩa là do uy lực tăng thượng của chúng đồng phần nên được luật nghi.

3. Do nương dựa nơi hai hình cùng sinh: Nghĩa là khi thân biến đổi thì tâm biến đổi theo. Lại, hai hình là không phải tăng thượng.

4. Do đoạn diệt nhân căn thiện: Nghĩa là tâm cùng khởi của nghiệp biểu, vô biểu đã đoạn. Là nghĩa nhân duyên đoạn của luật nghi này.

Xả bỏ giới suốt đời là do bốn duyên trên.

Luật nghi Cận trụ cũng do đêm hết. Nghĩa là giới Cận trụ do bốn duyên trên và đêm hết, vì quá kỳ hạn tức xả.

Đêm hết: Nghĩa là khi mặt trời xuất hiện. Các sư quỹ phạm phần nhiều cùng thừa nhận năm thứ như thế là duyên xả luật nghi.

Có sư Bộ khác chấp: Tùy phạm một, chiêu cảm rơi vào trọng tội thì xả giới xuất gia.

Có Bộ khác cho: Vào thời kỳ chánh pháp diệt, luật nghi biệt giải thoát thảy đều có xả, vì các học xứ, kiết giới, yết ma nơi Thánh giáo hiện có đều dứt diệt. Bấy giờ, tuy không được, chưa được luật nghi, nhưng luật nghi trước đã được thì không có nghĩa xả.

Sư Tỳ-bà-sa của nước Ca-thấp-di-la tích chứa lý giáo nơi tâm nêu bày như thế này: Không phải khi phạm tùy nơi một tội căn bản, thì tất cả luật nghi đều có nghĩa xả. Nhưng người phạm tội trọng có hai thứ tên gọi: (1) Gọi là đủ Thi la. (2) Gọi là người phạm giới.

Nếu đối với chỗ đã phạm nên có thể phát lộ ăn năn trừ bỏ, thì ăn năn, trừ bỏ chỉ gọi là đủ giới. Như người có tài sản, khi mắc nợ người khác, thì gọi là người giàu và người mắc nợ. Nếu hoàn trả nợ xong, thì chỉ gọi là người giàu. Người phạm tội trọng ở đây cũng nên như thế, vì vậy không phải là xả giới.

Do lý giáo nào tích chứa ở trong tâm?

Lại, biện về chánh lý đã tích chứa trong tâm. Nghĩa là như thọ mỗi mỗi luật nghi không phải do đối khắp mà được, nên khi phạm mỗi mỗi thứ thì không phải xả khắp tất cả. Vốn ở nơi xứ của tất cả hữu tình đã thọ được luật nghi, không nên như thời nay, đối với một phạm tội, liền xả tất cả. Nếu ý của ông cho: Luật nghi xuất gia, tất không có nghĩa thọ riêng, trở lại được riêng, vì sao có thể nói như không phải thọ riêng, đối khắp được luật nghi. Tức nên không phạm một thì xả khắp tất cả. Vì vậy so sánh là không bằng nhau. Cật vấn này là không đúng, vì tự đã thừa nhận. Nghĩa là ông cũng thừa nhận luật nghi tại gia không phải phạm tội căn bản liền xả tất cả. Hoặc ông tự thừa nhận, luật nghi biệt giải thoát tùy theo lúc thọ riêng, trở lại được từng ấy.

Như thế nên thừa nhận khi phạm luật nghi, tùy xả giới đã phạm, không phải là xả tất cả. Lại, giới đã thọ có thứ là cực thành, không phải khi phạm một tức thì xả tất cả. Bí-sô, Cần sách, theo lý cũng nên như thế. Nếu như khi phạm giới trọng, không chấp nhận đều xả, hoặc như trước đã nói.

Trước đã nói là thế nào?

Nghĩa là thiếu luật nghi. Nếu gọi là Cận sự, thì Bí-sô, Cần sách thiếu, cũng nên thành. Nên không có Cận sự thiếu luật nghi. Như Cận sự kia phạm riêng, thì không phải xả tất cả. Bí-sô, Cần sách, so sánh cũng nên như thế. Hoặc ở trong đây, có nghĩa lý sâu xa gì. Đối với bốn trọng tội, tùy lúc phạm một luật nghi xuất gia, thì tất cả đều xả tức khắc, không phải ở nơi ba thứ có ý lạc thiện, cho đến có trường hợp vì để cứu thân mạng của chính mình, cũng không muốn phạm, không phải xả tất cả. Như tông của ông nói về được không luật nghi.

Nếu như vậy thì do đâu Đức Bạc-già-phạm nêu rõ: Người phạm bốn giới trọng thì không gọi là Bí-sô, không gọi là Sa-môn, không phải là con của Thích ca, là phá Thể của Bí-sô, hại tánh của Sa-môn, hoại diệt, đọa lạc, lập tên là Tha thắng. Do dựa nơi Bí-sô thắng nghĩa, mật ý nói như thế. Lại, ông nên nói do đâu phạm giới trọng liền xả tất cả, không phải phạm giới khác? Vì phạm giới khác có thể ăn năn dứt trừ. Hoặc như phạm tội khác, khi chưa ăn năn trừ bỏ, thì không mất tánh Bí-sô.

Ăn năn dứt trừ thì được lợi ích gì? Lại cầu đạt lợi ích gì?

Ở đây, khiến tánh Bí-sô không thiếu sót, thất thoát, không hư hoại, không xen tạp.

Có thể khiến thành công đức gì như thế?

Nếu khiến như thế liền được sinh lên cõi trời.

Nếu như vậy thì chư thiên đối với người trì giới tức nên rất đáng cúng dường. Người chấp giữ Thi la không có trái phạm đã chuyên cầu sinh lên cõi kia. Tuy nhiên, không phải Thánh giáo chuyên vì sinh thiên nên khiến Bí-sô v.v… trì giới thanh tịnh, nên cũng không phải người hối cải, chuyên vì sinh thiên.

Đã như thế nên nói không phải người phạm giới, có khả năng hiện chứng công đức xuất thế, nên người hối cải dứt trừ khác với không ăn năn dứt trừ.

Há không phải đối với công đức xuất thế, có thể ăn năn trừ bỏ tội và khi chưa ăn năn trừ bỏ, người kia cũng không phải hoàn toàn phá bỏ Thể của Bí-sô.

Do đâu không thừa nhận Bí-sô phạm giới trọng, phạm tội tha thắng (Ba la di) thì không thể ăn năn trừ bỏ? Tuy cũng thành tựu các luật nghi còn lại, nhưng đối với đức xuất thế, thì không phải là pháp khí trọn vẹn, nên Đức Thế Tôn nói: Không phải là Bí-sô v.v…

Lại có thể trừ bỏ tội khi chưa ăn năn trừ bỏ, vì sao ở nơi tánh Bí-sô chưa trọn vẹn?

Do Bí-sô kia đối với phần nhập chánh tánh ly sinh và tất cả công đức vô lậu khác, đều có thể bị chướng ngại, cho đến khi tu quán bất tịnh v.v… hãy còn không thể khiến tâm trụ nơi một cảnh, huống chi là có thể thành tựu.

Nếu loại như thế, có Thể của Bí-sô, thì nên tự quy lễ. Bí-sô như thế thì so với người phạm trọng tội có khác biệt gì. Vì thế nên thừa nhận Bí-sô phạm giới trọng, như nói: Không có con, có thể làm con, nói không phải là con. Đối với người không có dụng của người, nói không phải là người. Đối với người nam không hình, nói không phải là nam v.v… Đối với sự Bí-sô đã không thể thành, tuy có luật nghi khác nhưng nói không phải là Bí-sô v.v…. Đức Phật nêu rõ như thế, về nghĩa là không trái.

Không phải chỉ có thể trì giới biệt giải thoát, đối với Thánh giáo của Phật ít có được thành tựu. Do luật nghi này chiêu cảm quả hữu. Nhưng ý của chư Phật thì ghét bỏ quả hữu. Trì giới không thiếu, hãy còn chưa hợp tình, huống chi là người phạm giới trọng mà có thể làm vừa ý Phật. Vì trái với ý Phật, như con trái với cha, nên sự nghiệp đã hành tác đều không xứng hợp với kỳ vọng xưa kia. Do đấy nên nói: Không phải là Bí-sô v.v…

Lời nói này không phải chứng minh cho nhân xả bỏ luật nghi. Sư Tỳ-bà-sa lấy lý như thế tích chứa ở tâm, đầu tiên phán quyết lời nói này: Dựa nơi Bí-sô Thắng nghĩa, mật ý nói như thế. Trong đây, Kinh chủ nêu bày: Lời nói này là hung dữ. Hung dữ là thế nào? Nghĩa là đối với liễu nghĩa như Đức Thế Tôn đã nói, vì dùng nghĩa riêng để giải thích, khiến thành không liễu nghĩa, so với người nhiều phiền não, là duyên phạm trọng tội. Đâu biết lời nói này là theo liễu nghĩa để nói. Do luật tự giải thích có bốn Bí-sô: (1) Bí-sô danh tướng. (2) Bí-sô tự xưng. (3) Bí-sô khất cái. (4) Bí-sô phá giới.

Trong nghĩa này, nói không phải là Bí-sô, tức không phải là Bí-sô bạch tứ yết ma, thọ giới cụ túc. Không phải Bí-sô này trước là thắng nghĩa, sau do phạm trọng tội thành không phải là Bí-sô. Nên biết lời nói này là theo liễu nghĩa để nói.

Há chỉ Bí-sô bạch tứ yết ma, thọ giới cụ túc, có phạm trọng tội, không phải do ba quy, ba lần nói, Bí-sô thọ giới cụ túc cũng phạm trọng tội, lý nào ngăn chận ba quy này được thành khiến không phạm tội trọng thành không phải là Bí-sô?

Nếu như thừa nhận lời nói này là theo liễu nghĩa để nói, thì chỉ người bạch tứ yết ma, thọ giới cụ túc, nếu có phạm trọng tội mới thành không phải là Bí-sô. Do Bí-sô này, đối với phần sinh Thánh pháp, không có tác dụng của Bí-sô, nên gọi không phải là Bí-sô, không phải là Bí-sô xả luật nghi, mất danh hiệu. Vì thế người luận rộng, nói lời phán quyết này: Dựa nơi Bí-sô Thắng nghĩa, mật ý nói như vậy. Đây là khéo thuyết giảng. Do người phạm trọng, không có sinh diệu dụng của Bí-sô Thánh đạo. Nên không phải do chấp câu: Đây là liễu nghĩa, mà có thể ngăn cản ý nghĩa sâu xa của Tông ta đã phán quyết.

Nếu khác với đây, thì còn có duyên nào đồng phạm Thi la?

Ở đây tức có Bí-sô mất giới, không mất giới, không phải là Bí-sô, nên lìa Tông Đối pháp, thì không khiến sinh hoan hỷ. Về lý tuy tạo ra là hủy báng cùng với người nhiều phiền não, là duyên phạm trọng tội. Nhưng nên xét kỹ tường tận xem ai là người rất có thể tạo duyên phạm trọng tội, là nói lời này: Tuy phạm một giới, nhưng có giới khác, nên là người siêng năng bảo vệ, hay là nói lời này: Đã phạm một giới, thì các giới khác đều mất. Người mặc sức tạo ác, không phải là luận giả Đối pháp. Câu nói phán quyết này ít có chướng ngại đối với quả ái sinh thiên giải thoát.

Tuy nhiên, chính là chỉ rõ dẫn đường, khiến Bí-sô kia tu nhân, vì sao hủy báng nói là khuyên người khác phạm trọng tội? Nghĩa là tôi chỉ nói lời khuyên răn như thế này: Khi phạm một giới thì giới khác không xả bỏ, nên đối với giới khác chuyên tinh hộ trì. Như thế, thật sự gọi là ngăn chận người khác phạm trọng tội. Còn ông thì nói phạm một, tức thì xả bỏ tất cả, há không phải là chuyên tạo duyên phạm trọng tội. Nên duyên tạo tội là ở nơi ông không phải là tôi. Tuy nói như vậy, không phải cho Bí-sô này trước là thắng nghĩa, về sau do phạm tội trọng, thành không phải là Bí-sô.

Lời nói này thô cạn, tuy trước chưa chứng, nhưng đối chiếu với vị lai thì có thể chứng. Nếu về sau không có công năng, cũng gọi là mất. Như Khế kinh nói: Quán xét thế gian này cùng trời phóng dật, thoái mất Thánh tuệ.

Lại như trước đã nói. Như trước nói là thế nào? Nghĩa là Bí-sô kia vĩnh viễn không phải là pháp khí của đức xuất thế. Đối với thắng nghĩa mà nói thì không phải là Bí-sô. Đâu thể nhận biết Đại sư có mật ý này. Do trong đây nói Bí-sô kia không phải là Sa-môn. Ở xứ khác lại nói Sa-môn có bốn, lại không có thứ năm, nên biết được ở đây, chỉ căn cứ theo thắng nghĩa để nói không phải là Bí-sô. Do Bổ-đặc-già-la kia gọi là Sa-môn ô đạo. Không phải Bí-sô kia trước chứng đạo, sau bị nhiễm ô. Vì sao thành như Kinh chủ giải thích nói: Tuy có thuyết này, nhưng Bí-sô kia chỉ có tướng của Sa-môn khác, nên gọi là Sa-môn. Như gỗ bị đốt cháy, giả mỏ chim Anh vũ, ao khô cạn, hạt giống mục, vòng tròn lửa, người chết.

Ở đây, chỉ có câu nói đã dẫn các dụ đều không có công năng, nên dùng các cây gỗ ít bị lửa đốt, thế gian gọi là cây gỗ bị đốt, không phải hoàn toàn thành tro, gọi là gỗ bị đốt. Nếu cho tùy theo hai thứ đốt cháy toàn phần, một phần, đều thừa nhận gọi là gỗ bị đốt, tức dụ và pháp, cả hai đều cùng do dự. Dụ đối với những thứ được dụ, không chứng minh được công năng. Như gọi là trong ao khô cạn cùng có một ít nước chỉ vì không có công dụng của ao nước nên lập tên ao khô cạn. Nếu như nước hoàn toàn không có, cũng gọi là khô cạn, đồng với do dự trước. Về chứng cứ không có công năng, do đấy đã ngăn chận người chết, hạt giống mục. Nghĩa là tuy cũng có một ít thứ công năng, nhưng các thế gian cũng nói là hạt giống mục. Hoặc tuy không hư mục, nhưng công năng bị tổn giảm, không còn sinh mầm, thì cũng gọi là hạt giống mục. Hữu đồng với pháp chết, cũng gọi là người chết. Nên trong Khế kinh nói kẻ phóng dật là thường chết. Giả mỏ chim Anh vũ và vòng lửa quay tròn, cả hai dụ này đều trái với Khế kinh đã nói.

Sa-môn có bốn, lại không có năm. Nếu chỉ do hình tướng được gọi là Sa-môn, thì như thế gian có người cần tướng Sa-môn, giả bày ra phương tiện tạo hình dáng Sa-môn, nên gọi Sa-môn nói là thứ năm. Không phải mỏ chim giả kia và vòng lửa quay tròn, có thể được gọi là mỏ chim, là vòng tròn. Tướng khác không phải là mỏ thật, vòng tròn thật vì chúng đã có ở trước. Như thế nên có trước không phải là Sa-môn đã tạo hình tướng Sa-môn, lập làm thứ năm. Nhưng Đức Phật chỉ nói bốn, không có nói thứ năm.

Vì ngăn chận lối chấp tướng Sa-môn như vậy, nên dẫn các dụ đều không có công năng chứng tỏ. Lại, Kinh chủ đâu biết ý nói như thế của Đức Phật, do nơi xứ khác nói không gọi là Bí-sô, không gọi là Sa-môn, không phải là Thích tử v.v…. Há không phải là thường khuyên hãy nên tầm tư xét kỹ, đâu chỉ tùy theo một văn liền tạo cố chấp. Lại, như trước đã nói. Trước đã nói là thế nào?

Nghĩa là Sa-môn này gọi là ô đạo, nên biết ở đây, chỉ căn cứ theo Bí-sô thắng nghĩa, mật ý nói không phải là Bí-sô v.v… Nên không phải tức thì xả bỏ tất cả luật nghi, tức gọi không phải là Bí-sô, lý ấy cực thành lập. Không phải ở đây chỉ vì có tướng của Sa-môn khác, nên gọi là Sa-môn, như gỗ bị đốt cháy, mỏ chim Anh vũ v.v… về lý là có thể thành lập. Do Đức Thế Tôn nêu rõ người kia nên gọi là Bí-sô phạm giới, Bí-sô ác. Nếu Bí-sô kia tức thì xả bỏ tất cả luật nghi, nên chỉ gọi là không có Thi la v.v… đâu có nêu tên Bí-sô ác, phạm giới?

Trong đây, Thượng tọa nêu cật vấn như thế này: Nếu nói không có, thì không có Thi la nào? Do danh xưng Thi la, cũng được gọi là quen hành theo giới thiện, ác. Bên ngoài cũng thấy có nói Thi la ác, Thi la thiện này. Nói nêu như thế thì lý nào là trái nhau nhau?

Thượng tọa kia rất nên hỏi: Không có Thi la, do tất cả có Thi la quen hành tập. Nhưng nói người kia vì không có Thi la, tức nhận biết người kia thiếu Thi la tịnh giới. Nên Thượng tọa kia cật vấn nói không có nghĩa lý sâu xa.

Kinh chủ ở đây tự hỏi đáp nói: Nếu người phạm trọng tội thì không phải là Bí-sô, tức nên không có truyền trao học Bí-sô, không nói người phạm tội trọng đều thành tội tha thắng. Chỉ thành tội tha thắng thì nhất định nói không phải là Bí-sô.

Các Sư Đối pháp há không nên nói: Kinh bộ nhất định là người rất hung ác. Hung ác là thế nào? Nghĩa là nói thế này: Người có phạm trọng tội không phải thành tha thắng. Vì Đức Thế Tôn nói: Người phạm bốn giới trọng, không gọi là Bí-sô, cho đến nói rộng. Nếu cho Bí-sô kia vì dựa trụ nơi tâm che giấu nên Đức Phật nói không phải là Bí-sô thì do đâu không thừa nhận Bí-sô phạm giới trọng thì không có khả năng thù thắng của Bí-sô.

Nói: Không phải là Bí-sô v.v… không phải do xả bỏ tức thì tất cả luật nghi. Các sư ở nước ta không nói như thế này: Các người phạm giới trọng, không phải là Bí-sô. Chỉ nói: Có giới khác tồn tại, vốn ở nơi tất cả luật nghi đã thọ được, không phải khi phạm một, thì các luật nghi khác liền xả bỏ tức thì, như Tông của ông đã nói được không luật nghi.

Kinh chủ trong đây muốn bác bỏ chánh lý, cho thuyết kia đã nói không phải phạm một biên, thì tất cả luật nghi nên xả bỏ khắp. Người kia nói tức nhằm nêu hỏi cật vấn bậc Đại sư. Đại sư ở đây đã lập ra dụ: Như cây Đa la, nếu bị chặt đứt ngọn, tất không còn có thể sinh trưởng rộng lớn.

Ý của dụ này hiển thị: Khi phạm một giới trọng, thì giới khác không thể sinh trưởng rộng lớn. Gốc rễ của giới đã đoạn, về lý là xả bỏ khắp. Thuyết kia đối với ý của dụ đã không thể khéo giải thích.

Dụ này chỉ ngăn chận những sự sinh trưởng khác. Nếu khác với đây thì dụ nên không thành. Nhưng tôi nhận thấy phân minh về ý của dụ ấy. Nghĩa là học xứ khác như cành lá của cây kia, tuy vượt lên nhưng có thể đạt được luật nghi khác. Bốn giới trọng như đầu ngọn cây, nếu tùy phạm một tất không còn được luật nghi khác. Do đấy, nhất định không nhập nơi kiến đạo v.v… nên Khế kinh nêu rõ: Dựa trụ nơi Thi la mới có thể tiến tu Chỉ Quán thù thắng. Nếu khác với đây, thì giải thích dụ liền không thành.

Lại, tông của ông nói bốn học xứ trọng là chung như ngọn của một cây Đa la, hay là đầu một cây, dụ cho một học xứ. Nếu bốn học xứ dụ chung cho một đầu, tức nên khi phạm một, không phải là xả bỏ tất cả. Thấy đoạn phần ít ngọn cây Đa la, phần khác không có trở ngại, vì cũng sinh trưởng. Nếu một học xứ, như đầu một cây, cũng như khi phạm một, không phải là xả bỏ tất cả. Vì thấy đoạn một đầu cây Đa la, đầu khác không có trở ngại, vì cũng sinh trưởng, như trước đã nói. Trước đã nói là thế nào?

Nghĩa là ở trong đây có nghĩa lý sâu xa gì? Tùy phạm một giới trọng, tức thì xả bỏ luật nghi, không phải bảo vệ ba luật nghi còn lại, không xả bỏ tất cả. Như ngọn cây Đa la đoạn một, phần khác vẫn sống.

Đã thấy ngọn cây Đa la ở thế gian, tuy đoạn một phần, phần còn lại cũng sinh. Bốn giới trọng là chung như ngọn cây Đa la, nên biết phạm một thì không tổn hại ba phần còn lại. Lại, các cây Đa la một đầu bị đoạn thì một không sinh trưởng. Cây khác thì không như vậy. Ông chấp Thi la nơi một cùng nối tiếp đoạn, thì phần khác cũng đoạn, nên dụ không thành. Do đấy, cũng ngăn chận Thượng tọa lập dụ.

Thuyết kia nói: Như đại thọ đủ rễ, thân, cành, lá, nếu rễ bị chặt đứt, nên toàn thể cây đều khô héo.

Như thế, gốc rễ của giới nếu tùy phạm một, thì liền hủy hoại tức khắc tất cả luật nghi. Ai ở trong đây nói luật nghi khác không bị hủy hoại?

Đã nói phạm một, luật nghi còn lại không có công năng thù thắng. Nghĩa là tất không thể nhập nơi kiến đạo v.v… Nhưng căn cứ theo dụ kia, thì không phải là mất luật nghi. Vì thấy ở thế gian, hoặc có một cây bốn rễ đều bằng nhau, ăn sâu vào đất bền chắc, không phải khi chặt đứt một rễ, thì tất cả cây đều chết khô. Chỉ gây tổn hại một phần, giới cũng nên như thế.

Căn cứ ở cây riêng để luận, dựa theo trước nên nói. Vì thế Thượng tọa lập dụ, đối với chứng cứ không có công năng.

Kinh chủ trong đây lại nêu bày thế này: Đối với các khổ vô nghĩa thì cứu độ như thế nào? Nếu người như vậy, cũng có tánh Bísô, nên tự quy lễ. Loại Bí-sô như thế, ở đây nói liền là khinh đùa đối với Đức Phật, do Đức Phật nói người kia cũng là Sa-môn, tuy được mang tên ô đạo mà có Thi la.

Ở đây Kinh chủ nên nói như thế này: Đối với vô nghĩa này thì khổ nào được cứu? Nếu người như thế cũng có tánh Sa-môn, tức nên tự quy lễ.

Loại Sa-môn như thế là Sa-môn của tướng khác, như trước đã đả phá: Không phải là Bí-sô v.v… cũng đã giải thích thông hợp, do lý này thành, hiển bày thuyết kia đã dẫn các Thánh giáo khác làm chứng là không có công năng.

Lại, Kinh chủ kia không thể nêu bày một chút về chánh lý, chứng minh chỉ phạm một liền xả bỏ tất cả. Lại, đối với vô nghĩa, chỉ những dẫn đến suy tìm nêu hỏi. Thật sự có luật nghi mà gượng nói đã xả bỏ. Khuyên người đã phạm, mặc tình tạo ác. Há gọi là vâng giữ pháp, tạo lợi lạc cho hữu tình. Nếu người phạm giới trọng, có giới khác còn không mất, thì do đâu đuổi Bí-sô ra ngoài chúng? Đâu dùng người không có thế lực dụng như thế? Ở trong chúng thanh tịnh, đuổi nhanh chóng càng tốt.

Nếu do phạm giới trọng, liền xả bỏ luật nghi, tức nên như khi hai hình sinh, có thể xả bỏ, vì tánh là trái nhau nhau, như bóng tối cùng với ánh sáng.

Người không phạm luật nghi, tức nên chấp nhận thọ lại, không phải không có hổ thẹn, đã vĩnh viễn làm chướng ngại Thi la. Chớ nên bỏ người kia không được thọ giới, nên biết tội nặng có thể cùng với giới đều cùng có, do Thi la nhiễm ô không chấp nhận thọ lại. Đã không có dụng thù thắng, tức nên đuổi khỏi chúng.

Thượng tọa ở đây lại có nhiều ngôn thuyết. Do lý, giáo ở trước đã ngăn chận, trừ bỏ chung. E ngại là văn quá nhiều nên không đả phá riêng. Nhưng Thượng tọa kia tâm vẫn giữ vững, vì phiền não vây buộc tâm, ở trong tự luận đã tạo văn, làm tụng, nói lời thô ác, hủy báng Thánh Hiền, vô cớ tự làm tổn hại, thật đáng thương xót. Chúng Thánh của nước tôi, hoặc nghiệp đã đoạn trừ, chế đặt các pháp ngôn đều dựa vào lý giáo chân thật. Nhưng kẻ hung dữ kia đã hủy báng cả pháp, người, gây tạo tội lỗi sâu nặng, sẽ phải chiêu cảm khổ dữ. Tôi há đối với người ấy lại phải trả lời. Chỉ mong nơi vị lai điều ác kia không có báo.

Hai luật nghi v.v… tĩnh lự, vô lậu nên xả như thế nào? Tụng nêu:

Xả pháp thiện định sinh

Do chuyển địa lui mất v.v…

Xả Thánh do được quả

Luyện căn cùng thoái thất.

Luận nói: Các pháp thiện hệ thuộc nơi địa của tĩnh lự, do hai duyên xả: (1) Do chuyển địa. Nghĩa là sinh nơi địa trên, dưới.

(2) Do thoái thất. Nghĩa là thoái mất định thù thắng, xả bỏ chúng đồng phần.

Cùng khi lìa nhiễm cũng xả. Noãn v.v… và định của phần thoái là thuộc về phần này, nên lại nói chữ vân vân (Đẳng: Cuối câu tụng thứ hai). Kinh chủ trong phần giải thích nên thêm lìa nhiễm. Như xả pháp thiện của cõi sắc, do chuyển địa, thoái lui và lìa nhiễm. Ba vô sắc cũng như thế.

Xả thiện vô lậu, do ba thứ duyên: (1) Do được quả, xả chung đạo trước. (2) Do luyện căn, xả đạo của độn căn. (3) Do thoái mất, xả các đạo vượt hơn.

Đạo này, hoặc là quả, hoặc thuộc về quả vượt hơn.

Kinh chủ ở đây nên nói về hai duyên: Dùng đắc quả để nói, thâu tóm luyện căn để nói. Nghĩa là ở phần vị luyện căn, tất trở lại được quả, là đạo của quả thù thắng từ bỏ quả của độn căn. Tôi ở trong đây nên phân biệt phần ít. Nếu xả kiến đạo và đạo loại trí, nên biết là chỉ do đắc quả, không phải do thoái thất.

Nếu là vô học của pháp bất động, thì cùng không còn pháp vô lậu khác, cùng gồm đủ hai thứ.

Như thế là đã nói về phần xả các luật nghi. Không luật nghi thì xả như thế nào? Tụng nêu:

Xả giới ác do chết

Được giới, hai hình sinh.

Luận nói: Các thứ không luật nghi do ba duyên nên xả:

1. Do chết nên xả bỏ chỗ nương dựa.

2. Do được giới. Nghĩa là nếu thọ được luật nghi biệt giải. Hoặc do đạt được luật nghi tĩnh lự, thì giới ác liền xả. Sức đối trị là hơn, nên xả không luật nghi.

3. Do hai hình nối tiếp nhau cùng khởi. Vì vào thời bấy giờ, đối tượng nương dựa đã biến chuyển. Người trụ nơi giới ác, tuy hoặc có lúc do ý lạc thiện, nên xả bỏ dao, lưới v.v… Nếu không được luật nghi, thì trọn không xả bỏ giới ác. Hiện thấy tuy tránh khỏi các duyên phát sinh bệnh, nhưng không uống thuốc hay, chung quy bệnh khó khỏi.

Ngươì không luật nghi, thọ giới Cận trụ, đến đêm hết, khi ở phần vị xả luật nghi, là được không luật nghi hay gọi là ở giữa (Phi luật nghi, phi bất luật nghi)?

Có Sư khác nói: Được A-thế-da ác của không luật nghi, vì không phải vĩnh viễn xả. Như sắt nung nóng dừng lại, màu đỏ mất, màu xanh sinh.

Có Sư khác cho: Nếu không tạo tác nữa, thì không có duyên khiến người kia được không luật nghi, do không luật nghi dựa vào biểu mà được. Thuyết trước là hợp lý, vì trước khi thọ giới, A-thế-da ác không phải xả bỏ vĩnh viễn, nên dựa vào biểu nghiệp trước thì giới ác trở lại khởi.

Vô biểu của ở giữa, xả lại như thế nào? Tụng nêu:

Xả giữa do thọ thế

Tạo sự, căn thọ đoạn.

Luận nói: Vô biểu của ở giữa xả do sáu duyên:

1. Do tâm thọ đoạn hoại nên xả. Nghĩa là trước đã thề thọ nhận luôn ở nơi thời gian nào đấy kính lễ Chế đa (Tháp) cùng tán tụng v.v… Nay khởi suy nghĩ: Về sau không còn theo A-thế-da kia. Từ đây nên thôi dứt. Do từ bỏ ý lạc gốc kia, hoặc lại tạo riêng thế dụng tăng mạnh, so với hiện hành trước là trái nhau. Ý lạc gốc của sự nghiệp dứt thì vô biểu liền đoạn.

2. Do uy lực đoạn hoại nên xả. Nghĩa là do uy lực của tín tịnh, phiền não đã dẫn phát vô biểu, hai uy lực kia có hạn, nếu khi đoạn hoại, thì vô biểu liền xả. Như mũi tên đã phóng đi và bánh xe quay của nhà làm đồ gốm. Cho nên các sư Quỹ phạm đã nêu bày như thế này: Do sức của cùng khởi đã dẫn phát, tuy xả gia hạnh và A-thế-da nhưng vô biểu hoặc cùng suốt đời tùy chuyển, cho đến phát khởi triền rất mạnh mẽ, mau chóng, đánh đập chim thú, nên biết cũng như thế. Hoặc trước đã lập kỳ hạn ngang với từng ấy thời gian. Nay, uy lực nơi kỳ hạn đã quá, vô biểu liền đoạn.

3. Do tạo nghiệp đoạn hoại nên xả. Nghĩa là tuy không xả tâm thọ căn bản, nhưng lại không bị thọ tác nghiệp đã thọ, chỉ trừ người quên nhớ nghĩ mà không tạo tác, do kỳ hạn của vô biểu này, từ gia hạnh sinh. Khi dứt gia hạnh thì vô biểu liền xả.

4. Do sự vật đoạn hoại nên xả. Nghĩa là đối tượng xả thí như tháp miếu, vườn rừng và các sự việc đã thí như các thứ lưới bay săn bắt v.v… Xưa do các sự việc kia dẫn vô biểu sinh. Khi sự việc kia hoại, thì vô biểu liền xả.

5. Do thọ mạng đoạn hoại nên xả. Nghĩa là đối tượng nương dựa có chuyển đổi.

6. Do nương dựa nơi căn đoạn hoại nên xả. Nghĩa là khi khởi gia hạnh đoạn dứt thiện, ác, đều xả bỏ căn kia đã dẫn sinh vô biểu. Không phải đến lúc đoạn dứt thiện được tĩnh lự mới xả. Vô biểu thiện ác của ở giữa vì yếu kém nên khi khởi gia hạnh liền xả.

Vô biểu thiện ác của ở giữa là thế nào?

Trong nghĩa này, Kinh chủ nói duyên thứ sáu gọi là đoạn thiện. Nếu nói như thế, thì gia hạnh của đoạn thiện cũng gọi là đoạn thiện, làm duyên thứ sáu. Tức là nên nói gia hạnh của tĩnh lự cũng gọi là tĩnh lự, liền thành bảy duyên, trong gia hạnh của tĩnh lự đã xả bỏ vô biểu ác. Nên nói căn là chung cho căn thiện, ác.

Đã nêu bày câu nói đoạn là đoạn gia hạnh, do dựa nơi căn đoạn, là duyên thứ sáu.

Ở đây giải thích văn của tụng, về lý là không sai.

Thiện không phải sắc ở cõi Dục cùng tất cả pháp nhiễm không phải sắc khác, xả như thế nào? Tụng nêu:

Xả dục thiện không sắc

Do căn đoạn, sinh trên

Do đạo đối trị sinh

Xả các nhiễm phi sắc.

Luận nói: Tất cả pháp thiện không phải sắc của cõi dục, xả do hai duyên: (1) Đoạn căn thiện. (2) Sinh cõi trên.

Nên nói phần ít, cũng lìa nhiễm xả, như pháp thiện không phải sắc của ưu căn v.v.

Tất cả pháp nhiễm không phải sắc của ba cõi, xả do một duyên. Nghĩa là khởi đạo đối trị, nếu đạo có thể đoạn của phẩm loại này sinh, thì xả Hoặc cùng trợ bạn trong phẩm ấy.

Hữu tình nào có luật nghi thiện, ác? Tụng nêu:

Người giới ác, trừ Bắc.

Hai hoàng môn, hai hình

Luật nghi cũng ở trời

Chỉ người đủ ba thứ.

Sinh trời dục, cõi sắc

Có luật nghi tĩnh lự

Vô lậu và vô sắc

Trừ trong định vô tưởng.

Luận nói: Chỉ ở nơi nẻo người là có không luật nghi, nhưng trừ châu Bắc, chỉ nơi ba châu còn lại mới có. Ở trong ba châu ấy, lại trừ Phiến dĩ và Bán trạch ca, người đủ hai hình. Luật nghi cũng như thế.

Nghĩa là ở trong phần người, trừ chỗ đã trừ ở trước và trời cũng có.

Ở hai nẻo người, trời là cùng có luật nghi.

Lại, do duyên gì nhận biết Phiến dĩ v.v… nơi phần cùng nối tiếp hiện có là không có luật nghi?

Dựa do trong Kinh, Luật có chứng thành. Nghĩa là Khế kinh nói: Đức Phật bảo Tôn giả Đại Danh: Các hữu tình tại gia, bạch y, nam căn của người nam thành tựu, cho đến nói rộng.

Trong Tỳ-nại-da cũng nói thế này: Ông nên trừ bỏ con người của loại sắc ấy. Nên nhận biết luật nghi không phải ở nơi loại người kia có.

Lại do lý gì loại người kia không có luật nghi?

Do hai chỗ nương dựa đã dẫn khởi phiền não, ở nơi một sự cùng nối tiếp cùng có tăng thượng. Đối với sự việc tư duy, lựa chọn đúng đắn, thì không có khả năng. Những người kia khi khởi hành tham dục cùng nối tiếp, thì không chế phục, dứt trừ, nên không phải là vật chứa đựng giới. Lại, phải có hổ thẹn mãnh liệt, hiện tiền thì loại người này mới có thể làm chỗ nương dựa cho giới. Loại người kia vì không có, nên không phải là chỗ nương dựa của luật nghi.

Nếu như vậy do đâu những kẻ kia không có giới ác?

Vì những kẻ kia đối với A-thế-da ác cùng nối tiếp, tánh quá yếu kém, nên trụ không bền chắc. Nghĩa là các loại Phiến dĩ v.v… dâm ái phần nhiều hiện hành, không có đạo đối trị tạm thời điều phục, trừ bỏ. Không phải những người thường dấy khởi ái mãnh liệt có thể đối với hữu tình phát khởi ý lạc hung ác hết sức mãnh liệt, khiến chúng luôn hiện ở trước. Nếu như vừa mới có thể sinh thì cũng không trụ vững chắc. Vì thân không có khả năng, nên tâm cũng không có khả năng, vì vậy thân của loại người kia cũng không có giới ác. Tức do lý này, nên A-thế-da thiện ở trong thân của những kẻ kia là yếu kém, không trụ vững chắc. Chủ yếu phải có tâm ác trụ vững chắc, mạnh mẽ, thì mới có giới ác. Cùng có tâm thiện trụ kiên cố, mạnh mẽ, mới có giới thiện. Những kẻ kia đều cùng thiếu, nên cả hai giới cùng không có. Nhưng hai hình sinh thì xả bỏ hai chỗ nương dựa của giới thiện, ác, vì tham dục rất tăng thượng. Không phải thành Phiến dĩ v.v… xả bỏ luật nghi thiện ác, vì khởi hai thứ nương dựa nơi tham không phải là rất nặng.

Do lý như thế tức đã giải thích ở châu Bắc hai A-thế-da không phải là mãnh liệt. Lại, vì không thuận khởi Tam-ma-địa, nên thân của họ không có luật nghi thiện ác. Nẻo ác không có khả năng hiểu biết về lý tà chánh. Lại, không phải là đối tượng nương dựa của hổ thẹn mãnh liệt. Chủ yếu là tương ưng với hổ thẹn này cùng tổn hoại, mới có thể có được luật nghi thiện, ác. Nên trong nẻo ác không có giới thiện, ác.

Lại, loại Phiến dĩ v.v… như ruộng muối mặn, nên không thể sinh giới thiện, giới ác. Thế gian hiện thấy các thửa ruộng muối mặn không thể sinh khởi nhiều thứ mạ lúa tốt tươi cùng cỏ dại rậm rạp.

Nếu như vậy vì sao trong Khế kinh nói: Có rồng là noãn sinh, thường vào ngày mồng tám, nửa tháng, từ nơi cung xuất hiện đi đến nhân gian, để cầu thọ tám chi trai giới Cận trụ.

Rồng này được hành diệu, không phải là được luật nghi. Thế nên luật nghi chỉ ở nơi hàng người, trời là có. Tuy nhiên, chỉ nơi con người là có đủ ba thứ luật nghi: Biệt giải thoát, tĩnh lự và vô lậu. Nếu sinh lên các trời thuộc cõi dục và cõi sắc đều cùng có được luật nghi tĩnh lự, nhưng nơi trời vô tưởng thì chỉ cùng thành tựu. Sinh nơi cõi vô sắc, các trời kia đều cùng không phải có luật nghi vô lậu, cũng ở tại vô sắc. Nghĩa là nếu sinh trong các trời cõi dục và sinh trong cõi sắc, trừ định trung gian, vô tưởng, đều cùng có được luật nghi vô lậu. Sinh trong vô sắc chỉ được thành tựu. Do vô sắc nên tất không hiện khởi. Vô lậu sinh trên được thành tựu dưới.

HẾT – QUYỂN 39