LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 78

Phẩm thứ 8: BIỆN VỀ ĐỊNH, phần 2

Tông của tôi nói về định, cho lạc căn của hai tĩnh lự đầu là chi thì trái với chánh lý nào?

Ông chấp thân thọ mới có lạc căn, không phải trong các định có thể khởi thân thức.

Há không phải là cùng với chánh lý này là trái nhau?

Điều ấy cũng không trái, vì Tông của tôi đã thừa nhận chánh ở tại phần vị định. Do sức của thắng định, khởi thuận với lạc thọ. Gió khinh an vi diệu, xúc chạm khắp nơi thân, phát sinh thân thức.

Nghĩa biện hộ giúp như thế cũng chưa lìa khỏi lỗi ở trước, chỉ khởi thân thức, không phải ở nơi định. Nghĩa là tông của tôi cũng thừa nhận đang ở nơi phần vị định, có ly sinh hỷ lạc đã dẫn cực vi hiện bày khắp ở trong thân, như sức thông lợi trong số đông, có khả năng đối trị các phẩm phiền não. Phần thô nặng của thân gồm thâu lợi ích nơi thân, cũng gọi là lạc không có não hại. Nhưng không thừa nhận ở trong phần vị của định này, có thể xúc chạm động thân phát sinh thân thức.

Quả của đẳng trì này khi sinh như thế, có năng lực khiến đẳng trì an trụ kiên cố, nên xúc vi diệu này dấy khởi là không uổng phí.

Nếu trong phần vị ấy chấp nhận khởi thân thức, vì bên ngoài tán loạn, nên đã hủy hoại đẳng trì.

Nếu cho gió này từ thắng định khởi, dẫn lạc của nội thân thuận khởi đẳng trì, nên thân thức sinh không có lỗi hủy hoại định, thì cũng không hợp lý. Tuy thuận với đẳng trì, nhưng thân thức sinh liền không phải là định, nên đang ở nơi vị định, có khi cùng với định trái nhau. Thức bất định sinh vì sao không hủy hoại định? Ví như thuận với định, nên không phải vĩnh viễn thoái mất, nhưng tâm tán sinh, đâu thể không phải là xuất định?

Không phải khởi gia hạnh thuận với định, tâm tán đã được gọi là chánh trụ nơi phần vị định.

Thế nên khi thân thức hiện tiền, về lý nên gọi là đã từ định xuất.

Đã như thế thì đâu thể nói là chi tĩnh lự? Lại, lạc này sinh nên gọi là gai nhọn của định. Do lạc thọ này đã khiến thân thức đều cùng sinh, xen tạp tâm định, khiến không nối tiếp. Lại dùng thân căn của cõi dục làm chỗ dựa, về lý không nên sinh xúc thức của cõi sắc, nên không thể nói thân ở cõi dục, thân thức đều cùng thọ lãnh xúc khinh an vi diệu của tĩnh lự đã sinh trong cõi sắc.

Nếu cho vì xúc này đã dựa nơi bên trong để khởi, nên chấp nhận dựa vào thân cõi dục phát sinh thức kia, thì đấy chỉ có lời nói, không có lý giáo. Nghĩa là lý giáo nào chứng biết dựa vào thân cõi dục, nhận lấy khinh an của cõi sắc, không phải xúc khác. Nên thuyết kia đã chấp là trái vượt với lý giáo. Chỉ tông Đối pháp đã nêu bày là không có lỗi.

Ở đây, Thượng tọa nói như thế này: Vì sao nhận biết được khinh an gọi là lạc?

Không ít Thánh giáo đối với thể của khinh an lập dùng tên gọi lạc. Lại, nhận thấy ở nơi phần còn lại này đã gọi là lạc, đối với nghĩa là không có ích. Nếu là thể của khinh an thì nên nói là danh xưng khinh an, không phải nói khinh an có lỗi không có lạc. Kinh nêu khinh an là nhân của lạc. Như Khế kinh nêu rõ: Tâm hỷ nên thân khinh an. Vì khinh an nên thân thọ nhận lạc.

Thế nên nhận biết lạc không phải tức là khinh an.

Phá bỏ luận điểm này là đồng với phần Kinh chủ đã dẫn ở trước. Tuy nhiên, thuyết kia nói: Nếu là thể của khinh an thì nên nói là danh xưng khinh an.

Thuyết này là phi lý, vì lỗi lẫn tránh chi tĩnh lự, nên nêu bày không đổi. Chớ nói nơi tĩnh lự thứ nhất là ly sinh hỷ khinh an. Lại trong nghĩa này khinh an gọi là lạc, đối với nghĩa là có ích. Do khổ của địa dưới đã bức não, vì khiến vui thích cầu sinh nơi địa trên. Nghĩa là nơi tất cả địa đều có khinh an.

Vì sao khiến nhận biết địa trên đều là lạc, phát khởi siêng năng tinh tấn, nhằm lìa nhiễm của địa dưới? Cho nên, đối với thể của khinh an, giả lập dùng tên lạc. Ở trong nghĩa này là hết sức có ích. Tuy lạc khinh an hiện bày khắp tất cả địa, nhưng nay ở trong chi tĩnh lự này, chỉ là nhân của quả lạc mới nêu gọi là lạc.

Tĩnh lự thứ hai tuy không có lạc căn mà nói khinh an kia là nhân của quả lạc, tức do lạc căn, hỷ căn cùng nêu gọi là lạc.

Nói khinh an nên thân thọ lạc, tức càng chứng biết khinh an được gọi là lạc.

Vì khinh an khởi công năng đối trị tánh thô nặng của phẩm hôn trầm trong thân, khiến thân nhẹ nhàng tươi vui an ổn thọ lạc. Trừ lạc này thì ngoài ra tất định không có thứ khác. Như là Thi la v.v… theo thứ lớp đã đạt được. Nên tông Đối pháp đã nêu bày là không có lỗi.

Nay nên xét chọn. Trong định thứ ba, địa ý vui thích thọ nhận đã được tướng hỷ, nên gọi là hỷ. Vì sao gọi là lạc?

Ở đây gọi là lạc cũng có nguyên nhân, do các hỷ căn không tĩnh lặng. Nghĩa là hỷ dao động mạnh làm nhiễu loạn tâm định, như sóng lớn của nước đã vọt lên, tung tóe. Địa ý của tĩnh lự thứ nhất, thứ hai thì vui thích thọ nhận. Vì có tướng như thế, nên được mang tên hỷ.

Trong định thứ ba thì tâm vui thích thọ nhận ấy, tướng của nó trầm lắng chuyển biến được mang tên lạc. Nên cộng dụng xả trong định này tăng thượng. Vì từ bỏ hỷ, nên lập chi hành xả.

Trong định thứ tư lại dứt bỏ lạc, nên hành xả kia được gọi là thanh tịnh.

Do đâu nơi các địa niệm tuệ đều có, nhưng niệm chỉ ở nơi hai tĩnh lự trên. Còn tuệ thì ở nơi định thứ ba mới được lập làm chi? Tùy đối tượng ứng hợp của chúng đã tùy thuận riêng. Nghĩa là hỷ cùng với lạc ở trong ba hữu, là các hữu tình đã rất tham đắm vị, là tột cùng trong đối tượng vị của tĩnh lự thứ ba, có lạc tối thắng trong sinh tử, về lý tức nên lập tuệ quán xét, chán bỏ. Nếu không có tuệ, thì căn thiện của tự địa hãy còn không thể thành, huống chi là tiến đến cầu đạt thù thắng.

Vì đối trị lỗi lầm của tự địa như thế, nên tĩnh lự thứ ba lập tuệ làm chi. Do ở địa khác thì không như thế, nên không lập tuệ.

Tĩnh lự thứ hai có hỷ tối thắng, vội gấp luôn nhiễu loạn như La-sát tư.

Trong định thứ ba có lạc tối thắng, như diệu dục của cõi trời, rất là khó xả bỏ.

Định thứ ba, thứ tư, do chi hành xả, tùy theo đối tượng ứng hợp của nó, tuy đã dứt bỏ, nhưng sợ khởi thoái chuyển nên lập niệm để ngăn chận, đề phòng. Địa khác thì không như thế, nên không lập niệm. Nhưng niệm thứ ba thì thế dụng vững mạnh, không phải chỉ hỗ trợ xả mà cũng có thể hỗ trợ tuệ, cùng chung có thể phòng bị lỗi của tự địa, tha địa.

Tĩnh lự thứ tư không như thế, vì không có lỗi của tự địa, do đấy tĩnh lự thứ tư không lập chi tuệ. Hoặc định thứ nhất, thứ hai, tầm hỷ dao động trôi nổi, tuy có niệm, tuệ đề phòng nhưng công dụng soi chiếu yếu kém.

Trong định thứ tư, bị hai xả che ngăn, vì thuận với vô minh, nên công dụng của tuệ không tăng, tức nên tuệ chỉ có nơi ba. Niệm thì chung nơi hai định trên. Hoặc vì lỗi của lạc ở định thứ ba là rất vi tế, nên không lập chi tuệ, vì không thể soi chiếu quán xét. Nếu không soi chiếu quán xét, thì không có nhàm chán lỗi lầm tai hại của tự địa, cầu đạt công đức của địa trên. Nhưng tầm hỷ của địa dưới so với sắc của địa trên là quá thô, tuy soi chiếu, chán bỏ, cầu đạt, nhưng chưa là đặc biệt, nên nơi ba địa còn lại tuệ không lập làm chi. Vì lỗi của lạc trong định thứ ba khó nhận biết rõ, như Đức Phật đã nêu, các Thánh giả nên nêu dẫn. Nên biết do trong định này công dụng của tuệ là tối thắng, vì có khả năng nhận biết lỗi vi tế, nên lập làm chi. Tuy tuệ của biên thứ tư cũng có khả năng hiểu rõ, nhưng chỉ là tướng chung chưa là đặc biệt. Nghĩa là tuệ kia cùng với lạc hệ thuộc với địa không đồng, là đạo lìa nhiễm, quán tổng quát về lỗi của địa dưới. Không phải như tuệ của tự địa, đồng một hệ thuộc, có khả năng quán riêng về lỗi, mới cho là kỳ lạ ít có, nên tự lập chi. Tuệ của địa trên thì không như thế. Lại các hành giả đã được tĩnh lự thứ ba, ở nơi biên thứ tư không phải đều tự tại, nên đối với khi sắp lìa lạc thọ nhiễm, tuệ kia không cùng lập làm thể của chi, nên chỉ định thứ ba lập tuệ làm chi. Nhưng khi đã hiểu rõ đúng và đầu tiên đã lìa đều nên phòng giữ, tức cần lập chi niệm.

Vì sao khinh an lập làm thể của chi?

Vì nơi hai định đầu, công dụng của khinh an tăng. Xúc trước đã ở nơi phần vị không thù thắng, do thế dụng này, nên tinh tấn siêng năng không bỏ, có thể khiến cùng nối tiếp, có khả năng gắng nhận, có thể hỗ trợ đẳng trì, khiến dẫn sinh đức thù thắng, vì có công dụng thù thắng, nên lập làm chi.

Danh xưng nội đẳng tịnh là nói về pháp gì?

Nói về tầm tứ được dứt ở nơi tâm định kiên cố.

Có thuyết nói: Thời gian trước, tầm tứ đã tác động thúc đẩy khiến tâm đối với cảnh không thể an trụ vững chắc. Nay ở nơi đối tượng duyên, mới có thể hoàn toàn hướng đến, nên nói nội đẳng tịnh, là nói về tâm định kiên cố. Nội đẳng tịnh kia làm sáng rõ tâm định này, là nói về định thù thắng, thì nội đẳng tịnh tức nên không có vật riêng. Tĩnh lự thứ hai nên chỉ có ba chi.

Giải thích kia chỉ nên khiến bằng hữu tín nhận, vì không có giáo lý chính thức để có thể làm chứng. Không phải là không có Thánh giáo nêu bày có bốn chi. Nói có ba chi là dựa nơi Thánh giáo nào? Cho nên thể của nội đẳng tịnh tức là tín căn. Nghĩa là nếu chứng đắc tĩnh lự thứ hai, thì ở nơi địa định, cũng có thể ở trong phần xa lìa, có tín sâu xa sinh khởi, gọi là nội đẳng tịnh. Nên tuy nơi các địa đều có tín căn, nhưng có thể lập chi, chỉ ở định thứ hai, do hiện nay mới tin, các pháp của địa định cùng với pháp của địa tán đều có thể lìa bỏ. Lại, thức thân tầm tứ của tĩnh lự thứ nhất, như nhiệt đọng lại trong bùn, tín không sáng sạch. Hai tĩnh lự sau, vì dụng của hành xả tăng, lấn át tín căn, nên không có nội tịnh. Nghĩa là do cảnh báo đánh thức thì tín lực mới tăng. Vì xả cùng với tín này là trái nhau, nên có thể lấn át tín. Vì tín là tướng tịnh, nên lập tên tịnh. Như ngọc báu thanh thủy đã khiến tâm tịnh. Nội tâm bình đẳng làm duyên nên sinh. Do đấy tín căn gọi là nội đẳng tịnh. Hoặc các công đức hiện có của định thứ hai, bình đẳng làm duyên dẫn sinh tịnh này. Do đấy kiến lập tên nội đẳng tịnh. Không phải chỉ tầm tứ đã được tĩnh lặng dứt hết làm thể, mà các pháp này đều là thuộc về tâm sở, như thọ, tưởng, tư là có riêng thể thật.

Có Bộ khác cho: Hỷ không phải hỷ thọ. Hỷ là thuộc về tâm sở pháp của hành uẩn. Trong ba định, lạc đều là hỷ thọ, nên hỷ, hỷ thọ, thể của chúng đều khác. Không phải lạc của ba định có thể gọi là hỷ thọ, vì hai A-cấp-ma đã là chứng cớ phân minh. Như trong Khế kinh biện về điên đảo đã nói: Dần dần diệt trừ hoàn toàn năm căn như ưu v.v… Trong định thứ ba thì diệt hỷ rốt ráo. Ở nơi định thứ tư thì diệt bỏ lạc cũng thế.

Lại nơi kinh khác nói: Tĩnh lự thứ tư thì đoạn lạc, đoạn khổ, trước đấy hỷ, ưu đã diệt mất, nên nơi định thứ ba tất không có hỷ căn. Do đấy, hỷ thọ là hỷ không phải là lạc.

Như trước đã nói: Trong tám đẳng chí thì bảy thứ trước đều có ba (vị, tịnh, vô lậu), đẳng chí thứ tám chỉ có hai (không có vô lậu).

Đối với các định nhiễm ô làm sao nhận biết là có?

Đây là do Khế kinh và luận đã nêu. Nghĩa là Khế kinh nói về tịnh, vô lậu rồi, cũng nói vì Đức Thế Tôn chưa nêu rõ về tất cả định, nên biết có định nhiễm khác chưa nói. Bản luận cũng nói: Đối với các tĩnh lự thì tất cả tùy miên của tự địa đã tùy tăng. Do các văn này tức nhận biết có định nhiễm, nên nói tĩnh lự gồm có hai thứ: Do định và sinh có sai biệt. Định lại có hai là nhiễm và không nhiễm. Không nhiễm lại có hai thứ là tịnh và vô lậu. Vô lậu lại có hai là học và vô học.

Lý sai biệt như thế là có rất nhiều. Trong tĩnh lự nhiễm là có chi chăng?

Có, nhưng không phải tất cả. Định nào là có, không có? Vì sao? Tụng nêu:

Nhiễm thứ lớp từ đầu

Không hỷ, lạc nội tịnh

Chánh niệm, tuệ, xả niệm

Thuyết khác, không an, xả.

Luận nói: Lại có một loại Luận giả tùy theo tướng để nêu bày, cho: Trong nhiễm của tĩnh lự đầu không có ly sinh hỷ lạc, không phải vì lìa phiền não mà được sinh. Tuy định nhiễm ô cũng tương ưng với hỷ, nhưng không phải nhân nơi ly sinh, nên không phải thuộc về chi. Ở đây, không chỉ nói lìa dục sinh hỷ mà cũng nói nhân lìa nhiễm của tự địa mà sinh. Do trong Khế kinh, trước nói thế này: Lìa các pháp dục ác bất thiện xong, lại nói ly sinh hỷ lạc. Trong đây đã nói lần nữa về chữ ly sinh, là nhằm làm rõ cũng có hỷ do lìa Hoặc của tự địa sinh. Vì hiển bày chi hỷ là tánh thiện, nên Đức Bạc-già-phạm đã hợp với lạc để nói. Tương ưng với khinh an tất là thiện. Do đấy định nhiễm tất không có chi hỷ. Nên chi nhiễm của tĩnh lự đầu chỉ có ba thứ. Trong nhiễm của tĩnh lự thứ hai, không có nội đẳng tịnh. Định kia vì bị phiền não làm nhiễu loạn, nên tuy các thế gian đều nói có tín nhiễm nhưng là không thuộc về bất tín, nên không lập chi. Lạc là khinh an, chỉ thuộc về tánh thiện, vì so sánh là đồng với định thứ nhất, nên không ngăn chận, nên chi nhiễm này chỉ có hai thứ. Nhiễm nơi định thứ hai thừa nhận có chi hỷ. Trong nhiễm của định đầu không dùng gì làm chứng, vì hỷ của định đầu nói là từ ly sinh. Trong định thứ hai không có nói ly sinh, nên trong nhiễm của định thứ ba không có chánh niệm, tuệ. Định kia vì bị lạc nhiễm làm mê loạn, nên trong định nhiễm ô tuy có niệm tuệ, nhưng vì bị mất niệm, nên không mang tên chánh tuệ, tức trong chi nhiễm thì hai thứ ấy không có. Hành xả chỉ là thuộc về đại thiện pháp, vì so sánh là đồng với định thứ tư, nên ở đây không ngăn chận. Vì thế chi nhiễm này chỉ có hai thứ. Trong nhiễm của định thứ tư, không có xả, niệm tịnh, vì địa kia bị phiền não làm nhiễm ô. Do đấy nhiễm của định thứ tư này chỉ có hai chi.

Có Sư khác nêu: Nhiễm nơi hai định đầu chỉ không có khinh an. Trong nhiễm của hai định sau chỉ không có hành xả, vì thuộc về đại thiện.

Thuyết kia nói: Trong nhiễm thì hỷ, tín, niệm, tuệ đều là thuộc về chi, vì đều chung nơi nhiễm.

Trong Khế kinh nói: Ba định có lay động. Định thư tư thì không động.

Dựa nơi nghĩa nào để nói như thế? Tụng nêu:

Thứ tư gọi bất động

Vì lìa tám tai họa

Tám, nghĩa là tầm, tứ

Bốn thọ, thở ra vào.

Luận nói: Ba tĩnh lự dưới gọi là có động, là có tai họa. Tĩnh lự thứ tư gọi là bất động, vì không có tai họa. Tai họa có tám. Tám thứ ấy là gì? Là tầm, tứ, bốn thọ, và hơi thở ra vào. Tám tai họa này nơi tĩnh lự thứ tư đều không có, nên Đức Phật, Thế Tôn nói là bất động. Nhưng kinh chỉ nói tĩnh lự thứ tư không bị các thứ tầm, tứ, hỷ, lạc làm động. Tức kinh thì theo mật ý nói. Luận thì dựa nơi pháp tướng. Vì Đức Bạc-già-phạm có xứ nói: Đoạn lạc, đoạn khổ, trước đấy hỷ, ưu đã mất, an trụ đầy đủ nơi tĩnh lự thứ tư.

Lại nói: Nơi định kia thân hành đều cùng diệt. Hơi thở ra hơi thở vào gọi là thân hành. Nên biết định này không phải chi riêng một mình tránh khỏi tai họa, là bốn tai họa do tầm, tứ, hỷ, lạc làm động.

Có Sư khác nói: Tĩnh lự thứ tư như đèn ở trong ngôi nhà kín, soi chiếu mà không động, nên gọi là bất động. Là dụ do kinh nói, nên tầm tứ đâu có lỗi để cầu được tĩnh lặng, dứt bỏ? Tầm tứ này có khả năng khiến tâm ở nơi cảnh giới của định tuy luôn buộc giữ niệm nhưng không tĩnh lặng. Như cành nhánh của cây dựa vào thân cây mà trụ, cùng với gió hợp, nên lay động không dứt.

Các Sư Du Già tuy không nguyện lạc, ở nơi hành tướng của cảnh, tâm mau chóng dễ giải thoát. Nhưng do sức của tầm tứ khiến tâm kia dong ruổi khắp, nên ở trong định, tầm tứ là có lỗi. Hỷ, lạc ở nơi định cũng có khả năng tác động thôi thúc. Nên chỉ bốn thứ này tương ưng với định, mà có thể làm tâm động, nên kinh nói riêng.

Nhưng thật ra thì hai hơi thở ra vào, hai thọ ưu khổ, cũng có khả năng tác động thúc đẩy, nên luận nói có tám. Hai pháp tầm tứ đã có lỗi này, không nên nói ở trong chi tĩnh lự. Kinh chỉ nên nói: Tầm tứ được tĩnh lặng. Vì sao chấp nhận cũng nói có tầm có tứ, là hiển bày về tầm tứ, tuy tương ưng với định, nhưng ở trong định có thể làm tai họa, vì không nói nên không hiểu rõ. Vì thế nhất định nên nói. Hoặc tầm tứ này, đối với định đầu tiên làm tư lương, làm đối trị phần xa các tầm dục ác. Về sau ở nơi định thù thắng mới là tai họa. Nên nói công dụng của tầm tứ là không vô ích.

Xả có nghi thức hành, là phương tiện theo pháp như thế. Nếu như là đối tượng xả, thì đầu tiên tất nên nương dựa. Như muốn qua sông, trước hết phải nương dựa nơi thuyền bè. Sau khi đến bờ bên kia, lý nên xả bỏ tất cả. Khế kinh nói: Dựa vào sắc xuất ly dục. Dựa vào vô sắc xuất ly sắc. Dựa nơi đạo xuất ly vô sắc. Nếu đạt được Niết-bàn cũng xuất ly Thánh đạo. Hai tầm tứ này chấp nhận có cùng với nhất tâm cùng hợp. Như gió mạnh yếu cùng với một cành cây hợp.

Nếu nghiệp của hai pháp ấy tức là có thể tác động, thôi thúc, thì vì sao nói tầm tứ này cùng với định tương ưng. Tâm của định thô cạn, tầm tứ đã thúc đẩy mới có thể xuất ly nhiễm thô của cõi dục, nên tầm tứ này được tương ưng với định thứ nhất. Do tương ưng này chưa là thanh tịnh. Như đèn dầu so với mặt trời đều cùng có duyên nhận thấy sắc. Đèn sáng nơi bóng tối nhỏ cùng soi chiếu không sáng rõ. Ánh sáng mặt trời có tác dụng lìa bóng tối, soi chiếu phân minh.

Như thế nên biết, định của tĩnh lự thứ nhất tuy tạo ra sự việc của mình, nhưng tầm tứ đều cùng có, chưa soi chiếu mà không có động, như tĩnh lự thứ tư. Nếu tầm ở nơi định có thể làm động loạn tâm, thì vô lậu nơi định cùng có cũng bị tai họa. Vì sao kiến lập làm chi của một đạo?

Đã nêu rõ về tầm kia có thể thúc đẩy chánh kiến, nên hành giả ở nơi định khi chưa tập quen, không thể nhận biết rõ đây là tai họa, nên đối với địa này không muốn chán bỏ. Nếu đã quen hành tập, tức có thể nhận biết rõ.

Trong tĩnh lự thứ nhất có tai họa này. Như nước trong ao lắng sạch liền có các thứ trùng cá sống ẩn ở bên dưới, có thể làm cho nước đục ngầu. Hành giả đã nhận thấy hai pháp tầm tứ trong tĩnh lự thứ nhất đã có thể làm động loạn, liền ở nơi một địa, sinh chán bỏ chung. Nghĩa là sự thô cạn này, Lý nên xả bỏ. Ở nơi tĩnh lự thứ nhất tầm tứ đã như thế, thì trong địa trên hỷ v.v… cũng như vậy. Như các thọ của tĩnh lự định có sai biệt, thì sinh cũng như vậy chăng? Không như vậy. Vì sao? Tụng nêu:

Tĩnh lự sinh từ đầu

Có hỷ, lạc, xả thọ

Và hỷ xả, lạc xả

Chỉ xả thọ, thứ lớp.

Luận nói: Trong tĩnh lự sinh, tĩnh lự đầu có ba thọ: (1) Hỷ thọ tương ưng với ý thức. (2) Lạc thọ tương ưng với ba thức. (3) Xả thọ tương ưng với bốn thức.

Tĩnh lự thứ hai có hai, nghĩa là hỷ cùng với xả, tương ưng với ý thức. Không có lạc thọ, hoàn toàn không có thức, vì tâm vui thích pháp thô.

Tĩnh lự thứ ba có hai, nghĩa là lạc cùng với xả, tương ưng với ý thức.

Tĩnh lự thứ tư có một, nghĩa là chỉ xả thọ, tương ưng với ý thức. Đó gọi là thọ của định sinh có sai biệt.

Ba tĩnh lự trên không có ba thức thân và không có tầm tứ.

Vì sao sinh nơi tĩnh lự kia có khả năng thấy, nghe, xúc cùng khởi biểu nghiệp? Không phải sinh nơi địa kia là không có nhãn thức v.v…, song không phải hệ thuộc địa kia. Vì sao? Tụng nêu:

Sinh ba tĩnh lự trên

Khởi ba thức biểu tâm

Đều thuộc tĩnh lự đầu

Chỉ vô phú vô ký.

Luận nói: Sinh nơi ba địa trên, khởi ba thức thân cùng phát khởi biểu tâm, đều thuộc định thứ nhất. Sinh trên khởi dưới, như khởi hóa tâm, nên có khả năng thấy, nghe, xúc cùng phát khởi biểu.

Bốn thứ này chỉ là vô phú vô ký. Không khởi nhiễm của địa dưới, vì đã lìa nhiễm. Không khởi pháp thiện của địa dưới, vì địa dưới yếu kém.

Như thế là đã giải thích riêng về sự của tĩnh lự xong. Đẳng chí như tịnh v.v… đầu tiên đắc như thế nào? Tụng nêu:

Toàn không thành mà được

Tịnh do lìa nhiễm sinh

Vô lậu do lìa nhiễm

Nhiễm do sinh và thoái.

Luận nói: Tám đẳng chí căn bản tùy theo đối tượng ứng hợp của chúng, nếu hoàn toàn không thành mà đạt được, thì các đẳng chí tịnh do hai nhân duyên: (1) Do lìa nhiễm. Nghĩa là ở địa dưới khi lìa nhiễm của địa dưới. (2) Do thọ sinh. Nghĩa là lúc từ địa trên sinh nơi tự địa.

Bảy địa dưới là đều như vậy. Xứ Hữu đảnh thì không thế, chỉ do lìa nhiễm vì không còn có địa trên, không có từ địa trên thọ sinh nơi địa kia.

Trong đây chỉ nói về đẳng chí căn bản, do các cận phần, khi chưa lìa nhiễm, có hoàn toàn không thành do gia hạnh đắc.

Ngăn chận gì nên nói hoàn toàn không thành?

Là ngăn chận đã thành lại được phần ít. Như do gia hạnh đắc đẳng chí gốc tịnh và do thoái chuyển, nên được thuận với phần thoái kia. Tức dựa nơi nghĩa này nêu ra câu hỏi nói: Từng có định tịnh, do lìa nhiễm đắc, do lìa nhiễm xả, do thoái đắc, do thoái xả, do sinh đắc, do sinh xả chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là thuận với phần thoái. Lại, nơi tĩnh lự thứ nhất thuộc về thuận phần thoái. Khi lìa dục nhiễm đắc, khi lìa tự nhiễm xả thoái, lìa tự nhiễm đắc thoái, lìa dục nhiễm xả, từ địa trên sinh tự đắc, từ tự sinh địa dưới xả. Thuộc về địa khác, nên như lý tư duy. Vô lậu thì chỉ do lìa nhiễm nên đắc. Nghĩa là Thánh lìa nhiễm của địa dưới đắc vô lậu của địa trên.

Ở đây cũng chỉ căn cứ theo hoàn toàn không thành. Nếu trước đã thành thì thời gian khác cũng đạt được. Nghĩa là ở vị tận trí được đạo vô học. Vào thời gian luyện căn thì được học, vô học. Gia hạnh khác và thoái chuyển đều như lý nên tư duy. Tuy có do nhập chánh tánh ly sinh, đạt được định căn bản, đẳng chí, vô lậu, nhưng không phải quyết định. Do thứ lớp: Nghĩa là bấy giờ, vì chưa được định căn bản, nên trong ấy chỉ luận về quyết định đắc. Thánh lìa nhiễm của địa dưới, tất định đạt được định vô lậu căn bản của địa trên. Nhiễm do thọ sinh và thoái chuyển nên được. Nghĩa là khi ở nơi địa trên mất, sinh xuống địa dưới, thì có nhiễm của địa dưới. Và khi ở nơi địa này lìa nhiễm thoái chuyển, có nhiễm của địa này. Không có do lìa nhiễm và gia hạnh đắc.

Hai thời gian như thế có thể xả nhiễm.

Đẳng chí nào vô gián có bao nhiêu đẳng chí sinh? Tụng nêu:

Vô lậu tiếp sinh thiện

Trên dưới đến thứ ba

Tịnh tiếp sinh cũng thế

Gồm sinh nhiễm tự địa.

Nhiễm sinh tự tịnh nhiễm

Và dưới một địa tịnh

Tử tịnh sinh tất cả

Nhiễm sinh từ nhiễm dưới.

Luận nói: Vô lậu tiếp theo sinh thiện của tự địa và địa trên dưới. Nói thiện là gồm thâu đủ tịnh và vô lậu. Vì rất trái nhau nên tất không sinh nhiễm. Nhưng đối với địa trên dưới đều đến thứ ba. Vì xa nên không thể vượt sinh nơi thứ tư. Nên ở trong bảy đẳng chí vô lậu, từ tĩnh lự thứ nhất vô gián sinh sáu. Nghĩa là tự, hai, ba đều là tịnh vô lậu. Vô sở hữu xứ vô gián sinh bảy. Nghĩa là tự địa, địa dưới sáu, địa trên chỉ tịnh. Tĩnh lự thứ hai vô gián sinh tám. Nghĩa là tự địa, địa trên sáu và địa dưới hai. Thức vô biên xứ vô gián sinh chín. Nghĩa là tự địa, địa dưới sáu và địa trên ba. Tĩnh lự thứ ba, thứ tư, không vô biên xứ vô gián sinh mười. Nghĩa là địa trên, địa dưới tám và tự địa hai.

Loại trí vô gián có thể sinh nơi vô sắc. Pháp trí thì không như vậy, vì dựa vào duyên riêng. Từ đẳng chí tịnh đã sinh cũng như thế, nhưng đều gồm sinh nhiễm ô của địa mình. Nên xứ Hữu đảnh tịnh vô gián sinh sáu. Nghĩa là tự địa tịnh nhiễm cùng tịnh, vô lậu của địa dưới.

Từ tĩnh lự đầu vô gián sinh bảy. Vô sở hữu tám. Định thứ hai chín.

Thức xứ sinh mười. Số còn lại sinh mười một.

Từ đẳng chí nhiễm sinh tịnh nhiễm của tự địa, cùng sinh tiếp theo định tịnh của một địa dưới. Nghĩa là bị phiền não của tự địa bức bách, nên đối với định tịnh của địa dưới cũng sinh tôn trọng, nên có từ nhiễm sinh. Tiếp theo tịnh của địa dưới vì rất trái nhau, nên không sinh vô lậu. Nếu đối với nhiễm tịnh, có thể nhận biết đúng, thì có thể từ nhiễm chuyển sinh tịnh của địa dưới. Tức là tịnh này trở lại từ tịnh sinh, do nhận biết rõ đúng là thuộc về tịnh. Không phải các thứ nhiễm ô mà có thể nhận biết rõ đúng.

Vì sao đẳng chí kia có thể từ nhiễm sinh tịnh?

Do sức của nguyện từ trước. Nghĩa là trước đã nguyện: Thà được tịnh của địa dưới, không cần nhiễm của địa trên.

Uy lực của nguyện từ trước đã tùy theo phần cùng nối tiếp chuyển, nên về sau từ nhiễm sinh định tịnh của địa dưới. Như trước lập nguyện mới hướng đến thùy miên, khi đến nơi chốn kỳ vọng liền có thể giác ngộ.

Như thế là đã nói về tịnh từ nhiễm sinh nhiễm, chỉ căn cứ ở nơi định tịnh và nhiễm để nói. Nếu sinh tịnh từ nhiễm sinh nhiễm thì không như vậy. Nghĩa là khi mạng chung, từ sinh đắc tịnh, mỗi mỗi vô gián sinh tất cả nhiễm. Nếu từ sinh nhiễm, thì mỗi mỗi vô gián có thể sinh tất cả nhiễm của địa dưới, tự địa, không sinh địa trên, vì chưa lìa nhiễm của địa dưới.

Đã nói từ tịnh sinh vô lậu, là tất cả chủng loại đều có thể sinh chăng? Không như thế. Vì sao? Tụng nêu:

Định tịnh có bốn thứ

Là tức thuận phần thoái

Thuận trụ, thuận thắng tấn

Thuận thuộc phần quyết trạch.

Như tiếp thuận phiền não

Vô lậu, từ địa trên

Hỗ tương như thứ lớp

Sinh hai, ba, ba, một.

Luận nói: Các đẳng chí tịnh gồm có bốn thứ: (1) Thuận thuộc về phần thoái. (2) Thuận thuộc về phần trụ. (3) Thuận thuộc về phần thắng tấn. (4) Thuận thuộc về phần quyết trạch.

Mỗi địa đều có bốn. Xứ Hữu đảnh chỉ có ba. Do địa của xứ Hữu đảnh kia lại không có địa trên để có thể hướng đến, nên địa đó không có phần thuận thuộc về phần thắng tấn. Trong bốn phần này, chỉ phần thứ tư là có khả năng sinh vô lậu. Vì sao? Do bốn thứ ấy có tướng như thế này: Thuận phần thoái thì có thể thuận với phiền não. Thuận phần trụ tức có thể thuận với tự địa. Thuận phần thắng tấn thì có thể thuận với địa trên. Thuận phần quyết trạch tức có thể thuận với vô lậu. Nên các vô lậu chỉ từ nơi phần này sinh.

Có Sư khác nói: Thuận phần thoái là trụ nơi địa kia có thể thoái chuyển. Thuận phần trụ là trụ nơi địa kia không thoái chuyển, cũng không tiến tới. Thuận phần thắng tấn là trụ nơi địa kia có thể tiến lên. Thuận phần quyết trạch là trụ nơi địa kia khởi Thánh đạo.

Có thuyết cho: Trụ nơi địa kia là thuận với phần thông đạt đế. Do đấy vô gián có thể nhập ly sinh, nên biết ở đây là nghĩa quyết định. Nghĩa là các Thánh đạo, tất do nơi vô gián này sinh, không phải vô gián này tất có thể sinh Thánh đạo. Nếu khác với đây tức là nên nói: Chỉ pháp thế đệ nhất gọi là thuận phần quyết trạch.

Có Sư khác nêu: Thuận phần thoái, nghĩa là cùng với các phiền não trên dưới cùng xen tạp, vì nhiễm tịnh lần lượt hiện ở trước. Thuận phần trụ, nghĩa là có thể dùng vô số hành tướng thô v.v… trừ bỏ hành tướng như tĩnh v.v… của địa dưới để thâu nhận tự địa. Thuận phần thắng tấn, nghĩa là quán công đức nơi tự địa vượt quá công đức của địa trên. Thuận phần quyết trạch: Như noãn, đảnh, nhẫn, pháp thế đệ nhất.

Vô lậu vô gián thì phần nào hiện tiền?

Có thuyết nói: Chung nơi ba, trừ thuận phần thoái. Lý thật chỉ là hai, nghĩa là hai phần sau.

Các hữu tình tu tập đẳng chí siêu việt v.v…, chỉ thuận với phần quyết trạch, vì phần này là rất kiên cố, thù thắng.

Các Sư Du Già nêu bày như thế này: Nếu hành giả tu quán đối với định của tự địa, không khéo thông đạt, không luôn an trụ, thì đối với định của địa trên không thể vui thích cầu đạt, thường thường hiện hành thuận với tưởng của địa dưới. Đẳng trì của hành giả kia gọi là thuận phần thoái. Hoặc do tự địa lìa nhiễm thoái chuyển đắc, gọi là thuận phần thoái, Bổ-đặc-già-la tạo thành định này, gọi là người thoái chuyển. Như thành hành tướng của bò, gọi là bò, hung dữ khó xoay chuyển nói là hành tướng của bò. Đối với định của tự địa thì tham đắm không bỏ, tức đối với định của địa trên, không thể vui thích cầu đạt. Đẳng trì của hành giả kia gọi là thuận phần trụ. Đối với định của tự địa, tuy có thể trụ nhiều, nhưng không tham đắm. Đối với định của địa trên thì luôn vui thích. Đẳng trì của hành giả kia đã dẫn dắt như thế, gọi là thuận phần thắng tấn. Đối với định trên của tự địa đều không đắm nhiễm, trụ nhiều nơi tưởng nhàm chán, vì hành giả kia muốn khiến đoạn đẳng trì, gọi là thuận phần quyết trạch.

Các hữu tình an trụ nơi thuận phần thoái, đối với quả rộng lớn, tâm phần nhiều bị trói buộc.

Các hữu tình an trụ nơi thuận phần trụ, thì thường trụ nơi định mình, không thể cầu địa trên.

Các hữu tình an trụ nơi thuận thắng tấn, thì có thể lần lượt cầu định thù thắng còn lại. Nhưng phần thắng tấn gồm có hai thứ: (1) Công đức thù thắng của tự địa. (2) Công đức thù thắng của địa trên. Nếu có thể dẫn dắt các công đức kia, gọi là thuận phần thắng tấn. Phần này có hai loại: Hoặc chán lìa, hoặc ưa thích.

Các hữu tình an trụ nơi thuận quyết trạch, thì ưa thích đoạn các hữu, vui thích tu vô lậu.

Đó gọi là an trụ nơi bốn phần có riêng khác.

Nếu thuận với phiền não, gọi là thuận phần thoái, thì các A-lahán đâu thể có lý thoái chuyển?

Không phải các A-la-hán kia cũng có định thuận phần thoái, có thể khiến hiện hành lìa nhiễm, xả bỏ. Tuy có vấn nạn này, nhưng thật sự không có trái. Nghĩa là trong thuận phần trụ có thuận với thoái, cũng được kiến lập tên gọi là thuận phần thoái. Từ trụ kia có thoái, như trước đã nêu rõ.

Bốn phần này cùng đối chiếu, hỗ tương sinh khởi. Đầu tiên có thể sinh hai. Nghĩa là thuận phần thoái, phần trụ.

Thứ hai thì sinh ba, trừ thuận phần quyết trạch.

Thứ ba tức sinh ba, trừ thuận phần thoái.

Thứ tư chỉ sinh một, nghĩa là tự địa, không phải là địa khác.

Có thuyết nói: Cũng sinh thuận phần thắng tấn. Như trên đã nói: Tịnh và vô lậu đều có thể ở nơi địa trên dưới siêu vượt đến địa thứ ba.

Hành giả vì sao tu đẳng chí siêu vượt? Gia hạnh thành mãn có sai biệt như thế nào? Tụng nêu:

Hai loại định thuận, nghịch

Quân gián thứ cùng siêu

Đến gián, siêu là thành

Ba châu, lợi vô học.

Luận nói: Đẳng chí thiện gốc được phần làm hai loại: (1) Hữu lậu. (2) Vô lậu

Đi đến trên gọi là thuận, trở lại dưới gọi là nghịch. Đồng loại gọi là quân (Đều), khác loại gọi là gián. Gần nhau gọi là thứ. Vượt qua một gọi là siêu. Nghĩa là người tu hành quán, khi tu định siêu vượt, trước hết đối với tám địa đẳng chí hữu lậu, quân thứ theo thuận nghịch hiện tiền thường xuyên hành tập.

Tiếp theo đối với bảy địa đẳng chí vô lậu, quân, thứ theo thuận nghịch hiện tiền thường hành tập.

Tiếp theo đối với đẳng chí hữu lậu, vô lậu quân siêu theo thuận nghịch hiện tiền thường hành tập.

Tiếp theo đối với vô lậu quân siêu theo thuận nghịch hiện tiền thường hành tập.

Đây gọi là tu tập gia hạnh siêu vượt đầy đủ. Về sau đối với đẳng chí hữu lậu, vô lậu, các thứ gián, siêu theo thuận nghịch gọi là định siêu vượt thành tựu.

Trong đây, nói siêu nghĩa là siêu vượt tức khắc hai thứ: (1) Siêu địa. (2) Siêu pháp.

Vì chỉ có thể siêu vượt một, nên đến địa thứ ba. Vì xa nên không thể siêu vượt nhập nơi địa thứ tư. Tu tập đẳng chí siêu vượt, chỉ ba châu thuộc cõi dục, trừ châu Bắc câu lô. Tuy nhiên, chung cho cả nam, nữ, các A-la-hán bất thời giải thoát, chủ yếu là đạt được vô tránh, diệu nguyện trí v.v… định biên vực, là có khả năng siêu vượt, không phải pháp khác. Vì định tự tại, vì không có phiền não. Thời giải thoát tuy không có phiền não, nhưng định không tự tại. Các người kiến chí, tuy định tự tại, nhưng còn có phiền não. Nên đều không thể tu đẳng chí siêu vượt. Tác ý thắng giải thì không thể vô gián, tu đẳng chí siêu vượt thì uy lực yếu kém.

Các đẳng chí này dựa vào thân gì để khởi? Tụng nêu:

Các định dựa tự dưới

Không phải trên, vô dụng

Chỉ Thánh sinh Hữu đảnh

Khởi dưới tận trừ hoặc.

Luận nói: Các đẳng chí khởi dựa nơi thân của tự địa, địa dưới. Dựa vào thân của địa trên thì không cùng khởi đẳng chí của địa dưới. Do ở nơi địa trên khởi địa dưới thì không có công dụng. Vì tự địa có định thù thắng, nên uy lực của địa dưới yếu kém. Vì đã từ bỏ, vì đáng chán lìa hủy hoại. Tướng chung tuy như vậy nhưng nếu theo phần vi tế đã nói, thì Thánh sinh nơi xứ Hữu đảnh, tất khởi vô sở hữu xứ vô lậu. Vì dứt hết phiền não còn lại của tự địa, vì tự địa không có Thánh đạo vui thích khởi, vì chỉ vô sở hữu là rất gần, nên khởi định kia hiện tiền, thì dứt hết phiền não còn lại. Vì lìa đạo vô lậu, tất không có khả năng đoạn Hoặc còn lại kia để thành A-la-hán.

Thế nên xứ Hữu đảnh và vô sở hữu xứ vô lậu dựa vào thân của chín địa, vô sở hữu xứ hữu lậu thì dựa vào thân của tám địa. Thức vô biên xứ vô lậu, hữu lậu dựa vào thân của bảy địa. Không vô biên xứ thì dựa vào thân của sáu địa. Cho đến định thứ nhất dựa vào thân của hai địa, nghĩa là tự địa và cõi dục. Nếu thành tựu dựa vào hữu lậu, như khởi vô lậu, thì tất cả đều dựa vào thân chín địa.

Trong các đẳng chí thì đẳng chí gì duyên nơi cảnh nào? Tụng nêu:

Vị định duyên tự buộc

Tịnh, vô lậu duyên khắp

Căn bản thiện vô sắc

Không duyên hữu lậu dưới.

Luận nói: Vị định chỉ duyên nơi pháp hữu lậu của tự địa, vì pháp hữu lậu là sự của đối tượng trói buộc.

Nói đối tượng trói buộc tức làm rõ là thuộc về ba hữu. Không duyên nơi pháp vô lậu, vì chuyển theo hành tướng của ái. Nếu ái là vô lậu, tức nên không phải là phiền não. Không duyên nơi pháp của địa trên, vì địa cõi của ái là riêng khác, không duyên nơi pháp của địa dưới, vì đã lìa tham kia. Tịnh và vô lậu đều cùng có khả năng duyên khắp. Vì tự địa, địa trên dưới, hữu vi, vô vi, vì đều làm cảnh. Có sai biệt: Tức vô ký, vô vi, không phải là cảnh của vô lậu. Chỉ ở nơi pháp hữu để nói về chủ thể duyên khắp, đều là đối tượng duyên, vì trước đã nêu rõ. Địa căn bản gồm thâu định vô sắc thiện, không duyên nơi các pháp hữu lậu của địa dưới, vì pháp của địa dưới thì không tĩnh lặng. Vì vô sắc thiện gốc là rất tĩnh lặng. Do lý này nên kinh đối với cõi vô sắc đều nói siêu việt tất cả địa dưới. Nơi các tĩnh lự thì không nói như thế, vì căn bản, vô sắc không duyên với phần trói buộc của địa dưới. Thế nên đối với địa dưới đã nói câu siêu việt.

Trong các tĩnh lự, vì có trí duyên khắp, nên đối với địa dưới không nói siêu việt.

Đã nói câu như siêu việt tưởng sắc v.v…, nên biết chỉ dựa nơi siêu vượt đối tượng duyên để nói. Nếu siêu việt này là hiển bày về lìa trói buộc, tức nên nói là siêu việt tất cả, không phải chỉ tưởng sắc v.v…

Lại, trong tĩnh lự nên nói siêu việt, pháp của tự địa, địa trên đều có thể duyên. Tuy cũng có thể duyên nơi vô lậu của địa dưới, nhưng chỉ duyên nơi phẩm loại, không duyên nơi phẩm pháp, do chỉ có thể duyên phần nói về hoàn toàn đối trị. Pháp không phải là hoàn toàn đối trị, như trước đã nêu dẫn.

Lại, pháp phẩm đạo đối với cõi vô sắc, tuy có khả năng đối trị nhưng là khách không phải là chủ, cũng không thể duyên nơi pháp của địa dưới diệt.

Đã ngăn chận căn bản, vô sắc duyên nơi địa dưới. Về nghĩa căn cứ theo cận phần có khả năng duyên nơi địa dưới, vì đạo vô gián kia tất duyên nơi địa dưới.

Ba thứ vị, tịnh, vô lậu trong đẳng chí, những lực nào có thể đoạn trừ các phiền não? Tụng nêu:

Vô lậu hay đoạn Hoặc

Và các tịnh, cận phần.

Luận nói: Các định vô lậu đều có thể đoạn trừ Hoặc. Tịnh căn bản hãy còn không thể đoạn, huống chi là các nhiễm mà có thể đoạn. Nghĩa là định tịnh căn bản không thể đoạn địa dưới, vì đã lìa nhiễm. Không thể đoạn địa trên, vì hơn hẳn tự địa. Không thể đoạn tự địa cùng Hoặc của tự địa, vì đồng một trói buộc. Lại, tự mình đối với tự mình, không phải là đối trị.

Nếu cận phần tịnh cũng có khả năng đoạn Hoặc, do đều có thể đoạn địa dưới kế tiếp. Tịnh thuộc về trung gian cũng không thể đoạn.

Cận phần có bao nhiêu thứ? Thọ nào tương ưng? Đối với ba thứ như vị, tịnh, vô lậu là đều có đủ chăng? Tụng nêu:

Cận phần tám xả tịnh

Đầu cũng Thánh, hoặc ba.

Luận nói: Các định cận phần cũng có tám thứ, cùng với tám định căn bản làm cửa nhập. Tất cả chỉ tương ưng với một xả thọ. Vì tạo ra công dụng chuyển biến, vì chưa lìa những sợ hãi của địa dưới, nên tám định cận phần này đều thuộc về định tịnh. Chỉ cận phần đầu tiên cũng chung nơi vô lậu, đều không có vị, vì là đạo lìa nhiễm.

Bảy cận phần trên không có vô lậu, do đối với pháp của tự địa đã không chán bỏ. Chỉ cận phần đầu tiên thì chung nơi vô lậu, vì đối với pháp của tự địa đã có thể chán bỏ. Địa này rất gần gũi với cõi có nhiều tai họa. Vì các dục tham do tầm tứ khởi. Vì địa này cũng có tầm tứ thuận theo.

Nếu như vậy thì do đâu Tỳ-bà-sa nói: Các địa cận phần có tâm do kiết sinh. Không phải không có tâm nhiễm mà có lý kiết sinh. Nên cận phần có vị tương ưng. Nay ở đây là ngăn chận có định nhiễm. Do không ngăn chận sinh nhiễm, nên không trái nhau.

Hoặc có Sư khác nêu bày như thế này: Định cận phần đầu tiên cũng có định nhiễm, vì chưa khởi định căn bản nên cũng tham vị này.

Do vị chí này có đủ ba thứ, trung gian, tĩnh lự cùng với các cận phần, là không có nghĩa riêng hay là cũng có khác?

Về nghĩa cũng có khác. Nghĩa là các cận phần là nhân của đạo lìa nhiễm, nhập nơi căn bản. Trung gian thì không như vậy. Lại có nghĩa riêng. Tụng nêu:

Trung, tĩnh lự không tầm

Đủ ba, chỉ xả thọ.

Luận nói: Cận phần căn bản đầu tiên tương ưng với tầm tứ. Trong bảy định trên thì đều không có tầm, tứ. Chỉ tĩnh lự trung gian thì có tứ, không có tầm. Nên định kia là hơn định đầu chưa có cùng định thứ hai. Vì dựa nơi nghĩa này, nên lập danh xưng trung gian. Do địa trên ấy không có tĩnh lự trung gian, vì một địa lên xuống thì không như thế. Nghĩa là định trung gian thuộc về tĩnh lự thứ nhất nhưng có sai biệt. Tức định này giảm tầm định trên lập trung gian.

Vì giảm gì để thành khác, nên định trung gian địa đầu tiên có, địa trên không có?

Há không phải là Khế kinh đã nói về bảy định nương dựa đâu thể nhận biết có riêng vị chí, trung gian?

Do có Khế kinh cùng với chánh lý. Lại có vị chí, như Khế kinh nói: Các hữu tình chưa có thể nhập định thứ nhất v.v… an trụ đầy đủ, nhưng do Thánh tuệ nên ở trong hiện pháp được các lậu tận. Nếu không có vị chí, thì Thánh tuệ dựa vào gì?

Lại, trong Khế kinh Tô Sử Ma nói: Người có tuệ giải thoát không đạt được định căn bản. Há không phải là dựa vào định thành tuệ giải thoát? Do đấy chứng biết có định vị chí, có định trung gian. Như Khế kinh đã nêu: Có ba Tam-ma-địa như Tam-ma-địa có tầm có tứ v.v… Kinh nói định đầu cùng với tầm tứ là đều cùng có. Trong định thứ hai v.v… thì tầm tứ v.v… đều dứt. Nếu không có tĩnh lự trung gian thì tĩnh lự nào có tứ, không có tầm, do tâm tâm sở lần lượt dứt hết. Lý nên có định có tứ không có tầm. Lại, Đại Phạm vương là chủ thế giới, lìa định trung gian thì cái gì làm nhân thù thắng? Do đấy chứng biết có định trung gian. Nhưng Đức Phật không thường thuyết giảng có vị chí, trung gian, vì hai định này tức thuộc về tĩnh lự thứ nhất. Nói tĩnh lự thứ nhất tức đã nói hai định kia. Chỉ cận phần đầu tiên gọi là vị chí, vì muốn phân biệt với các cận phần khác, không phải cận phần này nhân nơi định trước khởi.

Lại, không phải trụ nơi định này đã khởi áiv. Dựa vào nghĩa như thế lập tên vị chí. Không phải biên của định trên cũng gọi là vị chí, đều nhân nơi uy lực của định trước dẫn sinh. Và khi trụ nơi định kia là đã khởi vị.

Người của Tỳ-bà-sa nêu bày như thế này: Địa vị chí căn bản lập danh xưng vị chí. Là nghĩa đức của địa căn bản chưa hiện tiền. Định trung gian này có đủ ba thứ như vị v.v…, vì hệ thuộc riêng nơi một xứ sinh. Nghĩa là người dốc sức tu tập định trung gian, vị lai sẽ sinh nơi xứ Đại Phạm, nên cũng có đủ ba phần, như định căn bản. Không phải địa căn bản khởi ái tham vị kia. Như đối tượng vị có riêng, thì chủ thể vị cũng riêng. Ở đây có đức thù thắng, có thể ái vị, nên định vô lậu sinh cũng giảm dần. Định vô lậu này cũng hoàn toàn tương ưng với xả thọ. Vì không có ba thức thân, nên không có lạc thọ. Không có hỷ thọ, vì đã không chung với định đầu. Nhưng đối với tham của định đầu chưa có thể lìa bỏ. Lại do tự cố gắng theo công dụng chuyển, vì vậy nói là thuộc về khổ thông hành, không phải ưu khổ, vì đã xuất ly cõi dục.

Do đấy, hoàn toàn tương ưng với xả thọ. Định này có khả năng chiêu cảm quả của xứ Đại Phạm, phần nhiều người tu tập là vì Đại Phạm.

HẾT – QUYỂN 78