LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 40

Phẩm thứ 4: BIỆN VỀ NGHIỆP, phần 8

Nhân biện về tánh, tướng của các nghiệp là không đồng, sẽ giải thích các nghiệp đã được nêu lên trong kinh. Lại, trong kinh đã nói về nghiệp có ba thứ là thiện, ác, vô ký. Vậy tướng của chúng như thế nào? Tụng nêu:

Nghiệp an, chẳng an, phi

Gọi thiện, ác, vô ký.

Luận nói: Các nghiệp an ổn, gọi là thiện, có thể đạt được Niếtbàn của dị thục đáng yêu thích, với hai thời là tạm thời và vĩnh viễn cứu độ chúng khổ.

Nghiệp không an ổn, gọi là bất thiện, do nghiệp này có thể chiêu cảm dị thục phi ái, vì rất có thể ngăn dứt đường đi đến Niếtbàn. Không phải như hai nghiệp trước, lập tên là vô ký, vì không thể ghi nhận là thiện, là bất thiện, tức nghĩa không phải an ổn, không phải không an ổn.

Lại, trong kinh nói nghiệp có ba thứ là phước, phi phước v.v… Tướng của chúng là thế nào? Tụng nêu:

Phước, phi phước, bất động

Nghiệp thiện dục gọi phước

Bất thiện gọi phi phước

Thiện cõi trên bất động

Căn cứ xứ tự địa

Vì quả nghiệp không động.

Luận nói: Nghiệp thiện của cõi dục gọi là phước, tức cùng trái với phi phước, vì chiêu cảm quả ái. Các nghiệp bất thiện gọi là phi phước, vì chiêu cảm quả phi ái, là trái với nghiệp phước. Thiện của hai cõi trên, gọi là bất động.

Há không phải là Đức Thế Tôn đã nói ba định dưới đều gọi là có động. Thánh nêu rõ trong đây có tầm tứ, hỷ thọ, lạc thọ nên là động.

Do ba định dưới có tai họa như tầm tứ v.v… chưa dứt, nên lập tên động.

Còn bất động thì trong kinh căn cứ theo khả năng chiêu cảm được dị thục bất động, nói gọi là bất động. Vì sao định có động đã chiêu cảm dị thục không động?

Do tuy trong định này có tai họa là động, nhưng nghiệp đối với quả, không phải như nơi cõi dục, có động chuyển, nên lập tên bất động. Nghĩa là mãn nghiệp nơi xứ của nẻo khác trong cõi dục, do sức của duyên riêng, có thể thọ nhận xứ của nẻo khác. Vì hoặc có nghiệp có thể chiêu cảm của cải, địa vị, hình tượng, sắc lực, an vui v.v… trong, ngoài. Ở nơi các trời v.v… nghiệp này tức nên thành thục. Do sức của duyên riêng đã dẫn dắt chuyển biến. Ở trong nẻo người v.v… nghiệp này liền thành thục. Nghiệp nơi xứ của địa khác thuộc cõi sắc, vô sắc, không cùng chuyển biến khiến ở xứ của địa khác thọ nhận xứ sở của quả nghiệp. Vì không có đổi thay, biến động, nên thuộc về địa đẳng dẫn, không có tán động.

Dựa nơi nghĩa như thế để lập danh xưng bất động. Nên biết trong đây, do ngu si đối với nhân quả cùng hệ thuộc, nên đã tạo nghiệp phi phước, vì nghiệp phi phước thuần là nhiễm ô, chủ yếu dựa vào vô minh thô trọng cùng nối tiếp. Do vô minh này ở phần vị hiện tiền không thể hiểu tin nhân quả cùng hệ thuộc, thế nên phát khởi các hành phi phước. Do ngu tối về nghĩa chân thật, nên tạo nghiệp phước và nghiệp bất động.

Nghĩa chân thật: Nghĩa là bốn Thánh đế. Nếu đối với các loại phàm phu ngu tối kia, ở phần vị tâm thiện cũng được gián tiếp khởi. Do uy lực này khiến ở ba cõi, không nhận biết đúng như thật về tánh của nghiệp kia đều khổ, khởi hành phước và bất động làm nhân cho hữu sau. Nếu là người đã kiến đế thì không có sự việc này.

Nhân nơi sức của hành trước, khi lìa nhiễm dần dần, như thứ lớp được sinh vào cõi dục, sắc, vô sắc.

Lại, trong kinh nói nghiệp có ba thứ là thuận lạc thọ v.v… Tướng của chúng là thế nào? Tụng nêu:

Thuận lạc, khổ, phi hai

Thiện đến ba thuận lạc

Các bất thiện thuận khổ

Thiện trên thuận phi hai.

Khác, nói dưới cũng có

Do giữa, tạo dị thục

Lại cho ba nghiệp này

Không phải thục trước, sau.

Thuận thọ gồm có năm

Tức tự tánh tương ưng

Dị thục, đối tượng duyên

Hiện tiền có sai biệt.

Luận nói: Trong các nghiệp thiện, bắt đầu từ cõi dục, đến tĩnh lự thứ ba, gọi là nghiệp thuận lạc thọ. Vì các lạc thọ chỉ đến nơi đây. Các nghiệp bất thiện gọi là thuận khổ thọ. Nghiệp thiện của tĩnh lự thứ tư và nghiệp thiện của cõi vô sắc, gọi là nghiệp thuận bất khổ bất lạc thọ. Vì trên đây đều không có khổ lạc thọ. Không phải các nghiệp này chỉ chiêu cảm thọ quả, nên biết cũng chiêu cảm tư lương của thọ kia. Thọ và tư lương trong đây gọi là thọ, tùy theo dục của đối tượng hóa độ, lập chung tên thọ.

Trong các địa dưới, là cũng thừa nhận có hai nghiệp thuận, phi, hay là quyết định không có?

Có Sư khác nói: Địa dưới cũng có hai nghiệp thuận phi, do nơi định trung gian đã không có khổ, lạc, nên không có nghiệp.

Há không phải định trung gian cùng nơi tĩnh lự thứ nhất là đồng một trói buộc?

Nghiệp của định trung gian này chiêu cảm dị thục của lạc căn trong định thứ nhất. Về lý là không nên như vậy, vì trái với Bản luận. Nghĩa là Bản luận nói: Từng có nghiệp chiêu cảm dị thục của tâm thọ không phải là thân thọ chăng? Đáp: Có. Nghĩa là nghiệp thiện không tầm, nghiệp của định trung gian đã là không tầm. Nếu chiêu cảm dị thục của lạc căn căn bản tức nên là nghiệp không tầm. Chiêu cảm chung dị thục của hai thọ thân, tâm, liền trái với Bản luận. Nhưng nghiệp này chỉ nên chiêu cảm tâm thọ, như nghiệp bất thiện chỉ chiêu cảm thân thọ. Nếu như thừa nhận chiêu cảm chung nhưng không trái với Bản luận, thì Bản luận nên nói: Là thiện không có tứ. Hoặc không phải các nghiệp đều chiêu cảm thọ quả, tức nghiệp kia nên chiêu cảm sắc tâm bất tương ưng hành. Tuy nhiên, ở trong tất cả nghiệp không có tầm, có nghiệp chỉ có thể chiêu cảm quả của tâm thọ.

Vì căn cứ riêng để nêu bày về nghiệp kia, nên không có lỗi. Thế nên nghiệp của định trung gian chiêu cảm dị thục không phải là chứng cứ để cho địa dưới có nhân của hai nghiệp thuận phi.

Nếu như vậy trong đây lại có chứng cứ khác. Nghĩa là Bản luận nói: Từng có ba nghiệp không phải trước, không phải sau thọ nhận dị thục chăng? Đáp: Có. Nghĩa là nghiệp thuận lạc thọ. Nghiệp sắc thuận khổ thọ. Nghiệp tâm tâm sở pháp thuận bất khổ bất lạc thọ, tâm bất tương ưng hành, cho đến nói rộng.

Do đấy chứng biết, địa dưới cũng có hai nghiệp thuận phi. Không phải lìa cõi dục có ba nghiệp này đều cùng lúc thành thục. Điều này cũng không phải là chứng cứ. Vì trong Bản luận đã nói nghiệp ba cõi như ba thọ. Nhưng không phải các nghiệp đã hệ thuộc ba cõi có thể cùng lúc thọ. Điều này cũng nên như thế. Nhưng Bản luận nói có nghiệp của ba cõi đều cùng thời thành thục. Vì muốn thử nghiệm đối với Tông Đối pháp có hiểu hay là không hiểu. Hoặc ở nơi quả tăng thượng nói tiếng thọ dị thục.

Dị thục của cõi sắc, vô sắc tự trợ cho cõi dưới, vì khiến dị thục dị thục kia trụ lâu, nên nói lời này: Nghiệp thuận ba thọ, văn cũng cùng tạo giải thích này, nên pháp được nêu dẫn kia không phải là nhân của chứng cứ quyết định. Đâu có khổ công suy tìm, nêu hỏi về chỗ so chấp của thuyết kia. Nhận thấy lối chấp ấy là trái với Luận Phẩm Loại Túc. Như nói: Thế nào là nghiệp thuận lạc thọ? Nghĩa là từ nghiệp thiện hệ thuộc cõi dục, đến nghiệp thiện của ba định, tức không trái với luận kia, là lỗi nói không cố định. Nghĩa là nơi Luận kia không nói chỉ thuận lạc thọ. Nhưng ở địa dưới tuy có hai nghiệp thuận phi, nhưng do ít, nên văn kia không hiển bày. Không thể căn cứ ở văn này liền nói: Địa trên cũng nên có thuận khổ, lạc thọ, vì lìa nhiễm của khổ, lạc, mới sinh nơi địa trên kia. Do đấy, chỉ nói từ trời Quảng quả cho đến xứ Phi tưởng, có nghiệp thuận phi khổ phi lạc thọ. Không nói địa dưới, do ở địa trên thọ không có trái nhau, còn ở địa dưới thì thọ có trái nhau, vì ở địa dưới cùng có dị thục của phi khổ phi lạc. Không phải như nghiệp hệ thuộc ba cõi kia mà phán quyết nhất định.

Văn này không thâu nhận, thâu có thâu nhận, vì thật sự là cùng có thọ. Nghiệp này là thiện hay là bất thiện?

Có thuyết nói: Là thiện nhưng yếu kém. Lại, không thể biểu thị riêng mà có thể nêu bày chung. Ở trong các nghiệp thiện, hoặc có một loại có thể chiêu cảm lạc thọ và tư lương của thọ. Hoặc có một loại có thể chiêu cảm không phải hai, nên biết nghiệp này có thể tăng ích lạc thọ, gọi là thuận lạc thọ, như thuận xứ ngựa. Hoặc lại nghiệp này có thể thọ đối với lạc, gọi là thuận lạc thọ, như thuận với tắm gội, phân tán. Nghiệp thuận thọ còn lại, nên biết cũng như thế.

Nghiệp thuận lạc thọ chỉ chiêu cảm quả dị thục của lạc thọ chăng?

Chỉ chiêu cảm quả dị thục của lạc thọ: Tức tất cả đều là nghiệp thuận lạc thọ.

Hoặc có các nghiệp gọi là thuận lạc thọ, nhưng không thể chiêu cảm dị thục của lạc thọ. Nghĩa là nghiệp này nếu chiêu cảm sắc bất tương ưng, nghiệp thuận thọ khác, nên biết cũng như thế. Nghiệp này không phải chỉ chiêu cảm dị thục của thọ, vì cùng được mang tên nghiệp thuận thọ? Vì các nghiệp làm nhân đã chiêu cảm dị thục đều giống với thọ, nên được mang tên thọ. Vì sao? Vì nghiệp kia đều như thọ, làm tăng ích tổn giảm và bình đẳng nơi thân. Như nước, lửa v.v…., đối với cành cây v.v… làm tăng ích, tổn giảm, bình đẳng nghĩa ấy là thành. Lại thuận với thọ, phần nhiều lược nói có năm:

1. Tự tánh thuận với thọ: Nghĩa là thể của các thọ, như Khế kinh nói: Khi thọ nhận lạc thọ, nhận biết rõ như thật là thọ nhận lạc thọ, cho đến nói rộng.

2. Tương ưng thuận với thọ: Nghĩa là tất cả xúc. Như Khế kinh nói: Xúc thuận với lạc thọ, cho đến nói rộng.

3. Đối tượng duyên thuận với thọ: Nghĩa là tất cả cảnh. Như Khế kinh nói: Mắt thấy sắc xong, chỉ thọ ở sắc, không thọ tham sắc, cho đến nói rộng. Do sắc v.v… là đối tượng duyên của thọ.

4. Dị thục thuận với thọ: Nghĩa là nghiệp chiêu cảm dị thục. Như Khế kinh nói: Nghiệp thuận lạc thọ, cho đến nói rộng.

5. Hiện tiền thuận với thọ: Nghĩa là thọ hiện hành. Như Khế kinh nói: Khi thọ nhận lạc thọ, hai thọ liền diệt, cho đến nói rộng.

Không phải lạc thọ này khi hiện tiền thì có thọ khác có thể thọ nhận lạc thọ này. Chỉ căn cứ ở tự thể của lạc thọ hiện tiền, tức gọi là thọ. Đối với lạc thọ do đã thuận với thọ có nhiều thứ, nên tuy dị thục của nghiệp không phải đều là thọ mà có thể lập chung, danh xưng là nghiệp thuận thọ. Nghĩa là các nghiệp thiện làm nhân đã chiêu cảm sắc bất tương ưng, thì có thể làm đối tượng duyên sinh lạc thọ. Các lạc thọ này đã lãnh nạp dị thục đáng yêu thích thuận với lạc thọ, nên cũng gọi là lạc thọ. Do nghiệp thiện này đã chiêu cảm các quả. Tuy không phải lạc thọ thuận với lạc thọ, nhưng nghiệp kia chiêu cảm, gọi là nghiệp thuận lạc thọ. Thuận với khổ và không phải hai, lý cũng nên như thế. Ba nghiệp như vậy, có định, bất định, tướng của chúng là thế nào?

Tụng nêu:

Đây có định, bất định

Định ba thuận cùng hiện

Hoặc nói nghiệp có năm

Sư khác nói bốn câu.

Luận nói: Trên đây đã nói về nghiệp thuận lạc thọ v.v…, nên biết đều có định, bất định khác nhau. Vì không phải thọ nhất định, nên lập tên bất định. Nghĩa là nghiệp thuận lạc, không phải tất định thành thục. Nếu thành thục tất nên thọ dị thục của lạc. Nghiệp thuận hai thọ còn lại, nói cũng như thế.

Định lại có ba: (1) Thuận hiện pháp thọ. (2) Thuận thứ sinh thọ. (3) Thuận hậu thứ thọ.

Ba nghiệp định này, nhất định chiêu cảm dị thục và bất định trước, gồm thành bốn thứ.

Hoặc có người muốn khiến nghiệp bất định thọ lại có hai thứ. Nghĩa là đối với dị thục có định, bất định. Và ba định nghiệp hợp thành năm thứ.

Nghiệp thuận hiện pháp thọ, Thể của nó như thế nào? nghĩa là ở nơi đời này, tạo tác tăng trưởng, thì chỉ nơi đời này thọ dị thục, không phải đời khác. Nói ở đời này là hiển bày về chúng đồng phần, vì chỉ rõ gia hạnh nơi nghiệp đạo căn bản.

Câu nói tạo tác là làm rõ về hậu khởi, nên nói tăng trưởng. Hoặc tạo tác là hiển bày về nghiệp dẫn dắt. Nói tăng trưởng là hiển bày về nghiệp viên mãn. Hoặc tạo tác nghĩa là đột nhiên mà làm.

Nói tăng trưởng là tư duy rồi làm.

Hoặc tạo tác là nhớ lại ăn năn điều đã tổn hại.

Nói tăng trưởng là hoan hỷ thâu nhận.

Hoặc dùng đồng loại làm nghiệp trợ bạn, gọi là tạo tác, cũng gọi là tăng trưởng. Như thiện trở lại dùng thiện làm trợ bạn. Cùng với đây trái nhau, chỉ gọi là tạo tác. Hoặc có kẻ nắm giữ vững chắc mà tạo tác, gọi là tạo tác cũng gọi là tăng trưởng. Cùng với đây trái nhau chỉ gọi là tạo tác.

Hoặc dựa vào đầy đủ, gọi là tạo tác. Hoặc do đầy đủ, gọi là tăng trưởng.

Giải thích nghĩa như thế v.v… có nhiều môn.

Nói: Chỉ đời này thọ dị thục: Là làm rõ về thời phần nhất định. Nhưng hoặc có thuyết cho ở trong đời người, tạo tác tăng trưởng, trở lại chỉ ở nơi người này sinh thân khác thọ dị thục, cũng được gọi là thuận hiện pháp thọ.

Vì nhằm ngăn chận chấp này, nên lại nói không phải đời khác. Đây tức chỉ rõ là có tử sinh. Có thể nói chỉ ở đây thì không gọi không phải đời khác. Do đấy hiển bày thời phần của nghiệp là không hoại, khiến rất phân minh, dứt hết các lưới nghi. Vì sao do đấy nói câu không phải đời khác? Tức khiến nhận biết nhất định, không phải thân khác thọ. Do hoặc có thể giải thích câu nói không phải đời khác này, là để ngăn chận không phải đời người, không phải là ngăn chận thân khác.

Giải thích này là phi lý. Vì trước chỉ câu nói này là nhằm ngăn chận không phải đời người, nghĩa ấy đã thành. Nghĩa là trước đã nói câu chỉ ở nơi đời này đã nhất định làm rõ thành không phải là phi nhân loại. Nhưng ở sau lại nói câu không phải đời khác, là nhằm ngăn chận thân khác, nghĩa rất là sáng rõ. Nếu khác với đây thì nói lại làm gì? Nên nghiệp này gọi là thuận hiện pháp thọ, vì hiện pháp là nghĩa hiện thân.

Nghiệp thuận thứ sinh thọ, Thể của nó là thế nào?

Nghĩa là nghiệp tạo của đời này, đối với vô gián sinh thọ. Nói sinh: Là nghĩa xứ sinh.

Vì tạo nghiệp nơi đời sau vô gián mà sinh, nên gọi là thứ sinh (đời tiếp theo), là nghĩa đời sau tiếp theo. Nghiệp thuận với đời kia gọi là thuận thứ sinh thọ.

Nghiệp thuận hậu thứ thọ, Thể của nó là thế nào? Nghĩa là đời này tạo nghiệp, vô gián sinh sau mới thọ.

Nói sau: Là chúng đồng phần sau của vô gián sinh.

Nói tiếp theo: Là làm rõ về nhiều đời theo thứ lớp thọ riêng.

Ý của câu này là hiển bày về nghiệp thuận hậu thọ, quyết định theo thứ lớp đều chiêu cảm một đời. Vì tránh lỗi nêu quá nhiều ngôn từ, nên đối với nhiều nghiệp lập chung một tên gọi.

Vì sao gọi là thuận bất định thọ?

Nghĩa là Đức Bạc-già-phạm nhận thấy một loại nghiệp, hoặc do Thi la, hoặc do chánh nguyện, hoặc do phạm hạnh, hoặc do đẳng trì, học do trí lực, khiến hoàn toàn không quả, hoặc khiến nhẹ yếu, hoặc khiến dời đổi vị. Nêu bày tất cả pháp này, gọi là nghiệp bất định. Để chuyển biến nghiệp này, nên tu tịnh hạnh.

Các loài hữu tình hành tác nghiệp này là rất nhiều. Nhưng Khế kinh nói: Hoặc có các nghiệp nên ở nơi hiện pháp thọ, nhưng hoặc chuyển biến nên thọ nhận ở địa ngục, không phải trong đây biện về nghiệp thuận hiện thọ. Ý nói là có nghiệp thuận bất định thọ. Nếu có thể tinh tấn tu thân giới, tâm tuệ thì nghiệp đã tạo này, tức nên ở nơi nhân gian thọ nhận. Do không tinh tấn tu thân giới, tâm tuệ, liền nhân nơi nghiệp này đọa vào Nại-lạc-ca.

Khế kinh lại nói: Hoặc có các nghiệp nên ở nơi địa ngục thọ nhận, nhưng hoặc chuyển biến nên thọ nhận ở nhân gian. Ở đây cũng không phải biện về thời phần nơi nghiệp định, chỉ nói giải thích nghĩa bất định là căn cứ ở trước. Hoặc giải thích ý của kinh trước nói có nghiệp tuy là tạo tác nhưng không phải là tăng trưởng. Nếu nhận giữ sức kia tức nên là hiện pháp thọ. Nếu về sau lại tạo nghiệp chiêu cảm địa ngục, thì hỗ trợ khiến mau chóng đi đến địa ngục thọ nhận. Nên Khế kinh nói: Có nghiệp nên ở trong nẻo người hiện thọ. Do về sau lại tạo nghiệp chiêu cảm địa ngục khiến tăng trưởng, nên chuyển nghiệp kia khiến ở trong địa ngục thọ nhận.

Thế nên nhận biết thuyết kia nói là nghiệp bất định.

Luận giả phái Thí dụ nói: Nghiệp thuận hiện thọ v.v… ở trong đời khác, cũng được thọ dị thục. Nhưng tùy theo phần vị thành thục đầu tiên, lập tên thuận hiện v.v… không phải chỉ như gọi chiêu cảm từng ấy quả. Nghĩa là ý của phái kia nói các nghiệp đã tạo, nếu từ đời này, tức có thể làm nhân cho quả dị thục, thì gọi là thuận hiện pháp thọ. Nếu từ đời tiếp theo mới có thể làm nhân cho quả dị thục, thì gọi là thuận thứ sinh thọ. Nếu vượt quá đời tiếp theo, từ đời thứ ba mới cho dị thục, thì gọi là thuận hậu thứ thọ.

Do đâu phái kia đưa ra giải thích như thế?

Chớ nên cho nghiệp có sức mạnh còn dị thục thì ít, nên giải thích kia là không tốt. Vì sao? Vì nghiệp kia thời trước đã sinh dị thục, trong trung gian gián đoạn, dị thục lại sinh, về lý tất không như thế. Như hạt giống, mầm.

Nếu cho vô gián mà sinh thân sau, tức nên không có tử sinh, nghiệp không có khác. Hoặc thân không khác, tức nên thường tử sinh.

Lại, một nghiệp chiêu cảm hai, ba đời v.v… là tướng của các quả, là khác hay là đồng tướng? Tướng khác, thì như nghiệp riêng đã chiêu cảm phần cùng nối tiếp, không phải là quả của một nghiệp. Hoặc quả của một nghiệp, tướng của nó nên đồng. Tức nên nói: Do đâu trước sau cùng dị biệt?

Nếu cho do sức hỗ trợ của mãn nghiệp đã khiến như thế, nên chỉ một đời trước sau có riêng khác. Hiện thấy dẫn nghiệp đã dẫn dắt một đời, tuy có rất nhiều quả của mãn nghiệp khác nhau nhưng dẫn nghiệp một, chỉ gọi là một đời. Ở đây cũng nên như thế, vì không có nhân riêng. Tướng nếu đồng tức nên là một đời. Không phải trong một đời, tướng trước sau bằng nhau, nhưng có thể nhận thấy sinh trước sau có khác. Điều này cũng nên như thế, vì là quả của một nghiệp. Tuy nhiên, không thể cho chỉ một sinh thân liền là rất nhiều dẫn nghiệp đã chiêu cảm, vì chủ thể dẫn nghiệp có sai biệt.

Hoặc ở nơi xưa có, nên có tử sinh, hoặc rốt cùng không có lý tử sinh. Lại, một nghiệp kia đã chiêu cảm nhiều đời, là trong một nẻo hay là ở tại nhiều nẻo? Nếu ở một nẻo, thì lỗi như trước đã nêu. Nghĩa là trước cùng với sau nên là một đời. Hoặc trong một đời nên thường sinh tử, vì quả của một nghiệp không có sai biệt. Nếu ở tại nhiều nẻo, các nẻo đối chiếu nhau có phẩm loại thượng trung hạ riêng khác. Nên đồng quả của một nghiệp, lý tất không thành, vì một sát-na đã tạo một nghiệp, lý có thượng trung hạ là không thành.

Lại, nếu như vậy thì nẻo tức nên cùng xen tạp?

Nhưng nẻo không có xen tạp như trước đã biện.

Nếu cho trong nghiệp khác đã dẫn sinh, có ở đời trước đã được quả nơi nghiệp, vì uy lực chiêu cảm quả cũng chưa hết. Nhờ trong đời này lại thọ dị thục, nên tuy một nghiệp có thể chiêu cảm nhiều đời, nhưng có tướng của quả tử sinh sai biệt.

Điều này cũng phi lý. Vì sao? Vì nhờ trong đời khác, lại thọ quả nơi nghiệp, dẫn dắt viên mãn đều cùng không thành. Nghĩa là nhờ nơi đời khác đã thọ dị thục, là quả của dẫn nghiệp này hay là quả của mãn nghiệp. Lại, không nên nói nhờ thọ nhận quả của dẫn nghiệp, nên đời này dẫn quả theo nghiệp khác dẫn. Một quả không nên dẫn xong lại dẫn, nên theo một nghiệp thì công sức kia là vô ích. Nghiệp sau ở trong ấy rất là vô dụng. Cũng không nên nói ở trong một đời, có hai dẫn quả, chớ cho là có đối tượng thọ. Trong một phần cùng nối tiếp, tức có lỗi dị thục của nhiều đời, nhiều nẻo, cùng lúc thọ nhận. Cũng không nên nói nhờ thọ quả của mãn nghiệp. Chớ cho có lỗi của dẫn nghiệp ở trong đời trước đã được dẫn quả, có sức của dẫn khác, đến nơi đời nay, chuyển biến thành mãn nghiệp. Nghĩa là có một loại nghiệp thuận sinh thọ, chiêu cảm trong đời tiếp theo đã dẫn quả xong. Nay, ở trong nghiệp khác đã dẫn sinh, biến thành thuận hậu thọ, chiêu cảm dị thục của quả mãn. Đây tức là một nghiệp cũng là dẫn, cũng là mãn, liền có lỗi dẫn, mãn tạp loạn.

Lại, tất cả nghiệp lần lượt hỗ trợ nhau, tức là đều thành tạo tác tăng trưởng. Tức nên rốt cùng không có một nghiệp nào không thọ dị thục mà đến Niết-bàn. Cho nên tông chỉ của đây kia đều cùng không được thừa nhận.

Đối với phái Thí dụ, thì lỗi của họ là riêng nhiều, do trong tông ấy cho các nghiệp hiện có như thuận hiện thọ v.v… đều không phải quyết định. Nhưng thừa nhận các nghiệp lần lượt hỗ trợ nhau, nên về lý đều thành tạo tác tăng trưởng. Các hữu tạo tác nghiệp cũng tăng trưởng.

Trong kinh, Đức Thế Tôn là quyết định, nhưng nói các nghiệp đều bất định, nên biết những lời kia là Đức Phật giáo hóa người ngoài.

Lại, ở trong đây, thuyết kia đã căn cứ theo lý nào để thừa nhận ở trong nghiệp khác đã dẫn sinh, xong đối với đời trước đã dẫn quả nơi nghiệp khác, có thể hỗ trợ cho mãn nghiệp khiến trụ lâu. Không phải ở nơi đời trước tự đã dẫn sinh, có thể làm nhân của mãn nghiệp trợ giúp khiến cùng nối tiếp.

Lại, nếu có nghiệp thuận thiên sinh thọ, từ cõi trời chết rồi sinh trong địa ngục, vì sao khiến trời hành nghiệp thuận sinh thọ? Nay ở nơi địa ngục thọ quả lạc sau, từ địa ngục chết, sinh trong các trời, là nghiệp thuận với sinh của trời kia. Vấn nạn này cũng như thế.

Không phải ở trong trời là nghiệp thuận sinh thọ, mà có thể ở nơi địa ngục vô gián thọ quả, cũng không phải là nghiệp vô gián thuận sinh thọ, có thể ở trong trời có nghĩa thọ quả. Nếu cho vượt quá nẻo khác, ở trong nẻo của tự loại, nghiệp này mới có thể thọ quả lần nữa, thì như trước đã nói về lỗi.

Trước đã nói như thế nào?

Nghĩa là nghiệp lúc trước đã sinh dị thục, trung gian gián đoạn, dị thục lại sinh, lý tất không hợp, như hạt giống, mầm. Tuy thuyết kia đã lập lý nhằm chứng minh cho tự nghĩa nói: Chớ cho nghiệp có sức mạnh, còn quả dị thục thì ít, điều này cũng không phải là chứng cứ. Vì sao? Vì không phải chủ yếu ở quả có nhiều, nghiệp được gọi là sức mạnh. Nghiệp thuận hiện thọ mới gọi là sức mạnh, tức có thể nhanh chóng được quả, nên lập tên này. Nếu trong một sự việc khởi nhiều tư nguyện, thì trong ấy trước sau, hơn kém có khác, có thể chiêu cảm dị thục sau của đời hiện tại, nên nói chiêu cảm nhiều quả cũng không có lỗi.

Lại, nếu chấp nghiệp cần phải chiêu cảm nhiều quả, mới được gọi là mạnh, thì nghiệp chiêu cảm quả dị thục của Luân vương, so với nghiệp chiêu cảm Đức Phật, tức nên nói là mạnh, vì chiêu cảm nhiều quả.

Nếu nghiệp chiêu cảm Phật là vi diệu, nên gọi là mạnh, tức gọi là mạnh, vì nghiệp có nhiều thứ, do nghiệp mạnh, về lý có nhiều phẩm. Nghĩa là hoặc có nghiệp, quả gần gọi là mạnh. Hoặc do quả nhiều, hoặc do quả vi diệu, nhưng quả thuận với hiện thọ gần, gọi là mạnh, đâu thể lấy tên gọi mạnh để chứng minh là đã chiêu cảm nhiều quả?

Phái Đối pháp nói: Trong các nghiệp, thì ba nghiệp như thuận hiện v.v… đều riêng sinh quả, nhưng quả của nghiệp không xen tạp, về lý là hơn.

Phái Thí dụ nêu rõ: Nghiệp có bốn trường hợp:

1. Có nghiệp đối với thời phần là nhất định, dị thục không nhất định. Nghĩa là ba nghiệp như thuận hiện v.v… không phải nhất định được dị thục.

2. Có nghiệp ở nơi dị thục là nhất định, thời phần không nhất định. Nghĩa là nghiệp bất định, nhất định được dị thục.

3. Có nghiệp đối với cả hai đều cùng nhất định. Nghĩa là thuận hiện v.v… nhất định được dị thục.

4. Có nghiệp đối với cả hai đều cùng không nhất định. Nghĩa là nghiệp bất định, không phải nhất định được dị thục.

Các nghiệp của thuyết kia gồm thành tám thứ. Nghĩa là thuận hiện thọ có định, bất định. Cho đến bất định cũng có hai thứ.

Nghiệp đã nêu bày ở đây là trong sai biệt. Tụng nêu:

Bốn thiện cùng đều tạo

Dẫn đồng phần chỉ ba

Các xứ tạo bốn thứ

Địa ngục, thiện, trừ hiện.

Chắc ở địa lìa nhiễm

Phàm phu không tạo sinh

Thánh không tạo sinh hậu

Và dục Hữu đảnh thoái.

Luận nói: Trong đây chỉ làm rõ nghiệp thuận lạc v.v… Nơi thời như hiện tại v.v… có định, bất định. Giải thích kinh đã nói bốn nghiệp như thuận hiện thọ v.v… là cùng khác biệt. Trong định nghiệp được phân làm ba thứ và bất định nghiệp hợp lại thành bốn. Thuyết này là tốt. Về lý tất không có nghiệp dị thục thì bất định, thời phần thì nhất định. Thời phần nhất định, chỉ là phần vị có sai biệt trong dị thục nhất định, vì không phải lìa ngoài dị thục thì có riêng thể của thời phần.

Vì sao thời phần nhất định không phải là dị thục?

Trong đây, chỉ dựa nơi nghiệp của dị thục nhất định, được quả vị có sai biệt để lập thuận hiện v.v…

Nếu cho có nghiệp ở nơi thời phần là nhất định, nghĩa là quả dị thục, tất ở tại thời phần này không phải thời phần khác. Nếu vượt thời phần này, thì rốt cùng là không thọ. Thế nên ở nơi thời phần là nhất định, không phải ở nơi dị thục. Thời phần này đối với dị thục, cũng nên quyết định về nghĩa tương tợ. Tương tợ là thế nào? Nghĩa là như ở nơi thời gian là có, hoặc phi lý, mà gọi là thời phần nhất định.

Như thế, đối với dị thục là có, hoặc phi lý nên gọi là dị thục nhất định. Hoặc lại nên thừa nhận cả hai đều cùng bất định. Vì thế nếu nghiệp ở nơi thời phần nhất định, thì nghiệp đó ở nơi dị thục cũng nên quyết định. Nếu ở nơi dị thục gọi là bất định, thì dị thục đó ở nơi thời phần cũng nên là bất định.

Do lý này nên nhất định không có tám nghiệp, do ở trong các nghiệp có nghĩa bất định, nên lập chung một thuận bất định thọ. Vì sao? Vì nghĩa tương tợ. Nghĩa là như nghiệp dị thục thì nhất định, thời phần không nhất định, vì thời phần bất định nên đã cùng thừa nhận làm thuận bất định thọ.

Như thế, nghiệp có thời phần nhất định, dị thục bất định. Vì dị thục bất định, nên tại sao không thừa nhận là thuận bất định thọ? Vì thế nên phái Thí dụ ở trong nghĩa này đã an lập tám nghiệp là rất tạp loạn. Lại, phái Thí dụ nói tất cả nghiệp, cho đến vô gián, thảy đều có thể chuyển. Nếu nghiệp vô gián không thể chuyển, tức nên không có khả năng vượt qua hữu thứ nhất. Nay, xem rõ thuyết của phái Thí dụ kia nói, có ý như thế. Nếu cho, trong các nghiệp có ít thứ, không thể chuyển, thì nghiệp Hữu đảnh nhất định là trước tiên, do trong các nghiệp thì nghiệp của hữu thứ nhất là rất vi tế. Sức mạnh căn bản của các sinh tử có thể thâu nhận dị thục rộng lớn. Từ vô thủy hữu tình lưu chuyển nơi sinh tử, từng không có khả năng vượt qua sức mạnh kia. Nếu có khả năng chuyển loại nghiệp như thế, thì nghiệp vô gián sao lại không thể chuyển? Quan niệm này cũng chỉ là loại tà chấp hư vọng. Do nghiệp vô gián nơi phần vị, dị thục, cả hai đều cùng quyết định. Hữu đảnh thì không như vậy, nên phần nêu dẫn so sánh, không có sức để có thể chứng minh. Nếu nghiệp của xứ Hữu đảnh đều không thể chuyển, thì người khởi định kia tức nên nhất định chiêu cảm sinh, tức là không cùng khởi định kia rồi thì chứng quả vô học và bát Niết-bàn.

Nếu tất cả nghiệp đều có thể chuyển, thì Đức Thế Tôn không nên nói có định nghiệp.

Từng có bốn nghiệp đều cùng thời tạo tác chăng. Cùng có. Vì sao? Vì loại trừ ba sử rồi thì tự hành dục tà đều cùng thời cứu cánh?

Trong bốn thứ nghiệp như thuận hiện thọ v.v… thì bao nhiêu nghiệp có thể dẫn chúng đồng phần?

Chỉ có ba thứ thể dẫn, trừ nghiệp thuận hiện. Do nghiệp thuận hiện tất dựa nơi nghiệp trước đã dẫn đồng phần mà được khởi. Tức ở nơi đời hiện tại tất cho quả.

Cõi nào, nẻo nào có thể tạo ra bao nhiêu nghiệp? Các cõi, các nẻo, hoặc thiện, hoặc ác, tùy theo đối tượng ứng hợp đều cùng tạo ra bốn.

Mở ra chung chung như thế. Nếu căn cứ theo riêng thì ngăn chận thiện trong Nại-lạc-ca, trừ thuận hiện vì không có quả ái, ngoài ra đều được tạo.

Có Sư khác nói: Ở cõi sắc, vô sắc, quyết định không có nghiệp thuận hiện thọ. Vì nghiệp thuận hiện tất dựa vào cảnh giới thù thắng để gia hạnh, thì mới có thể thành lập. Nghĩa là đối với cha, mẹ, Phật, A-la-hán và những công đức thù thắng khác, thân đã huân tu, thọ các sự việc tổn giảm tăng ích, có thể chiêu cảm hiện quả. Hoặc ở nơi cảnh giới khác, phát khởi gia hạnh cố chấp, mãnh liệt, thì cũng chiêu cảm hiện quả. Các loại nghiệp như thế, ở cõi trên đều không có, nên trong hai cõi trên đều không có nghiệp thuận hiện.

Thuyết kia giải thích là phi lý, vì ngoài ra là cùng khởi. Nghĩa là ở hai cõi trên cũng có thắng nghiệp, uy lực nhanh chóng có thể chiêu cảm hiện quả. Nên hai cõi trên tuy không có nghiệp thuận hiện thọ duyên nơi thắng cảnh v.v… như trước, nhưng có thắng định có thể chiêu cảm hiện quả, vì loại nghiệp thuận hiện thọ, không phải là một. Do trong gồm thâu này nên nói như thế. Bốn nghiệp như thuận hiện v.v… đều là cõi dục. Tất cả tùy miên biến hành đã tùy tăng của cõi sắc, vô sắc do tu đạo đoạn, nơi tất cả xứ đều đủ khả năng tạo ra bốn nghiệp như thế.

Tánh không thoái chuyển gọi là vững chắc. Hữu tình kia ở nơi địa lìa nhiễm, nếu là loại phàm phu, thì trừ nghiệp thuận sinh thọ, có thể tạo ba nghiệp còn lại. Thánh giả thì trừ hai nghiệp thuận sinh hậu thọ, có thể tạo hai nghiệp còn lại. Phàm phu không thoái chuyển, nếu lìa nhiễm của địa kia, thì không cùng ở nơi địa kia vô gián thọ sinh, nên phàm phu kia tức nên trừ nghiệp thuận sinh thọ. Ở địa trên mất, tất trở lại sinh xuống địa dưới, nên cùng tạo nghiệp thuận hậu thọ kia. Thánh giả không thoái, nếu lìa nhiễm của địa kia, tất không cùng có sinh lại ở nơi địa ấy. Nên Thánh giả kia trừ hai nghiệp thuận sinh, thuận hậu. Tùy vào địa đã sinh, cùng tạo nghiệp thuận hiện thọ, tạo nghiệp bất định, tất cả xứ đều không có ngăn chận. Nhưng các Thánh giả, nếu ở nơi cõi dục và xứ Hữu đảnh, đã được lìa nhiễm, tuy có thoái đọa, nhưng cũng không tạo nghiêp thuận sinh hậu. Người từ địa kia thoái chuyển, tất thoái chuyển quả, nên các người thoái mất quả xong, tất không mạng chung, trở lại được quả gốc.

Trụ ở phần vị trung hữu cũng tạo nghiệp chăng? Cũng tạo. Vì sao? Tụng nêu:

Cõi dục trung hữu tạo

Hai mươi hai thứ nghiệp

Đều thuộc thuận hiện thọ

Loại đồng phần là một.

Luận nói: Ở trong cõi dục trụ nơi phần vị trung hữu, thì cùng có thể tạo hai mươi hai nghiệp. Nghĩa là phần vị trung hữu và ở trong thai, xuất thai trở về sau, đều có năm vị. Năm vị trong thai là: (1) Yếtlạt-lam. (2) Át-bộ-đàm. (3) Bế thi. (4) Kiện nam. (5) Bát la xa khư.

Bên ngoài thai có năm vị: (1) Hài nhi. (2) Đồng tử. (3) Thiếu niên. (4) Trung niên. (5) Lão niên.

Mười một vị này thuộc về một đời. Trụ ở vị trung hữu, có thể tạo ra nghiệp định, bất định của trung hữu. Cho đến có thể tạo hai nghiệp của lão niên nên biết cũng như vậy.

Tức biết trung hữu như thế, đã tạo mười một thứ nghiệp định đều thuộc về thuận hiện thọ. Do loại đồng phần không có sai biệt. Nghĩa là phần vị trung hữu này cùng với mười vị của tự loại, một chúng đồng phần, là do một nghiệp dẫn. Do đấy, không nói riêng về nghiệp thuận trung hữu, tức nghiệp như thuận sinh v.v… đã dẫn.

Loại đồng phần: Nghĩa là loại người v.v… không phải là nẻo, không phải là sinh. Vì căn cứ theo nẻo đã sinh trung hữu, sinh hữu có đồng phần khác nhau.

Các nghiệp định thọ, tướng của chúng là thế nào? Tụng nêu:

Do Hoặc nặng tâm tịnh

Cùng là luôn đã tạo

Ở ruộng công đức khởi

Nghiệp định hại cha mẹ.

Luận nói: Nếu nghiệp đã tạo do phiền não (Hoặc) nặng, hoặc tâm thuần tịnh, hoặc thường tạo tác, hoặc ở nơi ruộng công đức tăng thượng khởi. Ruộng công đức: Nghĩa là Phật, Pháp, Tăng. Hoặc Bổ-đặc-già-la tăng thượng, nghĩa là chứng đắc đức thù thắng thế, xuất thế. Ở nơi xứ ruộng này tuy không có Hoặc (Phiền não) nặng, cùng tâm thuần tịnh, cũng không phải là thường hành. Nếu các nghiệp thiện, bất thiện đã khởi, hoặc đối với cha mẹ nếu như khởi triền phẩm hạ, làm việc tổn hại. Tất cả như thế đều thuộc về định nghiệp.

Có Sư khác cho: Nếu do ý lạc mãnh liệt đã tạo, hoặc có khi tạo xong, khởi tâm hoan hỷ, hoặc nơi tất cả thời quen tập, hoặc do lực của thắng nguyện, lực của sự việc đã khởi nghiệp đều quyết định.

Nghiệp quả hiện pháp, tướng ấy như thế nào? Tụng nêu:

Do ruộng ý lạc hơn

Cùng định tạo dị thục

Được nghiệp lìa hẳn địa

Định tạo quả hiện pháp.

Luận nói: Do ruộng thù thắng: Tức như nghe có Bí-sô, ở trong chúng Tăng tạo ra ngôn ngữ của người nữ, thì chỉ trong chốc lát sau đấy, Bí-sô kia chuyển thành người nữ. Những loại chuyện được nghe như thế không phải là một.

Ý lạc thù thắng: Nghe có người hoàng môn cứu thoát đàn bò khỏi sự việc bị hoạn. Người ấy chỉ trong phút chốc chuyển làm trượng phu. Những chuyện truyền nghe này cũng không phải là một.

Hoặc có nghiệp khác cũng được hiện quả. Nghĩa là sinh ở địa này, vĩnh viễn lìa nhiễm của địa ấy, các nghiệp thiện bất thiện ở trong địa ấy, tất nên hiện thọ, đã không còn sinh lại. Như A-la-hán và người Bất hoàn, khi chưa lìa nhiễm đã tạo nghiệp kia. Nay vì lìa nhiễm nên thành hiện pháp thọ.

Đó là nghiệp gì?

Nghĩa là dị thục nhất định. Nên biết nghiệp đã nói trong đây là nghiệp có dị thục nhất định, không phải nghiệp có thời phần nhất định. Nếu có phần vị khác nơi nghiệp thuận định thọ thì vị kia tất định không có nghĩa lìa nhiễm vĩnh viễn, tất ở nơi phần vị khác thọ quả dị thục. Nếu ở nơi dị thục cũng bất định, vì đã vĩnh viễn lìa nhiễm, nên không thọ dị thục.

Các vị Bất hoàn và A-la-hán, đối với dục nơi ba cõi, nếu như thoái chuyển do khởi nhiễm, tất không sinh xuống định dưới để đạt Niết-bàn. Nghiệp có dị thục nhất định đều thành hiện thọ. Ngoài ra tùy theo chỗ ứng hợp, loại này nêu nêu bày.

Nơi ruộng nào khởi nghiệp nhất định tức thọ? Tụng nêu:

Nơi Phật, Tăng đứng đầu

Cùng định diệt, vô tránh

Từ kiến, tu đạo xuất

Nghiệp tăng giảm tức thọ.

Luận nói: Ở trong loại ruộng công đức như thế là nghiệp thiện ác nhất định tức thọ quả.

Ruộng công đức: Nghĩa là Phật, Tăng đứng đầu. Căn cứ theo Bổ-đặc-già-la có sai biệt tức có năm:

1. Từ định diệt xuất. Nghĩa là trong định này đạt được tâm tịch tĩnh. Tâm tịch tĩnh của định này cho là Niết-bàn. Nếu từ định ấy, lúc đầu tiên khởi tâm, là như nhập Niết-bàn. Lại xuất định trở lại: Nghĩa là dùng công đức tịch tĩnh thù thắng để trang nghiêm tự thân, làm xứ nương dựa dựa đầy đủ cho tâm tịnh sinh trưởng.

2. Từ vô tránh xuất. Nghĩa là trong định này đã có thể vĩnh viễn nhổ sạch tất cả tai họa của phiền não cùng nối tiếp, có duyên nơi tất cả hữu tình làm cảnh, khởi lên vô biên ý lạc tăng thượng. Công đức vô tránh được tích tụ để huân tập thân. Khi từ đấy xuất, tâm kia cùng nối tiếp, không bị chế phục, vượt hơn do tất cả tâm định và tâm bất định của thế gian, là ruộng thù thắng của nghiệp phước, phi phước tiếp cận quả.

3. Từ định từ xuất. Nghĩa là trong định từ này, có duyên nơi vô lượng hữu tình làm cảnh, ý lạc tạo lợi ích, an vui, tăng thượng, chứa nhóm huân tập thân. Khi xuất định này, thì công đức tối thắng của vô lượng hữu vi đã huân tu thân cùng nối tiếp mà chuyển có thể sinh nghiệp thù thắng.

4. Từ kiến đạo xuất. Nghĩa là trong đạo này có thể vượt qua một phần nơi chốn lưu chuyển từ vô thủy đã không thể vượt qua, là căn bản của sinh tử luân hồi nơi ba cõi. Từ đạo này xuất, có thân thắng tịnh cùng nối tiếp mà sinh, có thể sinh khởi nghiệp thù thắng.

5. Từ tu đạo xuất. Nghĩa là trong đạo này có thể vượt qua một phần nơi căn bản của sinh tử. Ngoài ra như trước đã nói.

Từ trong phần vị xuất đầu tiên của năm thứ như thế, nhân nơi uy lực của công đức thù thắng đã tu từ trước, tâm cũng lại chiếu cố, chuyên niệm không bỏ, các căn tịch tĩnh đặc biệt so với ngày thường. Phước định, bất định của thế gian, xuất thế gian, không thể chế phục vượt hơn, lấn chiếm công đức thù thắng kia. Nên nói năm thứ này gọi là ruộng công đức. Nếu có nghiệp ở trong đó làm tổn ích, thì nghiệp này tất định có thể chiêu cảm tức quả.

Nếu khi từ định khác quả khác xuất, do định đã tu từ trước không phải là thù thắng, Hoặc do tu đạo đoạn chưa dứt hết rốt ráo, nên phần cùng nối tiếp của thân kia, không phải là ruộng phước thù thắng, nên thọ lượng quả dị thục là rất thù thắng.

Nay nên xét chọn ở trong các nghiệp.

Từng có dị thục chỉ chiêu cảm tâm thọ, hoặc chiêu cảm thân thọ, không phải là tâm thọ chăng?

Cũng có. Vì sao?

Tụng nêu:

Các nghiệp thiện không tầm

Cho chỉ cảm tâm thọ

Ác chỉ cảm thân thọ

Là cảm thọ nghiệp khác.

Luận nói: Nghiệp thiện không có tầm. Nghĩa là từ định trung gian cho đến xứ Hữu đảnh, nghiệp thiện hiện có, ở trong ấy có thể chiêu cảm người thọ nhận dị thục, nên biết chỉ chiêu cảm tâm thọ, không phải là thân. Vì ở trong địa kia không có thân thọ. Thân thọ tất định cùng với tầm tương ưng. Không phải nghiệp không có tầm, chiêu cảm quả có tầm.

Các nghiệp bất thiện có thể chiêu cảm người thọ, nên biết chỉ chiêu cảm thân thọ, không phải là tâm thọ, vì bất thiện nhân nơi khổ thọ làm quả. Khổ thọ của ý địa quyết định gọi là ưu. Ưu thọ tất không phải thuộc về quả dị thục nên nghiệp bất thiện chỉ chiêu cảm thân thọ.

Nếu chấp ưu căn nhất định không phải là dị thục, thì các loại hữu tình đã khởi tâm cuồng loạn. Ở trong thức nào, từ nhân nào đã chiêu cảm, dựa nơi xứ nào để khởi không phải là dị thục?

Tụng nêu:

Tâm cuồng chỉ ý thức

Do dị thục nghiệp sinh

Và sợ hại trái ưu

Trừ châu Bắc tại dục.

Luận nói: Tâm cuồng của hữu tình chỉ ở ý thức. Nếu tại năm thức, tất không có tâm cuồng, vì năm thức thân không phân biệt.

Do nhân nào nên tâm của hữu tình bị cuồng?

Do dị thục nơi nghiệp của các hữu tình khởi.

Do dị thục của những nghiệp nào khởi?

Nghĩa là do hữu tình kia dùng vật thuốc, chú thuật khiến cho tâm người khác cuồng. Hoặc lại khiến người khác uống các thứ không phải điều mình muốn, hoặc thuốc độc, hoặc rượu. Hoặc hiện bày oai nghiêm, khủng bố các loài chim thú v.v… Hoặc phóng lửa thiêu đốt núi, đầm. Hoặc đào hầm, hang, đặt bẫy khiến nhiều chúng sinh rơi xuống. Hoặc tạo các sự việc khác, khiến người khác mất hẳn nhớ nghĩ.

Do nhân của nghiệp này, nên ở nơi đời vị lai đã chiêu cảm dị thục của loại đại chủng khác.

Vì thế mạnh của dị thục kia, khiến tâm phát cuồng. Do thể của tâm cuồng này không phải là dị thục, vì tâm v.v… thiện, ác đều cùng bị cuồng.

Do đấy chỉ nói là dị thục của nghiệp sinh. Nghĩa là nhân của nghiệp ác đã chiêu cảm đại chủng của dị thục không bình đẳng. Dựa vào đại chủng này, tâm liền mất niệm, nên nói là cuồng.

Như thế, tâm cuồng đối với tâm loạn, nên tạo ra bốn trường hợp. Nghĩa là có tâm cuồng nhưng không phải là tâm loạn, cho đến nói rộng:

1. Cuồng không phải là loạn: Nghĩa là các người cuồng, nhưng tâm không nhiễm ô.

2. Loạn không phải là cuồng: Nghĩa là người không cuồng, nhưng các tâm nhiễm ô.

3. Cuồng cũng là loạn: Nghĩa là các người cuồng có các tâm nhiễm ô.

4. Không phải cuồng cũng không phải loạn: Nghĩa là người không cuồng, tâm không nhiễm ô.

Tâm của hữu tình bị cuồng là chỉ do đấy. Lại do bốn thứ. Bốn thứ đó là:

1. Do kinh sợ. Nghĩa là phi nhân v.v…. hiện bày hình tướng đáng sợ, đi đến cùng bức bách. Hữu tình thấy rồi tâm bèn trở nên cuồng.

2. Do thương tổn. Nghĩa là nhân nơi các sự việc não hại phi nhân v.v… vì phi nhân kia giận dữ, nên tổn hại nơi các chi tiết của mình, bèn khiến tâm cuồng. Trong thân của hữu tình có những chi tiết riêng, nếu bị đánh đập, xúc chạm mạnh tâm tức phát cuồng.

3. Do sai trái. Nghĩa là do trong thân, các thứ phong giới, đờm nhiệt, viêm nhiệt hỗ tương trái nghịch, đại chủng trái hẳn nhau, nên gây ra tâm cuồng.

4. Do ưu sầu. Nghĩa là nhân các sự việc người thân yêu qua đời v.v… sầu giận buộc giữ tâm, bèn phát cuồng, như Bà Tư v.v…

Loại hữu tình nào có tâm cuồng này?

Trừ châu Bắc Câu Lô, các loại hữu tình của cõi dục còn lại cùng có tâm cuồng. Nghĩa là tâm của các trời thuộc cõi dục hãy còn có cuồng, huống chi là con người, nẻo ác mà lìa được tâm cuồng? Địa ngục thì luôn bị cuồng, vì các thứ khổ bức bách. Nghĩa là các địa ngục luôn bị vô số các thứ vật dụng tạo khổ khác nhau gây tổn hại. Mạt ma mãnh liệt khó nhẫn chịu khi bị khổ thọ bức bách, hãy còn không tự nhận biết, huống chi là đã rõ thị phi? Nên trong địa ngục, tâm oán hận, vì bị tổn hại, than khóc, cuồng loạn, kêu gào chạy khắp.

Thế gian truyền tụng có văn: Trong các Thánh nơi cõi dục, chỉ trừ chư Phật, chư vị còn lại khi đại chủng trái hợp, tức cùng có tâm cuồng không có dị thục sinh.

Nếu có định nghiệp, tất nên trước thọ, sau mới chứng đắc Thánh. Nếu không phải định nghiệp thì đắc Thánh đạo, tức có thể khiến không có quả, cũng không có kinh sợ, vì các Thánh giả đã vượt khỏi năm thứ sợ hãi. Cũng không bị tổn hại, vì các Thánh giả không có các sự việc như bị phi nhân v.v… giận ghét. Cũng không có ưu sầu, do các Thánh giả đã chứng đắc pháp tánh. Tâm của tất cả Như Lai không có cuồng loạn, không có xả dần thọ mạng, không có phá bỏ âm thanh, cũng không có các sự việc như tóc bạc, da mặt nhăn v.v…, vì nghiệp được sinh là rất thuần tịnh, vi diệu.

Lại, trong kinh đã nói: Nghiệp có ba thứ. Nghĩa là cong vạy, cấu uế, vẩn đục. Tướng của chúng là thế nào? Tụng nêu:

Nói nghiệp cong, uế, đục

Dựa nịnh, giận, tham sinh.

Luận nói: Ba thứ thân, ngữ, ý đều có ba loại. Nghĩa là cong vạy, cấu uế, vẩn đục, như thứ lớp ấy, nên biết là đã dựa vào dua nịnh, giận dữ, tham lam sinh ra. Tức dựa vào dua nịnh sinh ra nghiệp thân, ngữ ý, gọi là nghiệp cong vạy. Vì là loại cong vạy của dua nịnh, nên cong vạy thật, gọi là kiến. Vì vậy Khế kinh nói: Cong vạy thật là gì? Nghĩa là các ác kiến. Dua nịnh là loại kia, nên được mang tên cong vạy. Từ dua nịnh đã sinh nghiệp thân ngữ ý, vì cong vạy làm nhân, nên quả nhận lấy tên nhân.

Vì thế Đức Thế Tôn nêu rõ: Nghiệp kia là cong vạy.

Nếu dựa vào sự giận dữ sinh ra nghiệp thân, ngữ ý, gọi là nghiệp cấu uế. Vì là loại cấu uế của giận dữ, nên giận dữ gọi là cấu uế. Nghĩa là giận dữ hiện tiền, như viên sắt nóng, tùy theo nơi chốn nào đã ném xuống, liền có thể đốt hại thân tâm của mình, người. Trong các phiền não, đó là lỗi rất nặng, nên Đức Bạc-già-phạm đã lập lần nữa tên cấu uế, là cấu uế tột cùng trong các thứ cấu uế. Từ giận dữ sinh ra nghiệp thân ngữ ý cấu uế làm nhân, nên quả thọ nhận tên nhân.

Thế nên, Đức Thế Tôn nói nghiệp kia là cấu uế.

Nếu dựa vào tham lam sinh ra nghiệp thân ngữ ý, gọi là nghiệp vẩn đục. Vì là loại vẩn đục của tham, nên tham gọi là vẩn đục. Nghĩa là tham hiện tiền, thì nhiễm đắm nơi đối tượng duyên, là tánh của nhiễm. Từ tham kia sinh v.v… căn cứ ở trước nên giải thích.

Lại, đạo chân thật ngay thẳng, nghĩa là tám Thánh chi. Có thể tạo chướng ngại đối với Thánh đạo kia, sinh ra ba nghiệp gọi là cong vạy. Chân thật không bệnh, nghĩa là vĩnh viễn đắc Niết-bàn. Tạo chướng ngại cho việc chứng đắc Niết-bàn kia, nhân nơi ba nghiệp gọi là cấu uế.

Dựa vào kiến chấp của ngoại đạo, ở trong giáo pháp của Phật, tạo chướng ngại đối với tâm tín tịnh, không tin giáo pháp kia, gọi là vẩn đục. Do có thể khuấy đục tâm tín tịnh, nên từ chướng kia đã khởi ba nghiệp, gọi là vẩn đục.

Lại, rơi trong xứ chống trái của đoạn thường để hành. Từ hành kia đã khởi nghiệp thân ngữ ý trái với nghĩa của đạo chánh trực, nên lập tên cong vạy. Do kiến tổn giảm, đã khởi các nghiệp, vì có thể làm cấu uế pháp tịnh, nên lập tên cấu uế. Tên cấu uế tất dựa vào nghĩa cấu uế tột cùng. Nên Tát-ca-da-kiến đã khởi các nghiệp có thể làm chướng ngại kiến giải về vô ngã chân thật thanh tịnh. Dựa nơi nghĩa làm chướng ngại thanh tịnh, nên lập tên vẩn đục.

HẾT – QUYỂN 40