LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 80

 Phẩm thứ 8: BIỆN VỀ ĐỊNH, phần 4

Đã biện về vô lượng, tiếp theo là biện về giải thoát. Tụng nêu:

Giải thoát có tám thứ

Ba trước tánh không tham

Hai, hai, một, một, định

Bốn định vô sắc thiện.

Diệt thọ tưởng giải thoát

Vi vi vô gián sinh

Do tự địa tâm tịnh

Cùng dưới vô lậu xuất.

Ba cảnh dục thấy được

Bốn cảnh đạo phẩm loại

Tự khổ, tập, diệt trên

Hư không phi trạch diệt.

Luận nói: Giải thoát có tám: (1) Trong có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài đạt giải thoát. (2) Trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài đạt giải thoát. (3) Tịnh giải thoát, thân tác chứng, trụ đầy đủ. (4) Bốn định vô sắc là bốn giải thoát tiếp theo. Định diệt thọ tưởng là giải thoát thứ tám.

Trong tám thứ giải thoát thì ba thứ trước lấy không tham làm tánh, vì là đối trị gần tham. Nhưng trong Khế kinh nói: Người quán tưởng thì quán tưởng tăng. Như túc trụ niệm trừ bỏ tưởng sắc. Trong ba thứ trước thì thứ nhất, thứ hai là chuyển theo tướng bất tịnh, vì tạo ra các hành tướng như xanh bầm, tím v.v… Giải thoát thứ ba thì chuyển theo tướng thanh tịnh, tạo hành tướng sạch, tươi sáng để chuyển. Ba cùng trợ bạn đều là tánh năm uẩn.

Hai giải thoát đầu, mỗi mỗi đều dựa chung nơi tĩnh lự thứ nhất, thứ hai. vì có thể đối trị tham hiển sắc trong cõi dục và tĩnh lự thứ nhất. Hai giải thoát đầu gồm thâu chung trung gian, cận phần. Năm địa đều có thể khởi hai giải thoát đầu. Cõi dục và định thứ nhất có tham hiển sắc, do nhãn thức thân đã dẫn khởi. Vì nhằm giải thoát chúng nên trong hai định đầu đã kiến lập giải thoát bất tịnh thứ nhất, thứ hai. Trong định thứ hai, thứ ba, vì nhãn thức không có, nên cũng không có chỗ dẫn dắt duyên nơi tham hiển sắc.

Trong định thứ ba, thứ tư đều là tịnh giải thoát. Hai giải thoát đầu tương tợ như căn thiện. Tuy trong cõi dục cũng cùng có được, nhưng vì bị lấn át xen tạp do tham của cõi dục, nên không kiến lập hai tên giải thoát.

Trong định thứ ba, thứ tư tuy cũng có được, nhưng vì cách đối tượng đối trị xa, nên uy lực yếu kém. Lại, vì bị lạc tịnh chế phục, nên không được mang tên. Giải thoát thứ ba nương dựa nơi tĩnh lự sau, lìa tám tai họa, tâm lắng sạch. Tĩnh lự thứ tư và cận phần lập danh xưng tĩnh lự sau. Tương tợ như căn thiện địa dưới tuy có, vì không phải là tăng thượng, nên không gọi là giải thoát. Do dục tham của cõi dục đã lấn át xen tạp. Trong hai định đầu thì bị bất tịnh chế phục. Nơi định thứ ba thì bị lạc làm mê mờ, lại đều bị tám tai họa nhiễu loạn.

Bốn giải thoát tiếp theo như thứ lớp của chúng, đã dùng định thiện của bốn vô sắc làm tánh, không phải vô ký, nhiễm, vì không phải là giải thoát, cũng không phải là tánh thiện tán động, yếu kém.

Tánh thiện tán động kia: Như tâm lúc mạng chung.

Có thuyết nói: Vào thời gian khác cũng có thiện tán động, chỉ thiện sinh đắc thì không có văn tư. Chín đạo vô gián của các địa cận phần, tám đạo giải thoát cũng không phải là giải thoát, vì không từ bỏ địa dưới, nên duyên nơi đạo xen tạp của địa dưới.

Lại, vì chưa hoàn toàn giải thoát nhiễm của địa dưới, nên Khế kinh nêu rõ: Tám đạo giải thoát kia siêu vượt quá địa dưới.

Có thuyết cho: Các đạo giải thoát của cận phần gần, cũng gọi là giải thoát, vì đã bỏ địa dưới. Nhưng ở nơi xứ khác, chỉ nói về định căn bản, vì trong cận phần không phải là hoàn toàn giải thoát.

Giải thoát thứ tám tức là định diệt tận, vì chán bỏ thọ tưởng mà khởi định này. Hoặc chán bỏ chung về phần có đối tượng duyên. Nhưng Thượng tọa nói: Tức phần vị nối tiếp nhau của các hữu tình gọi là định diệt tận.

Giải thích này cũng phi lý, vì như trước đã biện rộng.

Định diệt tận này thật sự là có Thể. Lại không thể nói là định này có tâm. Từng không thấy có tâm mà không có thọ, tưởng, tư, nên không chấp nhận ở nơi định này vượt qua đường mà đi. Như nói trong định ấy, thọ tưởng cùng diệt nên được tịch tĩnh an lạc. A-la-hán v.v… đã có giải thoát thù thắng như thế, không phải là không có nghĩa, do gốc nối tiếp nhau cùng tâm, có thể nêu gọi là tịch tĩnh an lạc.

A-la-hán v.v… đã có giải thoát thù thắng, vì sao so tính lường xét?

Có một loại hữu tình tâm không có đối tượng duyên, theo hành tướng ly để chuyển. Người có đối tượng duyên, lý tất có xúc.

Nếu thừa nhận có xúc, thì đâu thể nói là không có quả của thọ?

Tức nên nói là do trở ngại nào khiến thọ v.v… không sinh, nên trong định diệt không có tâm. Về lý không phải mê lầm nơi chánh lý, vừa xem qua văn kinh, liền có thể thông hợp nghĩa lý sâu xa của Thánh giáo. Thức không phải vĩnh viễn diệt để nói là không lìa thân. Như bệnh chưa vĩnh viễn trừ, chỉ tạm ngừng dứt cũng gọi là có. Tâm vi vi về sau ở nơi định này hiện tiền. Tâm tưởng đối với trước xong, gọi là vi tế. Tâm này lại vi tế nên gọi là vi vi. Tâm tiếp theo như thế nhập định diệt tận. Nghĩa là tâm của địa xứ Hữu đảnh có ba phẩm, tức tưởng vi tế và tâm vi vi. Do phẩm loại hạ, trung, thượng có riêng khác, chủ yếu là sau phẩm hạ thì định diệt hiện tiền, nên tiếp theo vi vi nhập định diệt tận. Từ định diệt xuất, hoặc khởi tâm định tịnh của xứ Hữu đảnh, hoặc tức có thể khởi tâm vô lậu của vô sở hữu xứ.

Như thế, tâm nhập chỉ là hữu lậu, thông hợp từ tâm hữu lậu, vô lậu xuất.

Trong tám giải thoát thì ba thứ trước chỉ dùng xứ sắc của cõi dục làm cảnh. Có sai biệt: Nghĩa là hai thứ thì nhận lấy tướng bất tịnh, một thứ thì nhận lấy tướng tịnh. Đã ở trong các sắc cũng có giới tịnh, quán chung là bất tịnh, đâu thể không phải thuộc về điên đảo? Như đối với pháp khổ, chấp là lạc tức thành điên đảo. Nghĩa là trong các hành cũng có khổ xen tạp, nhưng hoàn toàn chấp là lạc tức thành điên đảo. Giải thoát thứ ba nhận lấy tịnh theo đấy nêu vấn nạn cũng như vậy. Điều này không phải là lỗi lầm, vì đã được thừa nhận. Nghĩa là cũng thừa nhận đây là tư duy điên đảo.

Nếu như vậy thì vì sao tánh không phải là bất thiện?

Vì đây là quả đã đạt được do lìa nhiễm. Đã không xứng hợp với thật thì sao có thể trái bỏ nhiễm. Vì khiến thuận sinh tham, nên tác ý xa lìa. Như chưa lìa dục, ở nơi tịnh, bất tịnh, tư duy về tướng tịnh, có thể thuận sinh tham. Không phải trong tịnh này, thấy ở tướng tịnh, vì không điên đảo, nên có thể cho là thuộc về tánh thiện.

Như thế là lìa dục đối với tịnh, bất tịnh, tư duy về bất tịnh, tức có thể xa lìa tham, không phải trong tịnh này thấy tướng bất tịnh là điên đảo, nên thuộc về tánh bất thiện. Cũng nên so sánh để giải thích bất tịnh, thấy tịnh. Hoặc ở đây không phải cho là tư duy điên đảo. Các pháp bất tịnh gồm có hai thứ: (1) Tự thể. (2) Cùng xen tạp.

Các pháp thanh tịnh, vì xen tạp với bất tịnh, nên cũng gọi là bất tịnh. Vì thế gian đã cực thành, nên tư duy này không gọi là điên đảo. Bất tịnh xen tạp với tịnh, so sánh cũng nên như thế. Tuy nhiên, người tu hành quán, lúc đầu tu quán, không phải cũng ở nơi giới tịnh nhận lấy tướng bất tịnh, chỉ ở nơi giới bất tịnh nhận lấy tướng bất tịnh, khiến tâm rất chán ghét, theo hành tướng trái ngược để chuyển. Về sau dần dần hành tăng rộng tướng trái ngược, khắp trong cảnh của sắc xứ thuộc cõi dục, cùng khởi tâm chàm chán, không sinh tham nhiễm. Nếu ở trong tụ sắc của cõi sắc thuộc giới thuần tịnh, thắng giải không có khả năng nhận lấy tướng bất tịnh. Đã nói chỉ ở trong các tụ sắc của cõi dục, thắng giải mới có khả năng nhận lấy tướng bất tịnh. Nên biết trong các tụ sắc của cõi dục, quyết định cũng có tánh của giới bất tịnh.

Đã như bất tịnh, tức tạo thắng giải bất tịnh, vì sao có thể nói là tánh điên đảo?

Giải thoát thứ ba nhận lấy tịnh, so sánh với đây nên biết.

Ở đây đối với đối tượng duyên đã chuyển biến như thật, vì sao nói là tác ý thắng giải? Do sức của thắng giải, ở nơi cảnh này sinh, nên nêu rõ đây là tác ý thắng giải. Tức đã do thắng giải này nên được mang tên giải thoát. Thắng giải, giải thoát về nghĩa là gần nhau. Hoặc đối với ít sự, do sức của thắng giải dần dần tăng ích, quán gọi là tác ý thắng giải. Nghĩa là đối với một ít tịnh, quán dần dần tăng ích. Nhân nơi quán này, liền sinh vô lượng tham nhiễm. Nhiễm này đã sinh xong, tâm ở nơi đối tượng duyên, liền bị trở ngại nên chuyển biến không tự tại.

Đối với một ít bất tịnh, quán dần dần tăng ích, cùng với trước là trái nhau, nên tăng các gốc thiện. Như quán lạc thọ là tánh hoại khổ. Vì tướng khổ xen tạp, nên quán là khổ. Có khả năng điều phục phiền não, nên không gọi là điên đảo.

Như thế, giới tịnh cùng với bất tịnh xen tạp, cũng có thể ở trong ấy, quán là bất tịnh, không gọi là điên đảo, do có khả năng xa lìa tham, duyên nơi tịnh giải thoát, nên biết cũng như thế. Quán chưa thành mãn, chỉ được gọi là tác ý thắng giải. Về sau khi thành mãn, vì là quả do lìa nhiễm đắc, vì dẫn sinh Thánh đạo, nên cũng được gọi là tác ý chân thật.

Như thế là đã biện về đối tượng duyên của ba giải thoát đầu. Bốn giải thoát tiếp theo đều dùng khổ, tập, diệt đế của tự địa, địa trên cùng đến đạo phẩm loại trí của tất cả địa, phi trạch diệt và hư không kia làm cảnh nơi đối tượng duyên. Giải thoát vô sắc, vì dứt bỏ địa dưới, nên đều không duyên nơi hành tương khổ tập của địa dưới.

Dị biệt là hai giải thoát đầu là giải thoát bất tịnh. Giải thoát thứ ba chỉ là tịnh, đều cùng không phải mười sáu. Giải thoát vô sắc gồm thâu định căn bản, nên đã tạo ra mười sáu hành tướng. Hoặc không phải niệm trụ đều cùng có. Nghĩa là ba giải thoát đầu thì nơi thân niệm trụ đều cùng có. Bốn giải thoát tiếp theo thì chung nơi bốn niệm trụ.

Tương ưng với trí: Ba giải thoát đầu và giải thoát thứ bảy chỉ là thế tục trí. Giải thoát thứ tư, thứ năm, thứ sáu thì tương ưng với tám trí.

Tương ưng với căn: Hai giải thoát đầu tương ưng với hỷ căn, xả căn. Năm giải thoát tiếp theo chỉ tương ưng với xả căn.

Sai biệt về đời: Đều chung cả ba đời.

Duyên nơi đời riêng khác: Ba giải thoát đầu đã sinh, có thể sinh, đều duyên nơi đời mình, không sinh thì duyên nơi ba đời. Bốn giải thoát tiếp theo thì duyên nơi ba đời không phải đời.

Ba tánh riêng: Đều chỉ là tánh thiện. Duyên nơi tánh riêng: Ba giải thoát đầu duyên chung nơi ba tánh. Bốn giải thoát tiếp theo thì duyên nơi thiện, vô ký.

Học v.v… riêng: Ba giải thoát đầu, hai giải thoát sau chỉ là câu phi (phi học phi vô học). Ba giải thoát giữa đều chung nơi ba thứ (học, vô học, phi học phi vô học).

Duyên nơi học v.v…: Ba giải thoát đầu chỉ duyên nơi câu phi. Bốn giải thoát sau thì duyên cả ba thứ.

Kiến đạo đoạn v.v…: Ba giải thoát đầu, hai giải thoát sau, chỉ do tu đạo đoạn. Ba giải thoát giữa nếu là hữu lậu thì do tu đạo đoạn, ngoài ra thì không đoạn.

Duyên nơi kiến đạo đoạn: Ba giải thoát đầu duyên nơi tu đạo đoạn. Bốn giải thoát tiếp theo thì đều duyên chung nơi cả ba thứ.

Duyên nơi tự thân v.v…: Giải thoát đầu duyên nơi thân mình, thân người khác. Hai giải thoát tiếp theo duyên nơi thân người khác. Bốn giải thoát còn lại thì duyên nơi ba thứ.

Đắc sai biệt: Giải thoát thứ tám, thứ ba chỉ là chưa từng được. Sáu giải thoát còn lại thì chung cho cả hai. Chung cho hai: Nghĩa là pháp nội Thánh và pháp ngoại phàm phu. Phàm phu chỉ là từng được.

Kinh nói: Có sắc quán các sắc là hiển bày về nghĩa gì?

Không phải chưa trừ bỏ sắc mà có thể như thật, thông hợp nghĩa thâm diệu của kinh này. Nhưng các Thánh trước đã truyền trao giải thích nói: Chưa có thể điều phục, trừ bỏ duyên nơi tưởng sắc nội là nghĩa có sắc.

Làm sao nhận biết như thế?

Vì phần sai biệt của giải thoát thứ hai đã nêu bày. Nghĩa là ở nơi giải thoát thứ hai đã nói thế này: Bên trong không có tưởng sắc, quán các sắc bên ngoài. Nên biết giải thoát thứ nhất, chưa trừ bỏ tưởng sắc bên trong. Do đấy Luận giả kiến lập giải thoát đầu tiên, gọi là: Trong có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài đạt giải thoát. Nghĩa là người hành quán như đã trừ bỏ tử thi của kẻ oán đối, tuy đã lìa dục tham, nhưng vì khiến được kiên cố, nên dùng hành tướng bất tịnh. Lại, quán các sắc bên ngoài, do ở nơi các sắc bên ngoài thường quán sát, nên đối với sắc bên trong, cũng sinh khởi tưởng nhàm chán. Như người ưa thích sạch sẽ, bị buộc xác chó chết vào cổ trước, trong lòng hết sức xấu hổ, sinh chán ghét vô cùng.

Như thế, quán tướng bất tịnh bên ngoài xong, mới quán thân sắc bên trong cũng là bất tịnh. Vì tâm tịnh nên thấy rõ trong nội thân có ba mươi sáu vật bất tịnh đầy dẫy. Như quán nhiều loại vật sắc trong rương, gọi là phần vị cực thành mãn của giải thoát thứ nhất.

Phần vị thành mãn này là giải thoát pháp gì?

Nghĩa là tâm đối với sắc không ưa ghét, dứt bỏ, quở trách, hủy hoại, nhàm chán, ngăn chận dục tham, tức giải thoát dục tham, là tánh không tham.

Nếu cho vì nói về quán, tức nên là tuệ, thì lý tất không đúng. Vì đối trị gần dục tham, nên thể nếu là tuệ, tức nên đối trị gần si. Đã đối trị gần tham, nên tánh là không tham. Hành giả tu quán, thời gian từ đây về sau, lại loại trừ dần duyên nơi tưởng sắc bên trong. Nghĩa là dùng thắng giải tưởng về tự mạng chung, được khiêng chở thân thể còn lại đem bỏ nơi xứ tử thi, có vô số các thứ chim thú cùng giành giật cắn xé nhai nuốt. Trong chốc lát thân thể mất hết, chỉ thấy toàn chim thú. Hoặc ở nơi xứ này dùng lửa thiêu đốt, cho đến còn lại phần tro, bị gió cuốn bay tan tát, trong giây phút thân thể tan biến, chỉ thấy toàn là trống không.

Hoặc tưởng thân mình như tô lạc, như muối v.v… bị nước, lửa v.v… làm cho tiêu tan, cho đến thân không có, chỉ thấy toàn là lửa

v.v… Đó gọi là bên trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài đạt giải thoát. Sức của thắng giải này đã loại trừ tưởng sắc, nên tuy duyên nơi thân khởi, nhưng không thấy thân. Đã loại trừ duyên nơi tưởng sắc bên trong, tâm nối tiếp chuyển, không có sự việc riêng, khinh an, lạc thù thắng tự nhiên hiện tiền. Ở trong phần vị này thường thường tu tập, duyên nơi hành tướng chán bỏ của cảnh thuộc sắc xứ. Đó gọi là giải thoát thứ hai thành mãn. Cũng như giải thoát thứ nhất là giải thoát dục tham, tuy vào lúc trước đã tu tưởng bất tịnh, đã được giải thoát khởi, duyên nơi dục tham của sắc, nhưng từ vô thủy đến nay, nên ngã ái khó loại trừ. Nếu quán thân có, vẫn còn sợ thoái chuyển sinh, nên về sau lại tu bên trong không có tưởng sắc, chán ghét sắc, quán thanh tịnh vượt hơn trước. Hành giả bấy giờ dựa nơi tĩnh lự thứ nhất, được hai quán này, lại dốc sinh khởi tham vướng vị. Vì muốn khiến quán này chuyển biến tăng tiến, nên nhập tĩnh lự thứ hai, lại tu hai giải thoát. Lại, tu hai pháp theo thứ lớp như trước.

Do đâu trong đây nhàm chán trái với tưởng sắc, có thể được nói là cùng với hỷ thọ tương ưng? Do sức của địa khiến như thế, như trí khổ, tập, hoặc do quán thấy đã tu tập căn thiện, đến khi thành mãn, thế nên sinh hỷ.

Đã ở nơi tưởng sắc đạt được giải thoát, tuy du hành nhàm chán quán nhưng không hại đến hỷ. Tiếp theo lại tiến nhập tĩnh lự thứ ba, vì diệu lạc làm mê mờ nên tâm liền thành xa xỉ, do đấy không thể tu các giải thoát, chỉ khởi căn thiện tương tợ như giải thoát. Sức của địa trong tĩnh lự này là pháp như thế. Quán sự ưa thích, nhàm chán, đều cùng không thể thành. Từ đấy tiến tu tĩnh lự thứ tư, xả tăng thượng, nên tâm lắng sạch dần, các tưởng bất tịnh không còn tăng thượng. Cho nên tĩnh lự kia không được gọi là hai giải thoát đầu, chỉ có thể gọi là căn thiện tương tợ. Các Sư Du già kia hành quán lâu về bất tịnh, vì chán ghét chuyển biến, nên khiến tâm trầm tịch. Vì muốn thúc đẩy phát khởi khiến tạm sinh hoan hỷ. Hoặc vì tạm thời giải thoát công việc, tu tập lâu dài mệt nhọc. Hoặc vì tự xét nghiệm về khả năng có thể thực hiện của quán bất tịnh, nên hành giả kia lại dựa vào tĩnh lự thứ tư, đối với sắc của cõi dục khởi thắng giải thanh tịnh, trước hết nhận lấy các tướng tịnh như áo, hoa báu v.v… Do sức của thắng giải nên tư duy rộng dần, tạo ra hành tướng tịnh khắp nơi đối tượng duyên. Như Khế kinh nêu rõ: Hành giả kia vào thời gian sau, nên nhận lấy một ít tướng tịnh, tư duy chung về các sắc. Vị này tuy thúc đẩy tâm nhưng không trạo cử, tuy quán tướng tịnh nhưng không khởi tham. Đã nhận biết uy lực của căn thiện tăng thượng. Tiếp theo lại ở nơi cảnh tóm lược tích tụ nơi tâm kia đối với một đối tượng duyên quán tịnh mà trụ ở phần vị này, gọi là tịnh giải thoát viên mãn, vì cuối cùng có thể xả bỏ tướng bất tịnh. Tịnh giải thoát này cũng như giải thoát thứ hai: Bên trong không có tưởng sắc, quán các sắc bên ngoài. Nhưng có sai biệt: Nghĩa là địa của đối tượng nương dựa, hành tướng của đối tượng đối trị có sai biệt, nên thân của đạo nội ngoại có chung, không chung, chung cho từng được, chưa từng được. Chỉ chưa từng được nên có ít dụng công mà được, vì nhiều dụng công mới đạt được.

Lại, tịnh giải thoát quán thuận với tướng tham, nhưng tham không sinh. Giải thoát thứ hai quán trái với tướng tham, được tham không khởi. Năm giải thoát còn lại nên biết, như trước tư duy về xứ vô sắc không tương ưng đã giải thích.

Vì sao chỉ nói: Bên trong không có tưởng sắc, vì trừ tưởng sắc bên trong, nên không nói về bên ngoài chăng?

Vì khi được tĩnh lự đầu thì tưởng bên ngoài đã loại trừ. Nghĩa là khi được tĩnh lự thứ nhất, thì tưởng sắc bên ngoài đã trừ bỏ. Trong tĩnh lự thứ tư lại không còn nhọc công loại trừ, vì các pháp công đức lần lượt đạt được.

Lại, vì tưởng sắc bên ngoài dễ có thể loại trừ, nên lúc trừ diệt tướng đó, thì chưa lập giải thoát. Hoặc tưởng sắc bên ngoài, đến không xứ mới dứt trừ, nên ở đây chỉ nói là trừ bỏ bên trong.

Tại đây đã nêu rõ về bên trong không có tưởng sắc, là chỉ nhằm ngăn chận tưởng sắc riêng hay là nói về tưởng khác?

Nếu cho lời nói này chỉ nhằm ngăn chận tưởng sắc, thì lời nói này là vô dụng khi nói quán sắc bên ngoài, vì nghĩa không có tưởng sắc bên trong là đã thành.

Nếu cho lời nói này là nói riêng về tưởng khác, thì nên nói tưởng ấy là tưởng về đối tượng duyên nào.

Ở đây không phải chỉ ngăn chận mà là để nêu bày riêng.

Vì duyên nơi pháp nào là duyên nơi hư không giới?

Nếu không phải là theo hành tướng bất tịnh chuyển, thì vì sao có thể gọi là giải thoát thứ hai?

Điều này không có lỗi, vì sự việc kia là gia hạnh. Nghĩa là ở đây nói bên trong không có tưởng sắc, là tên gọi gia hạnh của giải thoát thứ hai. Giải thoát thứ hai có nhiều nhân duyên, nên được mang tên giải thoát. Nghĩa là đã giải thoát, do sức này sinh, hoặc sức này có thể dẫn sinh giải thoát. Hoặc là tánh của vô số thứ giải thoát. Hoặc cùng với thắng giải của giải thoát đều cùng có.

Các giải thoát này dựa vào thân nam nữ, Thánh giả, phàm phu đều có khả năng tu khởi, chỉ có định diệt tận là chỉ dựa vào thân Thánh. Ở trong thân Thánh là chung cho học, vô học. Kinh nói: Định diệt tận thì vượt quá các xứ Hữu đảnh.

Vì sao có thể nói là cũng dựa vào thân hữu học?

Thân hữu học này tuy thuộc về tự địa của xứ Hữu đảnh, nhưng như pháp của địa trên vì vượt quá pháp còn lại thì mới đạt được. Như vượt quá tất cả tham của định thứ tư mới nhập nơi không vô biên xứ căn bản. Đến vượt quá tất cả tham của vô sở hữu mới nhập nơi phi tưởng phi phi tưởng xứ căn bản. Như thế, siêu vượt các tham của xứ Hữu đảnh mới có thể được nhập định diệt thọ tưởng. Nghĩa là tham của xứ Hữu đảnh nếu đã đoạn, hoặc chưa đoạn, chủ yếu tức nên điều phục chung mới nhập định này, nên tuy là tự địa mà gọi là siêu vượt. Hoặc các vị hữu học đã lìa Hữu đảnh, do kiến đạo đoạn nên gọi là siêu vượt.

Hoặc pháp của xứ Hữu đảnh gồm có hai thứ: Là phần vị có tâm, không tâm có sai biệt. Vì vượt qua phần vị có tâm, nên gọi là siêu vượt. Hoặc tùy theo đối tượng thích hợp, nói về siêu vượt, không có lỗi.

Chỉ giải thoát thứ ba, thứ tám nói là thân chứng. Tức nêu lên hai loại biên vực, nhằm làm rõ số còn lại. Tịnh trong giải thoát sắc là biên vực. Đối với các vô sắc thì định diệt là biên vực. Hoặc ở đây đều ở tại biên của một cõi. Hoặc chỉ hai thứ này chỉ là nội đạo đạt được, vì chỉ chưa từng được, vì có nhiều dụng công mới được, vì tận trừ tâm tâm sở pháp của sắc do đại chủng tạo.

Có thuyết cho: Giải thoát thứ ba, đầu tiên ở nơi thân sắc, dùng sức của thắng giải, sau khi nhận lấy tướng thanh tịnh thì loại trừ dần, giải thoát thành mãn, duyên nơi thân giải thoát, cho đây là cứu cánh, nên riêng ở đấy, lập danh xưng thân chứng. Định diệt không có tâm, chỉ dựa vào thân trụ, nên cũng đối với thân giải thoát kia, lập danh xưng thân chứng, là căn cứ theo phần thắng. Tuy nhiên, lý thật đều như thế, tức dựa vào lý có chung.

Có Khế kinh nói: Thế nào gọi là thân chứng? Nghĩa là tám giải thoát. Tám giải thoát này ở nơi hữu tình nào khởi? Nếu đối với đối tượng duyên luôn cầu được đối trị, là hành tham ái, ưa thích tu nhiều đạo.

Hữu tình như thế là có khả năng khởi giải thoát. Hành giả vì sao tu giải thoát v.v…? Vì khiến các phiền não chuyển càng cách xa. Vì đối với đẳng chí đạt được tự tại, liền có thể dẫn phát. Các đức như vô tránh v.v… và Thánh thần thông. Do đấy tức có thể làm chuyển biến các cảnh, dấy khởi vô số hành nghiệp như lưu giữ xả bỏ v.v…

Đã biện về giải thoát, tiếp theo là biện về thắng xứ. Tụng nêu:

Thắng xứ có tám thứ

Hai như giải thoát đầu

Hai tiếp, như thứ hai

Bốn sau, như thứ ba.

Luận nói: Thắng xứ có tám. Bên trong có tưởng sắc, quán một ít sắc bên ngoài, hoặc tốt, hoặc xấu, đối với các sắc này thấy biết đều thù thắng, có tưởng như thế, đó gọi là thắng xứ thứ nhất. Bên trong có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài nhiều, nói rộng cho đến… Đó gọi là thắng xứ thứ hai. Bên trong không có tưởng sắc, quán một ít sắc bên ngoài, nói rộng cho đến… Đó gọi là thắng xứ thứ ba. Bên trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài nhiều, nói rộng cho đến… Đó gọi là thắng xứ thứ tư. Bên trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài: Màu xanh, màu xanh hiển bày, màu xanh hiện rõ màu xanh sáng tươi. Ví như hoa Ô-mạc-ca. Hoặc như áo màu xanh được nhuộm kỹ của xứ Bà-la-nê-tư. Đối với các sắc này, thấy biết đều thù thắng, có tưởng như thế… Đó gọi là thắng xứ thứ năm. Bên trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài: Màu vàng, màu vàng hiển bày, màu vàng hiện rõ màu vàng sáng tươi. Ví như hoa Yết-ni-ca. Hoặc như áo màu vàng được nhuộm kỹ của xứ Bà-la-nê-tư. Nói rộng cho đến… Đó gọi là thắng xứ thứ sáu. Bên trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài: Màu đỏ, màu đỏ hiển bày, màu đỏ hiện rõ màu đỏ sáng tươi. Ví như hoa Bàn-đậu-thời-phược-ca. Hoặc như áo màu đỏ được nhuộm kỹ của xứ Bà-la-nê-tư. Nói rộng cho đến… Đó gọi là thắng xứ thứ bảy. Bên trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài: Màu trắng, màu trắng hiển bày, màu trắng hiện rõ màu trắng sáng tươi. Ví như sao Ô-sa-tư. Hoặc như áo màu trắng rất tươi sáng của xứ Bà-la-nê-tư. Nói rộng cho đến… Đó gọi là thắng xứ thứ tám. Vì có khả năng chế phục cảnh, nên gọi là thắng xứ. Nghĩa là tuy tất cả cảnh sắc của đối tượng duyên là thanh tịnh, sáng rỡ, tươi đẹp đầy đủ, nhưng sức của căn thiện đều có thể lấn át che phủ. Ví như hàng tôi tớ, tuy mang đeo các thứ châu báu kỳ lạ nhưng đều bị chủ của họ lấn át che phủ. Hoặc ở xứ này chuyển biến tự tại, không theo đấy dấy khởi Hoặc, nên gọi là thắng xứ. Vì thắng đối với xứ, nên lập tên thắng xứ. Hoặc căn thiện này tức gọi là xứ, xứ có khả năng thắng, nên lập tên thắng xứ. Ít, nghĩa là đối tượng duyên hoặc ít tự tại. Cùng với đây trái nhau, gọi là nhiều. Nói sắc tốt xấu là hiển bày sắc hơn kém.

Có thuyết nói: Đối với sắc đẹp, có thể không khởi tham. Đối với sắc xấu, thì không sân, nên gọi là thắng.

Nếu như thế thì Thể của thắng xứ nên gồm đủ không tham, không sân, nên ở trong đây có ý nghĩa riêng. Nghĩa là hành tướng bất tịnh, quán chung về sắc tốt xấu. Như quán sắc xấu thì sắc tốt cũng như thế. Nhận lấy chung về bất tịnh, tâm tự tại chuyển, đâu nhọc công lại quán sắc xấu, bất tịnh. Do từng thấy tịnh, khởi các phiền não, vì nhận biết điên đảo, từng thấy tịnh. Nay thấy đúng như thật để đối trị tham xưa, nên đối với sắc xấu cũng quán bất tịnh. Đầu tiên quán cảnh này gọi là biết thù thắng. Về sau khi quán thành, gọi là thấy thù thắng. Có khả năng tự thấu đạt là ta ở trong đây, có thấy biết đều thù thắng, gọi là có tưởng như thế.

Bốn thắng xứ này về tự tánh, địa v.v… như thứ lớp là đồng với hai giải thoát đầu ở trước. Nghĩa là hai thắng xứ đầu là quả của giải thoát thứ nhất.

Hai thắng xứ tiếp theo là quả của giải thoát thứ hai. Giải thoát kia làm tư lương để có thể nhập nơi quả này. Quán chung bất tịnh, có khả năng chế phục mình. Lại ở nơi cảnh này, quán về tịnh để chế phục. Nghĩa là tức nhân nơi bên trong không có tưởng sắc ở trước, quán riêng về bốn tướng của hiển sắc như màu xanh v.v…

Nói màu xanh, nghĩa là màu xanh như hoa v.v… Nói màu xanh hiển bày, nghĩa là màu xanh như áo v.v… Màu xanh hiện rõ màu xanh sáng tươi, nghĩa là làm rõ về tướng xanh hiện có của hai thứ trước. Tịnh thuần sâu xa, không xen tạp, không phải như biên xanh, đã phát khởi bóng xanh và màu xanh như kim cương nơi đuôi chim khổng tước v.v… Tuy nhiên, nói màu xanh sáng tươi là hiển bày màu xanh tươi, tinh khiết, không phải như mặt trời v.v… đã phát ra ánh sáng bên ngoài. Hoặc là chỉ rõ về sắc xanh đã hiện rõ.

Nêu dẫn dụ về hoa, áo, là nhằm chỉ rõ trong gia hạnh đã nhận lấy hiển sắc kia làm môn, nhập quán thắng xứ, không phải ở trong quán thấy giống với sắc này. Hoa Ô-mạc-ca là trong các hoa, thì màu xanh của hoa này là hơn hết. Trong màu xanh cùng sinh thì nêu lên màu xanh ấy làm môn.

Bà-la-nê-tư là xứ chuyên về công việc nhuộm màu sắc. Bên trong màu xanh hòa hợp đã nêu dẫn màu xanh này làm môn. Không phải trong gia hạnh, chỉ nhận lấy hai màu xanh ấy. Không phải đều là có, nên không nêu dẫn châu báu. Nếu ở nơi chốn thanh vắng, tức trước nhận lấy tướng của hoa. Nếu ở nơi thôn xóm, thì trước nhận lấy áo màu xanh. Quán màu xanh đã như thế, thì màu vàng v.v… cũng vậy. Nhưng về ban đêm, thì trước nhận lấy ngôi sao màu trắng, ban ngày thì nhận lấy áo. Ngoài ra đều như trên. Ở trong các màu sắc trắng thì ngôi sao Ô-sa-tư vào ban đêm trời tạnh là tối thắng. Bốn thắng xứ này, về tự tánh, địa v.v… nên biết là như giải thoát thứ ba ở trước, do tịnh giải thoát là nhân của bốn thắng xứ này. Giải thoát kia làm tư lương để có thể nhập nơi thắng xứ ấy.

Ba giải thoát trước, ở trong các sắc, chỉ có thể nhận lấy chung về tướng tịnh, bất tịnh. Nay, tám thắng xứ, ở trong các sắc đã phân biệt về các tướng khác như màu xanh v.v… có nhiều ít. Nên giải thoát trước chỉ ở trong sắc, dứt bỏ dục tham và tưởng bất tịnh.

Nay, tám thắng xứ có khả năng ở nơi đối tượng duyên, phân tích, chế phục, khiến tùy theo tâm chuyển. Do đấy chứng biết giải thoát thứ ba đã nhận lấy chung tướng tịnh, nên lập một danh xưng. Bốn thắng xứ sau trong tám thắng xứ, vì nhận lấy có sai biệt, nên phân làm bốn thứ. Nếu tịnh giải thoát cũng duyên có sai biệt, nhận lấy tánh tịnh, đồng lập làm một, thì bốn thắng xứ sau tức nên cũng lập làm một. Vì nhân duyên có sai biệt nên không thể được.

Đã biện về thắng xứ, tiếp theo là biện về biến xứ. Tụng nêu:

Biến xứ có mười thứ

Tám như tịnh giải thoát

Hai sau, tịnh vô sắc

Duyên tự địa, bốn uẩn.

Luận nói: Biến xứ có mười. Nghĩa là quán vòng đủ khắp đất, nước, gió, lửa, xanh, vàng, đỏ, trắng và hai vô biên xứ là không và thức. Đối với xứ này, kinh đều nói là một tưởng. Trên dưới và bên cạnh là vô lượng, không hai. Ở nơi tất cả xứ, không có gián cách, không có lỗ trống, vì tư duy trọn khắp, nên gọi là biến xứ. Do biến ở nơi xứ, nên lập danh xưng biến xứ. Hoặc căn thiện này tức gọi là xứ, vì hành tướng hiện bày khắp, nên lập danh xưng biến xứ. Trong đây nói địa v.v… là hiển thị về đối tượng duyên.

Đã nói chữ biến là chỉ rõ về hành tướng. Hành tướng tuy như nhau, nhưng vì đối tượng duyên riêng khác, thế nên biến xứ được phân làm mười thứ. Kinh nói một, nghĩa là nêu rõ đẳng chí này tư duy về một loại cảnh tướng hiện tiền. Nói tưởng tức làm rõ là tác ý thắng giải. Nếu khác với đây, tức nên nói là một nhận biết.

Nói trên dưới, bên cạnh, là hiển bày về ý lưu chuyển. Nói không hai, là làm rõ về phần không có lỗ trống gián cách.

Nói vô lượng, là chỉ rõ về thắng giải vô biên. Do sức cần cù tinh tấn của đẳng trì thù thắng khiến hành giả tu quán, tâm tự tại sinh, có khả năng ở nơi đối tượng duyên quán xét trọn khắp.

Vì sao chỉ mười thứ được mang tên biến xứ?

Do trên mười thứ này, lại không có hành tướng hiện bày khắp. Chỉ có định thứ tư và không thức vô biên, tức có thể được nói là có hành tướng vô biên. Tám biến xứ trước, như tịnh giải thoát. Tự tánh đều là căn thiện không tham. Nếu cùng với trợ bạn thì đều là tánh năm uẩn. Bốn thắng xứ sau là do gia hạnh dẫn sinh, nên cùng với biến xứ kia là đồng, như tịnh giải thoát.

Lại, như tịnh giải thoát dựa vào tĩnh lự thứ tư và duyên nơi sắc xứ của cõi dục làm cảnh.

Vì sao địa v.v… cũng gọi là sắc xứ?

Vì địa, địa giới v.v… là có sai biệt, nên hiển hình gọi là địa v.v…, như trước đã nêu. Thế nên nói địa v.v… là biến xứ, không nói địa giới v.v… Tức tám thứ trước chỉ duyên nơi sắc xứ.

Phong (Gió) cùng với phong giới đã không có sai biệt, vì sao có thể nói là cũng duyên nơi sắc xứ?

Vấn nạn này là phi lý. Vì các thế gian cũng nói là gió đen, gió xoay vòng v.v…

Do tám thứ trước này duyên nơi sắc, về lý là thành. Hai biến xứ sau, như thứ lớp là hai vô biên xứ không, thức. Tịnh vô sắc làm tự tánh của không, thức kia, đều duyên nơi bốn uẩn của tự địa làm cảnh.

Công đức của ba môn như giải thoát v.v… này, là do gì đạt được? Dựa vào thân nào để khởi? Tụng nêu:

Định diệt như trước biện

Khác, đều chung hai đắc

Vô sắc dựa ba cõi

Khác, chỉ nẻo người khởi.

Luận nói: Giải thoát thứ tám như trước đã biện, do tức là định diệt tận ở trước. Bảy giải thoát còn lại thì chung do hai đắc, nghĩa là do lìa nhiễm đắc và gia hạnh đắc, vì có từng tu tập, chưa từng tu tập. Tám biến xứ trước, khi đầu tiên tu tập, đều dùng nhãn thức làm gia hạnh. Biến xứ không xứ đầu tiên tu tập cũng như thế. Vì đầu tiên tất duyên nơi sắc của không giới. Do sức của thắng giải về sau khi thành mãn, thì duyên chung nơi bốn uẩn của tự địa làm cảnh. Biến xứ thức xứ, lúc tu tập đầu tiên, chỉ dùng ý thức làm gia hạnh của mình. Vì đầu tiên tất duyên nơi thức làm cảnh. Do sức của thắng giải về sau khi thành mãn, tức cũng duyên nơi bốn uẩn của tự địa làm cảnh. Bốn giải thoát vô sắc, hai biến xứ vô sắc, mỗi mỗi đều nương dựa chung nơi thân của ba cõi để khởi. Nhưng người mới khởi phần nhiều dựa vào địa dưới. Dựa vào tự địa và địa dưới đều chấp nhận khởi sau, chỉ nơi vô sở hữu xứ thì cũng dựa vào địa trên. Tất cả số còn lại đều dựa nơi thân của cõi dục. Chỉ ở tại ba châu trong nẻo người, trừ châu Bắc câu lô. Ngoài ra, do sức của tuệ yếu kém, vì không có Thánh giáo, vì đối trị dục tham, nên hai cõi trên không có.

Có thuyết nói: Đầu tiên khởi, chỉ dựa vào nẻo người, chủ yếu là do sức của giáo pháp đã dẫn khởi. Trong nẻo người có giáo, còn trong nẻo trời thì không có. Nếu như có đắm chấp nơi lạc thì không thể khởi đầu tiên, nên người mới khởi, thoái chuyển sinh lên trời thuộc cõi dục, do sức tu tập của đời trước nên có nghĩa sau khởi.

Lại, do đâu tĩnh lự thứ ba có chung nơi vô lượng mà không có nơi giải thoát?

Không có duyên nơi giải thoát, như trước đã biện đủ. Vì giải thoát không có, nên thắng xứ cũng không có, do giải thoát làm môn nhập nơi thắng xứ. Vì thắng xứ không có, nên biến xứ cũng không có, do thắng xứ làm môn nhập nơi biến xứ.

Lại, định thứ ba tham đắm diệu lạc, vì ở trong sinh tử lạc này là tối thắng. Không thể phát khởi ba thứ như giải thoát v.v…, vì ba thứ này đều muốn dứt bỏ sinh tử. Chung nơi vô lượng v.v… vì tùy thuận với lạc, nên dựa vào định này, cũng có thể tu tập sinh khởi.

Ba môn công đức như giải thoát v.v… này, nếu theo đấy được một, thì được tất cả chăng? Ở đây đều không như thế. Nghĩa ấy là thế nào?

Được sau, tất trước trước là được, không phải tất sau. Nghĩa là được biến xứ, tất được đủ cả ba (Biến xứ, thắng xứ, giải thoát).

Được thắng xứ, tất được giải thoát. Biến xứ thì bất định, hoặc được, hoặc không được. Nếu được giải thoát, thì hai kia là bất định, vì nhập biến xứ thì thắng xứ làm môn, vì giải thoát làm môn để nhập thắng xứ.

Giải thoát này v.v… có sai biệt như thế nào?

Chỉ có thể trừ bỏ, gọi là giải thoát. Gồm phân tích về đối tượng duyên, gọi là thắng xứ. Thêm vô biên giải, thì được mang tên biến xứ, vì ba căn thiện này tu tập dần dần.

Có Sư khác nói: Ba căn thiện do hạ trung thượng nên có sai biệt. Nghĩa là có thể trừ bỏ, vì thắng phục đối tượng duyên, vì hành tướng vô biên có kém hơn.

Có Sư khác cho: Giải thoát chỉ là nhân. Biến xứ chỉ là quả. Thắng xứ thì chung cả hai.

Nay tức nên xét chọn. Trong hai cõi trên, có người nói đã không do đâu để khởi định? Tụng nêu:

Hai cõi do nhân nghiệp

Tức khởi định vô sắc

Cõi sắc khởi tĩnh lự

Cũng do sức pháp nhĩ.

Luận nói: Sinh nơi hai cõi trên, do chung ba duyên, có thể tiến dẫn, sinh định của cõi sắc, vô sắc:

1. Do sức của nhân. Nghĩa là ở gần thời gian trước và thường tu làm nhân khởi.

2. Do sức của nghiệp. Nghĩa là trước từng tạo nghiệp chiêu cảm thuận hậu thọ sinh nơi địa trên. Dị thục của nghiệp ấy sắp khởi hiện tiền, thì do thế mạnh ấy tức có thể khiến tiến khởi định kia. Vì nếu chưa lìa phiền não của địa dưới, tất định không chấp nhận sinh lên địa trên.

3. Sức của pháp như thế. Nghĩa là lúc khí thế giới sắp sửa bị hoại, hữu tình của địa dưới, do pháp như thế, có thể khởi tĩnh lự của địa trên, vì đối với pháp thiện hiện có của phần vị này, do sức của pháp như thế đều tăng thịnh. Các hữu tình sinh ở trong hai cõi trên đã khởi định vô sắc, là do sức của nhân và nghiệp, không phải là sức của pháp như thế. Các xứ trời như Vô vân v.v… không bị ba tai họa hủy hoại. Lúc sinh ở cõi sắc khởi tĩnh lự, do hai duyên trên và sức của pháp như thế. Nếu khi sinh nơi cõi dục, khởi định trên, thì mỗi mỗi nên biết, thêm do sức của giáo pháp. Do sức của giáo pháp, nghĩa là ba châu của nẻo người, vì trời cũng nghe giáo pháp, nhưng ít nên không nói.

Trước nay phân biệt về các pháp môn thù thắng, đều nhằm hành trì rộng chánh pháp của Đức Thế Tôn.

Thế nào là chánh pháp sẽ trụ trong bao nhiêu thời gian? Tụng nêu:

Chánh pháp Phật có hai

Là giáo chứng làm thể

Có người giữ nói hành

Đây là trụ thế gian.

Luận nói: Thể nơi chánh pháp của Đức Thế Tôn có hai thứ: (1) Giáo. (2) Chứng.

Giáo, nghĩa là Khế kinh, Điều phục, Đối pháp (Kinh, Luật, Luận). Chứng, nghĩa là các đạo vô lậu của ba thừa. Nếu chánh pháp của phần chứng trụ ở thế gian, thì giáo pháp đã hành trì rộng này cũng trụ, về lý tất nên như thế. Hiện nhận thấy phương Đông, chứng pháp suy kém, giáo nhiều ẩn mất. Phương Bắc thì chứng pháp cũng tăng thịnh. Chánh giáo của Đức Thế Tôn lưu truyền khắp hãy còn nhiều. Do đấy, cảnh trí vô thượng của Đức Như Lai là ngôi nhà của chúng Thánh đang cư ngụ. Các thứ nghĩa thật không điên đảo của A-tỳ-đạt-ma thì ở nơi nước này thịnh hành, không phải phương Đông v.v… đã có thể truyền tập.

Trong hai phương đó giáo pháp phần nhiều được nương dựa. Người hành trì, người thuyết giảng được trụ nơi thế gian. Chánh pháp của phần chứng được trụ, chỉ dựa vào người thực hành, nhưng không phải người thực hành chỉ nương dựa nơi pháp chứng mà giáo pháp, cũng nên nương dựa ở người thực hành. Nên cho là có người tu hành pháp không điên đảo, có khả năng khiến chứng pháp được trụ lâu nơi thế gian. Vì khi chứng pháp trụ thì giáo pháp cũng trụ. Nên giáo pháp được trụ là do vâng giữ, thuyết giảng thực hành. Chỉ do người thực hành khiến cho chứng pháp trụ. Vì vậy chánh pháp của Đức Phật tùy theo ba loại người này, trụ nơi từng ấy thời gian, tức là trụ ở thế gian.

A-tỳ-đạt-ma là đối tượng nương dựa của Luận này. Luận này gồm thâu nghĩa cốt yếu chân thật trong A-tỳ-đạt-ma kia. Trong Luận kia về nghĩa được giải thích có nhiều đường. Nay, nơi Luận này dựa vào lý nào để giải thích? Tụng nêu:

Ca-thấp-di-la luận lý thành

Tôi dựa nhiều kia giải Đối pháp

Có ít lượng giảm vì lỗi tôi

Phán pháp chánh lý ở Mâu Ni.

Luận nói: Sư Tỳ-bà-sa của nước Ca-thấp-di-la đã nghị luận, cho A-tỳ-đạt-ma về lý là khéo thành lập. Tôi phần nhiều dựa vào lý ấy để giải thích về Tông chỉ của Đối pháp.

Kinh chủ trong đây thuật lại bản ý của mình nói là các đệ tử của Đức Thiện Thệ đã dựa nơi đất nước này bàn luận về lý của Đối pháp, theo Đại Tỳ-bà-sa, phát khởi chánh cần, quán xét như lý, vì khiến chánh pháp trụ lâu ở thế gian, vì tạo lợi ích cho hữu tình, nên tạo ra Luận này.

Dùng nhiều ngôn thuyết để hiển bày chỉ rõ, ít có đường khác. Nghĩa là hình tượng cảnh sắc nơi đời quá khứ, vị lai là như nhau. Nhưng tánh của các pháp thì rộng lớn sâu xa, người nêu bày như thật rất là khó gặp. Tự xét về tuệ giác thật là yếu kém, người nêu bày không thể siêng cầu đạt được như thật, nên ở trong lý của luận được quảng diễn đã lập có một ít bị chê trách là lỗi của tôi. Chánh lý của các pháp thì rộng lớn thâm diệu. Chủ yếu là từ xa xưa đã từng ở nơi trụ xứ của vô lượng Phật, gần gũi tu tập tư lương của chân trí, mới đối với tất cả cảnh trí không có mê lầm.

Độc giác Lân dụ hãy còn ở nơi pháp tướng không thể phán quyết, huống chi là các Thanh văn, pháp được chứng đắc là tùy theo sự giáo hóa của người khác. Do đấy, phán quyết về chánh lý của các pháp chỉ ở nơi Đức Đại Mâu Ni Tôn chân thật.

Thế nên nhất định nhận biết A-tỳ-đạt-ma thật sự là do Đức Phật thuyết giảng, phải nên tùy thuận tín thọ, tu hành thuận hợp, siêng năng cầu giải thoát.

HẾT – QUYỂN 80