LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 38

Phẩm thứ 4: BIỆN VỀ NGHIỆP, phần 6

Các hữu tình quy y Phật, Pháp, Tăng là quy về những gì? Tụng nêu:

Quy y thành Phật, Tăng

Hai thứ pháp vô học

Cùng Niết-bàn trạch diệt

Là nói đủ ba quy.

Luận nói: Như Bản luận nêu: Người quy y Phật là quy y pháp gì? Nghĩa là nếu các pháp diệu hữu hiện có do tưởng cùng tưởng thiết lập ngôn thuyết, gọi là Phật Đà, thì quy y Phật Đà này là quy y Phật có thể thành.

Nói pháp vô học, nghĩa là nếu như thế, tức nêu chung về nghĩa nên được nêu bày.

Nói các pháp tức là hiển bày chỉ rõ về câu vô ngã tăng trưởng.

Nói diệu hữu là làm rõ tánh diệu hữu hòa hợp. Hiện có tức nêu rõ về nghĩa hiện có thể đạt được. Hoặc vì diệu đức hòa hợp, nên gọi là diệu hữu.

Hiện có tức hiển bày là tánh của đối tượng nhận biết. Tưởng, nghĩa là danh ngôn v.v… Người tưởng, tức là nêu lên chủ thể hiển bày cùng lập chủ thể giảng giải. Vì chủ thể giảng giải, nên gọi là thiết lập.

Vì sao nêu lên, tiếp theo thì đáp? Tức do đấy có thể thành ngôn thuyết không đảo ngược.

Giác ngộ tất cả pháp, tất cả chủng tướng, không nhờ người khác truyền dạy, nên gọi là Phật Đà.

Hoặc trí viên thành v.v… này, vì chúng đức tự nhiên mở bày giác ngộ, nên gọi là Phật Đà. Hoặc Phật Đà gọi là hiển thị Phật kia có giác. Như vật chất ngại, gọi là có chất ngại. Hoặc danh xưng Phật Đà là làm rõ Phật kia có thể thuyết giảng về đối tượng chứng giác của mình, để mở bày giác ngộ cho người khác. Như có Bà-lamôn đến chỗ Đức Phật, dùng tụng diệu tán thán rồi thưa hỏi Đức Thế Tôn, nói:

Kính lễ Đạo sư đời

Gọi bậc Giác tối thượng

Duyên gì nơi cha mẹ

Gọi tôn danh Phật Đà.

Đức Thế Tôn xót thương Bà-la-môn kia, cũng dùng Già tha bảo cho biết:

Bà-la-môn nên biết

Ta như Phật khứ, lai

Thành tựu tướng bậc

Giác Nên ta gọi Phật Đà.

Bà-la-môn nên biết

Ta quán hành ba đời

Đều có pháp sinh diệt

Nên ta gọi Phật Đà.

Bà-la-môn nên biết

Ta nơi nên biết đoạn

Sự tu chứng đã xong

Nên ta gọi Phật Đà.

Bà-la-môn nên biết

Ta đối tất cả cảnh

Đủ hết thảy trí kiến

Nên ta gọi Phật Đà.

Bà-la-môn nên biết

Ta ở vô lượng kiếp

Tu các hành thuần tịnh

Trải vô lượng sinh tử.

Nay ở thân sau cùng

Lìa trần cấu, tên độc

Chứng đắc giác vô thượng

Nên ta gọi Phật Đà.

Nói có thể thành Phật, là hiển bày các pháp kia cùng với Phật đã thiết lập làm nhân kiến lập.

Vì sao trong đây, đối với vô lượng pháp được kiến lập chung, nhưng chỉ nêu lên danh xưng của một Phật?

Như dựa trên rất nhiều người hòa hợp để lập một Tăng bảo, một nơi chốn quay về thù thắng. Lại, ở trên rất nhiều đạo vô lậu, lập một uẩn đạo thì không có lỗi.

Hoặc như trước đã nói. Trước đã nói như thế nào? Nghĩa là tưởng cùng tưởng thiết lập ngôn thuyết, tức Đức Phật cùng nối tiếp, trong pháp vô học lập danh xưng một Phật, không riêng một Phật có thể thành pháp Phật. Đó là những gì?

Nghĩa là tận trí v.v… và quyến thuộc của tận trí.

Do đạt được pháp tận trí kia, có thể giác ngộ tất cả, vì pháp ấy là thù thắng nên thân được danh xưng Phật, không phải thân như sắc v.v…, vì trước sau bình đẳng.

Là quy y một Đức Phật hay là quy y tất cả Phật?

Về lý thật nên nói là quy y tất cả Phật, do tướng giác ngộ của chư Phật là không khác.

Trong đây, Kinh chủ nêu bày như thế này: Nhưng tìm kiếm nơi Bản luận không thấy có nói chỉ pháp vô học tức gọi là Phật. Chỉ nói pháp vô học có khả năng thành Phật, không ngăn chận, đối tượng nương dựa là thân, cũng là Thể của Phật.

Thế nên ở đây không thể nêu vấn nạn nói: Nếu chỉ pháp vô học tức là Phật, vì sao ở nơi chỗ Phật, khởi tâm ác làm thân Phật chảy máu, chỉ tổn hại sinh thân mà thành tội vô gián?

Nay xem rõ Kinh chủ đối với nghĩa của Bản luận chưa nghiên cứu, suy tìm kỹ câu nói có thể thành Phật mà đã ngăn chận Thể của Phật, dựa nơi thân, cho câu nói danh xưng Phật là dựa nơi nghĩa của Phật để lập, chỉ nghĩa này đã nêu rõ, là Thể của Phật chân thật.

Nếu câu nói danh xưng Phật căn cứ dựa vào thân để lập, thì vào lúc chưa chứng đắc pháp vô học, đã có dựa vào thân, tức nên cũng gọi là Phật, nên biết Phật hiệu không nêu rõ là dựa vào thân. Do đấy, dựa vào thân không phải là có thể thành Phật. Vì vậy Bản luận nói câu có thể thành Phật là đã ngăn chận y thân, cũng là Thể của Phật.

Đã là rõ Thể của Phật chỉ là pháp vô học, hoặc nếu như thừa nhận như thế, cũng không phải là không có vấn nạn. Nghĩa là thể tánh của Phật lược có hai thứ: (1) Thế tục. (2) Thắng nghĩa.

Quy y Phật là hiện đối với thế tục. Đối với Phật thắng nghĩa, buộc giữ niệm quy y, vì nhờ nơi y thân mà quy y Phật thắng nghĩa kia. Do được Phật kia, nên được Phật gọi là pháp. Vì thế nên chỉ pháp vô học là Thể của Phật thắng nghĩa. Thành tội vô gián là do tổn hại thắng nghĩa. Tuy nhiên, Phật thắng nghĩa tất không thể tổn hại.

Dựa vào nghĩa lý như thế, có thể nêu vấn nạn nói: Vì sao ở nơi chỗ Đức Phật, khởi tâm ác làm thân Phật chảy máu, chỉ tổn hại sinh thân mà thành tội vô gián?

Phái Tỳ-bà-sa giải thích: Hủy hoại sinh thân kia là đối tượng nương dựa, nên Phật thắng nghĩa cũng hoại theo.

Giải thích vấn nạn như thế là hết sức hợp lý.

Lại, Kinh chủ kia nêu vấn nạn như thế này: Nếu khác với đây, tức nên Phật cùng với Tăng trụ ở tâm thế tục, không phải là Tăng, không phải là Phật. Vì sao như thế?

Vì ở nơi bấy giờ, pháp học, vô học đã không hiện tiền, nên vấn nạn này không đúng, vì không phải đã được thừa nhận. Nghĩa là ta không thừa nhận pháp học, vô học, chỉ ở nơi phần vị hiện tại, mới thành Phật, Tăng. Chỉ nói Phật, Tăng được pháp kia, nên ở nơi các phần vị từng được không gián đoạn, đâu phải trụ nơi tâm thế tục liền không phải là Tăng, không phải là Phật. Nếu như thừa nhận hiện tại mới thành Phật, Tăng, cũng không có lỗi, vì thừa nhận hiện tại kia đạt được thể của Phật, cũng là pháp học, vô học, tức được tất cả thời thường hiện tiền.

Kinh chủ lại nói: Lại, tức nên chỉ chấp thành giới Bí-sô, tức là Bí-sô, là Tông của ta, há thành lỗi?

Do được giới nên giả nói về y thân, cũng gọi là Bí-sô, cùng với nghĩa trước là như nhau. Thế nên Kinh chủ đối với Tông Đối pháp đã không khéo nhận biết rõ về nghĩa văn đã nói.

Bộ Bà Thư tử (Độc tử bộ) nói như thế này: Bổ-đặc-già-la là Phật của đối tượng quy y. Điều này là không hợp lý. Vì sao? Vì pháp kia không có sai biệt, nên không thành quy y. Nghĩa là quy y nơi Bổđặc-già-la Ly hệ so với quy y nơi Thế Tôn có sai biệt gì?

Vì sai biệt như thiện v.v… là đồng không nghi nhận. Nếu cho như lửa, tùy theo nương dựa có sai biệt. Nghĩa là như dựa vào trấu, gọi là lửa trấu. Như thế, nương dựa nơi pháp Phật, Bổ-đặc-già-la kia cũng được mang tên Phật.

Lời biện hộ giúp này là không đúng, vì nên là vô thường, nếu như không biện hộ giúp thì chấp đã không được thành. Nghĩa là bộ kia đã chấp Bổ-đặc-già-la, đã tùy theo đối tượng nương dựa, nên tánh là vô thường. Lại, dựa vào lửa trấu, không phải tức gọi là trấu. Bổđặc-già-la nếu nương dựa nơi pháp Phật, thì chỉ nên gọi là Bổ-đặcgià-la của Phật, Bổ-đặc-già-la không phải tức gọi là Phật.

Biện hộ giúp cho lối chấp như thế, cuối cùng đâu được thành? Vì đã chấp Bổ-đặc-già-la tùy theo pháp, thành sai biệt, tức nên thừa nhận pháp có thể sai biệt, tức là Phật, không phải thứ khác. Vì tên gọi quy y là làm rõ về sự nương dựa. Do sự nương dựa này có thể diệt trừ các thứ tai họa của sinh tử hiện có.

Có công dụng như thế, chỉ là pháp của tướng này, nên nói pháp ấy là đối tượng quy y. Pháp khác đều không như vậy, nên thuyết này là thiện.

Lại, nên thừa nhận Bổ-đặc-già-la của Phật thành pháp thế gian, nên Khế kinh nói: Nay thấy các căn của Đức Thế Tôn đổi khác. Các ông đã chấp Bổ-đặc-già-la do tùy theo đối tượng nương dựa, nên thành sai biệt.

Do đâu nương dựa nơi pháp Phật, hữu tình kia được mang tên Phật?

Không phải pháp Phật làm đối tượng nương dựa mà không gọi là không phải Phật, do trong đây không có lý khác biệt. Nếu cho như người tuy có màu đen như tóc v.v…, nhưng không tùy thuộc nơi tóc kia để có thể được gọi là người trắng. Thế thì nên thành xả bỏ phần biện hộ giúp cho chỗ chấp ở trước. Nghĩa là thuyết kia, trước đã biện hộ cho chấp Bổ-đặc-già-la, do tùy theo đối tượng nương dựa, nên thành có sai biệt. Nay, lại không thừa nhận Bổ-đặc-già-la tùy theo đối tượng nương dựa kia nên thành sai biệt. Há cũng có lửa được mang tên sai biệt, tùy theo một phần nương dựa, không tùy theo một phần. Lại, nương dựa nơi hữu lậu, vô lậu đã thành Bổ-đặc-già-la, nên thành hai Thể. Không như vậy tức nên bỏ chỗ đã biện hộ cho cố chấp ở trước.

Lại, Đức Thế Tôn nêu rõ: Ta sinh ở thế gian, không phải là Bổ-đặc-già-la, cũng có lý sinh. Nếu khác với đây, thì Đức Thế Tôn tức nên nói: Ta hiện nơi thế gian. Nhưng nói không như vậy, thế nên quyết định pháp là đối tượng quy y. Như Đức Thế Tôn nói: Chỉ nên dựa nơi pháp, không nên dựa nơi Bổ-đặc-già-la kia.

Lại, Đức Thế Tôn nói: Nếu người thấy pháp, tức là thấy Ta.

Lại, Khế kinh nêu rõ: Đức Phật tuy chuyển biến, nhưng tâm không khác. Không phải là ông đã chấp về Bổ-đặc-già-la, là có thể có chuyển biến, do ông không nói Bổ-đặc-già-la là vô thường.

Nay, nhân nơi nghĩa thuận tiện, lại dùng lý khác để phá bỏ về Bổ-đặc-già-la, là đối tượng quy y của ông, Thể kia không phải là thật. Nơi xứ khác đã biện rộng.

Tôn giả Củ-ma-la-đa nói như thế này: Pháp hữu lậu, vô lậu của Phật đều là Thể của Phật. Nên Khế kinh nói: Nay, thân Phật già cả suy yếu.

Lại, Đức Thế Tôn nói: Ta nay bệnh nặng, sinh thọ gần tử, nói với Tôn giả A-nan-đà: Ông nên vì Phật, ở đây trải bày Ốt-đátla-tăng.

Lại, Khế kinh nêu: Ông nên đem thức ăn uống như pháp cúng dường Phật, là tăng thượng.

Lại, Khế kinh cho: Các chúng Bí-sô đều thọ trì lời Đức Phật dạy.

Lại, Khế kinh nói: Ở nơi trụ xứ của Đức Như Lai, khởi tâm ác làm thân Phật chảy máu.

Lại, kinh nêu rõ: Phật dùng chân để nhẹ lên y.

Lại, Khế kinh nói: Ta nay xem uy quang của Phật rực rỡ như đài vàng vi diệu.

Lại, như Đức Thế Tôn nêu bày: Ta nay muốn đi đến xứ núi Sađa để trả ơn Dược-xoa.

Lại, Khế kinh nói: Các ông thương chủ, nếu được thấy Phật, thì đạt được lợi ích vô thượng. Lại tạo lợi ích cho người khác mới được gọi là Phật.

Tạo lợi ích cho người khác: Phần nhiều là tục trí.

Lại, chư Phật dùng đại bi làm Thể. Đây là pháp hữu lậu cùng chuyển với hữu tình.

Các loại giáo lý như thế v.v… là rất nhiều. Không phải trong vô lậu, có thể có những sự việc này, nên không phải chỉ pháp Phật vô lậu làm Thể của Phật. Điều này cũng phi lý, do lực của pháp vô học, đối với pháp của thân bình đẳng giả lập danh xưng Phật.

Làm sao nhận biết như thế?

Vì nhãn căn v.v… của Phật so với nhãn v.v… trước là không có khác biệt. Lại, như hữu lậu, gọi là minh của vô học. Kinh nói ba minh là vô học, nên không phải trí tử sinh có thể là vô học, vì đây là duyên nơi hình hiển, vì hữu tình cùng chuyển, nên thân vô học, có được tên vô học. Pháp khác cũng như vậy, cùng với pháp của chư Phật rơi vào một phần cùng nối tiếp, cũng được mang tên Phật.

Lại, thân Phật bình đẳng, không nên là Phật do ứng hợp với đoạn. Phàm nói Phật đều không có lỗi lầm, vì không phải ứng hợp với đoạn.

Lại, kinh nói: Thân do vô minh tập thành.

Há có thể cho Phật cũng do vô minh tập thành.

Lại, thân của chư Phật là cảnh bất tịnh, vì hết thảy sắc nơi cõi dục là cảnh của quán bất tịnh, không phải Phật nên làm cảnh của quán bất tịnh.

Kinh nêu: Duyên nơi Phật khiến căn thiện tăng trưởng, sinh tác ý hoan hỷ. Các quán bất tịnh hoàn toàn cùng với tác ý nhàm chán tương ưng, nên biết thân Phật không phải đích thực là Phật.

Lại, nói về nghiệp, thì ăn là nhân của thân, nên các xứ của thân Phật, thuộc về dị thục của nghiệp, được nuôi lớn do các thứ thực như đoạn v.v…

Há nên ở nơi thân này lập danh xưng Phật chân thật.

Nếu có người nói: Phật nhân nơi nghiệp mà có, ai là người có trí mà không chê trách?

Há là người có trí đã lầm phát ra lời nói này, về sau tự xét biết, mà không có hối hận, hổ thẹn?

Nếu căn cứ nơi tư lương của Phật, nương dựa thâu tóm lợi ích v.v… giả nói là Phật, đối với lý không có ngăn chận, ở xứ khác cũng từng thấy, có so sánh này. Như nói: Ăn là thọ mạng, lạc là bệnh nhiệt v.v….

Lại, trong thân Phật, đại bi, tục trí, ở nơi quả vị Bồ-tát trước, Thể của chúng đã có. Thể này nếu là Phật, thì Phật tức nên thành trước. Nếu có nhân riêng khác, khiến hai thứ này chuyển sau, gọi là Phật, tức nên thừa nhận pháp có thể sai biệt này là Phật, không phải thứ khác.

Phá trừ nhân này, cũng nên đồng với một loại ở trước, tự chấp phân biệt, trái với lý giáo chân chánh. Nhưng Đại chúng bộ lại nói thế này: Các pháp đã có trong thân Đức Như Lai, đều là vô lậu, cùng là đối tượng quy y. Do kinh nói: “Thân là đã tu”. Nghĩa là Khế kinh nêu rõ: “Thân vì tâm đã tu”. Như nói: Đã tu tâm, thừa nhận tâm là chân tịnh, thân cũng nên như vậy. Đã nói về đã tu, vì sao có thể nói không phải là vô lậu chân thật.

Như thế v.v… các loại kia để chứng minh thật là nhiều. Tông của một loại này trong phẩm Biện về bản sự, đã ngăn chận rộng, loại trừ, không nhọc công đả phá lần nữa. Nhưng Khế kinh nêu bày: “Đã tu thân”, là căn cứ theo tu đạo đối trị, nên nói như thế. Là đã tu tập, có thể lìa nhiễm sắc, là nghĩa của đạo vô gián.

Lại, Khế kinh nói: “Vị kia đã tu tập bốn thứ niệm trụ”. Lại nói: “Bốn niệm trụ đã gồm thâu chung tất cả pháp”, tức tất cả pháp nên đều là vô lậu.

Nếu cho bốn niệm trụ này căn cứ ở tự tánh theo hai niệm trụ cùng lìa để nói, số còn lại cũng nên đồng. Nghĩa là Khế kinh nói: “Người đã tu thân”. Vì sao không thừa nhận tu thân niệm trụ? Lại, thiện hữu lậu, cũng là đối tượng tu, nên dẫn câu nói tu để chứng minh vô lậu, thì chứng này cùng với lý, há có thể tương ưng?

Lại, như thuyết kia đã nói, nếu Phật nhãn v.v… là cảnh của phiền não, nên là hữu lậu, thì há chẳng phải cũng là đối tượng duyên lìa nhiễm, lý nào có thể ngăn chận?

Là tánh vô lậu, tánh này so sánh không phải là bằng nhau, như trước đã biện về tướng hữu lậu, vô lậu có sai biệt. Nhưng Khế kinh đã nêu: Đối tượng duyên của phiền não, Thánh đạo đã nhàm chán, gọi là hữu lậu, tức nên cùng tìm cầu về ý nghĩa của kinh này, còn ý nghĩa của bậc Thiện Thệ, rất khó nhận biết.

Nay, nhận thấy ý của kinh này đã nói. Nếu cảnh của đối tượng duyên là vị phiền não hiện rõ mà chấp là mình có cũng bị Thánh đạo chán ghét, đó gọi là hữu lậu. Lý là ứng hợp. Nhãn v.v… nơi vị của các lậu hiện rõ mà chấp là mình có, có thể thành hữu lậu. Không nên so sánh nói các pháp như nhãn v.v… là vô lậu, vì đã chán ghét nên cũng thành vô lậu.

Vui thích, nhàm chán đã khác, làm so sánh là không cân xứng. Không phải Phật nhãn v.v… là vô lậu. Các pháp hành tác đạo cùng với hành tướng vui thích mà duyên, không thể nói cho pháp như Phật nhãn v.v… là vô lậu do chán ghét mà thành vô lậu. Lại, như tham, sân ở nơi các lậu chuyển, ở nơi nhãn v.v… chuyển, tướng của chúng cũng như thế. Nên có thể nói các pháp như nhãn v.v… đồng với các pháp lậu, cũng thành hữu lậu. Không phải như Thánh đạo ở nơi Thánh đạo chuyển, ở nơi nhãn v.v… chuyển tướng của chúng cũng như thế. Nên không thể nói các pháp như nhãn v.v…. đồng với pháp của Thánh đạo, cũng thành vô lậu. Cho nên bộ kia đã nhọc sức mà không được thành. Tuy còn có vô số vọng tuân theo tình của mình, nhưng không tổn hại các tướng do kinh của tông ta đã nói. Chỉ có đại Thánh Ca Đa Diễn Ni Tử nói về đối tượng quy y, thể của Phật là không có lỗi lầm.

Tăng già có sai biệt lược có năm loại: (1) Tăng vô sỉ. (2) Tăng á dương. (3) Tăng bằng đảng. (4) Tăng thế tục. (5) Tăng thắng nghĩa.

Tăng vô sỉ: Nghĩa là Bổ-đặc-già-la hủy phạm giới cấm mà mặc pháp phục.

Tăng á dương (Dê câm): Nghĩa là Bổ-đặc-già-la đối với ba Tạng, không có hiểu biết thông tỏ. Ví như con dê câm, không có tác dụng nói năng biện biệt. Hoặc nói người câm là làm rõ không có khả năng thuyết pháp. Lại nói chữ dê, tức hiển bày không có công dụng nghe pháp, tức làm rõ loại Bổ-đặc-già-la này ở trong ba Tạng không có tác dụng nghe, nói.

Tăng bằng đảng: Nghĩa là Bổ-đặc-già-la đối với sự việc giao tiếp rộng, tạo dựng tranh chấp, thường dùng phương tiện khéo léo để kết thành bè nhóm.

Ba loại Tăng này, phần nhiều tạo nghiệp phi pháp.

Tăng thế tục: Nghĩa là phàm phu thiện. Loại này có thể tạo chung cả nghiệp pháp và phi pháp.

Tăng thắng nghĩa: Nghĩa là Bổ-đặc-già-la của pháp học, vô học. Cùng là pháp khí của đối tượng nương dựa kia. Loại này nhất định không cùng tạo nghiệp phi pháp. Tối thắng trong năm loại. Là đối tượng quy y. Như trong Già tha tán thán về quy y có nói:

Quy y này tối thắng

Quy y này tối tôn

Tất nhân quy y này

Có thể thoát chúng khổ.

Ở trong loại tăng thắng nghĩa của hai pháp – Bổ-đặc-già-la (người) như thế, ý của Tôn giả Ca Đa Diễn Ni Tử chỉ dùng pháp làm Tăng của đối tượng quy y, nên trong Bản luận đã nêu bày như thế này: Quy y nơi pháp học, vô học của Tăng có thể thành.

Há không phải ở đây nói so với kinh là trái nhau?

Nghĩa là trong Khế kinh Đức Thế Tôn nói có Bổ-đặc-già-la của bốn hướng bốn quả là Tăng phước điền, đều nên cúng dường.

Kinh có nghĩa riêng. Tức là trong kinh kia nêu rõ về Tăng phước điền, là nên cúng dường. Ý của kinh kia là làm rõ về Tăng có thể thọ nhận thí. Hai thứ trong Tăng thắng nghĩa, có thể thọ nhận thí của người khác, tức không phải chỉ ở Bổ-đặc-già-la mà là ở pháp học, vô học. Trong Bản luận này thì nói về nghĩa của quy y là thật sự có thể cứu hộ mới là đối tượng quy y. Công năng cứu hộ thật sự chỉ ở nơi Thánh pháp. Nên Khế kinh đã nói rõ là chỉ nên dựa theo pháp, không nên dựa nơi Bổ-đặc-già-la kia. Do đấy, Kinh Luận không cùng trái nhau.

Lại, kinh này tức nên là kinh không liễu nghĩa. Đối hướng với lý không trái, nơi ý nghĩa sâu xa riêng. Đối hướng với ý nghĩa sâu xa riêng mới có thể hiểu rõ. Loại này gọi là kinh không liễu nghĩa. Nghĩa là trong kinh này đã lập Bổ-đặc-già-la (Người) và pháp của bốn tám quả hướng có sai biệt.

Bổ-đặc-già-la quyết định dựa vào gì để kiến lập?

Căn cứ vào ngôn thuyết trực tiếp, nghĩa lý cùng không thành.

Nếu cho dựa nơi pháp thì chỉ lập năm, nghĩa là quả A-la-hán và bốn thứ hướng, pháp vô lậu hòa hợp tạo thành Tăng già. Nếu dựa nơi Bổ-đặc-già-la, cũng không nhất định là tám, do nhân thành tám số nhất định không thể được. Nghĩa là có vô lượng phẩm đã thiết lập riêng Tăng già, dựa nơi một Bổ-đặc-già-la, cho đến vô lượng. Nghĩa là hoặc dựa nơi một để thiết lập Tăng già. Như nói: Nếu có thể như thứ lớp kia, dùng các thức ăn uống để cúng dường một vị Tăng, liền đạt được phước của sự việc cúng dường tất cả Tăng.

Hoặc có trường hợp dựa vào bốn để thiết lập Tăng già, như cúng dường chúng Tăng, thuyết giới, hành yết ma v.v… Hoặc có khi dựa vào năm để thiết lập Tăng già, như tứ cử v.v… Hoặc có khi dựa nơi tám để thiết lập Tăng già, như kinh này đã nêu. Hoặc có khi dựa vào mười để thiết lập Tăng già, như dựa vào việc thọ cụ giới v.v… của Tăng chúng vùng giữa nước. Hoặc dựa vào hai mươi để thiết lập Tăng già, như ra ngoài chúng, đến nơi khác làm yết ma v.v…

Trong đây, số càng về sau có thể gồm thâu số lùi về trước, không phải ở trước trước có thể gồm thâu sau sau. Từ đấy về sau, số lượng không quyết định. Cho đến dựa nơi vô lượng cũng thiết lập Tăng già. Như ở xứ khác nói: Bí-sô Tăng già, Bí-sô ni Tăng già. Hoặc hai bộ Tăng già. Hoặc Hiền Thánh Tăng già, Thanh văn Tăng già v.v… Đối với nhiều loại này, thì dựa nơi nhiều phẩm Bổ-đặc-giàla riêng để thiết lập. Nơi Tăng nội chỉ dựa vào tám Bổ-đặc-già-la này, gọi là Tăng phước điền, không phải dựa vào phẩm khác.

Sai biệt như thế là có nhân nhất định nào?

Do hai môn này đều không hợp lý, nên biết đây là kinh không liễu nghĩa.

Nếu cho chỉ ngang bằng với Bổ-đặc-già-la này, là gồm thâu chung các Thanh văn, thì chủng loại của công đức vô lậu hiện có đã thành vô số. Hoặc hai, hoặc ba cùng nối tiếp có sai biệt, nên chỉ căn cứ ở Bổ-đặc-già-la này để chỉ rõ về phước điền. Điều này cũng phi lý. Lại, thừa nhận thiết lập Tăng Bổ-đặc-già-la, chủ yếu là chờ đợi Pháp, Tăng. Tức nên chỉ pháp là Bổ-đặc-già-la của Tăng thắng nghĩa như trước đã nêu. Hoặc trước, hoặc sau không có sai biệt. Lại, dựa nơi tám Bổ-đặc-già-la này cũng không đủ để có thể gồm chung được hết chủng loại công đức của pháp vô lậu nơi tất cả Thanh văn, vì không phải chỉ một quả hướng Dự lưu có thể đạt được tất cả. Công đức của hướng này như thế, cho đến quả A-la-hán.

Nếu cho hướng quả không có sai biệt, nên chỉ ở đây nói chung về tất cả là hết, vì sao không nói năm mà nói tám?

Vì thứ lớp ở trong đây là có thể đạt được, vì ba loại còn lại được gồm thâu ở trong ba này. Lại, dựa nơi pháp lập Bổ-đặc-già-la, là chỉ dựa vào bốn đôi đạo để nói tám Bổ-đặc-già-la, do căn cứ nơi đối tượng nương dựa của công đức thù thắng, chỉ rõ tám thứ hữu tình có sai biệt.

Ý này nói về Bổ-đặc-già-la. Há không phải tức là chỉ dựa nơi pháp, tự tướng, cộng tướng có sai biệt, lý ấy là thành. Vì ở trong pháp, hoặc chung, hoặc riêng đều được thành lập, không phải là Bổđặc-già-la.

Thế nên ở đây chỉ dựa nơi pháp để thiết lập Tăng già là phân minh có thể nhận thấy.

Nếu như vậy thì sao không chỉ nói năm?

Vì đã gồm thâu chung hết các loại phẩm pháp. Do không phải tất cả hướng quả Nhất lai đã gồm thâu chung hết tất cả quả Dự lưu.

Như thế, cho đến hướng A-la-hán không gồm thâu hết tất cả quả Bất hoàn. Thế nên vì hiển bày Thánh đạo có sai biệt, nên nói tám Bổ-đặc-già-la này, vì thế Khế kinh này thành không liễu nghĩa, do chỉ căn cứ ở pháp để kiến lập Tăng già. Quỹ phạm sư của ta, Tôn giả Ca Đa Diễn Ni Tử đã khéo thành lập Tăng già của đối tượng quy y.

Trong các sự thiết lập thù thắng, vì nói về hữu tình, nên không phải nhất định chỉ là pháp, về lý cũng không đúng. Hữu tình kia do sức của pháp nên thành sai biệt, không có phương tiện khác, khiến chúng sinh của đối tượng hóa độ có thể nhận biết rõ đúng về Phật cùng đức thù thắng. Nên Đức Phật đã dùng phương tiện dựa nơi môn hữu tình để lập sự nêu đặt thù thắng, khiến nhận biết là không có lỗi.

Ở trong nghĩa này, lại nên xét chọn: Phật là thuộc về Tăng hay không phải thuộc về Tăng? Nếu thuộc về Tăng, thì sự thiết lập hơn hết, chứng minh số lượng quy y ngôi báu thanh tịnh đều nên giảm. Lại cùng với Chí giáo đã nói là trái nhau. Như Khế kinh nói: Phật bảo Trưởng giả: Thế nào là Tăng bảo? Nghĩa là ở nơi vị lai trong thế giới này, có người thiện nam sinh vào nhà Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, hoặc sinh vào nhà Phệ-xá, Thú-đạt-la, quay về nương dựa nơi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, xuất gia tu chứng. Đó gọi là Tăng bảo.

Lại, Khế kinh nêu rõ: Phật ở trước Tăng. Lại, Khế kinh nói: Phật ở nơi xứ kia cùng với từng ấy số Bí-sô Tăng. Nếu không phải thuộc về Tăng, thì Khế kinh vì sao nói như thế này: Các ông nếu có thể dùng một ít vật thí, như thứ lớp cúng dường Phật, Tăng thượng thủ, tức ở nơi phước điền của Tăng, đạt được phước thí thanh tịnh cùng khắp. Lại, Khế kinh nêu rõ: Kiều-đáp-di! Nếu di mẫu dâng thí cho Tăng, thì cũng là cúng dường cho Như Lai.

Lại, kinh nói: Có bốn hướng bốn quả Bổ-đặc-già-la, gọi là Tăng phước điền. Không nên cho Phật lìa tám loại kia mà có. Tăng có nhiều loại, nghĩa là người hữu tình, phước điền Thanh văn và Thánh Tăng v.v…

Phật ở trong đây không phải là Tăng Thanh văn, có thể là Tăng khác, vì tự nhiên giác ngộ. Lại không thành tựu pháp Thanh văn. Lại vì Thanh văn chế lập học xứ nói: Không nên nhận lãnh, chứa để v.v… lượng y như y của Phật.

Nếu Phật, Thế Tôn thuộc về Tăng Thanh văn, cũng nên thọ học học xứ như thế.

Lại, y vật hiện có của Thanh văn qua đời, Đức Thế Tôn cho phép chúng Bí-sô được chia dùng.

Nếu Đức Phật, Thế Tôn thuộc về Thanh văn Tăng, thì y vật dụng của Đức Thế Tôn cũng nên thừa nhận phân chia. Đã không thừa nhận phân chia, thế nên nhận biết Phật có thể thuộc về Tăng khác, không phải là Tăng Thanh văn. Do đấy là cực thành, Phật Tăng không lẫn lộn. Nhưng Khế kinh nói: Các ông nếu có thể dùng một ít vật thí, như theo đấy cúng dường Phật, Tăng đứng đầu, thì đạt được phước khắp, là căn cứ theo phước điền để nói, nên không có lỗi.

Do đấy đã hiểu rõ về kinh Kiều Đáp Di. Hoặc kinh kia nói: “Cũng cúng dường Như Lai”, cũng nói ý nhằm phân biệt làm rõ Phật không phải là Tăng.

Nếu Phật tức Tăng thì nói cũng là có dụng gì?

Đức Phật đã nêu rõ về tám Bổ-đặc-già-la, là hiển bày phần vị Tăng Thanh văn có sai biệt.

Nói trong Tăng có tám phần vị không đồng. Không nói lời này: Tám đều thuộc về Tăng. Hoặc đã nói tám đều là Tăng phước điền, Đức Phật cũng phước điền, nên không có lỗi.

Thí Tăng, thí Phật, thí nào được quả lớn?

Có thuyết nói: Quả thí cho Tăng là lớn, vì tất cả chủng loại của Thánh pháp vô lậu đều ở trong Tăng, có thể đạt được đầy đủ. Lại nói: Tăng là phước điền thượng hạng. Lại có thí chủ đem vật dâng thí cho Phật, Đức Thế Tôn khuyên họ khiến chuyển sang thí cho Tăng. Nhưng Tông của tôi thì cho: Quả dâng thí cho Phật là lớn, vì Khế kinh nêu rõ: Chư Phật, Thế Tôn đã chứng đắc tất cả tự tại tăng thượng, công đức thù thắng nên gọi là tối tôn.

Lại, Đức Phật Thế Tôn hoàn toàn không có lỗi, vì tập khí của các phiền não đều dứt hết trọn vẹn.

Lại, công đức của phạm hạnh do Tăng đã tu tập, tất cả đều từ Phật xuất sinh.

Lại, đức tự lợi, lợi tha của Đức Phật, Thế Tôn đều đã viên mãn, đạt đến cứu cánh. Kinh nói rõ đức này là tối thắng, do có thể nhanh chóng dẫn dắt tâm người khác, vì nguyện tự rộng lớn đều duyên nơi đấy sinh. Nhưng thuyết kia đã nói: “Tất cả chủng loại của Thánh pháp vô lậu đều ở trong Tăng, có thể đạt được đầy đủ”. Điều này không thành chứng, vì vô lượng vô biên công đức không chung trong thân của Đức Thế Tôn có thể đạt được đầy đủ. Như nói giả sử tất cả hữu tình trong các thế giới đều là A-la-hán, hoặc Độc Thắng Giác với công đức hiện có muốn so sánh với Đức Thế Tôn, cũng không bằng một phần ít.

Đã nói Tăng là phước điền thượng hạng: Cũng không phải là nhân chứng, vì có ý riêng. Nghĩa là căn cứ nơi chúng Tăng, thì số lượng ấy là rất nhiều, có thể thọ dụng nhiều của cải vật dụng đã được dâng thí, có thể khiến cho phước được nhận dùng của thí chủ gia tăng. Thế nên nói là thượng hạng trong phước điền của Tăng. Hoặc nhằm làm rõ chúng Tăng trụ trải qua thời gian lâu và khắp các phương, nên nói như thế. Hoặc Tăng tuy lại là phước điền thượng hạng, nhưng phước điền của Phật là tột cùng trong phẩm thượng. Do trước đã nêu bày về các nhân duyên. Phần nói về thí chủ đem các vật dâng thí cho Phật, Đức Thế Tôn khuyên khiến chuyển sang thí cho Tăng, chứng cứ này là phi lý, vì xét thấy có nhân riêng khác. Nghĩa là Đức Phật vì muốn khiến chúng Tăng trụ giữ chánh pháp vô thượng, được tồn tại lâu dài, nên mới khuyên thí chủ đem vật thí chuyển sang thí cho chúng Tăng.

Sư Tỳ-bà-sa nói như thế này: Vì khiến cho thí chủ được duyên nơi thân tướng sắc vàng ròng của bậc Thánh Từ Tôn, để gieo trồng nhân thù thắng.

Quy y nơi pháp, nghĩa là quy về nơi Niết-bàn ái tận, lìa diệt.

Tát cả như thế là phiền não đoạn, được gọi là có sai biệt.

Hoặc có thuyết cho: Môn vị ái hiện rõ chuyển biến là không nên từ bỏ. Nhờ nơi ái, gọi là hiển bày chung tất cả phiền não đều vĩnh viễn dứt hết, vì ái cùng với phiền não khác là đồng một đối trị.

Nói ái hết: nghĩa là các ái do kiến đạo đoạn đã vĩnh viễn dứt trừ.

Dự lưu: Khi ái này dứt hết, liền tự ký biệt là các nẻo ác đã dứt hết. Nghĩa là ta đã dứt hết Na-lạc-ca v.v…

Nói lìa: Nghĩa là các tham hiện có trong cõi dục, phần nhiều đã đoạn trừ, tức là nghĩa đã làm mỏng tham của cõi dục.

Diệt: Nghĩa là các ái của cõi dục đã đoạn dứt hoàn toàn. Phiền não của địa này, ngay nơi bấy giờ, quyết định không còn nghĩa có thể trói buộc nữa.

Nói Niết-bàn: Nghĩa là các ái của cõi sắc, vô sắc vĩnh viễn đoạn trừ. Do khi đoạn dứt hết này, thì các khổ hiện có đều vắng lặng vĩnh viễn. Đây tức là chỉ rõ về bốn quả Sa-môn. Hoặc bốn loại này như thứ lớp ấy, làm rõ ái của ba cõi đã đoạn và vĩnh viễn bát Niết-bàn. Hoặc ái hết: Nghĩa là ái của ba cõi đã đoạn. Nói lìa: Nghĩa là trừ ái, các phiền não còn lại đều đoạn dứt.

Nói diệt: Nghĩa là hiển bày cảnh giới bát Niết-bàn hữu dư y.

Nói Niết-bàn: Là hiển thị về cảnh giới Niết-bàn vô dư y.

Có Sư khác cho: Quy y pháp: Nghĩa là quy y chung pháp tạp nhiễm và thanh tịnh của chư Phật, Thế Tôn đã thuyết giảng.

Thuyết của Sư kia là phi lý. Vì sao? Vì Đức Phật đã nêu rõ: Niết-bàn gọi là pháp tối thượng. Lại có kinh nói diệt là tối thượng. Vì thế chỉ nên quy y pháp này.

Trong đây, pháp nào là đối tượng quy y? Chủ thể quy y là gì? Quy y là nghĩa gì?

Đối tượng quy y: Nghĩa là toàn bộ diệt đế cùng một phần đạo đế, trừ công đức vô lậu của phần vị học Bồ-tát và Độc giác thừa.

Do đâu các pháp kia không phải là đối tượng quy y?

Do chúng không thể cứu độ sự sợ hãi về sinh tử. Nghĩa là các Độc giác không thể thuyết pháp, dạy khuyên các hữu tình, khiến lìa những sợ hãi về sinh tử. Vị học Bồ-tát vì không khởi tâm có kỳ hạn, nên cũng không thể có nghĩa dạy khuyên người khác. Pháp học, vô học, trong thân của chư vị kia là không thể cứu hộ, nên không phải là đối tượng quy y.

Có Sư khác nêu: Vì không hòa hợp, nên không hiển bày đầy đủ. Như thứ lớp ấy, Độc giác, Bồ-tát, đều không phải là đối tượng quy y. Vì duyên nơi họ cũng sinh ý tịnh vô lậu, nên họ cũng thuộc về cảnh chứng tịnh.

Ở đây, chủ thể quy y dùng ngữ biểu làm Thể, tự lập thệ nguyện có kỳ hạn làm tự tánh. Hoặc cùng với quyến thuộc năm uẩn làm Thể. Vì chủ thể quy y hiện có ngôn thuyết, do tâm cùng khởi, không phải là lìa tâm.

Quy y như thế thì cứu giúp là nghĩa. Thánh pháp của thân khác và vô vi thiện, vì sao có thể vì tự thân tạo cứu giúp?

Do quy y kia có thể dứt hết vô biên các thứ sợ hãi lớn nơi vòng khổ sinh tử, không phải như mục đồng đứng yên phòng hộ đàn bò, Đề-bà-đạt-đa coi giữ người khác v.v… chỉ khiến không phân tán. Không phải là đối tượng quy y, vì không thể khiến chấm dứt các thứ sợ hãi về sinh tử. Tuy lại cũng có quy y Phật, Pháp, Tăng, nhưng những kẻ kia không thể hiện được người cứu giúp, vì họ đã trái vượt giáo lý của Phật. Như có người nương dựa nơi vua mà trái với lệnh vua, nên vua không cứu giúp. Ở đây, cũng nên như thế.

Có Sư khác nói: Người kia cũng có thể cùng với căn thiện của biên sau làm chủng tử. Nên quy y chỉ tạo chủng tử của chánh hạnh, không phải tức do đấy để có thể dứt trừ vòng khổ, nên có quy y chưa mong nhờ người cứu giúp.

Có Sư khác cho: Người kia tuy đã quy y, nhưng chưa có thể vâng làm những công việc của quy y.

Những công việc làm của quy y, Thể của chúng là gì?

Nghĩa là thấy rõ về bốn đế, nên Già tha nói:

Các hữu quy y Phật

Cùng quy y Pháp, Tăng

Ở trong bốn Thánh đế

Luôn dùng tuệ quán xét.

Biết khổ, biết khổ tập

Biết vượt hẳn các khổ

Biết tám chi Thánh đạo

Hướng Niết-bàn an ổn.

Quy y này tối thắng

Quy y này tối tôn

Tất nhân quy y này

Có thể thoát các khổ.

Ba đối tượng quy y có sai biệt: Phật: Chỉ là vô học. Pháp: Cả hai cùng không phải (câu phi). Thể của Tăng thì thông hợp cả học, vô học. Lại, Thể của Phật là phần ít của mười căn, Tăng thì chung nơi mười hai. Thể của Pháp không phải là căn. Vì Niết-bàn trạch diệt không phải thuộc về căn. Lại, quy y Phật, nghĩa là chỉ quy y một quả Sa-môn hữu vi. Quy y Pháp, nghĩa là quy y chung bốn quả Sa-môn vô vi. Quy y Tăng, nghĩa là quy y chung bốn quả Sa-môn hữu vi và có thể hướng đến bốn quả.

Lại, Đức Phật ví như người có thể chỉ dẫn đường. Pháp như phương cõi an ổn đã hướng đến. Tăng như bạn bè cùng bước đi trên đường chánh.

Nên cầu tìm nhân sai biệt của ba ngôi vị này. Nên suy xét do đâu ở nơi xứ luật nghi khác lập lìa phi phạm hạnh làm đối tượng tu học. Chỉ ở trong một luật nghi cận sự song đã ngăn chận, khiến cận sự kia lìa hành dục tà? Tụng nêu:

Hành tà thật đáng trách

Dễ lìa được, không làm.

Luận nói: Chỉ hành dục tà cùng cực, là có thể xem người của đời này đời khác đã cùng chê trách, do có thể xâm hại vợ v.v… người khác, thế nên chiêu cảm nẻo ác, không phải là phi phạm hạnh.

Lại, hành dục tà thì dễ xa lìa. Các người tại gia vì tham vướng nơi dục, nên lìa phi phạm hạnh là khó có thể vâng giữ. Vì quán người tại gia kia không thể tu học trong thời gian dài, nên không ngăn chận họ lìa phi phạm hạnh. Nghĩa là từ vô thủy đến nay, do sức mạnh của việc thường hành tập, nên phiền não dâm dục thường khởi hiện hành. Các người tại gia tùy thuận cảnh dục, thường dễ hòa hợp, vì chế ngự là khó, nên không chế hàng tại gia kia, khiến xa lìa hoàn toàn.

Lại, các Thánh giả đối với hành dục tà, tất cả nhất định được luật nghi không tạo tác. Kinh sinh Thánh giả cũng không hành. Lìa phi phạm hạnh thì không như thế. Đối với luật nghi cận sự đã thọ, chỉ vì chế lập, lìa hành dục tà. Nếu khác với đây, thì kinh sinh hữu học, tức nên không thể giữ giới tánh của cận sự.

Nếu các cận sự, về sau lại từ thầy lập kỳ hạn, lại thọ luật nghi lìa phi phạm hạnh, được luật nghi này là chưa từng được chăng?

Có Sư khác cho: Được luật nghi này, nhưng không do đấy mới thành cận sự, cũng không do đấy mà mất danh xưng cận sự, cũng không phải ở thời gian trước, giới không viên mãn.

Có thuyết nêu: Không được luật nghi chưa được, nhưng đạt được công đức đầu đà là tối thắng. Gọi là đạt được pháp xa lìa hơn hết: Nghĩa là có thể xa lìa pháp dâm dục, do đấy, nếu có thể xa lìa vợ con, nhà cửa, tịnh tu phạm hạnh, thì công sức không vô ích. Nếu có người lúc trước chưa thâu nhận thê thiếp, đã ở nơi khắp loại hữu tình thọ luật nghi cận sự, về sau khi lấy vợ, thì đâu không phải là phạm giới.

Nay, vì không phải thuộc về người khác, nên như dùng của cải thuộc về mình. Nghĩa là ở vào thời nay, do sức của chú thuật, hoặc dùng vô số phương tiện như của cải, lý lẽ v.v… để thu tóm những thứ kia thuộc về mình, không hệ thuộc người khác, vì sao khó khiến đối với người kia là phạm giới.

Lại có lý riêng. Nay khi nhận lấy các thứ kia, đối với luật nghi trước là không có trái phạm. Tụng nêu:

Được luật nghi như nguyện

Không chung nơi nối tiếp.

Luận nói: Các người thọ dục, thọ giới cận sự, như xưa đã thọ nhận lời thề mà được luật nghi. Xưa đã thọ nhận lời thề là thế nào? Nghĩa là lìa hành dục tà, đối với các người nữ thuộc về kẻ khác, khởi tưởng thuộc về kẻ khác, mà làm việc phi pháp. Như thế mới gọi là vi phạm hành dục tà, không phải đối với tất cả hữu tình cùng nối tiếp, trước lập lời thề nói: Tôi sẽ đối với người nữ kia, lìa phi phạm hạnh mà được luật nghi. Vì sao thời nay có thể gọi là phạm giới?

Đã như lời thề xưa mà được luật nghi. Nay đang hành theo, vì sao gọi là phạm?

Trước đã lấy thê thiếp, về sau thọ luật nghi, đối với thê thiếp của mình, cũng phát khởi giới này. Do luật nghi biệt giải thoát của cận sự v.v… là ở nơi tất cả xứ hữu tình đã được. Nếu khác với đây, thì đối với thê thiếp của mình, không phải chỗ, không phải thời, không phải chi, thể, cũng nên không phạm giới hành dục tà.

Nơi xưa trước đã thọ, đã có phạm, đối với luật nghi mới thọ, tức nên có không phạm. Vì vậy không nên theo như trước để vấn nạn.

Do đâu trong bốn nghiệp đạo ngữ, lập lìa nói lời hư dối làm học xứ của cận sự mà không lập lìa thứ khác như lìa nói lời ly gián v.v…?

Cũng do ba thứ nhân như trước đã nói. Nghĩa là nói lời hư dối là đáng chê trách hơn hết. Vì các người tại gia dễ xa lìa, tất cả Thánh giả thì đạt được không tạo tác. Lại có nhân riêng. Tụng nêu:

Vì mở lời hư dối

Liền vượt các học xứ.

Luận nói: Vượt qua các học xứ, khi bị xét hỏi, nếu mở bày nói lời hư dối, liền nói: Tôi không làm. Nhân đấy, đối với giới, có nhiều trái vượt. Nên Đức Phật vì muốn khiến hàng cận sự kia kiên trì, nên đối với tất cả luật nghi, đều ngăn chận nói lời hư dối.

Vì sao khiến cho sức của duyên kia phạm giới?

Bấy giờ, lập tức sinh xấu hổ, như thật tự phát lồ.

Do đâu trong tất cả phần lìa tánh tội, lập bốn thứ làm học xứ của cận sự, nhưng ở trong tất cả phần lìa già tội, đối với luật nghi cận sự, chỉ chế lìa uống rượu? Tụng nêu:

Trong ngăn chỉ lìa rượu Vì giữ luật nghi khác.

Luận nói: Các người uống rượu, tâm phần nhiều phóng túng, buông thả, không thể giữ gìn các luật nghi khác. Nên vì để bảo vệ luật nghi còn lại kia, tức khiến lìa uống rượu. Nghĩa là uống rượu xong, đối với ác tác, nói biệt hối, rơi vào tội đọa. Các thứ luật nghi còn lại trong năm bộ tội tha thắng là không thể ngăn giữ. Hoặc có xứ này, do đấy khắp nơi các biển học xứ liền bị nhiễu loạn trái vượt. Vì vậy Đức Thế Tôn nhận biết uống các thứ rượu là nhân khởi tất cả tánh tội, có thể tổn hại chánh niệm cùng chánh trí, có thể dẫn đến phá giới, phá kiến, ngu si, nên ở trong tất cả thứ lìa già tội, chỉ nói đây là học xứ của cận sự. Thế nên lìa uống rượu tuy thuộc về già giới, nhưng ở trong tất cả phần lập học xứ cùng với phần lìa tánh tội, cùng tùy thuận mà chế định.

Có thuyết cho: Uống rượu là tướng thuộc về tánh tội, vì theo A-cấp-ma và chánh lý. A-cấp-ma, nghĩa là Khế kinh nói: Thân có bốn hành ác là sát sinh đến uống rượu, không nên cho già tội là thuộc về hành ác.

Lại, như Thượng tọa Ô-ba-ly nói: Con phải nên làm thế nào để cung cấp cho người bệnh? Đức Thế Tôn bảo: Chỉ trừ tánh tội, tội còn lại, tùy theo chỗ ứng hợp, đều có thể cung cấp. Tuy nhiên, có Bí-sô thuộc tộc họ Thích mắc bệnh cần rượu, Đức Thế Tôn không cho phép dùng rượu để cung cấp, không phải Đức Phật đối với Bí-sô mắc bệnh kia tự nói là Thầy mà không thương xót.

Do chánh lý: Nghĩa là Thánh giả, phàm phu đều cũng không phạm, như sát sinh v.v…

Lại, lìa uống rượu, Đức Thế Tôn nói là là luật nghi cận sự như sát sinh v.v…

Luận giả Chánh Lý nói như thế này: Tuy ở trong đây, nếu biện biệt như lý, tất gặp phải một loại kẻ ngu đã chê cười. Nhưng tâm họ đã đi ra ngoài tướng của chánh pháp, cùng uổng phí lý lẽ để phá bỏ ngôn thuyết tà vạy kia. Do vậy tôi tất nên biện về tướng của chánh pháp. Không phải uống các thứ rượu là thuộc về tánh tội, vì trong đây, vì không có tướng của tánh tội.

Tánh tội, già tội, tướng của chúng là thế nào?

Khi Phật chưa chế giới, các người lìa dục quyết định không khởi, là tướng của tánh tội. Nếu dục kia cũng hành đó gọi là già tội.

Lại, nếu chỉ nhờ dựa nơi tâm nhiễm ô mà hành là tướng của tánh tội. Nếu có khi cũng nhờ dựa nơi tâm không nhiễm mà hành đó gọi là già tội. Vì phòng ngăn lỗi khác, nên Đức Phật đã ngăn cấm.

Nay ở trong đây, nên cùng xét chọn.

Là có người đối với rượu tuy rất ghét bỏ, nhưng vì lương y khiến uống để trị bệnh, nhận biết đúng là miễn cưỡng uống, không khởi tâm nhiễm. Hay là không có người tâm không nhiễm như đây? Nếu thừa nhận là có, tức đã không có tâm nhiễm vì sao có thể thành hành ác của tánh tội? Nếu cho là không, thì vì sao bị bệnh nhận biết đúng là miễn cưỡng uống mà có tâm nhiễm? Há không phải trước đã nhận biết uống rượu là tội, vì không có xấu hổ nên uống? Hoặc đối với tội uống rượu, ngu si cho là không phải tội, tức là tâm nhiễm.

Biện hộ giúp này là không đúng. Nghĩa là uống các thứ rượu thể tánh của sự việc ấy là tội. Về lý là không thành, nên phải xét kỹ. Do đâu việc uống rượu này đều là tánh tội? Các hữu tình bị bệnh, do tâm không nhiễm, biết lượng mà uống, có thể không say loạn. Như vì trừ bệnh, nhận biết lượng uống thuốc độc, có thể khiến không bị tổn hại, há là tội! Nên không phải uống rượu, đều thuộc về hành ác. Nếu vì kiêu mạn, phóng dật, hoặc vì hân hoan, vui thích, hoặc biết rõ về say loạn, nhưng vì tham nên uống, những hành này đều dựa nơi tâm nhiễm ô sinh.

Căn cứ trong kinh này nói về hành ác của thân, nên biết đây là thuộc về tánh. Nếu như Đức Phật không ngăn cấm thì cũng là tội.

Hoặc uống các thứ rượu, do ở nơi xứ phóng dật, nên gọi là hành ác, vì không phải do tánh tội, nên ở đây lập riêng tên gọi xứ phóng dật, không phải như sát sinh v.v… là tánh tội. Nhưng vì người bệnh, nên mở bày chung với già giới. Lại, ở vào thời gian khác, ngăn chận người uống rượu, là vì đề phòng nhân nơi việc uống rượu này mà phạm tánh tội. Nghĩa là chớ nên biết uống rượu là già tội không có nhiều lỗi lầm, liền buông theo tình tham, dần dần uống nhiều, đến nỗi say loạn. Nhân nơi phóng dật này, tạo nên nhiều tánh tội. Vì muốn phòng xa sự việc tạo các tánh tội nên cho đến lượng rượu ít chỉ thấm nơi đầu ngọn cỏ tranh cũng không cho phép uống. Lại, vì khiến say loạn, tức lượng rượu không có hạn định, nên ngăn chận, cho đến chỉ nhấm lượng rượu thấm trên đầu ngọn cỏ tranh, không phải là hạn định ngăn cấm. Tức cho uống rượu là thuộc về tánh tội.

Như về cờ bạc, như nói: Bí-sô các ông quyết định không nên chơi cờ bạc. Không phải các thứ chơi cờ bạc, vì quyết định ngăn cấm, nên liền là tánh tội, nhưng người chơi cờ bạc, vì phạm nhiều tai hại lỗi lầm, nên thế gian vô cùng chê trách. Đức Phật đã quyết định nghiêm cấm. Uống rượu này cũng nên như thế, nên không phải là tánh tội.

Tuy nhiên, thuyết kia đã nói: Thánh giả, phàm phu đều cũng không phạm, như sát sinh v.v… là tánh tội. Vì sao không nói có A-lahán cũng hiện hành, nên là thuộc về già tội, như ăn phi thời v.v… Nếu kinh sinh Thánh giả được luật nghi không tạo tác, thì nhất định không nên uống các thứ rượu, các A-la-hán cũng nên nhất định được luật nghi không uống rượu, như sát sinh v.v…

Nếu cho vì Đại sư chưa chế giới, nên chấp nhận có người uống, thì các Thánh tại gia không thọ luật nghi, do đâu không uống rượu? Không phải lìa uống rượu thì có thể là tự tánh của luật nghi vô lậu, như trước đã nói.

Lại, nếu Thánh giả nhất định không hành tác nên là thuộc về tánh tội thì tất cả đối tượng hành của Thánh giả đều không phải tánh tội. Thế thì phi phạm hạnh tức nên không phải thuộc về tánh tội? Nhưng vì không phải là điều đã thừa nhận, nên đấy không phải là nhân, do đó cũng ngăn chận.

Có thuyết nói: Vì Khế kinh nêu rõ: Vì thường hành tập, có thể khiến đọa nẻo ác, nên như sát sinh v.v… vì thế uống các thứ rượu là thuộc về tánh tội. Do phi phạm hạnh tuy là tánh tội, nhưng vì nói thường hành tác, không bị đọa vào nẻo ác, nên thuyết kia đã nói không phải là nhân quyết định. Nhưng nêu rõ thường hành tập, đọa vào nẻo ác, là làm rõ về thường uống rượu, có thể khiến các pháp bất thiện trong thân cùng nối tiếp chuyển biến. Lại, có thể phát dẫn nghiệp của nẻo ác, hoặc có thể khiến các pháp bất thiện kia chuyển biến tăng thịnh.

Cũng thấy có thuyết nói: Cắt phá cỏ sống v.v… khiến bị đọa nẻo ác. Nên những điều này không thể chứng minh uống các thứ rượu là thuộc về tánh tội.

Có Sư khác giải thích: Như nói về tu từ, do môn mật ý để nói đọa nẻo ác. Nghĩa là Khế kinh nói: Có thể tu tâm từ được tám thứ lợi thù thắng. Không phải tu từ, tức có thể khiến vị kia đắc quả Bất hoàn. Chỉ căn cứ nơi đắc quả, do tu từ là ưu tiên, nên mật ý nói như thế. Uống rượu cũng như vậy. Nghĩa là rượu có thể làm tổn giảm các căn đại chủng, liền mất chánh niệm, tức thì sinh phóng dật, bèn tạo nghiệp ác, nhân đấy bị đọa nơi nẻo ác. Dựa vào nghĩa như thế, nên nói lời ấy.

Lại, thuyết kia đã nói: Lìa uống các thứ rượu, Đức Thế Tôn nêu rõ là luật nghi của cận sự, nên sự việc uống rượu này nhất định là tánh tội, thì cũng không hợp lý, do không phải nhất định. Tức nên như luật nghi đã thọ của hàng cận trụ. Như trong tám giới ăn phi thời, lìa bốn giới như sát v.v… lập chi cận trụ. Nhưng uống rượu kia nhất định không phải thuộc về tánh tội, thì ăn phi thời này cũng nên như thế, tức không phải là nhân làm chứng.

Tuy thuyết kia hủy báng cho vì tham uống rượu, giả lập uống rượu là thuộc về già tội. Nay nên nêu hỏi: Ăn phi thời v.v… các ông thừa nhận là thuộc về tánh tội chăng? Thuyết kia đáp: Không phải.

Há cũng các ông cho vì tham ăn phi thời, đắm vướng nơi cờ bạc, ca múa, đào đất, cắt phá cỏ tươi v.v… giả lập ra nhưng thứ này là già tội chăng?

Nếu cho không như vậy, vì pháp tướng là như thế, tức là lời của các ông đã hủy báng là vô ích, chỉ tự thêm nghiệp đạo phi ái. Như Khế kinh đã nói: Tốt la, Mê lệ da, Mạt đà, là xứ phóng dật, là dựa nơi nghĩa nào để nói?

Nói Tốt la: Nghĩa là gạo, lúa bột mì v.v… như pháp chưng nấu, trộn với men rượu nước ép chồi cây, bỏ vào các vật thuốc, ủ rượu đủ thành rượu, màu sắc hương vị uống rồi thì say mờ mịt.

Mê lệ da: Nghĩa là nước ép của các thứ rễ, cộng, lá, hoa, quả, theo phương tiện trước, không trộn với men rượu nước ép chồi cây, chỉ ủ rượu đủ, thành rượu có màu sắc hương vị, uống xong thì say mém.

Trong ấy, một loại do mía ngọt tạo thành, được mang tên là Thí đồ. Nước ép của quả bồ đào đã ủ thành rượu, gọi là Mạt đồ. Tức Mạt đồ này khiến người vui say hơn hẳn các thứ rượu khác, nên gọi là Mạt đà. Hoặc tức các rượu Tốt la, Mệ lệ da, uống xong khiến càng say, gọi chung là Mạt đà. Hoặc nước ép của quả bồ đào ủ thành vị rượu, uống rồi thì khiến sầu muộn, không được tự tại. Như uống thuốc độc, bị các thứ quỷ quái bắt giữ, làm cho thất chí, cuồng loạn, nên không khiến uống, không phải là đã thành giấm và rượu, khi chưa thành cũng không nên uống. Như nước ép của mía ngọt, không nên xem lượng uống hoặc nhiều hoặc ít, chỉ thật sự được mang tên rượu, đều không nên uống, vì ít nhiều, đều là xứ phóng dật.

Vì nhằm ngăn chận một loại hữu tình ngu tối, tăng mạnh hành tác tham vị trói buộc tâm, nên nói như thế này: Uống rượu không phải lỗi lầm, chỉ là ngăn ngừa quá lượng, có thể không say sưa, mờ mịt, thì uống cũng không có tội. Nên nói các thứ rượu, gọi là xứ phóng dật. Nghĩa là tuy không say, nhưng có khiến cho say, có thể Đức Phật vì đề phòng xa, nên đều không cho phép uống. Vì thế giới kinh nêu rõ: Nếu có Bí-sô uống các thứ rượu, đều phạm tội đọa. Khế kinh cũng nói: Nếu uống các thứ rượu, thì chiêu cảm quả không phải ái. Loại ấy là thật nhiều.

Hoặc ở trong đây, vì muốn chỉ rõ ý lìa uống rượu, nên nêu bày về các thứ rượu xong, lại nói lần nữa câu: Đây là xứ phóng dật, ý làm rõ rượu không phải là tánh tội bất tịnh, nhưng vì là xứ phóng dật, vì thế không nên uống.

Nói phóng dật: Nghĩa là không đoái hoài về sự việc nên làm, chỉ hướng tới việc không nên làm, nên gọi là phóng dật. Là nhân của phóng dật, gọi là xứ phóng dật.

Có thuyết cho: Ủ thức ăn thành rượu, gọi là Tốt la. Ủ các thứ vật khác tạo thành, gọi là rượu Mê lệ da. Tức hai thứ rượu trước, chưa quen nhiều đã hoại, không thể khiến say, không gọi là Mạt đà. Nếu khi khiến cho say, thì gọi là rượu Mạt đà.

Phân biệt phần vị không công dụng để lập lại tên gọi này. Nhưng dùng quả cau, hạt cỏ bại v.v… cũng có thể khiến say. Vì phân biệt với các thứ đó, nên cần nói rượu Tốt la, Mê-lệ-da. Tuy là già tội, nhưng khiến phóng dật, gây tạo rộng các ác, đọa vào các nẻo ác.

Vì làm rõ rượu kia là hành ác, các Thánh đã xa lìa, cần đoạn trừ, nên nói là xứ phóng dật.

Nếu uống rượu xong, không nôn ra, chưa tiêu hóa, thì kẻ uống kia tất không thể thọ luật nghi v.v… Vì rượu là nơi chốn đã nương dựa của phóng dật.

HẾT – QUYỂN 38