LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 74

Phẩm thứ 7: BIỆN VỀ TRÍ, phần 2

Đã nói về hành tướng có mười sáu thứ. Vì chỉ danh riêng hay là thật cũng có khác. Thế nào là chủ thể hành, đối tượng hành của hành tướng? Tụng nêu:

Hành tướng thật mười sáu

Thể này chỉ là tuệ

Chủ hành, đối tượng duyên

Đối tượng hành, pháp có.

Luận nói: Có thuyết cho: Hành tướng tên gọi tuy mười sáu, nhưng thật sự chỉ có bảy. Duyên nơi cảnh của khổ đế, vì đối trị bốn đảo, nên danh và thật đều cùng có bốn. Duyên nơi cảnh của ba đế kia, danh bốn, thật chỉ có một. Nên nói như thế này: Thật cũng có mười sáu, vì đối tượng đối trị nơi đối tượng của hành tướng có riêng khác. Nói tướng của đối tượng đối trị có riêng khác: Nghĩa là vì đối trị thường kiến, nên tu hành tướng Vô thường. Vì đối trị các hành lạc, nên tu hành tướng Khổ. Vì đối trị ngã sở kiến, nên tu hành tướng Không. Vì đối trị ngã kiến, nên tu hành tướng Vô ngã. Vì đối trị luận cho là không nhân, nên tu hành tướng Nhân. Vì đối trị luận cho có một nhân như Tự tại v.v…, nên tu hành tướng Tập. Vì đối trị luận cho là có nhân thường, nhân chuyển biến, nên tu hành tướng Sinh. Vì đối trị luận cho tri là khả năng sinh trước, nên tu hành tướng Duyên. Vì đối trị luận quy kết Tự tại làm Niết-bàn, hiển bày các uẩn diệt vĩnh viễn là Niết-bàn, nên tu hành tướng Diệt. Vì đối trị chấp giải thoát hiện có của tự thể là Hoặc, khổ tạp nhiễm, vì không chánh kiến, nên tu hành tướng Tĩnh. Vì đối trị chấp Niết-bàn như bị chú thuật bèn dẫn đến diệt hết vì là luận tệ hoại, nên tu hành tướng Diệu. Vì đối trị chấp giải thoát, trở lại thoái chuyển kiến, nên tu hành tướng Ly. Vì đối trị chấp không có đạo giải thoát, nên tu hành tướng Đạo. Vì đối trị khổ hạnh cho là kiến chân đạo và hủy báng chân đạo cho là tà luận, nên tu hành tướng Như. Vì đối trị không tu đạo, sinh tử tự tịnh và thế gian lìa nhiễm là chân đạo, nên tu hành tướng Hành. Vì đối trị từng gặp phải đạo không vĩnh viễn lìa nhiễm, đã lừa dối, mê hoặc, đối với chân Thánh đạo cũng không tôn kính, nên tu hành tướng Xuất.

Nói tướng của cảnh nơi đối tượng hành có riêng khác. Nghĩa là khổ Thánh đế có bốn tướng: (1) Vô thường. (2) Khổ. (3) Không. (4) Vô ngã.

Vì có sinh diệt nên là vô thường. Vì tánh bức bách khiến trái với Thánh tâm nên là khổ. Vì không có chủ tể nên là không. Vì trái với tướng ngã nên là vô ngã.

Tập Thánh đế có bốn tướng: (1) Nhân. (2) Tập. (3) Sinh. (4) Duyên.

Vì khả năng sinh khởi pháp nên là nhân. Vì có nhiều thứ nên là tập. Vì luôn sinh sản nhiều nên là sinh. Vì đều hỗ trợ riêng nên là duyên. Diệt Thánh đế có bốn tướng: (1) Diệt. (2) Tĩnh. (3) Diệu. (4) Ly.

Vì dứt trừ các khổ nên là diệt. Vì ba thứ lửa của ba tướng hữu vi đã diệt nên là tĩnh.

Có Sư khác nói: Vì các thứ khổ dứt nên là tĩnh. Như nói: Bísô! Các hành đều là khổ, chỉ có Niết-bàn là tĩnh lặng tối thượng. Vì thiện, vì thường, nên là diệu. Vì vĩnh viễn giáo hóa khỏi tất cả tai họa, vì rất an ổn, nên là ly (lìa).

Đạo Thánh đế có bốn tướng: (1) Đạo. (2) Như. (3) Hành. (4) Xuất.

Vì có khả năng thông hợp, tìm cầu tánh tướng của các pháp đi đến giải thoát, nên là đạo. Vì chuyển biến không có điên đảo, nên là như. Vì hướng tới như thật, nên là hành.

Có Sư khác cho: Vì quyết định có thể hướng tới, nên là hành. Như nói: Đạo này có thể dẫn đến thanh tịnh, kiến khác, tất không có lý dẫn đến thanh tịnh. Vì hoàn toàn hướng tới, vì quyết định có thể đi đến, nên là xuất.

Như thế, đối tượng đối trị và cảnh của đối tượng hành, vì tướng có riêng khác, nên thật có mười sáu.

Hành tướng như thế dùng tuệ làm thể.

Há không phải là tâm tâm sở đều được gọi là có hành tướng? Như vậy không có tuệ cùng với tuệ tương ưng, vì sao có thể nói tuệ có hành tướng không phải có hành tướng?

Chỉ tuệ tương ưng với tâm v.v… đều gọi là có hành tướng. Là tâm tâm sở v.v… ở trong tướng phẩm loại của đối tượng duyên là có thể nhận lấy nghĩa. Nếu chỉ dựa nơi tuệ mà được danh xưng hành tướng thì tâm tâm sở pháp khác của tuệ cùng với hành tướng đều gọi là có hành tướng. Như vì đều là lậu, nên được mang tên hữu lậu, là nghĩa cùng với thể của lậu đồng đối trị.

Như thế tâm tâm sở pháp khác đều cùng với hành tướng hành nơi đối tượng duyên, là đều cùng thời hành, không có nghĩa trước sau. Hoặc tâm tâm sở có hành tướng, là có nhiều như dĩ tri căn, gọi chung là có hành tướng. Hoặc dựa vào vô gián, cũng nói tiếng có, như có đối tượng nương dựa, nên không có lỗi. Nghĩa là như tâm tâm sở đều gọi có đối tượng nương dựa. Ý thức tương ưng với các tâm sở pháp cùng với thức của đối tượng nương dựa, cũng đều cùng thời sinh đối tượng nương dựa của thức. Chỉ vô gián diệt có hành tướng, về lý nên cũng biết như thế. Tuệ của vô gián diệt đối với hiện tại đâu có khả năng. Tuệ này ở nơi hiện tại có khả năng như ý của vô gián diệt.

Nếu như vậy tức nên đắc như thọ v.v… có danh xưng của thọ v.v… thừa nhận cũng không có trái, nhưng không phải là đối tượng biện minh.

Trong đây, Kinh chủ đã nương dựa vào tông của người khác, nói như thế này: Các tâm tâm sở nhận lấy loại cảnh riêng, đều gọi là hành tướng. Về lý chưa hẳn là như thế. Nên phải tư duy: Những gì gọi là tâm tâm sở nhận lấy loại cảnh riêng? Nếu cho tướng của cảnh, về phẩm loại có sai biệt, thì tất cả khả năng hiện bày hình tượng, về lý tất là không thành, vì cảnh luôn có các tướng sai biệt như thiện, thường v.v… Hoặc các sắc pháp cũng là hành tướng, gồm thâu sắc pháp cũng có khả năng hiện bày hình tượng nơi tướng khác.

Nếu cho khả năng nhận lấy tướng sai biệt của cảnh, tức nên hành tướng của năm thức không thành, vì không thể nhận lấy tướng sai biệt của cảnh, mà phải có thức phân biệt mới có thể nhận lấy tướng sai biệt như xanh, không phải vàng v.v… của cảnh. Tuy nhiên, vì không phải là đối tượng thừa nhận, nên về lý là không thành. Do đấy, tông của tôi đã giải thích là tốt. Nghĩa là chỉ các tuệ ở trong tướng của cảnh đã phân biệt lựa chọn mà chuyển biến gọi là hành tướng. Tuệ và các tâm tâm sở pháp khác, vì có cùng đối tượng duyên, nên đều là chủ thể hành. Tên gọi của chủ thể hành này chỉ là nói về thể nơi hành tướng của tuệ. Tâm tâm sở khác đã không phải là hành tướng, thì đâu thể nói là chủ thể hành?

Nếu cho pháp còn lại gọi là chủ thể hành, vì cùng với hành tướng tương ưng khởi, tức là tuệ v.v… cùng với thọ tương ưng, tức nên gọi chủ thể thọ.

Tuy có những ngôn ngữ biện luận ấy, nhưng lý thì không đúng. Nghĩa là môn khác của tuệ, xưng là hành tướng. Chủ thể hành, tức là tên riêng của nhận lấy cảnh, không phải câu nói chủ thể hành là riêng, giảng giải về tuệ.

Đâu thể cho Thể của thọ v.v… không phải là hành tướng, liền nêu ra vấn nạn này, tức nên không phải là chủ thể hành. Như ở trong cảnh tuệ có khả năng phân biệt lựa chọn, liền thừa nhận nói tuệ gọi là chủ thể hành.

Đã ở trong cảnh, tưởng có thể nhận lấy hình tượng, thức có thể nhận biết rõ v.v…, đâu thể cho không phải chủ thể hành? Nên tên gọi chủ thể hành, là nói chung về việc nhận lấy cảnh, tức nên thọ v.v… cũng là chủ thể hành. Danh xưng đối tượng hành, là chung cho tất cả pháp có, hoặc thật, hoặc giả, đều là đối tượng hành.

Do thể của ba môn này có rộng hẹp, tuệ thì chung nơi hành tướng, là chủ thể hành, đối tượng hành. Tâm tâm sở còn lại chỉ là chủ thể hành, đối tượng hành. Các pháp có khác thì chỉ là đối tượng hành.

Tụng nói Các hữu, tức nên tùy theo đấy trừ một, tùy theo đấy nói nghĩa của một thứ đã thành.

Như Đức Thế Tôn nói: Tất cả pháp, nghĩa là mười hai xứ. Chỉ xứ này là có. Nên nói các pháp là nói về đối tượng hành.

Đã nói về đối tượng hành chỉ là pháp có, hoặc nói về pháp có là nói về đối tượng hành.

Đã nói đối tượng hành là tất cả pháp. Các pháp giả có không lìa đối tượng nương dựa, cũng tùy nơi đối tượng nương dựa, vì thuộc về các xứ, vì thâu tóm có tận, đều cùng nêu bày không có lỗi.

Đã biện về hành tướng có sai biệt của mười trí. Sẽ biện về tánh gồm thâu nương dựa người khác, nương dựa nơi thân. Tụng nêu:

Tánh tục ba, chín thiện

Dựa địa tục, tất cả

Tha tâm trí chỉ bốn

Pháp sáu, n bảy, chín

Thân chỗ dựa hiện khởi

Tâm khác, dựa dục sắc

Pháp trí chỉ dựa dục

Tám khác chung cõi.

Luận nói: Mười trí như thế, ba tánh gồm thâu. Nghĩa là thế tục trí là chung nơi ba tánh. Chín trí còn lại chỉ là thiện. Dựa nơi địa có riêng khác. Nghĩa là thế tục trí dựa chung nơi cõi dục, cho đến xứ Hữu đảnh. Tha tâm trí chỉ dựa vào bốn tĩnh lự căn bản, không dựa nơi tĩnh lự cận phần, trung gian. Vì đối tượng duyên của trí này là rất vi tế. Nghĩa là dựa vào sức yếu kém của đạo nơi địa của tĩnh lự kia. Không thể thấu đạt tâm tâm sở pháp vi tế của hiện tại trong phần cùng nối tiếp của người khác. Cũng không nương dựa nơi vô sắc, vì không có gia hạnh. Lại, vì chung nơi các tánh, nên địa khác thì không nương dựa. Năm địa là đối tượng nương dựa chung cho chỉ quán. Pháp trí dùng chung sáu địa làm chỗ dựa. Nghĩa là vị chí, trung gian và bốn tĩnh lự căn bản, không dựa nơi cận phần khác, vì địa ấy chỉ là hữu lậu. Cũng không dựa vào vô sắc, vì trí này duyên nơi cõi dục. Bảy trí còn lại thì dùng chín địa làm chỗ dựa. Nghĩa là ba vô sắc dưới và sáu địa đã nói ở trước. Nói chung là như thế, nhưng có sai biệt. Nghĩa là trong bảy thứ trí đã nói ở đây, thì loại trí quyết định dựa nơi chín địa khởi. Khổ, tập, diệt, đạo, tận, vô sinh trí, nếu pháp trí gồm thâu thì dùng sáu địa làm chỗ nương dựa. Nếu thuộc về loại trí thì dựa chung nơi chín địa. Nương dựa nơi thân có riêng khác. Nghĩa là tha tâm trí dựa nơi cõi dục, cõi sắc đều có thể hiện tiền. Không dựa vào vô sắc, vì cõi kia tự không có thân, không khởi tha tâm trí của địa dưới. Trí này tùy chuyển nơi sắc, vì cõi kia không cùng khởi. Pháp trí chỉ dựa vào thân cõi dục khởi, không phải là hai cõi trên. Nhập xuất trí này, các tâm hữu lậu chỉ ở nơi cõi dục có. Lại pháp trí tùy chuyển nơi sắc, các đại chủng của đối tượng nương dựa chỉ hệ thuộc cõi dục.

Lại, trí này có thể đối trị kẻ khởi Hoặc (phiền não) phá giới, vì phá giới chỉ ở nơi cõi dục, không phải cõi trên. Tám trí còn lại hiện khởi, dựa chung nơi thân của ba cõi.

Đã biện về tánh địa thân. Sẽ biện về niệm trụ gồm thâu. Tụng nêu:

Các trí thuộc niệm trụ

Diệt trí chỉ sau cùng

Tha tâm trí ba sau

Tám trí còn chung bốn.

Luận nói: Diệt trí gồm thâu ở trong pháp niệm trụ. Tha tâm trí gồm thâu trong ba thứ sau (thân thọ tâm). Tám trí còn lại đều chung nơi bốn niệm trụ (Thân thọ tâm pháp).

Mười trí như thế lần lượt đối chiếu nhau, mỗi mỗi trí nên nói là dùng bao nhiêu trí làm cảnh? Tụng nêu:

Các trí hỗ tương duyên

Pháp, loại, đạo đều chín

Khổ, tập trí đều hai

Bốn đều mười, diệt phi.

Luận nói: Pháp trí có thể duyên nơi chín trí làm cảnh, trừ loại trí. Loại trí có thể duyên nơi chín trí làm cảnh, trừ pháp trí. Đạo trí có thể duyên nơi chín trí làm cảnh, trừ thế tục trí, vì không phải thuộc về đạo. Hai trí khổ, tập, mỗi mỗi có thể duyên nơi hai trí làm cảnh, nghĩa là thế tục, tha tâm. Thế tục, tha tâm, tận, vô sinh trí đều duyên nơi mười trí. Diệt trí không duyên, chỉ dùng trạch diệt làm đối tượng duyên.

Đối tượng duyên của mười trí gồm có bao nhiêu pháp? Trí nào có bao nhiêu pháp làm cảnh nơi đối tượng duyên? Tụng nêu:

Đối tượng duyên gồm mười

Tức ba cõi vô lậu

Vô vi đều có hai

Tục duyên mười, pháp năm

Loại bảy, khổ, tập sáu

Diệt duyên một, đạo hai

Tha tâm trí duyên ba

Tận vô sinh đều chín.

Luận nói: Đối tượng duyên của mười trí gồm chung có mười pháp. Nghĩa là pháp hữu vi được phân làm tám thứ. Hữu vi vô lậu thuộc về ba cõi, đều có tương ưng, không tương ưng. Vô vi được phân làm hai thứ: Vì thiện, vô ký riêng.

Thế tục trí duyên chung nơi mười pháp làm cảnh. Pháp trí duyên nơi năm, nghĩa là cõi dục hai, đạo vô lậu hai và thiện vô vi. Loại trí duyên nơi bảy, nghĩa là đạo vô lậu nơi cõi sắc, vô sắc là sáu và thiện vô vi.

Khổ, tập trí đều duyên nơi hệ thuộc ba cõi là sáu. Diệt trí duyên nơi một, nghĩa là thiện vô vi. Đạo trí duyên nơi hai, nghĩa là đạo vô lậu.

Tha tâm trí duyên nơi ba, là pháp tương ưng của cõi dục, sắc và vô lậu. Tận, vô sinh trí duyên nơi tám hữu vi và vô vi thiện.

Từng có một niệm, trí duyên nơi tất cả pháp không?

Không như vậy.

Há không phải là trí quán về vô ngã, nhận biết tất cả pháp đều là vô ngã chăng?

Trí này cũng không thể duyên nơi tất cả pháp. Pháp nào không duyên, thể của pháp này là gì? Tụng nêu:

Thế tục trí trừ tự phẩm

Duyên chung tất cả pháp

Vì hành tướng vô ngã

Chỉ văn, tư tạo thành.

Luận nói: Dùng thế tục trí quán tất cả pháp, vì lúc vô ngã, cũng trừ tự phẩm. Tự phẩm nghĩa là tự thể tương ưng với pháp câu hữu.

Vì sao không duyên nơi tự thể làm cảnh?

Các người Đối pháp lập ra nhân này nói: Các pháp tất không có chờ đợi tự thể.

Lời nói này ý hiển bày khi các pháp sinh, tùy vào đối tượng ứng hợp của chúng, chờ đợi tánh của bốn duyên, tùy theo đấy có duyên nào thiếu, pháp tức không sinh, không thiếu, liền sinh lập làm tánh duyên. Khi các pháp không có thiếu tự thể, nên hoàn toàn không thiếu nghĩa không sinh.

Đâu thể có thể kiến lập làm duyên chờ đợi?

Nếu cho thể của chúng nên như hư không v.v…, do không có chướng ngại, có thể lập riêng duyên, về lý cũng không đúng, vì hư không v.v… đối chiếu với pháp được sinh, thì tha tánh là pháp cực thành, vì là duyên của người khác, về lý là cực thành.

Lại, do hiện dụ làm rõ các trí sinh, tất không thể duyên nơi tự thể làm cảnh. Nghĩa là thấy dao nhọn, đầu ngón tay và vai. Như thứ lớp, không thể tự cắt, xúc chạm, gánh vác. Lại, tà kiến, tha tâm trí và niệm trụ, khổ trí v.v…., đều có lỗi kiến lập không thành.

Nếu cho như đèn, mình người khác đều cùng soi chiếu, trí nên như vậy.

Về lý cũng không đúng, vì thể soi chiếu của đèn là không thành thật. Nghĩa là tụ hiển sắc có sai biệt, gọi là đèn. Nhân sinh của nhãn thức gọi là soi chiếu. Vì trái với bóng tối, nên nói là chủ thể hủy hoại. Nhân của chướng ngại như bình v.v…, do có các thứ này nên bình v.v… có thể hiểu rõ, gọi là soi chiếu bình v.v… Trừ phần giả nêu, ngoài ra không thật có sự soi chiếu nào có thể soi chiếu tự thể. Cũng như muối v.v… chỉ là tự thể của nó đã chuyển biến như thế.

Lại, nếu thừa nhận đèn là chủ thể soi chiếu, tức thừa nhận tự soi chiếu, cũng có thể soi chiếu người khác. Như thế tức nên thừa nhận bóng tối là chướng ngại. Sức có thể tự làm chướng ngại, cũng có thể làm chướng ngại người khác. Vì lửa có thể thiêu đốt, nên tự thiêu đốt và thiêu đốt người khác. Lửa kia đã không như thế, thì đèn vì sao như thế?

Nếu cho sức của đèn phá trừ chướng ngại nơi bình, đèn, và hiểu rõ hai thứ bình, đèn nhận biết bóng tối, nên cùng gọi là soi chiếu, thì lý cũng không đúng. Vì bóng tối cùng với bình, đèn là có hợp, không hợp. Nghĩa là bóng tối và bình hợp, có thể nói là chướng ngại bình. Nay tuy có bình, nhưng nhận biết không khởi. Do đấy nói bóng tối có thể làm chướng ngại sự nhận biết về bình. Đèn sinh, bóng tối diệt, bình hiển bày nhận biết về bình sinh. Nên thế gian nói đèn có tác dụng soi chiếu bình. Từng không có khi nào bóng tối cùng với đèn hợp. Chớ cho vì không trái nhau thì không có lỗi cùng đối trị. Nên không thể nói bóng tối có thể làm chướng ngại đèn. Đã không có đèn thì không thể sinh nhận biết về đèn, cũng không thể nói bóng tối làm chướng ngại sự nhận biết ấy. Nên khi đèn sinh, tuy khiến bóng tối diệt, nhưng không thể nói là bị soi chiếu như bình.

Lại có nhân nào chấp tác dụng của trí nhận biết, chỉ như đèn soi chiếu, không phải là dao cắt v.v…?

Nghĩa là nhận thấy lý do nào chấp trí cùng với đèn. Pháp dụ ngầm hợp như thế, vì không phải cùng so với dao v.v…, nên dẫn đèn để dụ, làm chứng cho sức vi tế.

Có Sư nói thế này: Trí đối với tự thể, không nhận biết về tự tướng cộng tướng. Lý có thể nhận biết, cũng không đúng.

Đã biện về tự thể không dùng tự thể làm đối tượng duyên, nên đối với tự tướng của chính mình đã vĩnh viễn không thể nhận lấy, thì nhất định không có dùng tự mình làm đối tượng duyên.

Đã không phải là đối tượng duyên thì đâu thể nhận lấy cộng tướng?

Nên ở đây lập lời nói tỷ lượng. Tự tướng cũng nên làm cảnh của tự thể, vì là tướng của tự thể, cũng như cộng tướng. Hoặc nên cộng tướng không phải là cảnh tự thể, vì là tướng của tự thể nên cũng như tự tướng.

Thế nên duyên nơi cộng tướng lý cũng không thành. Lại, trí hiện tiền, nếu duyên nơi tự thể tức nên thừa nhận tự thể, cũng là đối tượng nương dựa. Nếu thừa nhận tự duyên và tự nương dựa, thì tự thể có khả năng tự kiến lập. Vì tự kiến lập nên thừa nhận là thường. Vì là thường nên không có nghĩa có thể duyên nơi người khác. Lại, đối tượng nhận biết của trí tức nên không có riêng khác, tất không có trí có thể duyên nơi tự thể.

Nếu cho tự tướng, cộng tướng như thứ lớp là chủ thể duyên, đối tượng duyên, thì lý cũng không đúng, vì trước đã nói. Nghĩa là trước đã nêu rõ: Đã không tự duyên nơi tự tướng làm cảnh, vì là tướng của tự thể, thì cũng không nên duyên nơi cộng tướng làm cảnh. Tức do lý này, nên không duyên với tương ưng, vì cùng với tương ưng là theo một cảnh chuyển. Nên thừa nhận duyên với tương ưng, là nên thừa nhận tự duyên, cũng không thể duyên nơi pháp câu hữu, do pháp câu hữu là rất gần nhau, như mắt không thấy sắc trợ giúp nhãn căn.

Khế kinh cũng nói: Trí của một sát-na, không thể nhận biết tức khắc về cảnh của tất cả pháp. Như Khế kinh nêu rõ: Không có Samôn, Bà-la-môn v.v… nào ở nơi tất cả pháp thấy biết ngay tức khắc. Nghĩa căn cứ theo đây chỉ rõ dần về trí này, chỉ là thuộc về cõi dục, sắc. Trong cõi vô sắc tuy có loại này, nhưng duyên nơi một ít pháp, không phải là đã làm rõ về nghĩa này.

Tuệ này là do chung nơi văn, tư, tu tạo thành, đều có thể trừ tự phẩm duyên nơi tất cả pháp. Nhưng Kinh chủ nói: Không phải do tu tạo thành, vì địa do tu tạo thành thì duyên riêng. Nếu khác với đây, tức nên tức khắc lìa nhiễm. Điều này là không hợp lý.

Nói địa do tu tạo thành là chỉ duyên riêng, là không phải cực thành. Nghĩa là tông của tôi đã thừa nhận tuệ do tu tạo thành là thuộc về địa của tĩnh lự, có khả năng duyên chung, tùy theo thân của đối tượng nương dựa, từ nơi cảnh của địa trên, nên chán dưới, ưa trên mới có thể lìa nhiễm.

Ở đây đã duyên chung, nên chỉ ưa thích về hành tướng, tức đối với việc lìa nhiễm không có công năng. Do đó, điều đã nói của Kinh chủ kia thật là phi lý.

Đã biện về đối tượng duyên. Lại nên xét chọn: Người nào thành tựu bao nhiêu trí? Tụng nêu:

Phàm phu, Thánh kiến đạo

Định niệm đầu thành một

Hai định thành ba trí

Bốn sau mỗi mỗi tăng

Tu đạo, định thành bảy

Lìa dục, thêm tha tâm

Vô học căn độn lợi

Định thành chín thành mười.

Luận nói: Phần vị của các phàm phu và Thánh kiến đạo nơi sát-na thứ nhất nhất định thành tựu một trí, nghĩa là thế tục trí. Sátna thứ hai nhất định thành tựu ba trí, nghĩa là thêm pháp trí, khổ trí. Sát-na thứ tư, thứ sáu, thứ mười, thứ mười bốn, như thứ tự càng về sau thì thêm loại trí, tập, diệt, đạo trí. Các phần vị chưa tăng thêm thì thành tựu số như trước. Nên trong phần vị tu, cũng nhất định thành tựu bảy.

Các phần vị như thế, nếu đã lìa dục, thì mỗi mỗi vị đều tăng một. Nghĩa là tha tâm trí, chỉ trừ phàm phu sinh nơi cõi vô sắc. Tuy nhiên, phần vị phàm phu và trong kiến đạo, chỉ có thể thành tựu thế tục trí, tha tâm trí. Thời gian đạo loại trí hiện tiền thì thành tựu đủ hai thứ. Bấy giờ, đầu tiên vì đắc quả Bất hoàn, gồm đạt được vô lậu để thành thể của quả. Trong phần vị tu khác đều thành tựu đủ hai.

Người sinh nơi cõi vô sắc, tức là xả bỏ thế tục. Các thời giải thoát nhất định thành tựu chín trí, nghĩa là thêm tận trí. Bất thời giải thoất nhất định thành tựu mười, nghĩa là thêm vô sinh trí.

Ở trong phần vị nào tu tức khắc bao nhiêu trí? Lại nên xét chọn: Thế nào gọi là tu? Nghĩa là hành tập thiện hữu vi, khiến được viên mãn, tự tại. Không phải là nhiễm, vô ký, vì không có quả ái thù thắng. Không phải là thiện vô vi, vì không ở nơi phần cùng nối tiếp.

Lại vô vi thì không có quả.

Đã biện về nghĩa của tu. Trước đã hỏi, nên đáp : Là ở trong mười lăm tâm của kiến đạo, Tụng nêu:

Kiến đạo, nhẫn trí khởi

Tức tu vị lai kia

Ba loại trí gồm tu

Tục trí hiện quán biên

Không sinh từ địa dưới

Sau khổ, tập bốn diệt

Cảnh hành tướng tự đế

Chỉ gia hạnh đạt được.

Luận nói: Trong quả vị kiến đạo, tùy thuận khởi nhẫn trí, đều tức loại nhẫn trí kia, tu ở vị lai, nhưng tu đủ niệm trụ nơi các hành tướng của tự đế.

Do đâu nơi kiến đạo chỉ tu đồng loại? Vì đối tượng tạo tác, đối tượng duyên đều cùng có nhất định riêng khác.

Có thuyết nói: Chủng tánh này trước vì chưa từng được, nên chỉ vào thời ba loại trí khổ, tập, diệt hiện tiền mới có thể gồm tu vị lai. Thế tục trí hiện quán biên, ở nơi mỗi mỗi đế, quán về biên sau mới có thể gồm tu, nên lập danh hiệu này. Do đấy nơi phần vị khác chưa thể gồm tu, vì đối tượng hành tác của tự đế chưa viên mãn.

Có thuyết cho: Nếu ở nơi phần vị pháp trí này mà tu, tức nên gọi là thế tục trí trong hiện quán. Kinh không nên lập danh xưng hiện quán biên.

Nơi ba phần vị đã tu, vị nào là hơn, vị nào là kém?

Nếu căn cứ ở nơi phần cùng nối tiếp thì sau là hơn so với trước, vì nhân tăng trưởng, thân khởi đạt được pháp kia. Nếu căn cứ nơi cõi để nói thì địa trên đều hơn địa dưới, nên người trước đã tu pháp hệ thuộc cõi sắc thì cõi là hơn, thân kém. Vị sau đã tu pháp hệ thuộc cõi dục, thì cõi kém, thân hơn. Vấn đề này có bốn trường hợp nên tư duy như lý.

Thời điểm đạo loại trí hiện tiền vì sao không tu trí này?

Vì trí này chỉ là quyến thuộc của kiến đạo, còn hành giả kia là thuộc về tu đạo, nên không thể tu. Ý ở đây nói là tu, tức bảy xứ thiện làm chủng tử, vì kiến đạo được sinh, nên khi kiến đạo sinh, thì nói trí kia là quyến thuộc. Hoặc thế tục trí từ vô thủy đến nay, ở trong ba đế, từng nhận biết đoạn chứng, vì chưa từng tu đạo nên hiện nay không tu. Hoặc do thời nay, vì thấy biết đạo chân, đạo tà thì xấu hổ lìa tránh, nên không phải là đối tượng tu. Hoặc khi hiện quán biên mới tu trí này, vì đạo vô biên, nên nơi vị này không tu. Nghĩa là trong ba đế, dựa nơi sự để hiện quán, chấp nhận một hành tức đạt được chung biên kia, tất không có người có thể tu khắp đạo, vì đạo của căn tánh khác là không thể tu. Đối với căn tánh của mình, tuy chấp nhận được tu, nhưng trong trăm ngàn phần không khởi được một. Tuy ở nơi quả vị kiến đạo, chưa đoạn trừ khắp tập, chưa chứng đắc khắp diệt, nhưng ở nơi vị đang có thì đoạn tập, chứng diệt, sự việc đó là đã chu toàn.

Thời gian của đạo loại trí thì mê lầm nơi đạo đế, các đạo đối trị cũng không tu khắp, vì căn của chủng tánh có nhiều phẩm.

Do đấy, đối với ba đế, Đức Thế Tôn đã nói tiếng biên. Như trong Khế kinh nêu: Có biên thân khổ, có biên thân tập, có biên thân diệt. Từng không có kinh nào nói là có biên thân đạo. Vì không có khả năng tu đạo nơi biên vực tận cùng.

Thế tục trí này là pháp không sinh, vì ở nơi tất cả thời đều không cùng khởi. Ở đây khởi dựa vào thân thì nhất định không sinh. Nghĩa là thân của vị tùy tín hành, tùy pháp hành, cùng có làm chỗ nương dựa dẫn trí này khởi. Ở nơi quả vị kiến đạo, vì trí ấy không cùng sinh, nên trí ấy dựa vào thân trụ nơi pháp không sinh. Vì dựa vào không sinh, nên trí ấy tất không sinh.

Nếu như vậy thì dựa vào gì để nói là có nghĩa tu?

Vì dựa vào tu đắc. Nghĩa là vào thời bấy giờ khởi đắc tự tại, vì duyên còn lại bị chướng ngại, nên thể không hiện tiền. Tức do nhân này, nên gọi là đắc.

Do chứng pháp kia nên đắc khởi tự tại. Do có các pháp đắc, tức hiện tiền. Như tận trí v.v…

Hoặc có các pháp trước đắc, sau hiện tiền. Như trí vô sinh v.v…

Hoặc có các pháp đắc, vĩnh viễn không hiện tiền. Như trí này v.v…

Hoặc có các pháp không đắc mà hiện tiền, như sắc bên ngoài v.v… Không có pháp của số hữu tình, không đắc mà hiện tiền, nên tuy không sinh mà vẫn có nghĩa tu.

Trong đây, Kinh chủ đã nêu cật vấn như thế này: Đã không thể dấy khởi nghĩa của đắc thì dựa vào gì để biện về tu?

Về lý là không thành lập. Như Sư xưa đã nói về nghĩa của tu là có thể thành.

Chư vị ấy nói như thế nào?

Do diệu lực của Thánh đạo, tu thế tục trí nơi sau khi xuất quán, tức có thắng duyên nơi đế, thế tục trí hiện tiền. Vì đắc đế này khởi nương dựa, nên gọi là đắc trí này. Như được mỏ vàng, gọi là được vàng.

Ở đây chỉ có ngôn thuyết như đã cật vấn v.v…, vì sao trí này không hiện tiền?

Nói đắc khởi nương dựa, nói gọi là đắc, không phải đắc trí này nương dựa, nên có thể gọi là trí này hiện tiền. Chớ cho đối tượng nương dựa của đắc này, tức là thể của đắc ấy.

Nếu cho ở nơi phần vị sau, vì thấy rõ không thấy rõ về công năng nên có sai biệt, thì cũng không hợp lý. Vì đã thừa nhận khởi, vì nương dựa để trụ không lâu. Không phải dấy khởi nương dựa rồi bỏ, khi có trí này hiện tiền. Nên xả bỏ dấy khởi nương dựa, tất không hiện khởi, về sau vì sao thấy biết có thể dấy khởi công năng? Các hữu tình khởi nương dựa, tất có thể hiện khởi. Ở nơi phần vị có khởi nương dựa đâu thể không hiện tiền. Đã không hiện tiền thì dấy khởi nương dựa đâu thể có.

Thuyết kia nói là đã không thể khởi nghĩa của đắc, thì dựa vào gì để nêu cật vấn phi lý, tự thừa nhận không khởi cũng gọi là đắc?

Tùy theo dựa vào địa nào, khi kiến đạo hiện tiền có thể tu vị lai nơi địa mình, địa dưới?

Nghĩa là thế tục trí này lấy bảy địa làm chỗ dựa, tức vị chí, trung gian, bốn tĩnh lự và cõi dục. Nếu dựa nơi vị chí, khi kiến đạo hiện tiền, thì có thể tu ở vị lai : Kiến đạo của một địa, thế tục trí của hai địa. Đến chỗ dựa là tĩnh lự thứ tư, khi kiến đạo hiện tiền, thì có thể tu ở vị lai: kiến đạo của sáu địa, thế tục trí của bảy địa. Tu biên khổ tập. Tu biên diệt thuộc về bốn niệm trụ. Chỉ pháp niệm trụ, tùy theo chỗ tu hiện quán biên về đế nào, tức dùng hành tướng này duyên nơi đế ấy làm cảnh. Nghĩa là nếu tu hiện quán biên về khổ đế, tức dùng duyên nơi bốn thứ hành tướng như khổ v.v…

Nếu hệ thuộc cõi dục thì duyên nơi khổ của cõi dục. Hệ thuộc cõi sắc thì duyên nơi khổ đế của cõi trên.

Nếu tu hiện quán biên về tập đế, tức dùng duyên nơi bốn thứ hành tướng như tập v.v… Nếu hệ thuộc cõi dục thì duyên nơi tập của cõi dục. Hệ thuộc cõi sắc thì duyên nơi tập đế của cõi trên. Nếu tu hiện quán biên về diệt đế, tức dùng duyên nơi bốn thứ hành tướng như diệt v.v… Nếu hệ thuộc cõi dục thì duyên nơi diệt của cõi dục. Hệ thuộc cõi sắc thì duyên nơi diệt đế của cõi trên.

Thế tục trí này chỉ do gia hạnh đắc. Tức do gia hạnh của kiến đạo. Nếu thuộc về cõi dục là do tư tạo thành. Hệ thuộc cõi sắc là do tu tạo thành. Không phải do văn tạo thành, vì văn nơi cõi kia thì yếu kém. Vì trí tăng nên lập tên trí. Nếu cùng tùy hành thì dùng bốn uẩn của cõi dục, năm uẩn của cõi sắc làm tự tánh của trí kia. Tiếp theo ở trong phần vị tu đạo lìa nhiễm. Tụng nêu:

Tu đạo, sát-na đầu

Tu sáu hoặc bảy trí

Đoạn tám địa vô gián

Và có dục, đạo khác

Hữu đảnh tám giải thoát

Đều tu ở bảy trí

Trên vô gián, đạo khác

Thứ lớp tu sáu, tám.

Luận nói: Niệm đầu tiên của tu đạo: Nghĩa là khi đạo loại trí thứ mười sáu hiện tiền thì tu hai trí, là đạo và loại, tên gọi khác không phải là thể. Người chưa lìa dục, vị lai tu sáu, là pháp, loại, khổ, tập, diệt và đạo. Lìa dục thì tu bảy, là thêm tha tâm trí, vì đối trị xứ Hữu đảnh, nên không tu thế tục. Người trước đã lìa dục, nhập Thánh đạo, vì sao trong kiến đạo không tu tha tâm trí?

Vì tha tâm trí thuộc về đức của hành trì quán, dựa nơi đạo cùng tham dự mới có nghĩa tu. Do trong quả vị kiến đạo quán về đế lý thì gia hạnh rất nhanh chóng, nên không thể tu. Trong đạo vô gián thì nghĩa cũng đồng với đây.

Nay, khi đạo loại trí thứ mười sáu hiện tiền, đạo cùng tham dự gồm thâu, nên tu trí này. Chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát đoạn trừ dục do tu đạo đoạn, thì thế tục trí, bốn trí thuộc pháp trí tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu. Các đạo vô gián đoạn trừ nhiễm của bảy địa trên, thì bốn trí là loại, thế tục, diệt, đạo và pháp trí tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu. Đạo hạnh, đạo thắng tấn đoạn trừ dục, hữu dục, thì thế tục trí, bốn trí thuộc pháp, loại tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu.

Trên đây, về vị lai đều tu bảy trí, là thế tục, pháp, loại, khổ, tập, diệt, đạo trí. Tám giải thoát trước đoạn trừ nhiễm nơi địa của xứ Hữu đảnh, thì bốn loại trí, hai pháp trí tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu. Các trí này ở vị lai cũng chỉ tu bảy, nhưng trừ thế tục trí thêm tha tâm trí. Chín đạo vô gián đoạn trừ nhiễm nơi địa của xứ Hữu đảnh, thì bốn loại trí, hai pháp trí tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu. Vị lai tu sáu trí là pháp, loại, khổ, tập, diệt, đạo. Đạo giải thoát thứ chín đoạn trừ Hoặc của cõi dục do tu đạo đoạn, thì thế tục trí, bốn pháp trí tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu. Các đạo giải thoát đoạn trừ nhiễm của bảy địa trên, thì bốn trí là loại, thế tục, diệt, đạo và pháp trí tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu. Đạo thắng tấn thứ chín đoạn trừ Hoặc của cõi dục do tu đạo đoạn. Các đạo gia hạnh đoạn trừ nhiễm của tám địa trên, thì thế tục trí, bốn pháp, loại trí tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu. Các đạo thắng tấn đoạn trừ tám phẩm Hoặc của xứ Hữu đảnh cùng Hoặc của bảy địa trên, thì thế tục trí, bốn pháp loại trí, cùng tha tâm trí tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu. Đạo đã tu trước thì cùng hiện tiền.

Trên đây ở vị lai đều tu tám trí. Nghĩa là thế tục trí, pháp, loại, bốn đế và tha tâm trí. Bốn loại trí không thể đoạn trừ nhiễm của cõi dục, hai pháp khổ, tập không phải là đối trị cõi trên.

Do đâu khởi đối trị Hoặc của cõi dục kia, trí này tu vị lai? Nếu thừa nhận gồm tu, không phải là đối trị, thì lìa nhiễm v.v… của xứ Hữu đảnh tức nên gồm tu thế tục?

Vấn nạn này là phi lý, vì chỉ đồng đối trị ở nơi vị lai tu, không phải là đã thừa nhận. Nghĩa là cũng thừa nhận có cùng hệ thuộc nên tu, như tu thế tục trí trong kiến đạo. Hoặc do sức của nhân tương trợ nên tu. Như khi đoạn dục thì gồm tu bốn loại. Ở nơi vị đoạn trừ nhiễm của địa trên, tu khổ, tập pháp. Nếu đoạn trừ nhiễm của cõi dục thì không tu loại trí. Đoạn nhiễm của cõi trên thì không tu hai pháp khổ, tập, tức dần dần đạt được quả Bất hoàn, nên không cùng khởi loại trí hiện hiền, A-la-hán tức nên không có khởi khổ tập pháp trí, vì trước đã được, đều đã xả bỏ, pháp trước chưa được thì không phải là đối tượng tu, nên do căn cứ nơi chủng loại. Nếu trước đã được là sức của nhân đồng loại, tức dẫn trí đẳng lưu sinh trí này. Do trước, vì trí kia đã dẫn, nên ở nơi loại trí kia, lại có thể làm nhân, nên trí này sinh. Do sức của nhân hỗ trợ, nên trí kia tuy không phải là đồng đối trị mà cũng tu vị lai.

Tiếp theo là biện về vị vô học do lìa nhiễm đắc. Tụng nêu:

Sát-na đầu: Vô học

Tu chín hoặc tu mười

Vì căn độn, lợi khác

Đạo thắng tấn cũng thế.

Luận nói: Niệm đầu tiên của vô học, nghĩa là đạo giải thoát thứ chín đoạn trừ nhiễm của xứ Hữu đảnh, nếu tập loại tận, thì tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu. Đạo thắng tấn chín, mười duyên nơi xứ Hữu đảnh, tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu. Vị lai tùy theo chỗ ứng hợp, tu chín, tu mười. Nghĩa là kẻ độn căn chỉ trừ vô sinh trí. Người lợi căn cũng tu vô sinh trí.

Tiếp theo là biện về phần vị khác, tu trí ít nhiều. Tụng nêu:

Đạo vô gián luyện căn

Học sáu, vô học bảy

Học khác, sáu, bảy, tám

Nên tám, chín tất cả

Tạp tu chung vô gián

Học bảy nên tám, chín

Đạo khác học tu tám

Với chín, hoặc tất cả

Thánh khởi công đức khác

Và các hàng phàm phu

Chỗ tu trí ít, nhiều

Đều như lý, nên xét.

Luận nói: Các đạo vô gián của vị học luyện căn, thì bốn pháp loại trí, tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu. Vị lai tu sáu là bốn đế và pháp, loại. Vì giống với kiến đạo, nên không tu thế tục trí. Do có thể đoạn trừ chướng, nên không tu tha tâm trí. Bốn pháp loại trí của các đạo giải thoát, tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu. Người chưa lìa dục thì vị lai tu sáu là bốn đế cùng pháp, loại. Người đã lìa dục thì vị lai tu bảy, nghĩa là thêm tha tâm trí.

Có Sư khác nói: Nơi phần vị đạo giải thoát cũng tu thế tục trí. Bốn pháp loại trí, thế tục trí của các đạo gia hạnh, tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu. Người chưa lìa dục thì vị lai tu bảy. Đã lìa dục tu tám, là thêm tha tâm trí. Các đạo thắng tấn nếu chưa lìa dục, thì thế tục trí, bốn pháp, loại trí, tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu, vị lai cũng tu bảy.

Nếu đã lìa dục, thì thế tục trí, bốn pháp, loại trí và tha tâm trí tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu, vị lai cũng tu tám. Các đạo vô gián của vô học luyện căn thì bốn loại trí, hai pháp trí tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu, vị lai tu bảy là bốn đế, pháp, loại và tận, không tu thế tục trí, như đối trị nhiễm của xứ Hữu đảnh. Năm nơi tám giải thoát trước thì bốn loại trí, hai pháp trí tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu, vị lai tu tám là bốn đế, pháp, loại, tha tâm và tận trí. Nơi đạo giải thoát thứ chín thì bốn trí khổ, tập, loại, tận tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu, vị lai tu chín. Khổ, tập, loại, tận trí của đạo giải thoát sau cùng tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu, vị lai tu mười. Các đạo gia hạnh hiện tu, như hữu học, vị lai tu chín. Các đạo thắng tấn, người độn căn, chín trí tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu, vị lai cũng tu chín. Người căn lợi, mười trí tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu, vị lai cũng tu mười.

Các đạo vô gián của vị học tạp tu thì bốn pháp loại trí, thế tục trí tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu, vị lai tu bảy. Các đạo giải thoát thì chỉ bốn pháp, loại, gia hạnh tăng thêm thế tục trí. Các đạo thắng tấn lại thêm tha tâm trí, tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu, vị lai đều tu tám.

Các đạo vô gián của vị vô học tạp tu hiện tu như học, vị lai tu: Căn độn thì tám, căn lợi thì chín. Các đạo giải thoát thì chỉ có bốn pháp loại trí, gia hạnh thêm thế tục trí, tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu, vị lai tu: căn độn tu chín, căn lợi tu mười. Các đạo thắng tấn cùng với luyện căn là đồng. Vị học tu chung năm đạo vô gián, hiện tu thế tục trí, vị lai tu bảy. Hai đạo giải thoát, năm đạo gia hạnh của túc trụ thần cảnh tu thế tục trí, tha tâm trí. Pháp, loại trí, thế tục trí và tha tâm trí của đạo giải thoát và khổ, tập, diệt trí của tất cả đạo thắng tấn đều tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu.

Trên đây, ở vị lai đều tu tám trí. Vô học tu chung cả năm đạo vô gián, hiện tu như học, vị lai tu: độn căn tu tám, lợi căn thì tu chín. Đạo giải thoát, gia hạnh hiện tu như học, vị lai tu: độn căn tu chín, lợi căn tu mười. Các đạo thắng tấn so với luyện căn là đồng. Hai đạo giải thoát của thiên nhãn, thiên nhĩ, vì tánh vô ký, nên không gọi là tu. Ngoài ra bốn vô lượng của Thánh khởi là thuộc về do tu tạo thành. Khi đức hữu lậu hiện tiền thì hiện tại đều tu một thế tục trí.

Hữu học tu vị lai, chưa lìa dục tu bảy, đã lìa dục tu tám. Vô học tu vị lai, độn căn tu chín, lợi căn tu mười. Trừ tâm vi vi, vô học này ở nơi vị lai chỉ tu thế tục trí. Ngoài ra nếu khởi công đức vô lậu: Thuộc về tĩnh lự, thì bốn pháp loại trí tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu. Thuộc về vô sắc thì chỉ bốn loại trí tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu, vị lai tu đồng với hữu lậu ở trước. Phàm phu lìa nhiễm, hiện tu thế tục trí. Đạo giải thoát thứ chín của ba định đoạn trừ dục và dựa nơi định của bốn tĩnh lự căn bản, khởi đạo thắng tấn, gia hạnh lìa nhiễm, thì vị lai tu hai, là thêm tha tâm trí. Vị lai còn lại chỉ tu thế tục trí. Khi tu năm thông thì nơi các đạo gia hạnh, hai đạo giải thoát, hiện tu thế tục trí, một đạo giải thoát hiện tu thế tục trí, tha tâm trí. Các đạo thắng tấn có hai, tùy theo chỗ ứng hợp hiện tại, vị lai, tất cả đều tu hai thứ. Năm đạo vô gián hiện tại, vị lai chỉ tu thế tục trí. Dựa vào tĩnh lự căn bản, tu các công đức khác, đều hiện tu thế tục trí, vị lai tu hai. Chỉ thuận với phần quyết trạch, tất không tu tha tâm trí. Do là quyến thuộc gần của kiến đạo, nên dựa nơi địa khác, nhất định tu công đức khác, đều chỉ tu thế tục trí ở hiện tại, vị lai.

Đối với vị lai tu là tu bao nhiêu địa? Các đắc đã khởi đều là tu chăng? Tụng nêu:

Các đạo dựa đắc ấy

Tu hữu lậu địa này

Vì lìa đắc khởi đây

Tu vô lậu địa dưới

Chỉ tận đầu tu khắp

Đức hữu lậu chín địa

Sinh trên, không tu dưới

Từng đã được, không tu.

Luận nói: Các đạo dựa vào địa này và khi đắc địa này, có thể tu hữu lậu của địa này ở vị lai. Nghĩa là dựa vào thế tục trí của địa ấy, khi Thánh đạo hiện tiền, ở vị lai chỉ tu hữu lậu của địa ấy. Do pháp hữu lậu đã trói buộc địa rất chắc chắn, khó tu pháp khác. Tùy nương dựa nơi địa nào mà lìa nhiễm của địa dưới. Khi đạo giải thoát thứ chín hiện tiền, cũng tu vị lai. Đã được tĩnh lự cận phần căn bản của địa trên, thì công đức hữu lậu lìa trói buộc của địa dưới, tất được địa trên. Thánh vì lìa địa ấy cùng khi đắc địa ấy, và trong địa ấy các đạo hiện khởi đều có thể tu vô lậu của địa này và địa dưới. Nghĩa là tùy theo hữu lậu, vô lậu của địa nào, các đạo như gia hạnh v.v… đang hiện ở trước, vì muốn đoạn trừ phiền não của địa ấy, nên vị lai tu vô lậu của địa ấy và địa dưới. Địa dưới đối với nhiễm của địa trên là đồng có thể đối trị. Nên tuy Thánh đạo của địa dưới khi đoạn trừ phiền não, các biên của địa trên có khả năng đồng đối trị. Nhưng do hữu lậu đã trói buộc địa rất chắc, nên lúc chưa lìa địa dưới, thì chưa thể tu đạo kia để tùy dựa vào địa nào mà lìa nhiễm địa dưới. Khi đạo giải thoát thứ chín hiện tiền, thì cũng tu vị lai. Công đức vô lậu của địa trên đã đạt được và của địa dưới tùy thuận khởi. Thánh đạo thế tục của địa này khi hiện tiền, thì vị lai đều tu đạo này và công đức vô lậu của địa dưới, chỉ lúc tận trí đầu tiên hiện ở trước, do diệu lực ấy mới có thể tu khắp hữu lậu của chín địa, vô lượng công đức thù thắng như quán bất tịnh v.v… do văn tư tu tạo thành là thuộc về ý địa. Nghĩa là tùy nơi địa nào, tận trí hiện tiền, thì ở vị lai tu chung từ địa trên, địa dưới.

Do đâu chỉ khi tận trí đầu tiên này hiện tiền, do diệu lực ấy mới có thể tu khắp các đức hữu lậu, mới có khả năng dứt hết tất cả phiền não oán đối của căn thiện từ vô thủy đến nay. Như có những kẻ oán đối chung đã bị đất nước hàng phục, tất cả đều cùng đi đến chúc mừng nhờ cậy xưng tụng. Lại phiền não trói buộc đã được đoạn trừ hoàn toàn, như chủ thể trói buộc đoạn trừ đối tượng bị trói buộc, khí vận thông hợp. Lại, tâm vương kia lên ngôi vị tự tại, tất cả pháp thiện khởi cùng được đến chầu. Ví như đại vương lên ngôi, làm lễ quán đảnh, tất cả tiểu vương khắp chốn đều đến triều cống.

Tuy nhiên, ở đây đã sinh lên địa trên, tất không tu địa dưới. Nghĩa là thân ở nơi cõi dục, đắc A-la-hán, thì tu chung căn thiện nơi chín địa của ba cõi. Đến sinh nơi xứ Hữu đảnh thì chỉ tu một địa. Nói tận trí đầu tiên là làm rõ lìa xứ Hữu đảnh và năm vị luyện căn. Đạo giải thoát thứ chín đều xả bỏ quả mới được của đạo trước. Đối với ba loại trí biên của quả vị kiến đạo, tuy cũng có khả năng tu thế tục trí của tự địa và địa dưới, do trước đã nêu bày, nên ở đây không luận nữa.

Các điều đã nói về tu, chỉ là trước chưa được, nay khởi nay được là chủ thể và đối tượng tu. Nghĩa là nếu lúc trước chưa được, nay được, tức do dụng công được, mới là đối tượng tu. Nếu pháp nơi thời gian trước đã từng được rồi bỏ, nay tuy được trở lại, nhưng không phải là đối tượng tu, vì không phải tạo nên những khó nhọc để chứng đắc. Nếu vào lúc trước chưa được mà khởi, rất dụng công để khởi uy lực thù thắng, thì ở đây mới có thể tu công đức vị lai. Nếu trước đã được, nay khởi hiện tiền, thì người kia không thể tu công đức ở vị lai, không phải dùng nhiều công sức để khởi, mà vì uy lực kém. Vì dụng của tu đã ngừng dứt, nên không thể tu vị lai.

Nếu người từng được hiện tiền mà có thể tu vị lai, thì Đức Bạcgià-phạm khi được tận trí, tức nên chưa tu đủ hết thảy công đức. Vì đủ chứng đắc đầy đủ, nên lại tiến tu, liền đồng với hai thừa công đức không viên mãn. Vì chỉ căn cứ theo đắc để nói, gọi là tu. Không như vậy. Vì sao?

Tu có bốn thứ: (1) Tu đắc. (2) Tu tập. (3) Tu đối trị. (4) Tu trừ bỏ.

Bốn thứ tu như thế, dựa vào pháp nào để lập? Tụng nêu:

Lập tu đắc, tu tập

Dựa pháp hữu vi thiện

Dựa các pháp hữu lậu

Lập tu trị, tu trừ.

Luận nói: Các công đức chưa từng được hiện tiền và đạt được công đức khác ở vị lai, do mới tu mà đắc, nên đều gọi là tu đắc.

Công đức từng được chưa từng hiện khởi, vì hiện tu tập, nên đều gọi là tu tập.

Hai thứ tu này chỉ dựa vào hữu vi thiện để lập. Vị lai chỉ tu đắc, hiện tại thì gồm đủ hai tu. Đối với pháp như thân v.v…, vì đắc là chủ thể đối trị, còn đối tượng đối trị là thân v.v…, tức gọi là tu đối trị. Nên khi ở nơi thân v.v… đạt được đối trị, tức nói là tu ở thân v.v… Pháp hữu lậu khác, so sánh cũng nên như thế. Duyên nơi cảnh như thân v.v…, vì phiền não đoạn dứt, nên nói các pháp như thân v.v… gọi là tu trừ bỏ. Nên khi duyên nơi thân phiền não được đoạn trừ, cũng gọi là tu ở thân v.v… Pháp hữu lậu khác, so sánh cũng nên như thế.

Hai thứ tu này chỉ dựa nơi pháp hữu lậu để lập. Nên hữu lậu thiện thì gồm đủ bốn tu. Vô lậu hữu vi, pháp hữu lậu khác, như thứ lớp đều có đủ hai tu trước, sau. Có ở trong đây là căn cứ theo nghĩa sẽ tu. Phân biệt các pháp tu đủ, ít, nhiều. Có pháp gồm đủ bốn, gọi là nên tu. Có pháp đủ ba. Có pháp đủ hai. Có pháp đủ một. Có pháp hoàn toàn không có. Nghĩa là thiện hữu lậu khi chưa đoạn trừ vĩnh viễn. Có thể đắc, có thể sinh, thì gồm đủ bốn thứ.

Vì ở đây chưa đoạn trừ vĩnh viễn, nên sẽ tu đủ đối trị, trừ bỏ. Do có thể đắc, nên sẽ gồm đủ tu đắc. Vì là có thể sinh, nên sẽ gồm đủ tu tập. Đã được có thể sinh, là gồm đủ ba, trừ tu đắc. Có thể được không sinh, là gồm đủ ba, trừ tu tập. Đã được không sinh và không thể được. Đã sinh gồm đủ hai. Nghĩa là tu đối trị, tu trừ bỏ. Nhiễm và vô ký chưa đoạn cũng như thế.

Nếu khi hữu lậu thiện đã vĩnh viễn đoạn trừ, thì có thể đắc, có thể sinh gồm đủ hai là tu đắc, tu tập. Có thể đắc không sinh gồm đủ một, nghĩa là tu đắc. Đã đắc có thể sinh gồm đủ một, nghĩa là tu tập. Hữu vi vô lậu nên biết cũng như thế. Trừ phần ở trước đã nói, đều là hoàn toàn không có. Nghĩa là trong pháp vô lậu đã được không sinh v.v… Nếu pháp không sinh thì không trụ trong thân. Chỉ do đắc, tức gọi là tu. Nên thừa nhận trạch diệt cũng gọi là tu, vì không có sai biệt.

Vấn nạn này là phi lý, vì pháp đồng loại kia tức trụ trong thân. Nghĩa là pháp không sinh, tuy không trụ nơi thân, nhưng đồng loại trụ nơi thân gọi là tu, thì không lỗi. Lại pháp đồng loại kia do đắc làm quả trụ. Nghĩa là đời vị lai pháp thiện không sinh. Do khiến đắc sinh, hiển bày làm quả trụ. Nói nghĩa là ngã v.v…, vì thiếu duyên nên không sinh, không phải cho thời nay, không nhờ nơi chiêu cảm dẫn khởi. Trạch diệt khác với đây, nên không thể đem so sánh. Lại đời vị lai pháp thiện không sinh, cũng có sức của nhân gồm thâu lợi ích cho hiện thân. Trạch diệt thì không như thế, nên không có nghĩa tu.

Lại, do trạch diệt chỉ là quả. Nghĩa là tu vốn nhằm đạt được quả thù thắng. Diệt không phải là có quả, tức không nên tu.

Lại, do trạch diệt vì không có tăng giảm. Nghĩa là pháp có thể tu, dựa vào phẩm hạ để đến phẩm trung, dựa vào phẩm trung để đến phẩm thượng. Trạch diệt thì không như thế, vì đối với tu không có công dụng, nên không thể tu.

HẾT – QUYỂN 74