LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 73

Phẩm thứ 7: BIỆN VỀ TRÍ, phần 1

Như thế là đã dựa vào các đạo có sai biệt để kiến lập Hiền Thánh. Có Bổ-đặc-già-la đã nương dựa nơi đạo, tạo ra thuyết thế này: Chánh kiến, chánh trí, gọi là chi vô học. Nên ở trong đây cần phải xét chọn kỹ.

Vì có tuệ là kiến không phải là trí và có tuệ là trí không phải là kiến, nên kiến lập riêng hai chi kiến, trí chăng? Cũng có. Vì sao? Tụng nêu:

Thánh tuệ nhẫn không trí

Tận vô sinh không kiến

Hai khác: Tuệ hữu lậu

Đều trí tánh sáu kiến.

Luận nói: Tuệ có hai thứ: hữu lậu, vô lậu. Chỉ tuệ vô lậu lập dùng tên Thánh. Trong Thánh tuệ này tám nhẫn không phải là tánh của trí. Vì sao? Vì không phải là tánh quyết đoán. Nên chỉ nghĩa quyết đoán là nghĩa của trí.

Vì sao tám nhẫn không thể quyết đoán?

Từ nghi đã đoạn đạt được, tùy theo phần cùng nối tiếp sinh. Hoặc ý lạc cầu thấy cảnh đã dừng dứt, gia hạnh có nhiều thư thả, gọi là trí. Các nhẫn đang khởi ý lạc suy tìm, lường xét. Gia hạnh mạnh mẽ nên không phải thuộc về trí. Nhưng gọi là kiến, do tánh suy tìm, lường xét. Hai trí tận và vô sinh không phải là tánh của kiến, vì ý lạc suy tìm, lường xét đã hoàn toàn dừng dứt. Vì gia hạnh đã khởi là quá nhiều thư thả. Nhưng gọi là trí vì tánh quyết đoán. Các pháp còn lại đều chung nơi hai tánh trí, kiến.

Đã đoạn tự nghi là tánh suy tìm, lường xét. Nghĩa là ngoài tám nhẫn, tận trí, vô sinh trí trước, còn lại là tám trí hữu học và chánh kiến vô học, mỗi mỗi đều gồm thâu chung tánh trí, kiến.

Há không phải là nhẫn nơi các đạo vô gián khác cũng từ đối tượng đối trị Hoặc được tùy thuận sinh, đều đang khởi ý lạc suy tìm, lường xét, gia hạnh mạnh mẽ, nên không phải thuộc về trí. Tận trí, vô sinh trí, đạo giải thoát khác v.v…, vì cùng trái với nhẫn này, nên đều không phải là kiến?

Vấn nạn này là không đúng. Vì đạo vô gián khác, không từ phẩm nghi đắc, tùy nơi phần cùng nối tiếp sinh. Lại, đạo vô gián kia chỉ thấy cảnh từng đã thấy, không phải như tám nhẫn, vì rất trái với trí, nên giải thoát v.v… khác, không phải hoàn toàn dứt bỏ mong cầu. Gia hạnh đã khởi, không phải quá nhiều thư thả, do đều ở nơi hữu sau đã tạo tác. Do đấy, tất cả đều chung nơi hai thứ, vì đều đủ công dụng suy tìm, lường xét, quyết đoán. Các tuệ hữu lậu đều thuộc về tánh của trí, trong đó chỉ sáu thứ cũng là tánh của kiến. Nghĩa là năm kiến nhiễm ô và chánh kiến thế tục, là sáu.

Có Sư khác nói: Có thể phát khởi thân, ngữ do năm thức đã dẫn và khi mạng chung, ý thức tương ưng với tuệ thiện hữu lậu, cũng không phải là tánh của kiến, vì chuyển biến theo môn ngoài, vì như khả năng dẫn khởi, vì uy lực kém.

Luận giải này cũng không đúng. Vì không nên thừa nhận, vì không phải là quyết định, vì Khế kinh đã nêu bày. Nghĩa là không nên thừa nhận, chỉ chuyển biến theo môn trong mới là tánh của kiến. Chớ cho trong Thánh tuệ, niệm trụ thân bên ngoài, không phải thuộc về tánh của kiến. Nhưng Khế kinh nói: Đối với thân bên ngoài tuần tự theo thân quán, là thuộc về tánh của kiến, cũng không phải quyết định như năm thức thân. Ý thức của đối tượng dẫn khởi đã theo tánh như thế chuyển biến. Do ý thức của đối tượng dẫn khởi kia là thiện v.v…, có khi cũng là bất thiện v.v… Do đấy, không nên cho ý thức của đối tượng dẫn khởi là đồng với năm thức của chủ thể dẫn khởi là tánh không phân biệt. Như Khế kinh nói: Có người lúc mạng chung được chánh kiến, cùng có tâm tâm sở thiện. Nên thuyết cho: Tuệ thiện của ý địa hiện có đều thuộc về tánh của kiến. Về lý là tốt.

Như thế là đã nói về Thánh tuệ hữu lậu, vì đều là trạch pháp, nên đều thuộc về tánh của tuệ.

Trí có bao nhiêu thứ, tướng riêng như thế nào? Tụng nêu:

Trí mười, chung có hai

Hữu lậu, vô lậu khác

Hữu lậu gọi thế tục

Vô lậu gọi pháp, loại.

Thế tục khắp làm cảnh

Pháp trí và loại trí

Như tiếp dục cõi trên

Đế như khổ làm cảnh.

Luận nói: Trí có mười thứ, gồm thâu tất cả trí: (1) Thế tục trí. (2) Pháp trí. (3) Loại trí. (4) Khổ trí. (5) Tập trí. (6) Diệt trí. (7) Đạo trí. (8) Tha tâm trí. (9) Tận trí. (10) Vô sinh trí.

Mười trí như thế gồm chung chỉ có hai thứ là hữu lậu và vô lậu, vì tánh có sai biệt.

Hai trí như vậy, về tướng riêng có ba. Nghĩa là thế tục trí, pháp trí, loại trí. Trí hữu lậu trước gọi chung là thế tục. Tánh của các vật như bình, áo v.v… có thể bị hủy hoại, vì hiển bày tại tình tục, nên gọi là thế tục. Trí này phần nhiều nhận lấy cảnh của thế tục, phần nhiều thuận với sự tục của thế gian chuyển biến, nên theo đa số kiến lập tên gọi thế tục trí. Không phải là không có nhận lấy thắng nghĩa, thuận theo sự của thắng nghĩa chuyển biến. Nhưng là cảnh của ái không có công năng thù thắng. Dứt bỏ các Hoặc bên trong, nên không phải là vô lậu.

Hoặc lại xuất thế dẫn phát thế gian được mang tên thế tục. Thể tức vô trí, trí tùy thuộc nơi thế tục kia, được mang tên là trí của thế tục kia. Ý làm rõ tên gọi này, nên gọi là trí hữu lậu.

Có thuyết nói: Các nẻo gọi là thế tục. Trí này phần nhiều là nhân đi đến các nẻo, theo quả đặt tên, nên gọi là thế tục trí.

Có thuyết cho: Trí này từ thời vô thủy đến nay, hiển hiện trong thân sinh tử mà chuyển, do đấy nên lập danh xưng thế tục trí. Hoặc trong các hữu, tùy thuận lưu chuyển mãi không dứt, gọi là thế tục trí, do nơi tất cả thời, tùy thuận các hữu cùng nối tiếp chuyển biến. Hoặc lại trí này, đối với tất cả cảnh, có thể lấn át khắp để phát khởi, nên được mang tên thế tục, vì riêng một mình có khả năng duyên khắp nơi tất cả pháp.

Trí vô lậu sau được chia làm hai thứ: Hai danh xưng pháp, loại, là đã nói về phần riêng. Về danh nghĩa của hai trí này, như trước đã giải thích. Tuy nhiên, có Sư giải thích: Loại, nghĩa là so sánh, lấy sự việc đã hiện thấy để so sánh với cảnh không hiện thấy, thuộc về tỷ lượng, nên được mang tên loại trí.

Giải thích này là không đúng. Vì nói về thật thấy. Nghĩa là không phải do tỷ lượng mà trí có thể lập tên thật thấy. Trong các Khế kinh nói chung về pháp, loại. Nếu thấy khổ như thật thì quyết định thấy phi ngã. Đối với bốn Thánh đế, vì thấy như thật, nên có thể thấy như thật về bốn Thánh đế. Tức đã có vô lượng Khế kinh nói như thế.

Lại trong Thánh vị, vì cùng quyết định. Nghĩa là người kiến tích đều quyết định nhận biết các hành là phi thường (vô thường), các pháp là phi ngã (vô ngã), Niết-bàn là tịch tĩnh. Không phải chân hiện thấy có thể cùng với so sánh nhận biết đồng là quyết định. Nghĩa là dùng pháp này so sánh với pháp kia, gọi là tỷ trí. Pháp kia không phải là quyết định, nhưng cũng có khác. Do đấy thấy chân thật cùng với nhận biết do so sánh, lường xét, về lý không nên nói đồng là quyết định. Không phải các Thánh trí có lý so sánh, lường xét. Nên người có trí tất không nên nói: Có cảnh của Thánh đế là đối tượng chứng đắc của tỷ trí. Lại vì Thánh nên không duyên nơi diệt trí. Nghĩa là nếu loại trí thuộc về tỷ trí, thì nên duyên nơi diệt pháp trí cũng không có, vì diệt đều không phải là sự việc hiện thấy.

Nhưng thừa nhận hiện lượng gồm có ba thứ, tức dựa vào căn, lãnh nạp, giác tuệ riêng biệt.

Hiện lượng dựa vào căn: Nghĩa là dựa vào năm căn, hiện nhận lấy năm cảnh giới bên ngoài như sắc v.v…

Hiện lượng lãnh nạp: Nghĩa là các tâm tâm sở pháp như thọ, tưởng v.v… đang hiện tiền.

Hiện lượng giác tuệ: Nghĩa là đối với các pháp, tùy theo đối tượng ứng hợp kia chứng đắc tự tướng, cộng tướng. Trong đây, nếu căn cứ theo phần dựa vào căn, lãnh nạp để nói về cảnh của loại trí, thì không phải là sự hiện thấy, tức diệt pháp trí, về lý cũng nên không có, vì diệt không phải dựa vào cảnh của lãnh nạp và căn.

Nếu căn cứ nơi giác tuệ, thì không nên nói: Đối tượng duyên của loại trí là cảnh của tỷ trí.

Thế nên tất cả như lý đã dẫn quyết trạch của nghĩa thật đều là trí hiện lượng. Vì loại trí đã như thế, nên thuộc về hiện lượng. Đó gọi là tướng của hai trí, phân biệt thành ba. Tâm định tương ưng với hành tướng Thánh chuyển biến.

Hai trí hữu lậu, vô lậu có sai biệt như thế nào? Trí vô lậu ở nơi cảnh thì hành tướng sáng rõ, nhanh nhạy. Trí hữu lậu kia so với đây thì trái nhau. Như hai thứ than còn lại của gỗ Khiết-địa-la, ở nơi được nung đốt thì thế dụng không đồng. Và mùi hương hơn, kém có thể xông ướp, thì công dụng riêng khác. Sắt đốt cháy lửa cỏ thì sức nóng có khác. Hai trí cùng đối chiếu có sai biệt cũng như thế. Hoặc thế tục trí về sau khởi tăng thượng mạn, còn vô lậu thì không như vậy, nên có sai biệt. Lại, cảnh của thế tục trí so với pháp loại trí có rộng hẹp, nên có sai biệt. Nghĩa là thế tục trí dùng khắp tất cả pháp hữu vi, vô vi làm cảnh nơi đối tượng duyên. Vì Khế kinh nêu rõ: Có thế tục trí có khả năng nhận biết khắp về khổ. Nói rộng cho đến: Nhận biết khắp về hư không phi trạch diệt. Nên cũng có khi dùng hành tướng vô ngã để duyên chung nơi tất cả pháp làm cảnh. Do Khế kinh nói: Các hành vô thường, tất cả pháp vô ngã, Niết-bàn tịch tĩnh. Tuy nhiên, có kinh nêu: Có thể dùng chánh tuệ quán tất cả pháp là vô ngã. Tuy tất cả pháp thật sự đều là vô ngã, nhưng tiếng tất cả ở đây, không phải là gọi chung về các pháp, mà chỉ nói về hết thảy các pháp thuộc về khổ đế. Tiếp theo lại nói: Ở đây tức có thể nhàm chán khổ.

Có Sư khác, đối với vấn đề này đã giải thích, nói: Tuệ ấy thật sự có khả năng duyên nơi tất cả pháp. Nhưng hành tướng của các pháp này vốn là quả của nhàm chán, nên dựa riêng vào hành tướng đó để nói câu nhàm chán khổ. Như vì đốt nhà mà buông thả đối với lửa. Nhưng khi lửa bốc cháy dữ thì cũng thiêu đốt các vật khác.

Giải thích này là không hợp lý. Vì kinh ấy lại nói: Đạo lực này có thể đạt được thanh tịnh. Hai tuệ văn tư cũng có khả năng duyên khắp, tạo ra hành tướng vô ngã của tất cả pháp.

Đạo này há có thể đạt được quả thanh tịnh?

Nếu nói cho đạo này có khả năng đạt được thanh tịnh, không nói: Tức đây là khả năng làm thanh tịnh, nên không có lỗi.

Về lý cũng không đúng. Vì như ngăn chận đạo khác, nên nói câu nói này. Như Khế kinh nêu: Chỉ có đạo này là có thể đạt được thanh tịnh, lại không có đạo khác.

Há có thể đối với đạo kia cũng nói lời này: Có thể đạt được thanh tịnh, không phải là khả năng làm thanh tịnh.

Nên biết kinh này nói dùng chánh tuệ quán tất cả pháp là vô ngã, là chỉ nói về các pháp thuộc về khổ đế, không phải là thâu tóm pháp khác mà nói tiếng tất cả. Như nói: Các hành đều là vô thường, khổ, nhưng không phải Thánh đạo là vô thường, khổ. Nên nói các hành chỉ hiện bày khắp về khổ đế. Đạo này cũng nên như thế. Chỉ quán về cảnh của khổ, khởi hành vô ngã, không phải quán về đế khác. Ngoại trừ đạo này, vì tất nên có riêng. Quán chung về hành tướng vô ngã của các pháp, các người hành quán hiện có đối tượng nhận biết. Nghĩa là người hành quán, tất nên trước hết tu quán hành tướng vô ngã của tất cả pháp, thân khí tịnh trị khiến có khả năng nhận lãnh, dựa vào đó hướng nhập duyên quán về ba nghĩa.

Nếu không như thế thì hợp nhất với tướng ngã, vì bị nhiễu loạn nên không có khả năng tu, kiến lập các pháp, không có quán cùng xen tạp. Pháp trí chỉ duyên nơi bốn đế thuộc cõi dục. Do Bản luận nói: Thế nào là pháp trí? Nghĩa là trí vô lậu duyên nơi các hành hệ thuộc cõi dục. Trí vô lậu duyên nơi nhân của các hành hệ thuộc cõi dục. Trí vô lậu duyên nơi diệt các hành hệ thuộc cõi dục. Trí vô lậu duyên nơi đạo có thể đoạn trừ các hành hệ thuộc cõi dục. Và trí vô lậu duyên nơi pháp trí, duyên nơi địa của pháp trí. Đó gọi là pháp trí.

Há không phải là pháp trí duyên nơi cảnh của bốn đế, vì sao lại nói: Và trí vô lậu duyên nơi pháp trí, duyên nơi địa của pháp trí?

Hai trí này cũng duyên nơi đạo đế làm cảnh, vì trước đã nói: Duyên nơi các hành hệ thuộc cõi dục. Nói trí vô lậu của đạo có thể đoạn trừ tức không thể nói về tất cả pháp trí duyên nơi đạo, chỉ nói về đạo có thể duyên, có thể đoạn. Vì gồm thâu phần duyên nơi các đạo gia hạnh, giải thoát, thắng tấn khác, đã thâu tóm pháp trí làm cảnh. Cùng trong thân đã lìa dục, đã khởi pháp trí, pháp nhẫn, là pháp trí của cảnh.

Lại nói duyên nơi pháp trí, nói duyên nơi địa pháp trí. Hoặc trước đã nói duyên nơi đạo trí đoạn trừ, tức chỉ nói về duyên nơi định vị chí, có thể đối trị. Đối tượng đoạn của kiến đạo, tu đạo nơi cõi dục là pháp trí của cảnh. Vì duyên gồm thâu phẩm pháp trí của năm địa khác là pháp trí của cảnh. Lại nói câu hai duyên sau.

Nếu như vậy thì văn của luận kia nên nói như thế này: Trí vô lậu duyên nơi pháp đối trị các hành thuộc cõi dục.

Nếu nói như thế là gồm thâu chung khả năng duyên nơi tất cả phẩm pháp trí, là toàn bộ pháp trí của cảnh, vì câu nói đối trị là nói về nhiều nghĩa.

Nếu không như vậy, tức nên có lỗi phi ái. Nghĩa là duyên nơi pháp hệ thuộc cõi sắc làm cảnh, trí vô lậu cũng nên gọi là pháp trí. Vì có hành của cõi sắc là thuộc về phần đối trị hành của cõi dục.

Há không phải là đã nói: Duyên nơi đạo trí có thể đoạn dứt hành của cõi dục, cũng có lỗi này?

Câu nói kia không có lỗi này. Vì nói đạo có thể đoạn trừ là đã ngăn chận cõi sắc muốn đối trị. Nghĩa là đây tức dựa nơi đế để biện về cảnh của pháp trí. Nói đạo tức chỉ rõ là thuộc về đạo đế, không phải như ông đã nói, cũng có nói về đạo. Nên lỗi lầm này là ở nơi ông không phải là của tôi.

Lại, nếu như thừa nhận câu nói kia lại dẫn đến nói về đạo, thì cũng không thể gồm thâu hết các pháp trí, vì pháp trí có thể đối trị chung nơi ba cõi. Lại, cũng nên thừa nhận các trí vô lậu duyên nơi phẩm loại trí là thuộc về pháp trí. Phẩm loại trí cũng là pháp đối trị phần xa của cõi dục, nên thừa nhận câu nói đối trị là nói về nhiều nghĩa.

Do đấy, Bản luận đã nói là không có lỗi. Vì loại trí có khả năng duyên chung nơi bốn đế của hai cõi trên.

Do cảnh của ba trí này có sai biệt, tức ở trong ba thứ trí như thế. Tụng nêu:

Pháp, loại do cảnh riêng

Lập bốn tên như khổ v.v…

Đều chung tận vô sinh

Đầu chỉ loại khổ, tập.

Luận nói: Pháp trí, loại trí do cảnh có sai biệt nên phân làm bốn trí khổ, tập, diệt, đạo.

Vì sao thế tục trí cũng duyên nơi khổ v.v… tạo các hành tướng như khổ v.v… mà không phải là trí như khổ v.v…? Do trí kia trước dùng các hành tướng như khổ v.v…, quán về khổ v.v… xong, thời gian sau lại cùng quán các cảnh như khổ v.v… là lạc v.v… Lại được thế tục trí như thế rồi, sau duyên nơi đế, có nghi cùng hiện hành.

Sáu trí như thế, nếu thuộc về vị vô học, thì không phải là tánh của kiến, gọi là tận trí, vô sinh trí. Hai trí này mới sinh, chỉ là loại khổ, tập, vì duyên nơi sáu thứ hành tướng của khổ, tập, vì duyên nơi uẩn của xứ Hữu đảnh làm cảnh giới. Định kim cương dụ nếu duyên nơi khổ, tập thì cùng với cảnh này là đồng. Duyên nơi diệt đạo thì khác.

Nếu như vậy há không phải là cùng trái với Chí giáo. Như nói: Ở nơi tận cùng có trí đầu tiên sinh, từ vô gián này có khả năng tự thông đạt, là không có lỗi trái với giáo. Vì ở đây, nói ở nơi tận cùng là có tiếng thứ bảy, không phải là cảnh thứ bảy. Nghĩa là có phiền não đã diệt tận trọn vẹn. Có trí đầu tiên sinh, tức không phải trí này sinh duyên nơi tận làm cảnh, thì đâu có trái hại?

Ý của câu nói kia là hiển bày trong thân có Hoặc, không có trí này sinh, chủ yếu là phải có Hoặc dứt hết. Ở trong chín thứ trí đã nói ở trước. Tụng nêu:

Pháp, loại, đạo, thế tục

Có thành tha tâm trí

Ở vị căn, địa thắng

Đời khứ lai, không biết.

Pháp, loại chẳng biết nhau

Thanh văn, Lân dụ, Phật

Thứ lớp biết kiến đạo

Hai, ba niệm tất cả.

Luận nói: Có pháp, loại, đạo và thế tục trí, thành tha tâm trí. Số còn lại thì không như vậy.

Há không phải là đạo trí, lìa pháp, loại thì không có, nên chỉ nói ba trí thành tha tâm trí. Lý thật là như thế. Vì hiển bày về tha tâm trí, chỉ nhận biết cảnh của đồng loại nên nói như thế. Nghĩa là vì nhằm làm rõ thành tựu trí này, tức pháp loại trí đã nhận biết tâm tâm sở vô lậu của người khác, là thuộc về đạo trí, không phải là khổ, tập trí, vì trí vô lậu quyết định không thể nhận biết tâm tâm sở hữu lậu của người khác. Tâm tâm sở vô lậu nơi thân của người khác, vì vi tế, vì thù thắng, nên không phải hữu lậu của mình, là cảnh của tha tâm trí, lý ấy có thể như thế.

Do đâu tha tâm trí vô lậu của thân mình không thể nhận biết tâm tâm sở hữu lậu của người khác?

Vì ở nơi cảnh hữu lậu, trí vô lậu sinh, hành tướng, đối tượng duyên khác với trí này. Nghĩa là khi trí vô lậu duyên nơi hữu lậu, tất là duyên chung nơi hành tướng nhàm chán từ bỏ. Thế nên quyết định không có khả năng duyên riêng nơi tâm tâm sở của người khác để thành tha tâm trí. Vì các Thánh trí khi duyên nơi hữu lậu, tất ở nơi đối tượng duyên, sinh nhàm chán dứt bỏ sâu đậm, ưa thích xả bỏ chung, không ưa thích quán riêng. Lúc duyên nơi vô lậu, vì sinh vui thích, nên sau khi đã quán chung xong, cũng vui thích quán riêng.

Như có thấy nghe các sự việc không đáng yêu mến, duyên chung liền bỏ, cũng không ưa duyên riêng. Ở trong đối tượng đáng yêu mến thì không như thế. Thấy nghe chung xong, cũng vui thích duyên riêng.

Thế nên đối với tâm hữu lậu v.v… của người khác, tất không có Thánh trí mỗi mỗi quán riêng để thành tựu tha tâm trí vô lậu duyên nơi tâm hữu lậu, vì tha tâm trí quyết định đối với tâm tâm sở pháp của người khác nhận biết riêng biệt.

Há không phải là cũng có ba niệm trụ gồm thâu khổ tập nhẫn trí? Tuy có nhưng không phải chỉ duyên nơi một pháp, mà là duyên nơi nhiều thể. Lại, tha tâm trí có tướng quyết định. Nghĩa là không nhận biết hai đời quá khứ, vị lai thù thắng và phẩm pháp loại không hỗ tương nhận biết. Thù thắng lại có ba, là địa, căn, vị. Địa, nghĩa là trí ở địa dưới không nhận biết tâm của địa trên. Về nghĩa chỉ có thể nhận biết địa mình, địa dưới.

Căn, nghĩa là căn trí của tín giải, thời giải thoát, không nhận biết tâm của kiến chí, bất thời giải thoát. Vị, nghĩa là Bất hoàn, Thanh văn, Ứng quả, Độc giác, Đại giác, trí của vị trước trước, không nhận biết tâm của các vị sau sau là hơn hẳn. Về nghĩa chỉ có thể nhận biết căn của tự vị, vị dưới. Nhưng tha tâm trí và cảnh của đối tượng nhận biết, đối với căn địa đã khác, mà nhận biết cũng có khác.

Tâm tâm sở pháp hữu lậu của đối tượng nhận biết đã từng được, chưa từng được, đều có mười lăm. Nghĩa là cõi dục, bốn tĩnh lự đều có căn phẩm hạ trung thượng, có thể nhận biết. Chỉ trừ ba phẩm từng được, chưa từng được của cõi dục, mỗi phẩm đều có mười hai. Vô lậu của đối tượng nhận biết và chủ thể nhận biết kia đều trừ ba phẩm của cõi dục đều có mười hai.

Lại, các tha tâm trí hữu lậu từng được, chưa từng được thuộc về căn phẩm hạ sinh, tùy theo đối tượng ứng hợp kia có thể nhận biết phẩm tâm nơi ba căn của địa dưới. Căn phẩm trung của tự địa trở xuống cũng nhận biết phẩm trung của tự địa. Phẩm thượng thì hiểu rõ chung về ba phẩm của tự địa, địa dưới. Tha tâm trí vô lậu theo căn phẩm hạ khởi, chỉ nhận biết căn phẩm hạ của tự địa, địa dưới. Căn phẩm trung cũng nhận biết trung. Thượng thì gồm nhận biết thượng.

Vì sao trí hữu lậu, vô lậu sinh nhận biết tâm của địa dưới nhiều ít có khác?

Ba phẩm hữu lậu, có thể một thân thành. Vô lậu thì tùy nơi căn, lập Thánh giả riêng. Hãy còn không có một thành hai phẩm căn, huống chi là có thành ba, nên có sai biệt.

Vì sao nói một Bổ-đặc-già-la thành tựu chín phẩm đạo, đoạn trừ chín phẩm Hoặc?

Đạo này có sai biệt, không phải do căn có khác. Do nhân dần dần tăng trưởng, đạo sau chuyển tăng, như thứ lớp có thể khiến nhiều phẩm Hoặc được đoạn. Hoặc các chủng tánh đều có chín phẩm, thành một chín phẩm, tất không thành phẩm khác, nên câu nói trước sau không có lỗi trái nhau. Vì thế tâm dựa vào địa trên, khởi căn của địa dưới. Có tâm của căn phẩm thượng dựa vào địa dưới khởi. Địa, căn cùng là thù thắng, tất không cùng nhận biết. Vị địa, căn vị cùng đối nhau cũng như thế. Tha tâm trí này không nhận biết khứ, lai, gốc là nhận biết có thể duyên tâm tâm sở pháp. Hai phẩm pháp, loại không cùng nhận biết nhau. Hai phẩm này như thứ lớp, từ cõi dục trở lên cõi trên, toàn phần đối trị là đối tượng duyên. Tha tâm trí này trong kiến đạo, không quán chung về đế lý, vì chuyển rất nhanh chóng, nhưng đều chấp nhận làm cảnh của tha tâm trí. Thánh giả của ba thừa lúc khởi trí này, hai thừa trung, hạ tất cần gia hạnh. Thanh văn gia hạnh hoặc phẩm thượng, hoặc trung. Lân giác dụ chỉ cần gia hạnh phẩm hạ. Đức Phật không có gia hạnh, chỉ tùy theo ý muốn thì hiện tiền. Nếu các hữu tình sắp nhập kiến đạo, Thanh văn, Độc giác dự tu gia hạnh. Vì muốn nhận biết tâm của vị kiến đạo ấy, nên các hữu tình kia nhập nơi vị kiến đạo, phần pháp Thanh văn gia hạnh nếu viên mãn, thì nhận biết tâm của hai niệm đầu tiên thuộc kiến đạo. Nếu lại vì nhận biết tâm của phần loại, tức riêng tu gia hạnh, cho đến gia hạnh viên mãn, hữu tình kia đã vượt qua đến tâm thứ mười sáu. Tuy nhận biết tâm này không phải là nhận biết kiến đạo. Thế nên nói hữu tình kia chỉ nhận biết hai niệm. Phần pháp của Lân giác dụ gia hạnh nếu mãn, thì nhận biết hai niệm đầu tiên của kiến đạo kia. Nếu lại vì nhận biết tâm của phần loại tức riêng tu gia hạnh cho đến mãn thì nhận biết tâm của tập loại trí thứ tám.

Có Sư khác cho: Nhận biết tâm thứ mười lăm.

Có thuyết nói: Lân giác dụ nhận biết bốn sát-na. Nghĩa là hai tâm đầu, tâm thứ tám, tâm thứ mười bốn.

Lời nói này là hợp lý. Vì sao? Vì đã thừa nhận từ nhận biết tâm của hai niệm đầu tiên xong, chỉ cách năm niệm là nhận biết tâm thứ tám. Nếu lại còn tu gia hạnh phần pháp, thì trải qua khoảnh khắc năm niệm, gia hạnh nên thành.

Vì sao không cùng nhận biết niệm thứ mười bốn?

Có Sư khác cũng nêu: Nhận biết bốn sát-na. Nghĩa là hai tâm đầu tiên, tâm thứ mười một, tâm thứ mười hai.

Đức Phật đối với tất cả công đức thù thắng, tùy ý muốn hiện tiền, vì tâm tự tại, nên đối với mười lăm niệm, có thể theo thứ lớp nhận biết. Do Đức Phật, Thế Tôn trong ba vô số kiếp đã siêng năng, tinh tấn tu tập vô lượng tư lương, nên đạt được diệu trí thù thắng khó nghĩ bàn, đầy đủ thế dụng lớn, tùy ý muốn đều có thể nhận biết. Tuy trí này sinh, cũng nhận biết tâm sở, nhưng tu gia hạnh vốn là nhận biết về tâm. Như không xứ v.v… gọi là tha tâm trí.

Hiếp Tôn giả nói: Dẫn trí này sinh, chủ yếu trước là nhận biết tâm, sau mới nhận biết tâm sở. Từ đầu chỉ lập tên tha tâm trí. Khi dẫn khởi trí này thì tu gia hạnh nào? Trước hết phải quán xét hiển hình của thân, ngôn âm của đối tượng ưa thích biểu hiện ở tâm có sai biệt. Nghĩa là hành giả kia khi tu tập đầu tiên, vì muốn nhận biết kỹ về tâm của người khác có sai biệt, trước nên quán xét đầy đủ về hiển hình của tự thân, các ngôn âm nơi đối tượng ưa thích thích nhân nơi gì khiến có riêng khác. Bèn nhận biết hiển v.v… có sai biệt là do tâm.

Lại, quán sát kỹ về hiển v.v… của thân người khác, cũng do tâm nên có sai biệt khác sinh. Do đấy, thời gian sau lìa dục ý thân, điều hợp thanh tịnh, dẫn định thù thắng sinh. Dựa vào định phát sinh trí có uy đức. Trí này chân thật soi chiếu thấy tâm của người khác, như trong viên ngọc minh châu có vô số sợi tơ màu sắc, tướng sai biệt rõ đúng là có thể đạt được. Đây gọi là tu gia hạnh của tha tâm trí thế tục. Nếu khi tu tha tâm trí vô lậu, thì dùng khổ trí để quán vô thường v.v… làm gia hạnh. Vị gia hạnh này duyên chung nơi sắc, tâm, đến khi thành đủ, tức duyên nơi tâm không phải sắc. Lại, vị gia hạnh duyên nơi tâm của mình và người khác, đến khi thành đủ, thì duyên nơi người khác, không phải mình.

Hai tướng của tận trí, vô sinh trí có riêng khác như thế nào? Tụng nêu:

Trí đối bốn Thánh đế

Biết ngã đã nhận biết

Không nên lại biết nữa

Thứ lớp tận, vô sinh.

Luận nói: Như Bản luận nêu: Thế nào là tận trí? Nghĩa là nơi vị vô học, nếu chánh tự nhận biết: Ta đã nhận biết khổ. Ta đã đoạn trừ tập. Ta đã chứng diệt. Ta đã tu đạo. Do đấy, trí kiến hiện có minh giác, quán ánh sáng của tuệ giải. Đấy gọi là tận trí.

Thế nào là vô sinh trí? Nghĩa là chánh tự nhận biết: Ta đã nhận biết về khổ, không nên lại nhận biết nữa. Nói rộng cho đến: Ta đã tu tập đạo không nên tu tập lại nữa. Do chỗ nói rộng cho đến hiện có này, đó gọi là vô sinh trí.

Do khi ý lạc gốc nơi hai trí chuyển thì sức mạnh có thể dẫn khởi giải trí như thế, không phải ở nơi khi hai trí vô lậu chuyển, tạo ra kiến giải không phân biệt như thế. Nghĩa là xuất sinh hai trí trong hậu đắc trí mới tạo ra hai loại phân biệt như vậy. Hai phân biệt ấy, hai trí sinh sau là sức của tận trí, vô sinh trí đã dẫn khởi. Vì hai tục trí này là quả sĩ dụng của sự phân biệt kia, nên nêu lên hai quả để hiển bày hai trí có sai biệt. Về lý tất nên như thế. Nói do đấy là dựa nơi nghĩa này để nói tiếng do đấy, tức là nói về nghĩa của trí hiện có này. Không như vậy thì nên nói: Hiện có như thế.

Các người hành quán, thời trước tu hành, nhất định khởi ý lạc trông mong như vậy. Nghĩa là khi ta sẽ chứng A-la-hán, chủ yếu nên khởi trí tự quán xét kỹ này, nên nay xuất quán, trí này tất sinh. Vì khiến trí đã sinh khởi này, tùy nơi ứng hợp, kiến lập tên gọi tận, vô sinh, tức là nghĩa của đối tượng nương dựa cho trí sau sinh, nên nói giải thích này, về lý tất nên như thế.

Há không phải hai trí là không thuộc về tánh của kiến. Vì sao lại nói trí, kiến, minh v.v…?

Có người giải thích như thế này: Vì nhân tiện nên nói. Nhưng thật sự thì hai trí là ở nơi thời gian sau, vì đã khởi nhân của kiến, nên cũng gọi là kiến. Nghĩa là lìa tận trí, về sau lúc xuất quán, tất kiến không hiện hành để xét kỹ. Nên trước là tánh bất động và sau là luyện căn, khi đạt được bất động, thì lìa vô sinh trí, về sau kiến xét kỹ cũng không hiện hành. Nên kiến này gọi là theo quả mà lập. Hoặc vì như kiến, nên giả lập tên kiến, như lập tên ánh sáng, vì hiện soi chiếu chuyển biến. Ánh sáng là trí của sắc xứ, thể không phải là ánh sáng. Soi chiếu là dụng, như ánh sáng, nên gọi là ánh sáng, không có lỗi.

Hai trí như thế, thật sự thì thể không phải là kiến hiện thấy. Ở đây cũng nên như thế. Tức do nhân ấy, kinh nói thế này: Uẩn trí kiến giải thoát, nghĩa là tận trí, vô sinh trí, chủ yếu là có giải thoát.

Trí này được sinh, lấy trí làm thể, gọi là trí giải thoát. Do theo nhân trước, nên cũng được mang tên kiến, nên uẩn này gọi là trí kiến giải thoát.

Do đâu Bản luận nói như thế này: Thế nào là kiến? Lại như các trí cũng là kiến, nhưng có kiến mà không phải là trí, nghĩa là tám nhẫn. Há không phải nên nói ngoài kiến có trí. Như nói: Ngoài trí có kiến riêng chăng?

Nên biết trong đây đã nói tiếng cũng. Ngoài kiến có trí, nghĩa ấy đã thành.

Nếu cho không như thế, thì luận kia nên nói: Trí hiện có đều là kiến. Đã nói cũng, là nhận biết rõ về có không phải có, nghĩa là tận trí, vô sinh trí và một phần tục trí. Nhưng ngoài trí, có kiến là hiển bày phân minh. Nêu bày không phân minh là ngoài kiến có trí tức là để ngăn chận tà chấp. Sư của Bộ Thí dụ nói: Đối với trí phẩm hạ lập danh tưởng nhẫn. Hoặc như trước đã nói có nhiều thứ nhân, tận trí, vô sinh trí v.v… cũng được gọi là kiến.

Do đâu luận nói: Trong vô sinh trí lại nói lời này: Ta đã nhận biết về khổ v.v…?

Về lý chỉ nên nói: Không còn nhận biết nữa v.v…, vì hai hành không nên đều cùng thời chuyển. Nếu theo thứ lớp chuyển, thì trước so với tận trí là không có sai biệt, tức không nên nói lại. Nên biết ý này nói là để loại trừ hoài nghi, e có người sinh nghi, như thời giải thoát, trước khởi tận trí, sau được vô sinh trí.

Như thế tức nên thừa nhận bất thời giải thoát, trước khởi vô sinh trí, sau được tận trí. Vì hiển bày tất cả tận trí đã khởi trước, nên lại trước nói câu: Đã nhận biết v.v… Hoặc trước chỉ nói: Ta đã nhận biết v.v…, chứng tỏ thời giải thoát chỉ có tận trí, sau lại nói lần nữa: Ta đã nhận biết v.v…, là làm rõ về bất thời giải thoát sau cùng là khởi vô sinh, nên tuy nói lập lại nhưng không có lỗi.

Vô sinh trí: Thế nào là vô sinh?

Sư Chánh lý nói: Nghĩa là phi trạch diệt, tức có vô sinh. Trí này được sinh là trí nhờ nơi vô sinh, nên gọi là vô sinh trí. Diệt tuy thường có mà được vô thường. Khi được diệt kia thì trí này mới chuyển, chủ yếu do đắc khởi mới gọi là có diệt. Ở nơi vị có diệt, trí này mới sinh. Hoặc nói vô sinh là nhân nơi diệt kia mà đắc được, như đắc của Niết-bàn, cũng gọi là Niết-bàn. Kinh nêu: Dùng Niết-bàn để ở trong tâm, nên có vị tâm kia đắc. Trí này mới sinh. Trí nhờ nơi vô sinh, nên gọi là vô sinh trí.

Có sư khác ở đây nêu ra vấn nạn này nói: Nếu nhờ nơi vô sinh nên gọi là vô sinh trí, thì vô sinh trí duyên nơi pháp phi đế, tức thuyết đã nói là trái hại đối với tông mình, vì tuệ vô lậu sinh khởi chỉ duyên nơi bốn đế.

Sư kia không quán xét đầy đủ khi nêu lời vấn nạn này. Như trên tôi đã nói: Sau phần xuất quán mới khởi trí phân biệt như thế. Hoặc tiếng nhờ dựa ở đây là hữu thứ bảy, không phải là cảnh thứ bảy, như tận trí. Hoặc thừa nhận trí này duyên nơi vô sinh đắc, là khổ đế này gồm thâu không phải là phi đế.

Mười trí như thế hỗ tương thâu tóm. Nghĩa là thế tục trí gồm thâu hoàn toàn một trí, phần ít một trí. Pháp trí, loại trí đều gồm thâu hoàn toàn một trí, phần ít bảy trí. Khổ, tập, diệt trí đều gồm thâu hoàn toàn một trí, phần ít bốn trí. Đạo trí gồm thâu hoàn toàn một trí, phần ít năm trí. Tha tâm trí gồm thâu hoàn toàn một trí, phần ít bốn trí. Tận trí, vô sinh trí đều gồm thâu hoàn toàn một trí, phần ít sáu trí.

Do đâu hai trí kiến lập làm mười? Tụng nêu:

Do tự tánh đối trị

Hành tướng, cảnh hành tướng

Gia hạnh biện nhân đủ

Nên kiến lập mười trí.

Luận nói: Do bảy duyên nên lập hai làm mười:

1. Vì tự tánh nên lập thế tục trí. Tức dùng thế tục trí làm tự tánh.

2. Vì đối trị nên lập pháp trí, loại trí. Do hoàn toàn có khả năng đối trị cõi dục và cõi trên.

3. Vì hành tướng nên lập khổ trí, tập trí. Vì cảnh của hai trí này, về thể không có riêng khác.

4. Vì cảnh của hành tướng nên lập diệt trí, đạo trí. Vì cảnh nơi hành tướng của hai trí này cùng có riêng khác.

5. Vì gia hạnh nên lập tha tâm trí. Không phải trí này không nhận biết tâm sở pháp của người khác. Vì vốn tu gia hạnh là để nhận biết tâm của người khác, tuy khi thành mãn, cũng nhận biết tâm sở, nhưng căn cứ nơi gia hạnh, nên lập tên gọi tha tâm trí. Gia hạnh thì như trước đã phân biệt đủ.

6. Vì sự việc đã hoàn thành nên kiến lập tận trí. Vì sự việc trong thân hoàn thành nên định bắt đầu sinh.

7. Vì nhân viên mãn nên lập vô sinh trí. Tất cả Thánh đạo làm nhân sinh. Nghĩa là có tận trí, không phải là do vô sinh trí làm nhân nên sinh. Không có vô sinh trí nào không dùng tận trí làm nhân nên khởi. Như trên đã nói pháp trí, loại trí hoàn toàn có khả năng đối trị pháp nơi cõi dục, cõi trên, hay là có phần ít đối trị cõi dục, cõi trên? Tụng nêu:

Duyên diệt, đạo, pháp trí

Ở trong vị tu đạo

Gồm trị tu đoạn trên

Loại không thể trị dục.

Luận nói: Diệt, đạo, pháp trí thuộc về tu đạo, gồm có thể đối trị nhiễm của cõi trên do tu đạo đoạn. Đối với pháp cõi dục, pháp trí của bốn đế hoàn toàn có khả năng đối trị nhiễm nơi cõi dục do kiến đạo đoạn. Pháp trí cũng vì giữ lấy đối trị, nên chủ thể đối trị, đối tượng đối trị đều được mang tên hoàn toàn. Đối với cõi trên đều cùng có thiếu, đều cùng gọi là phần ít.

Vì sao chỉ có diệt, đạo, pháp trí, gồm đối trị cõi trên không phải là khổ, tập?

Do đối tượng duyên tĩnh lặng, xuất ly đồng. Nghĩa là diệt của cõi dục, cõi trên và đạo có thể đối trị, lần lượt cùng đối chiếu thì tướng không khác. Vì các trạch diệt đều thiện, đều thường, tất cả Thánh đạo đều có khả năng xuất ly. Đối tượng duyên khổ, tập nơi cõi dục, cõi trên là không đồng, vì ít nhiều, tế thô, trên dưới riêng khác.

Lại, khổ tập trí duyên nơi cảnh đã nhàm chán, không chấp nhận chán cảnh kia, thì ở đấy lìa tham. Về lý khi chán địa này thì đoạn trừ phiền não của địa này.

Nếu thừa nhận nhàm chán khác, lìa tham khác, tức nên lìa tham khác, giải thoát khác. Nếu thừa nhận không nhàm chán cõi sắc, cõi vô sắc, mà có thể lìa tham hành tập, nhàm chán cõi kia, thì lý lìa tham tức nên hủy hoại. Hai trí diệt, đạo không duyên nơi cảnh nhàm chán mà duyên nơi địa dưới đối trị địa trên cũng không có lỗi.

Lại, như quán bất tịnh cùng vui thích mong muốn Niết-bàn. Nghĩa là quán bất tịnh duyên nơi cảnh của cõi dục, chỉ có khả năng khiến tâm chán bỏ cõi dục, vui thích mong muốn Niết-bàn, lúc hiện tiền thì có khả năng khiến tâm chán bỏ khắp cả ba cõi. Như thế, duyên nơi cõi dục, khổ tập trí sinh, chỉ có thể khiến tâm lìa nhiễm của cõi dục. Duyên nơi pháp của cõi dục, diệt đạo trí sinh, có thể khiến tâm lìa khắp nhiễm của ba cõi. Nên thừa nhận diệt, đạo nơi phẩm trí pháp tăng. Cho đến được thành định kim cương dụ.

Do đấy, Đại Thánh rất khéo nhận biết rõ, dựa nơi môn đối trị hoàn toàn, lập pháp, loại trí. Phần ít pháp trí có công năng đối trị cõi trên. Loại trí tất không thể đối trị cõi dục. Chủ yếu là đối với tự cõi đối tượng tạo tác đã chu toàn, mới có thể gồm làm đối tượng tạo tác của cõi khác. Không phải các loại trí khi sự việc của mình đã hoàn thành, sự việc của người khác chưa hoàn thành, có nghĩa cần hỗ trợ, nên không có loại trí đối trị pháp cõi dục.

Há không phải là đạo loại trí thứ mười sáu sinh? Nhân nơi trí này, liền tức có thể đối trị Hoặc của cõi dục. Vì sắp đoạn trừ Hoặc của cõi dục, thì loại trí không hiện hành. Nếu như thừa nhận hiện hành, nhưng do chướng của cõi mình đã ngăn ngại, tất không có uy lực có thể hỗ trợ thành đối tượng tạo tác của pháp trí ở cõi khác. Do đấy loại trí không có khả năng đối trị cõi dục.

Trong mười trí này, trí nào có hành tướng gì? Tụng nêu:

Pháp trí cùng loại trí

Hành tướng đều mười sáu

Thế tục đây và khác

Trí bốn đế đều bốn.

Tha tâm trí vô lậu

Chỉ bốn là duyên đạo

Hữu lậu duyên tự tướng

Đều chỉ duyên một sự.

Tận vô sinh mười bốn

Tức lìa không, vô ngã.

Luận nói: Pháp trí, loại trí, mỗi mỗi thứ đều có đủ mười sáu hành tướng như vô thường, khổ v.v… Mười sáu hành tướng nơi phần sau sẽ giải thích rộng. Thế tục trí có hành tướng này và lại có hành tướng khác, có thể duyên nơi tự tướng, cộng tướng v.v… của tất cả pháp. Nghĩa là thế tục trí hoặc có khi tạo đủ mười sáu hành tướng, như ở trong các vị noãn, đảnh, nhẫn v.v… Hoặc có khi thế tục trí không tạo đủ như thế đệ nhất, hành Tam-ma-địa lần nữa cùng hiện quán biên.

Hoặc có khi thế tục trí tạo tác riêng hành tướng không phải Thánh, như quán bất tịnh, trì tức niệm, từ v.v… Những hành tướng này là vô biên. Bốn trí như khổ v.v…, mỗi mỗi trí đều có duyên vào bốn thứ hành tướng nơi cảnh của đế mình. Trong tha tâm trí, nếu là vô lậu, thì chỉ có duyên nơi bốn thứ hành tướng của đạo. Đây tức thuộc về một phần của đạo trí. Nếu là hữu lậu thì nhận lấy cảnh nơi tự tướng của tâm tâm sở pháp, thuộc đối tượng duyên của chính nó. Như cảnh thì hành tướng của tự tướng cũng như thế, nên hành tướng này không phải thuộc về mười sáu thứ trước.

Hai thứ như thế, ở nơi tất cả thời gian, một niệm chỉ duyên nơi một sự làm cảnh. Nghĩa là khi duyên nơi tâm thì không duyên nơi tâm sở. Khi duyên nơi thọ v.v… thì không duyên nơi tưởng v.v…

Nếu như vậy thì vì sao Đức Bạc-già-phạm đã nói là nhận biết rõ như thật về tâm có tham v.v…?

Không phải cùng có thời nhận lấy tham v.v… và tâm, như không cùng lúc nhận lấy áo và vết bẩn. Ba thứ như tâm có tham v.v…, đối với tướng của tâm, xứ giải thoát của tâm, đã biện về sự sai biệt.

Sư Tỳ-bà-sa nêu bày như thế này: Tâm tụ, nghĩa là tâm thiện. Tâm này ở nơi đối tượng duyên không dong ruổi, phân tán. Tâm tán, nghĩa là tâm nhiễm. Tâm này cùng với tán động tương ưng khởi.

Kinh chủ cho giải thích này không thuận với Khế kinh. Kinh nói: Tâm này thế nào là nội tụ? Nghĩa là tâm nếu cùng với hôn trầm, thùy miên đều cùng hiện hành. Hoặc bên trong tương ưng với có chỉ, không quán. Thế nào là ngoại tán? Nghĩa là tâm giao tiếp với cảnh của năm diệu dục, tùy phân tán tùy lưu chuyển. Hoặc bên trong tương ưng với có quán, không chỉ.

Người phương Tây (Ấn Độ) giải thích bèn cho là thuận với Khế kinh. Nghĩa là tương ưng với miên, gọi là tụ, tâm nhiễm ô còn lại gọi là tán. Nhưng không có lỗi miên nhiễm ô, đều cùng có tâm chung cả tụ tán. Vì không thừa nhận miên đều cùng có nhiễm gọi là tâm tán. Không xét kỹ ý của kinh mà vọng tạo khen chê, do ý của hai kinh kia đây đều có khác. Trong kinh này nói về tâm có tham v.v…, vì khiến nhận biết phẩm nhiễm, tịnh của tâm khác nhau. Nghĩa là vì như thật nhận biết rõ về phẩm đen phẩm trắng của các tâm có nghĩa lý sai biệt, nên nói tham có tâm, lìa tâm tham v.v… Còn trong kinh kia thì nói về tâm tụ, tâm tán, vì khiến nhận biết rõ về chướng ngại của việc tu thần túc, do kinh kia đã nói là tự xét kỹ về tâm mình: Chớ quá chìm, chớ quá nổi, đừng trong tụ, đừng ngoài tán. Nghĩa là hành giả kia khi tu thần túc, nên tự quán xét kỹ về chướng ngại của tu thần túc: Tâm này biếng trễ, tâm này trạo cử, tâm này hôn miên, tâm này đối với sắc v.v… đã tác ý phi lý, đã dẫn truyền phân tán. Ý của kinh kia đây về đối tượng thực hiện đã khác, nên không thể dẫn kinh kia để ngăn chận chỗ giải thích về tướng của kinh này. Kinh kia chỉ nêu rõ về thời gian tu thần túc, tâm đối với trong ngoài đã có lỗi tu tán thái quá, không muốn phân biệt tướng nhiễm tịnh của tâm. Kinh này đã nói so với kinh kia là trái nhau. Tuy các tâm nhiễm đều có biếng trễ v.v… Vì chỉ rõ về lỗi lầm của các nhiễm có sai biệt, tùy theo phần vị tăng của nhiễm v.v… kia, lập tâm chìm đắm v.v… Lập tâm thúc đẩy v.v… nên biết là trái với đây. Cho nên cách giải thích của tông tôi là phù hợp, thuận với Khế kinh, cũng khéo phân biệt tướng khác của các tâm.

Phần luận thêm đã xong, nên thuật lại nghĩa chính.

Vì sao tha tâm trí có hành tướng, đối tượng duyên, nhưng nói là không quán hành tướng, đối tượng duyên?

Vì không quán hành tướng, đối tượng duyên của tâm người khác. Nghĩa là chỉ nhận biết tâm có nhiễm v.v… của người kia, không nhận biết tâm người kia đã nhiễm sắc v.v… Cũng không nhận biết hành tướng của chủ thể duyên kia. Không như vậy thì tha tâm trí cũng nên duyên nơi sắc v.v… Lại, cũng nên có lỗi về khả năng tự duyên.

Tha tâm trí vô lậu tức nên duyên nơi cảnh như khổ v.v…, tức là cũng nên thừa nhận tương ưng với không, vô tướng. Đã không thừa nhận như thế, nên biết là không quán về hai định kia. Các tha tâm trí có tướng quyết định. Nghĩa là chỉ có thể nhận lấy pháp hệ thuộc cõi dục, sắc và không phải đã bị hệ thuộc trong phần cùng nối tiếp của người khác, hiện tại là tâm tâm sở pháp đồng loại, một tự tướng thật làm cảnh nơi đối tượng duyên. Không, vô tướng không tương ưng với tận trí, vô sinh trí, vì đã không gồm thâu, không ở trong đạo vô gián của kiến đạo, vì pháp còn lại đã không ngăn chận, như nên chấp nhận có.

Tận trí, vô sinh trí, trừ không, vô ngã, đều có đủ mười bốn hành tướng còn lại. Do cùng với tâm xuất quán chuyển biến là trái nhau, nên ở trong quán không có hai hành tướng. Nghĩa là từ hai trí, sau khi xuất quán, tất tự nhận biết rõ: Nẻo sinh tử của ta đã hết v.v…

Ý trong đây nêu rõ: Tận trí, vô sinh trí tuy là thắng nghĩa, nhưng quan hệ với thế tục. Nẻo sinh tử của ta đã hết v.v… là thế tục. Không, vô ngã là thắng nghĩa, tất liên quan với thắng nghĩa. Sau quán này, quyết định nhận biết rõ không, vô ngã. Nên do hai trí này lìa không, vô ngã, vì có vô lậu. Vượt qua mười sáu thứ hành tướng này, lại là thuộc về hành tướng khác chăng? Tụng nêu:

Tịnh không vượt mười sáu

 Luận khác nói là có.

Luận nói: Các sư Đối pháp có một loại nêu rõ: Không có vượt qua mười sáu hành tướng vô lậu, vì lìa mười sáu thứ này, pháp khác không thể đạt được.

Há không phải có thuyết nói tận trí, vô sinh trí tất tự nhận biết rõ: Nẻo sinh tử của ta đã hết v.v…

Điều này không trái nhau, vì như trước đã nói. Nghĩa là trước đã nói về quán vô lậu. Sau trong thế tục trí tạo ra hành tướng này.

Không phải là trí vô lậu. Hành tướng ấy chuyển biến, do tận trí, vô sinh trí dẫn khởi thế tục trí. Công sức suy tìm ở gốc nói là nhận biết rõ như thật. Nên thừa nhận trí này lìa không, vô ngã. Do sức của ý lạc gốc đã khiến hai trí này về sau tất dẫn sinh: Nẻo sinh tử của ta đã hết v.v… Không phải do hành tướng này chuyển trong quán, khiến ở nơi thời gian sau khởi hành tướng ấy. Hành tướng như ngã v.v… trong quán tuy không có, nhưng do không ngu tự chứng nghĩa giải thoát. Nói về phần vị này tất đã nên có phần thế của hành tướng: Nẻo sinh tử của ta đã hết v.v… Do hành tướng thế tục trước dẫn sinh, có thể dẫn hành tướng thế tục trong thời gian sau, nên lìa mười bốn hành tướng thì không có tận trí, vô sinh trí.

Nếu cho ở đây nên nói lìa mười sáu không có, thì điều này không hợp lý, vì trừ mười bốn, số còn lại có tận trí, vô sinh trí, vì không phải là cực thành. Nghĩa là lìa mười bốn, có dựa vào mật thuyết, chấp: Nẻo sinh tử của ta đã hết v.v… là tận trí, vô sinh trí.

Vì ngăn chận chấp ấy, nên nói lìa mười bốn thì không có, số còn lại không cực thành, đâu thể đối trị với ngăn chận này.

Nếu như vậy đã có tha tâm trí vô lậu, nên vượt qua mười sáu có hành tướng vô lậu. Nghĩa là tha tâm trí đều dùng một tự tướng thật làm cảnh.

Hành tướng như đạo v.v… đều lấy cộng tướng tụ tập làm cảnh. Hành tướng kia đây đã khác, nên biết lìa mười sáu, quyết định có riêng hành tướng vô lậu. Vì không phải là nhất định thừa nhận, nên vấn nạn đã nêu là không hợp lý. Nghĩa là tông của tôi không phải đã quyết định thừa nhận. Hành tướng của cộng tướng chỉ duyên nơi tụ tập, thừa nhận có hai niệm trụ của thọ, tâm. Như quán thể của một thọ là vô thường. Khi trí này sinh, dùng hành tướng của cộng tướng, quán một tự tướng thật làm cảnh là cực thành.

Như thế đâu thể không thừa nhận tha tâm trí vô lậu?

Vì hành tướng của cộng tướng duyên nơi một tự tướng thật. Nghĩa là nhận biết tâm của người khác là chân đạo v.v…, tức duyên nơi một thật là tướng như đạo v.v…

Nếu cho: nên như niệm trụ thọ, tâm, duyên chung nơi thọ tâm hiện có của ba đời, làm hành tướng của cộng tướng như vô thường v.v…, thì tha tâm trí vô lậu cũng duyên chung nơi ba đời. Tâm vô lậu v.v… của người khác làm hành tướng như đạo v.v…, là trái với tự tông. Tha tâm trí khởi chỉ duyên nơi một tự tướng thật của hiện tại.

Giải thích này cũng không đúng, vì gia hạnh khác. Gia hạnh của trí này là muốn nhận biết người khác hiện có thể duyên nơi tâm có tham v.v…, tu riêng vô thường v.v… Gia hạnh của niệm trụ là chán bỏ chung. Các pháp hữu lậu do uy lực của gia hạnh trước có khác, đến khi thành mãn, thì hiện bày duyên chung dị biệt. Vì thế không có lỗi nên cùng so sánh.

Nếu cho vô thường không phải là tự thể của thọ, nên phải quán thọ là thời gian vô thường, không phải duyên nơi một tự tướng thật làm cảnh, đâu có thể dẫn thọ này dụ cho tha tâm trí. Tức thuyết kia nên thừa nhận thọ không phải là vô thường.

Không nên đối với thọ khởi quán vô thường, như thọ so với tâm, thể của chúng đều riêng khác, tất định không có quán thọ là tâm. Tuy tức quán thọ dùng làm vô thường, nhưng không có lỗi một vật có nhiều thể. Lãnh nạp vô thường, thể không có riêng khác, như tổn giảm tăng ích v.v…, không phải lìa lãnh nạp thì hành tướng còn lại nơi pháp còn lại cũng như thế.

Nếu như vậy tức nên cùng với Chí giáo là trái nhau. Như nói: Ở nơi thân trụ tuần tự quán thân nên nói là pháp trí. Cho đến nói rộng.

Lại nói: Quán lão tử tức nên nói là bốn trí đều cùng có, là không trái nhau. Lại, trước đã nói không phải là hiển bày về pháp trí v.v… lìa mười sáu hành tướng, trụ nơi thân tuần tự quán. Quán thân là thân, chỉ quán như thật là vô thường v.v…, thì tôi trước đã thừa nhận, hành tướng của cộng tướng, cũng dùng một tự tướng thật làm cảnh.

Thế nên thuyết của Sư kia đã nói, đối với tôi là không trái.

Về sau, tiếng lão tử là nói chung về thủ uẩn. Quán năm thủ uẩn là vô thường v.v…, là thuộc về bốn trí, đâu có trái nhau.

Nếu như vậy thì như nói: Khi thọ nhận lạc thọ thì nhận biết rõ như thật là thọ nhận lạc thọ, vì sao pháp, loại, thế tục trí này thuộc về đạo trí?

Ở đây nên xét chọn: Khi hiện tại thọ nhận, tất không nhận biết rõ, vì không tự duyên, nên cũng không thể nói là nhận biết rõ về quá khứ, vị lai, vì quá khứ vị lai không gọi là thời gian thọ nhận lạc. Nhưng Khế kinh nêu rõ: Khi thọ nhận lạc thọ thì nhận biết rõ như thật là thọ nhận lạc thọ. Nên biết kinh này nói là có riêng mật ý. Giải thích mật ý này như tận trí, vô sinh trí. Nghĩa là thời gian sau xuất quán mới khởi hành tướng này, nên hành tướng vô lậu vượt ra ngoài mười sáu thứ.

Không có một loại nào nói có vượt qua mười sáu. Vì Bản luận đã nêu bày. Như Bản luận nói: Từng có tâm không hệ thuộc mà có thể phân biệt nhận biết rõ pháp hệ thuộc cõi dục chăng?

Đáp: Có thể phân biệt nhận biết rõ. Nghĩa là phân biệt nhận biết rõ về vô thường, khổ, không, vô ngã, nhân, tập, sinh, duyên. Nên có xứ này, có sự này, như lý đã dẫn.

Chứng này không thành, vì mê chấp nơi ý của luận. Luận hiển bày về hành tướng không hệ thuộc là rất nhiều. Trong đó, có duyên nơi hệ thuộc cõi dục, dựa nơi cùng có để nói câu có xứ này, có sự này, chứng tỏ là không có điên đảo. Tức do đấy nên nơi phần còn lại không có câu nói ấy. Nghĩa là trong luận kia lại nói thế này: Từng có tâm của kiến đạo đoạn có thể phân biệt nhận biết rõ pháp hệ thuộc cõi dục chăng?

Đáp: Có thể phân biệt nhận biết rõ. Nghĩa vì phân biệt nhận biết rõ về: ngã, ngã sở, đoạn, thường, không nhân, vô tác, tổn giảm, tôn quý, thù thắng, trên, thứ nhất, có thể thanh tịnh, có thể giải thoát, có thể xuất ly, hoặc, nghi, do dự, tham, sân, mạn, si, không như lý đã dẫn. Trừ hành tướng này, thì không cùng có hành tướng khác. Do đấy không nói câu: Có xứ này, vì đều là điên đảo chuyển. Không nói câu: Có sự này, nên hành tướng tịnh không có vượt quá mười sáu. Vì lý giáo không trái, là không thể nghiêng động.

HẾT – QUYỂN 73