LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 79

Phẩm thứ 8: BIỆN VỀ ĐỊNH, phần 3

Đã biện về đẳng chí. Thế nào là đẳng trì? Kinh nói đẳng trì gồm có ba thứ: (1) Tam-ma-địa có tầm có tứ. (2) Tam-ma-địa không có tầm chỉ có tứ. (3) Tam-ma-địa không có tầm không có tứ.

Ba thứ như thế cùng có sai biệt như thế nào? Tụng nêu:

Đầu, dưới có tầm tứ

Giữa chỉ tứ, trên không.

Luận nói: Trước nay nhân nơi sự thường biện về ba Tam-mađịa này. Nay, ở đây là lược hiển bày về tướng riêng.

Tam-ma-địa có tầm có tứ: Nghĩa là đẳng trì cùng với tầm tứ tương ưng. Đây là thuộc về tĩnh lự thứ nhất và vị chí.

Tam-ma-địa không có tầm chỉ có tứ: Nghĩa là đẳng trì chỉ cùng với tứ tương ưng. Đẳng trì này tức thuộc về địa của tĩnh lự trung gian.

Tam-ma-địa không có tầm không có tứ: Nghĩa là đẳng trì không tương ưng với tầm tứ. Đẳng trì này là từ cận phần của tĩnh lự thứ hai, cho đến thuộc về phi tưởng phi phi tưởng.

Khế kinh lại nói có ba thứ đẳng trì: (1) Tam-ma-địa không. (2) Tam-ma-địa vô nguyện. (3) Tam-ma-địa vô tướng.

Ba thứ như thế khác biệt như thế nào? Tụng nêu:

Không là không, phi ngã

Vô tướng tức diệt bốn

Vô nguyện là mười khác

Tương ưng hành tướng đế

Đây chung tịnh vô lậu

Ba giải thoát vô lậu.

Luận nói: Tam-ma-địa không: Nghĩa là đẳng trì tương ưng với hai thứ hành tướng không, phi ngã (vô ngã). Nên nói đẳng trì không là đối trị gần hữu thân kiến. Thân kiến cũng có hai hành tướng. Nghĩa là hành tướng không thì đối trị gần ngã sở kiến. Hành tướng phi ngã tức đối trị gần ngã kiến.

Quán pháp phi ngã, gọi là hành tướng phi ngã. Quán trong đấy vô ngã gọi là hành tướng không. Do hành tướng không này đối trị gần ngã sở kiến.

Do trong đấy đều vô ngã, nên pháp này không phải là ngã sở.

Há không phải là hành tướng không tức là hành tướng phi ngã?

Nhận biết pháp này là phi ngã, trong đấy là vô ngã, hai thứ hành tướng này cuối cùng có gì riêng khác?

Không phải là không có sai biệt. Nói trong đây là vô ngã, tức không thể chứng thành vì rốt cùng là không có Thể. Nghĩa là ở đây chỉ hiển bày kia đây đều cùng là không có, tức không thể hiển bày thành vì rốt cùng là vô ngã. Do pháp có Thể cũng cùng là không có.

Nếu nói pháp này là phi ngã, tức hiển bày ngã rốt cùng là không có, do pháp tướng của tất cả pháp là bình đẳng. Do đấy, nếu tu hành tướng phi ngã, là đối trị ngã kiến. Tu hành tướng không, thì đối trị ngã sở kiến.

Thế nào là Tam-ma-địa vô tướng không riêng khác?

Nghĩa là đẳng trì tương ưng với duyên nơi bốn thứ hành tướng của diệt đế. Vì Niết-bàn lìa các tướng nên gọi là vô tướng. Duyên nơi Tam-ma-địa kia nên được mang tên vô tướng.

Tướng lược có mười. Nghĩa là năm thứ sắc v.v…, hai thứ nam, nữ và ba tướng hữu vi. Hoặc lại tướng là tên gọi khác của nhân. Vì Niết-bàn không có nhân, nên gọi là vô tướng. Hoặc tướng nghĩa là phẩm thượng trung hạ của uẩn thế gian. Vì Niết-bàn thì khác với uẩn kia, nên gọi là vô tướng.

Tam-ma-địa vô nguyện: Nghĩa là đẳng trì tương ưng với duyên nơi mười thứ hành tướng của các đế còn lại. Mười thứ hành tướng: Nghĩa là khổ, vô thường, nhân, tập, sinh, duyên, đạo, như, hành, xuất.

Ba Tam-ma-địa như không v.v… như thế, tướng của Tam-mađịa tuy không có sai biệt, nhưng dựa nơi đối trị ý lạc đối tượng duyên, như thứ lớp ấy để kiến lập ba thứ. Do ý lạc nên không nguyện mong ba hữu. Về lý lại có thể như thế, vì hữu là lỗi lầm tai hại, đâu thể nói do ý lạc không nguyện mong đạt Thánh đạo? Vì các Thánh đạo nương dựa thuộc về hữu.

Nếu như vậy thì đâu dùng tu tập Thánh đạo, vì Niết-bàn này có khả năng hướng đến nhân, nên không phải lìa Thánh đạo mà có được Niết-bàn? Vì cầu đạt Niết-bàn nên tu Thánh đạo. Vì đạo như thuyền bè, tất nên bỏ. Cũng do ý lạc không nguyện mong Thánh đạo, nên duyên nơi hành tướng của đạo cũng được mang tên vô nguyện. Do tâm vốn kỳ vọng nhàm chán hữu vi. Tướng không, vô ngã, thì không phải là đối tượng chán bỏ, vì so với tướng của Niết-bàn là tương tợ. Do hai hành tướng này tuy duyên nơi pháp đáng nhàm chán, nhưng không nhận lấy tướng đáng nhàm chán, nên không được mang tên vô nguyện.

Ba đẳng trì này chung cho cả tịnh, vô lậu, thuộc về đẳng trì thế gian, xuất thế gian. Vì thuộc về thế gian nên chung nơi mười một địa.

Thuộc về xuất thế gian thì chỉ chung nơi chín địa.

Vì biên của bảy định trên không có đức thù thắng, nên ở trong đó vô lậu được gọi là ba môn giải thoát, có thể cùng với Niết-bàn làm môn nhập. Không phải các pháp hữu lậu là môn giải thoát chân thật, vì tánh trụ nơi thế gian trái với giải thoát.

Ba Tam-ma-địa duyên nơi cảnh riêng khác. Nghĩa là nếu không hữu lậu tức duyên nơi tất cả pháp. Nếu không vô lậu thì chỉ duyên nơi khổ đế. Vô nguyện có thể duyên nơi khổ, tập, đạo đế. Vô tương thì chỉ duyên nơi diệt đế làm cảnh.

Ba Tam-ma-địa với niệm trụ riêng khác. Nghĩa là vô tướng chỉ là pháp niệm trụ. Hai Tam-ma-địa còn lại đều chung nơi bốn niệm trụ. Khế kinh lại nói về ba lớp đẳng trì: (1) Tam-ma-địa không không. (2) Tam-ma-địa vô nguyện vô nguyện. (3) Tam-ma-địa vô tướng vô tướng.

Ba thứ như thế khác biệt như thế nào? Tụng nêu:

Hai lớp duyên vô học

Lấy tướng không, vô thường

Sau duyên định vô tướng

Phi trạch diệt là tĩnh

Người hữu lậu bất thời

Lìa bảy cận phần trên.

Luận nói: Ba đẳng trì này duyên nơi không v.v… ở trước, nhận lấy tướng như không v.v… nên lập tên không không v.v… Đẳng trì không không duyên nơi Tam-ma-địa không vô học ở trước, nhận lấy tướng không kia, vì tướng không thuận với phi ngã nhàm chán thù thắng. Nghĩa là hành giả kia, trước khởi đẳng trì vô học, đối với năm thủ uẩn tư duy về tướng không. Từ đây về sau, khởi đẳng trì tương ưng với căn thiện thù thắng, duyên nơi Tam-ma-địa không vô học ở trước, tư duy về tướng không, ở nơi không nhận lấy không nên gọi là không không. Như thiêu đốt tử thi, dùng gậy xoay chuyển. Tử thi đã cháy hết xong, cây gậy cũng nên đốt. Như thế, do không thiêu đốt phiền não xong, lại khởi định không, chán bỏ đẳng trì không trùng không ở trước. Hành tướng không về sau khởi, tức lại trở lại cùng với hành tướng không tương ưng, chỉ không này là rất có khả năng thuận với chán bỏ. Hành tướng vô ngã thì không như thế.

Người kiến vô ngã, đối với các pháp hữu vi, khởi tâm chán bỏ, không như kiến không. Các hữu tình đã kiến các pháp vô ngã, nhưng đối với các hữu cũng còn sinh ưa thích, do ở trong các hành, không xét kỹ về kiến không. Do định không này tuy hai hành tướng cùng có, nhưng chỉ gọi là không, không nói là phi ngã, vì không đối với sự việc chán bỏ là hoàn toàn tùy thuận.

Đẳng trì vô nguyện vô nguyện duyên nơi vô nguyện vô học ở trước., nhận lấy tướng vô thường. Nghĩa là hành giả kia trước là khởi đẳng trì vô học, ở trong năm thủ uẩn, tư duy về tướng vô thường. Từ đấy về sau khởi đẳng trì tương ưng nơi căn thiện thù thắng, duyên nơi Tam-ma-địa vô nguyện vô học ở trước, tư duy về tướng vô thường, đối với vô nguyện không nguyện mong, gọi là vô nguyện vô nguyện. Tức nêu dụ để hiển bày như trước nên biết. Hành tướng vô thường của đẳng trì trùng vô nguyện, về sau khởi, tức lại trở lại cùng với hành tướng vô thường tương ưng. Chỉ hành tướng này là có khả năng duyên nơi đạo nhàm chán. Không phải hành tướng khổ có thể duyên nơi Thánh đạo. Thánh đạo không phải là nẻo khổ, vì là diệt khổ. Pháp khổ không thể hướng đến nơi chốn tịch diệt của khổ. Cũng không phải bốn hành tướng như nhân v.v… có khả năng duyên nơi Thánh đạo, vì Thánh đạo không thể khiến khổ cùng nối tiếp. Nên bốn thứ như phi đạo v.v… ở đây là chán bỏ đạo. Không phải hành tướng vui thích có thể tạo chán bỏ.

Há không phải như vô nguyện đã không nguyện mong Thánh đạo, nhưng tạo ra bốn hành tướng như đạo v.v… ở đây cũng nên như thế.

So sánh ấy là không đúng. Vì vô nguyện chính là chán hữu, gồm đối với Thánh đạo đã khởi tâm không nguyện mong. Nghĩa là vô nguyện trước chính là chán nơi hữu, vì Thánh đạo dựa vào hữu, nên gồm luôn là không nguyện mong. Tuy đối với ý lạc nói là không nguyện mong về đạo, nhưng đối với Thánh đạo không phải chính là ghét bỏ nhàm chán, nên cũng có khả năng tạo ra bốn thứ hành tướng như đạo v.v… Vô nguyện vô nguyện chính là ghét bỏ nhàm chán đạo, nên dùng vô thường để quán lỗi lầm của đạo. Hành tướng như đạo v.v… không có chấp nhận nhàm chán đạo. Thế nên ở đây không tạo ra bốn thứ hành tướng kia.

Nếu đạo là vô thường, nên đáng nhàm chán, tức nên đối với Thánh đạo tạo ra hành tướng khổ có tướng kia. Như Khế kinh nói: Các hành vô thường tức là khổ. Không phải các Thánh đạo có thể có tướng khổ để an lập đế lý, vì tướng đều riêng khác. Nghĩa là dựa nơi tướng riêng để lập danh xưng khổ đế, thì Thánh đạo vì sao cũng có tướng khổ. Lại trong Khế kinh đã phân biệt để nói. Như Khế kinh nói: Nói tóm tắt thì tất cả năm thủ uẩn là khổ.

Nếu đạo là vô thường, nên có khổ tương ưng, là chỉ nói về uẩn. Đã nói thủ uẩn mới là thuộc về khổ. Do đấy chứng biết Thánh đạo không phải khổ.

Nếu cho ví như quán tập là khổ, tướng đế tuy riêng, nhưng kiến không phải là điên đảo, vì năm thủ uẩn là chung nơi khổ, tập.

Như thế nên biết, quán đạo là khổ, tướng đế tuy là riêng, nhưng kiến cũng không phải là điên đảo, vì uẩn vô lậu đã chung nơi khổ đạo. Do đấy, không hủy hoại sự việc an lập đế lý.

Luận giải này cũng phi lý. Lại định không nên quán tập là khổ, vì kiến không phải là điên đảo. Do tánh nhân của năm thủ uẩn gọi là tập, tánh quả gọi là khổ, tánh của chúng đều khác.

Nếu quán nhân là quả tất quán quả là nhân, vì nhân duyên sai biệt nên không thể được, tức là kiến điên đảo, không phải thuộc về quán đế. Đâu thể cho là không hủy hoại việc an lập đế lý. Thế thì nên không có trí khổ tập khác nhau. Hoặc tức nên khổ đạo trí như khổ tập trí. Vì đối tượng duyên không khác biệt, nên lập chung là nhận biết khắp. Nghĩa là thuyết kia đã nói khổ tập là đồng thể, quán tập là khổ không phải là kiến điên đảo, vì cảnh của hai trí này là đồng, nên không lập riêng nhận biết khắp.

Như thế nên nói: Khổ, đạo là đồng thể, quán đạo là khổ, không phải là kiến điên đảo, vì cảnh của hai trí là đồng, nên không lập riêng nhận biết khắp. Đã không thừa nhận như vậy, vì đạo đâu thể là khổ?

Lại đạo so với sự khổ đều riêng khác. Nghĩa là Khế kinh nói: Năm căn vô lậu đối với quá khứ, vị lai, hiện tại đều có khả năng đoạn trừ chúng khổ. Lại nói đạo có thể đoạn trừ do sinh là gốc khổ. Lại, Khế kinh đã nói là đạo nên tu tập, khổ nên dứt tuyệt vĩnh viễn, nên đạo không phải là khổ.

Nếu cho như kinh nói: Pháp như thuyền bè, cũng nên đoạn bỏ, về lý cũng không đúng, vì kinh không nói về đối tượng đoạn của pháp đối trị. Nghĩa là ở vào thời gian trước đã tu pháp Thánh đạo, công việc làm đã làm xong, không nên tu nữa. Dựa vào nghĩa nên xả bỏ để nói, gọi là nên đoạn, không phải đối tượng đoạn của đối trị so với khổ là không đồng. Hoặc tiếng pháp trong kinh là nói về các pháp như Khế kinh v.v… nên nói đoạn là làm rõ được diệu chỉ, thì quên phần giảng giải. Hoặc pháp do kinh đã nói hãy còn nên đoạn, chứng tỏ là đã cho quả, thì không còn dùng pháp của nhân. Có thể xả bỏ gọi là đoạn, như thuận phần trụ. Không phải như tánh của khổ, nên đạo cũng có thể đoạn. Vì thế đạo khổ, thể của chúng đều khác.

Lại, nếu kinh nói: Các hành vô thường tức là khổ, tức nói Thánh đạo cũng có tướng khổ. Kinh tiếp theo cũng nói: Các hành là khổ, tức là vô ngã, nên cho Niết-bàn không phải là tánh vô ngã. Hoặc nên cũng thừa nhận là khổ, vô thường. Đã thừa nhận thì nhất định tức nên không phải là tánh Niết-bàn. Nếu cho chỉ nói các thứ khổ này đều là vô ngã, không nói vô ngã đều là khổ. Vì sao cũng không nói: Các khổ này đều là vô thường, không nói vô thướng đều là khổ?

Nếu cho thể của vô thường tức là khổ, khổ tức là vô ngã, chỉ tên gọi là có khác, thì không, vô nguyện tức nên không có sai biệt, vì đã thừa nhận vô ngã tức là khổ v.v…

Nếu cho kinh nói: Khổ tức là vô ngã, tức thừa nhận tất cả khổ đều là tánh vô ngã. Kinh này đã nói vô thường tức là khổ, tức nên thừa nhận vô thường đều là tánh khổ. Lý thật là như thế, do trong kinh này đã nói vô thường, không nói về đạo.

Vì dựa vào pháp nào để nói về từ vô thường?

Vì các người ngu đối với năm thủ uẩn chấp là thường v.v… khởi bốn thứ điên đảo. Vì nhằm phá trừ chấp đó, nên nói từ vô thường. Nhân đấy lại nói vô thường tức là khổ. Câu nói này hiển bày hữu lậu, vô thường đều là tánh khổ, khổ đều là vô ngã. Không phải nói tất cả là vô thường, là vô ngã.

Lý tất nên như thế, vì trong Khế kinh, đối với cảnh chấp thường nên nói vô thường. Hoặc ở trong đây nói là vô thường, không phải chỉ kèm theo sinh diệt, chủ yếu là mạng chung, thọ sinh. Nghĩa là các người ngu chấp về lạc của nẻo người, trời, nên kinh đã dựa vào lạc kia có vô thường thô để nói tức là khổ, như ba nẻo ác.

Lấy gì để chứng biết trong kinh này câu nói vô thường v.v… chỉ nương dựa nơi hữu lậu?

Do phần sau của kinh này lại nói: Các pháp như sắc, thọ v.v…

là vô ngã, nên là vô thường. Há có thể cho Niết-bàn cũng là tánh vô thường?

Nên biết kinh này chỉ căn cứ theo Thánh tuệ, đối với bốn thứ hành tướng duyên nơi khổ đế để thuyết giảng. Nếu cho Thánh đạo là vô thường nên khổ, thì đâu thể không thừa nhận đạo vì vô lậu nên không phải là khổ?

Nếu cho đối với lạc chấp là khổ kiến, thì vì sao chỉ nói kiến diệt, đoạn? Đối với diệt cho là khổ, thì lỗi đó là rất nặng. Nghĩa là kiến Niết-bàn cho là khổ, là hoàn toàn có thể làm tăng trưởng tâm ưa thích sinh tử. Kiến đạo thì không như vậy, thế nên nói riêng. Như bệnh chán bỏ thuốc thì dễ có thể trị liệu. Nếu chán việc bệnh lành thì khó cứu chữa. Hoặc các Thánh đạo vì dựa nơi khổ mà chuyển, nên thấy là khổ, thì lỗi không phải là nặng lắm. Do đấy trong luận đã lược bớt không nói. Vì thuyết giảng chưa trọn vẹn, nên về nghĩa là không trái nhau.

Lại, Khế kinh nói: Nếu đối với hỷ, lạc, nhận biết như thật là lạc, thì ta nhất định nói người kia đối với lý của bốn đế đã hiện quán như thật. Nên biết hữu vi không phải hoàn toàn là khổ.

Do đấy, đối với đạo có thể quán vô thường, thành trùng vô nguyện, tất không quán khổ.

Đẳng trì vô tướng vô tướng tức duyên nơi Tam-ma-địa vô tướng vô học, dùng phi trạch diệt làm cảnh, vì pháp vô lậu không có trạch diệt, nên chỉ nhận lấy tướng tĩnh, không phải là diệt, diệu, ly. Nghĩa là hành giả kia, trước hết khởi đẳng trì vô học, ở trong trạch diệt, tư duy về tướng tĩnh. Từ đấy về sau, khởi đẳng trì tương ưng với căn thiện thù thắng, tức duyên nơi Tam-ma-địa vô tướng vô học dùng phi trạch diệt làm cảnh, tư duy về tướng tĩnh. Ở nơi vô tướng diệt, lại quán là vô tướng, gọi là vô tướng, vô tướng. Nêu dụ để hiển thị, như trước nên biết. Hành tướng tĩnh của đẳng trì trùng vô tướng, về sau khởi, tức lại trở lại cùng với hành tướng tĩnh tương ưng. Chỉ hành tướng này là có khả năng quán phi trạch diệt. Không phải là hành tướng diệu, vì cảnh là vô ký. Không phải là hành tướng ly, do tuy đã chứng đắc phi trạch diệt kia, nhưng cũng còn bị trói buộc theo.

Không phải là hành tướng diệt, do phi trạch diệt không phải là vĩnh viễn giải thoát khỏi tất cả khổ.

Lại, nếu quán diệt lẫn lộn với vô thường, nên đã nói là tĩnh, tức chỉ làm rõ về sự ngừng dứt, nên phi trạch diệt được có tướng tĩnh. Vì tu Thánh đạo, trải qua khó nhọc lâu xa, nên ở trong sự ngừng dứt kia, liền sinh tưởng lạc. Vì thế đẳng trì trùng vô tướng đã nhận lấy tướng tĩnh không phải là pháp khác.

Ba đẳng trì trùng chỉ là hữu lậu, vì đối với Thánh đạo sinh tưởng chán bỏ, không phải định vô lậu chán bỏ Thánh đạo.

Hai thứ trước duyên nơi Thánh đạo nhận lấy không, vô thường, về lý có thể gọi là chán bỏ Thánh đạo. Đẳng trì vô tướng vô tướng chỉ duyên nơi vô vi, tạo thành hành tướng tĩnh. Vì sao gọi là chán đạo? Ở đây là vui thích đẳng trì vô tướng vô học.

Vì nhân không chuyển nên gọi là chán đạo. Nghĩa là hành giả kia nhất định dấy khởi nghĩa, nói thế này: Đẳng trì vô tướng không sinh là thiện. Người này đã vui thích khen ngợi Thánh đạo không sinh. Vì sao không gọi là chán bỏ Thánh đạo?

Vì định vô tướng trước không phải là đối tượng duyên ở đây. Vì sao đẳng trì này gọi là vô tướng vô tướng?

Hoặc nên thừa nhận định này không duyên nơi phi trạch diệt, chỉ duyên nơi vô học, vô tướng không sinh.

Giải thích này cũng không đúng. Vì căn cứ theo giải thích trước. Nghĩa là duyên nơi định vô tướng đạt được phi trạch diệt, thì phi trạch diệt này cũng lìa các tướng. Vì duyên nơi vô tướng vô tướng, nên được danh xưng vô tướng vô tướng. Duyên nơi cảnh vô tướng, tạo hành tướng tĩnh, thế nên định này từ cảnh lập tên. Chỉ người của ba châu là có khả năng khởi. Định này dựa chung nơi nam nữ, vì dựa vào thân nữ cũng có thể đạt tự tại. Vì thọ mạng có dài ngắn, nên chỉ là vị vô học. Vì người hữu học chỉ vui thích về Thánh đạo, chưa có khả năng chán bỏ. Đẳng trì này cũng không phải là tất cả, chỉ bất thời giải thoát, vì thời giải thoát thì yêu mến Thánh đạo. Đẳng trì này nương dựa nơi mười một địa, trừ biên của bảy địa trên. Do biên của bảy địa trên không có đức thù thắng. Nếu ở nơi cõi dục thì từ vị chí gồm thâu Thánh đạo khởi sau. Nếu ở nơi xứ Hữu đảnh thì vô sở hữu gồm thâu Thánh đạo sinh sau. Ngoài ra đều ở nơi tự địa, Thánh đạo khởi sau. Căn cứ theo loại chung để nói, thì đây là từ bốn trí pháp, loại, khổ, diệt vô gián mà sinh. Nếu căn cứ theo loại riêng để nói thì thuộc về cõi dục, không phải là loại trí sinh sau.

Thuộc về cõi trên, không phải là pháp trí khởi sau. Hai thứ trước không phải là diệt trí khởi sau. Thứ ba không phải là khổ trí sinh sau. Các hành tướng còn lại thì khởi sau định này. Người nên được định này, đều là lúc có tận trí, do lìa nhiễm đắc. Về sau do gia hạnh mới khởi hiện tiền. Chỉ Đức Thế Tôn là không do gia hạnh, thuận với hướng giải thoát khởi đẳng trì ấy hiện tiền. Đối với đạo hãy còn nhàm chán, há vui thích các hữu.

Từ đây về sau, cũng khởi Thánh đạo hiện tiền. Nhưng vì nhàm chán đạo, nên không phải là vô gián khởi.

Thuộc về cõi dục, là do tư tạo thành. Số còn lại là do tu tạo thành, vì đều dựa nơi định khởi.

Khế kinh lại nói có bốn thứ tu đẳng trì: (1) Vì trụ nơi hiện pháp lạc tu Tam-ma-địa. (2) Vì đạt được tri kiến thù thắng tu Tam-ma-địa. (3) Vì đạt được tuệ phân biệt tu Tam-ma-địa. (4) Vì các lậu vĩnh viễn dứt hết tu Tam-ma-địa.

Bốn thứ như thế cùng có sai biệt như thế nào? Tụng nêu:

Vì được hiện pháp lạc

Tu các tĩnh lự thiện

Vì được tri kiến thắng

Tu thiên nhãn thông tịnh

Vì được tuệ phân biệt

Tu các gia hạnh thiện

Vì được các lậu tận

Tu định kim cương dụ.

Luận nói: Như Khế kinh đã nói có tu đẳng trì, hoặc tập hoặc tu, hoặc hành tác nhiều thì đạt được hiện lạc trụ, cho đến nói rộng.

Nói thiện là gồm thâu chung tịnh và vô lậu. Tu các tĩnh lự thiện được trụ nơi hiện pháp lạc. Nhưng kinh chỉ nói về tĩnh lự thứ nhất, trong ấy tưởng lạc là rất tăng thịnh. Nghĩa là vượt qua cõi dục có rất nhiều lỗi lầm, nên ở trong đó tưởng lạc tăng nhiều. Như lữ hành băng qua sa mạc, vừa nóng bức vừa khát nước, mệt nhọc, nên mới gặp nước đục cũng sinh khởi vui thích nhiều. Hoặc an vui của Thánh đạo thì hành giả này có đủ. Nghĩa là gồm đủ tất cả pháp Bồ-đề phần, bốn quả Sa-môn, chín đoạn nhận biết khắp, đối trị ba cõi.

Lại là nhân tạo an lạc của các định, đứng đầu nơi các định. Thế nên nói riêng.

Há không phải là kinh đã nói Bí-sô như thế, trụ nơi định này trước thọ nhận ly sinh hỷ lạc, sau sinh nơi Phạm chúng, thọ nhận lạc đồng với đây.

Vì sao không nói trụ nơi pháp lạc sau?

Chứng tỏ ở đây chỉ nói về hiện pháp lạc. Vì khiến trừ bỏ lạc hiện có là dục lạc, nên nói về lạc của định hiện tại, khiến hành giả kia vui thích. Hoặc hiện lạc trụ là chỗ dựa của lạc sau, nên chỉ nêu bày đối tượng nương dựa thì chủ thể nương dựa đã hiện rõ. Như Khế kinh nói: Trước trụ trong định này, nhập các đẳng chí, sau mới sinh nơi tĩnh lự kia.

Hoặc hiện pháp lạc ba thừa đều an trụ, vì lạc sau không nhất định thế nên không nói. Nghĩa là hoặc thoái đọa, hoặc thọ sinh nơi cõi trên, hoặc bát Niết-bàn, liền không trụ. Tuy các tĩnh lự tức hiện pháp lạc, nhưng vì dựa vào cận phần, nên nói là đạt được. Như nói do sức của tu cận phần nên đạt được căn bản. Hoặc tức dựa vào hiện lạc để nói câu là đạt được. Như nói về thể nơi đứa con trai của đá, nên không có lỗi.

Có thuyết nói: Định này, Đức Phật dựa nơi tự thuyết, như nói Bồ-tát cư ngụ tại rừng Thiệm Bộ, đầu tiên khởi định vô lậu giống với thế gian, có khả năng dẫn sinh lạc chung của tất cả hữu tình. Do đấy, không nói về pháp lạc trụ sau, tức vì thế nên cũng chỉ nói về tĩnh lự đầu tiên, vì Bồ-tát bấy giờ chỉ đạt được định thứ nhất. Nếu dựa vào các định tu thiên nhãn thông, liền có thể đạt được tri kiến thù thắng.

Ở đây đã dựa nơi nghĩa nào để lập tên tri kiến? Trong tĩnh lự căn bản có trí soi chiếu khắp. Vì trí này soi chiếu khắp, nên lập dùng tên kiến. Thể của kiến tức tri nên gọi là tri kiến.

Nhãn căn gọi là kiến, thế gian đã cực thành. Vì phân biệt khác với nhãn căn kia, nên dùng tri để nêu rõ kiến. Hoặc tức kiến này đã quyết đoán về đối tượng duyên, nên gọi là tri, tức cũng gọi là kiến. Nghĩa là tĩnh lự căn bản là đạo lạc hành, không nhọc công sức nhiều mà được hiện tiền, vì không nhọc công sức, nên thể ấy là vững chắc. Do thể vững chắc nên dụng quyết định, vì dụng quyết định nên lập dùng tên tri. Nghĩa của kiến như trước đã nói, nên gọi là tri kiến. Vì tri, vì kiến tu đẳng trì này, tức là vì cầu đạt nghĩa soi chiếu quyết định. Nghĩa này cũng là do Đức Thiện Thệ đã dựa vào tự để giảng nói. Nghĩa là làm rõ Phật đã dùng thiên nhãn thông, quán xét về hiểm nạn sinh tử của các hữu tình, mới vì họ cứu độ, nên khởi tĩnh lự v.v… Tức vì tri kiến tu thiên nhãn thông.

Có Sư khác cho: Vì muốn điều phục thắng các tùy phiền não, nên khởi tri kiến thù thắng. Khởi tri kiến thù thắng này, không lìa tưởng quang minh. Tưởng quang minh này dẫn sinh thiên nhãn thông. Do thiên nhãn thông nên đạt được tri kiến thù thắng. Nếu tu các gia hạnh thiện của ba cõi và thiện vô lậu, tức đạt được tuệ phân biệt. Nghĩa là từ cõi dục, cho đến xứ Hữu đảnh, các pháp thiện do văn, tư, tu tạo thành và tất cả hữu vi, vô lậu khác, nói chung gọi là pháp thiện gia hạnh. Tu pháp thiện này có thể dẫn tuệ sinh. Ở trong các cảnh sai biệt mà chuyển, nên nói tu gia hạnh này tức đắc tuệ phân biệt. Như nói: Đức Thiện Thệ trụ nơi hai tầm tứ, có thể nhận biết như thật về các thọ khởi v.v… Đây là hiển bày tu thiện đạt được tuệ phân biệt. Nói chữ gia hạnh là để phân biệt với sinh đắc. Không phải sinh đắc mà do tu tập đạt được pháp chưa từng được. Nếu tu định kim cang dụ thì được các lậu vĩnh viễn dứt hết. Nghĩa là nếu tu tập tĩnh lự thứ tư, thì định kim cang dụ và pháp tùy chuyển, liền có thể đạt được các lậu vĩnh viễn dứt hết.

Tĩnh lự thứ tư, Đức Phật dựa vào tự thuyết. Bồ-đề vô thượng dựa vào tĩnh lự này mà chứng đắc. Định kim cang dụ chứng đắc tức khắc các lậu hết hẳn, dẫn tận trí sinh, nên nêu bày riêng.

Có thuyết nêu: Tất cả đối trị đoạn của xứ Hữu đảnh. Tĩnh lự thứ tư đều thuộc về Hữu đảnh ấy. Kinh này đã nêu rõ hoặc tập hoặc tu, hoặc hành tác nhiều, về nghĩa có sai biệt. Vì muốn chỉ rõ về đối tượng đối trị của tu tập, tu đắc lại xa, như thứ lớp của chúng như thế.

Đã biện về định của đối tượng nương dựa. Sẽ biện về sự việc dựa vào định dấy khởi các công đức. Trong các công đức, trước biện về vô lượng. Tụng nêu:

Vô lượng có bốn thứ

Vì đối trị như sân v.v…

Từ bi tánh không sân

Hỷ, hỷ xả không tham.

Hành tướng này thứ lớp

Cho vui cùng cứu khổ

An ủi các hữu tình

Duyên hữu tình cõi dục.

Hỷ, tĩnh lự đầu, hai

Khác sáu hoặc năm mười

Chẳng thể đoạn các Hoặc

Người khởi định thành ba.

Luận nói: Vô lượng có bốn thứ: (1) Từ. (2) Bi. (3) Hỷ. (4) Xả.

Nói vô lượng: Nghĩa là vô lượng hữu tình làm đối tượng duyên.

Bốn thứ này vì có thể dẫn sinh vô lượng phước, vì vô lượng quả ái đều dùng bốn thứ này làm nhân.

Có thuyết nói: Bốn thứ này có thể trái bỏ đối với vô lượng hý luận. Các Hoặc như tham v.v… đều gọi là hý luận.

Do đâu vô lượng có bốn, không có tăng giảm?

Vì đối trị bốn thứ, đa số là chướng của hành. Như Khế kinh nói: Hoặc tập, hoặc tu, hoặc hành tác nhiều, Từ có khả năng đoạn trừ sân, Bi có khả năng đoạn trừ hại, Hỷ đoạn không vui thích, Xả đoạn dục tham sân, nên chỉ có bốn. Sân nghĩa là tâm sở muốn giết hữu tình. Tâm sở muốn xúc não hữu tình, gọi là hại. Tham đắm cảnh giới đối với các phẩm thiện, không ưa thích trụ nơi nhân, gọi là không ưa thích an vui. Đối với cảnh của dục diệu, khởi nhiễm vui thích, tình không chán đủ gọi là dục tham.

Trong đây, từ bi dùng không sân làm tánh.

Nếu như vậy thì hai vô lượng này có gì sai biệt?

Tánh tuy không khác, nhưng Từ có thể đối trị sân hận giết hại hữu tình, chuyển biến theo hành tướng vui. Bi thì đối trị sân hận xúc não hữu tình, chuyển biến theo hành tướng buồn. Đấy gọi là sai biệt. Như khổ so với lạc về lãnh nạp tuy đồng nhưng về tổn ích thì có khác, nên thể có dị biệt.

Thể của khổ, lạc có sai biệt, như trước đã biện. Hai thứ từ bi có sai biệt cũng như thế.

Có thuyết cho: Bi là bất hại, vì đối trị gần hại. Lý thật là như thế. Chỉ vì hại là do sân, giống với danh nêu của sân. Hành tướng của bi cũng giống với không sân, nên lập tên không sân nhưng thật sự là không hại.

Các Sư xưa nêu rõ: Hỷ tức hỷ thọ. Do đâu người hành quán, bấy giờ có hỷ thọ sinh? Nếu duyên với ban cho vui thì cùng với Từ không khác. Nếu duyên nơi cứu khổ tức nên cùng với Bi là đồng.

Lại Khế kinh nói: Vì vui thích nên sinh hỷ. Hỷ tức là hỷ thọ, như trước đã biện. Hành tướng của hỷ này so với vui thích kia là đồng. Vì hỷ nên sinh hỷ, về nghĩa có gì khác nhau?

Nếu nói về nghĩa dưới trên tức có khác, thì khinh an so với lạc về nghĩa cũng nên như thế. Vì nhân duyên sai biệt không thể đạt được.

Lại trái với Bản luận: Thế nào gọi là hỷ?

Nghĩa là hỷ, hỷ tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức v.v… Ý trong đây là hiển bày hỷ đều cùng có với pháp phẩm. Vì hỷ tăng thượng, nên lập chung tên hỷ. Không phải thọ, vì thọ cùng có lý kia quyết định.

Nếu hỷ tức là hỷ thọ thì vì sao nói cùng có với thọ?

Nếu nói đối trị dùng lý làm lượng nên không có lỗi như thế, thì tụng đã theo văn của Bản luận. Điều này cũng không đúng. Lý làm lượng để luận, chủ yếu phải có kinh làm chứng cớ mới có thể quyết định về văn. Nếu so với kinh là trái thì lý tất có thể hoại, không nên tùy ý vội sửa đổi văn của luận.

Thế nên hỷ này nhất định không phải là hỷ thọ, vì vui thích làm thể, hoặc tức là không tham. Nghĩa là có riêng tham là tâm sở ác, đối với loại hữu tình khởi tư duy như thế này: Làm sao sẽ khiến các thứ lạc hiện có, pháp kia không thể đạt được, đều thuộc về ta. Hỷ có thể đối trị tham kia, nên là không tham. Không tham này cùng với hỷ căn tất đều cùng hành, nên ba địa có thể đạt được, như hối, ưu đều cùng có. Hỷ cũng có tướng không tham rõ ràng. Đối với sự việc hưng thịnh của người khác, tâm không tham vướng. Nhận biết người khác đạt được hết sức sinh hoan hỷ, an vui. Vì đối trị tâm nóng bức, gọi là hỷ, nên biết hỷ này cũng là tánh không tham.

Xả vô lượng, thể của nó chỉ là không tham. Xả này so với vô lượng thứ ba (hỷ) là có sai biệt. Nghĩa là lìa tưởng ái sân bình đẳng duyên nơi hữu tình. Như mới vào rừng cùng sinh khởi nhận biết về cây. Nhân của hành bình đẳng, gọi là xả. Nếu xả vô lượng cũng có khả năng đối trị sân, thì vì sao chỉ không tham so với từ có gì khác? Lại thừa nhận xả này chính là đối trị dục tham, thì so với quán bất tịnh có sai biệt gì? Lại xả so với từ có sai biệt. Nghĩa là từ có khả năng đối trị với sân, đã dẫn sân dùng không sân làm thể. Xả có khả năng đối trị với tham, đã dẫn sân, dùng không tham làm thể.

Há không phải như xả dùng không tham làm tánh, cũng có thể đối trị tham đã dẫn sân?

Như thế là đã thừa nhận từ, dùng không sân làm tánh, cũng nên có thể đối trị sân đã dẫn tham?

Vấn nạn này là không hợp lý, vì hành tướng trái nhau. Nghĩa là hành tướng của xả là cùng trái với tham, sân. Vì tướng của xả đối với thân, không thân có sai biệt. Từ đấy ái, sân đều cùng không sinh. Tức do đó nên xả chỉ là không tham, chính là có thể đối trị tham gồm đối trị sân. Hành tướng của từ thì trái với sân, không phải là tham, đối với các hữu tình ban cho vui mà chuyển. Do đấy, từ, xả tuy đều trái với sân, nhưng từ thuận với tham, xả thì có thể trái với hại.

Thế nên hai thứ này rất có sai biệt. Hoặc người tu xả là đối trị sân của phi xứ. Vì từ đối trị sân của xứ nên có sai biệt. Bất tịnh cùng với xả, như thứ lớp có khả năng đối trị dâm tham nơi tham khác, nên có sai biệt.

Bốn vô lượng này không phải gây tạo tổn ích nơi người khác, do đâu chỉ là thiện, không phải là tánh vô ký?

Vì có thể đối trị gần tham, sân, vì ái, phi ái cùng không thể dẫn phát, vì lực có thể khiến tâm tự tại chuyển biến.

Thể tướng như từ v.v… đã lược phân biệt. A-thế-da (ý lạc) này có sai biệt. Quán loại hữu tình như chính mình, nghĩa là Từ. Vui thích khiến loại hữu tình lìa khổ, nghĩa là Bi. Đối với sự hưng thịnh của người khác luôn vui mừng, nghĩa là Hỷ. Đối với thân oán đều cùng không suy nghĩ, nghĩa là Xả. Lại không quan sát người khác có tổn có ích. Bình đẳng quán tất cả như bạn, nghĩa là Từ. Đối với người gặp khổ khởi thương xót, nghĩa là Bi. Do sức của thắng giải tưởng về loại hữu tình được ích, lìa tổn, thì vui mừng, nghĩa là Hỷ. Đối với tướng của hữu tình bình đẳng quán, nghĩa là Xả.

Bốn hành tướng này có sai biệt. Làm thế nào để khiến các loại hữu tình đạt được an lạc như thế? Tư duy như vậy là nhập nơi đẳng chí Từ. Làm thế nào để khiến các loại hữu tình lìa khổ như thế? Tư duy như vậy là nhập nơi đẳng chí Bi. Các loài hữu tình được vui lìa khổ, há không là vui thích sao? Tư duy như vậy là nhập nơi đẳng chí Hỷ. Các loại hữu tình bình đẳng, bình đẳng, không có thân oán. Tư duy như vậy là nhập nơi đẳng chí Xả. Sở nguyện như thế cuối cùng không có thành tựu, há không phải là vô ích?

Do công sức tu định, có khả năng điều phục sân vv… đâu thể cho là vô ích?

Nên là điên đảo, làm sao có thể hàng phục Hoặc?

Nguyện được lạc v.v… đâu thể cho là điên đảo? Nghĩa là ở đây không nói đã được lạc v.v…, chỉ do thắng giải, nghiệp mong các hữu tình sẽ được an lạc v.v… Vì có thể điều phục trừ bỏ các Hoặc, nên tu bốn vô lượng này, công sức không hề uổng phí.

Ở trong định uẩn đã nói về bốn hành tướng. Vì sao khiến như nhau?

Đầy đủ như trước đã nói.

Nói tư duy như thế là nhập nơi đẳng chí như vậy. Câu nói này, nếu căn cứ theo đẳng vô gián duyên, thì từ v.v… tức nên không có lý vô gián sinh, vì tư duy riêng đã dẫn khởi. Nếu là cùng sinh, thì nói nhập tức là trái nhau. Trong phần vị nghiệp đầu tiên thì gia hạnh riêng dẫn dắt, đến phần vị thành mãn cũng có cùng sinh. Định uẩn căn cứ theo phần đầu tiên, nói nhập không có lỗi. Lại, từ vô lượng nguyện đạt được lạc nào?

Có thuyết nói: Nguyện đạt được lạc của định thứ ba, vì trong các thứ thọ lạc, lạc này là tối thắng. Nếu tự mình chưa chứng thì do nghe nên nhận biết.

Có thuyết cho: Nguyện đạt được diệu lạc của Niết-bàn, vì ở trong các lạc thì lạc này là hơn hết.

Có thuyết nêu: Nguyện đạt được lạc của bậc A-la-hán. Lạc này là đã giải thoát khỏi các phiền não. Người tu tập nghiệp đầu tiên chưa chứng lạc này. Vì chưa hiện chứng, nên không thể vận dụng tâm, chỉ duyên với tự thân tùy thuận lạc đã chứng, cùng do người khác đã chứng, hiện có thể nhận biết, nguyện mong các hữu tình đồng chứng lạc này, nên chỉ duyên nơi hiện như lý đã sinh, không có lạc nhiễm ô, nguyện mong người khác đồng thọ nhận. Hoặc ở nơi đối tượng thọ nhận đã xả bỏ, Bí-sô nếu như chưa đạt được đối trị chân thật, thì cũng ở xứ thanh vắng, thọ nhận lạc xa lìa. Sức mạnh có thể lấn át hỷ của Thiên Đế Thích v.v… như trong Già tha đã nói về năm lạc v.v… Lại, người trụ nơi chốn xa lìa siêng năng tu thiện, thì định có thiện được niệm, niệm luôn truyền đi, như nước của biển cả tràn đầy khắp cùng nối tiếp. Hỷ, khinh an, lạc do đấy dẫn sinh, dùng tâm không keo kiệt duyên nơi lạc như thế, nguyện mong các hữu tình hết thảy đồng thọ nhận.

Có Sư khác nói: Lạc của hàng hữu học, vô học thù thắng đã thọ nhận.

Vì sao quán chỗ yếu kém để trao cho người khác, không ở nơi vị lai, trở lại chiêu cảm quả thua kém?

Nếu cho không muốn đem lạc này ban cho chỗ hơn, liền trái với sự việc duyên khắp hữu tình làm cảnh, chỉ do không có tiếc phước hỗ trợ cho đối tượng nương dựa. Thật sự thì không thể khiến người khác được lạc. Như có người nghèo, dùng các thứ vật dụng sinh sống thô xấu của mình đã thọ nhận kêu gọi thí cho người giàu. Tuy các người giàu đều không mong cầu ân huệ này, nhưng kẻ thí cho kia cũng không có lỗi, vì biểu thị tâm tự kính, không có keo kiệt. Ở đây cũng như thế, nên không có lỗi. Như ở nơi ruộng đất tốt gieo trồng một thứ giống nhỏ bé, về sau có được quả nhiều mà lại lớn, như nửa hạt quả sa, các thứ dưa, bầu v.v… Nên không phải quán chỗ yếu kém để trao cho người khác, liền ở nơi vị lai trở lại chiêu cảm quả thua kém. Vì đều duyên nơi hữu tình của cõi dục làm cảnh, vì chủ thể đối trị duyên nơi các chướng như sân v.v… kia. Nghĩa là ở nơi cõi dục có ba tụ hữu tình oán, thân và không oán thân có thể sinh khởi sân hận v.v…, trong ấy có xả bỏ tướng oán thân v.v…, liền có thể điều phục, loại trừ các phiền não như sân v.v…

Thế nên cảnh này chỉ là hữu tình của cõi dục, tất không thể duyên nơi cõi sắc, vô sắc.

Thể của đại bi là căn thiện không si. Do lực này có thể duyên chung nơi ba cõi.

Nếu bốn vô lượng chỉ duyên nơi hữu tình, thì vì sao kinh nói: Tư duy về một phương v.v… Ở đây do thắng giải, duyên chung nơi tất cả hữu tình trong khí thế gian, nên không có lỗi.

Bốn vô lượng này hệ thuộc chung tại cõi dục, cõi sắc. Vì Khế kinh nói bốn vô lượng có thể chiêu cảm quả thù thắng của Phạm vương, Đế Thích, Luân vương. Luận Phẩm Loại Túc dựa theo phần do tu tạo thành, nói về bảy trí nhận biết tùy miên của cõi sắc do tu đạo đoạn và tùy miên biến hành tùy tăng của cõi kia.

Có Sư khác cho: Gia hạnh của bốn vô lượng ấy là chung nơi cõi dục, nhưng gốc chỉ là cõi sắc.

Bốn vô lượng này dựa vào địa riêng: Nghĩa là nếu hỷ tức là hỷ thọ, thì chỉ do tu tạo thành. Sư kia tức nên nói hỷ chỉ ở tại định thứ nhất, thứ hai, vì nơi địa khác không có hỷ căn. Nếu hỷ khác với hỷ thọ, thì cũng chung nơi do tư tạo thành.

Sư kia nên nói hỷ nương dựa chung nơi bảy địa, vì cũng tương ưng với lạc thọ, xả thọ.

Có Sư khác nêu rõ: Hỷ chỉ là hỷ thọ đều cùng có.

Sư kia tức nên nói: Hỷ dựa chung nơi ba địa. Hoặc nên như Tụng chỉ là hai địa không phải thứ khác. Ba thứ Từ, Bi, Xả nương dựa chung nơi sáu địa, nghĩa là bốn tĩnh lự và vị chí, trung gian. Hoặc có người muốn khiến chỉ dựa vào năm địa, nghĩa là trừ vị chí, là chấp nhận được đức an vui, vì người đã lìa dục mới có khả năng khởi.

Có thuyết cho: Bốn vô lượng này chỉ ở nơi cõi dục và địa thứ nhất mới được mang tên vô lượng. Địa khác thì không như vậy. Kinh nói: Vô lượng gọi là phạm trụ. Lại nói: Tu vô lượng sinh nơi trời Phạm thế. Lại nói: Chiêu cảm quả của Phạm vương, Đế Thích, Luân vương.

Có thuyết nói: Tùy theo chỗ thích hợp, nương dựa chung nơi mười địa. Nghĩa là cõi dục, bốn tĩnh lự căn bản, bốn cận phần và trung gian.

Nếu bi cũng nương dựa nơi ba tĩnh lự dưới thì vì sao được cùng với hỷ lạc tương ưng?

Bi duyên nơi hữu tình khổ, chuyển theo hành tướng lo buồn. Hành tướng này như tác ý sinh nhàm chán của vô lậu. Thế nên nương dựa chung nơi ba tĩnh lự dưới. Tác ý chân thật kia có khả năng thuận sinh vui thích, tương ưng với hỷ lạc, có thể không có lỗi.

Tác ý thắng giải này không thuận sinh vui thích, vì sao có thể nói là tương tợ với hỷ lạc kia?

Nghi là tánh lo buồn không thuận sinh vui thích. Vì sao thừa nhận cho nghi, hỷ, lạc cùng khởi? Tác ý thắng giải tức nên đồng với nghi kia. Tuy nhiên, tác ý này đối với vui thích là hết sức cùng tùy thuận. Do sức có thể dẫn sinh tác ý chân thật, còn nghi thì không như thế, vì rất trái với chân thật.

Vui thích kia hãy còn tương ưng, thì tác ý thắng giải này đâu thể không thừa nhận.

Tác ý thắng giải này, về lý tức nên trái với vui thích, vì có hành tướng riêng khác trong xứ vui buồn. Bi đã chuyển theo hành tướng lo buồn, nên không phải tương ưng với hỷ lạc. Chớ cho hai hành tướng là cùng thời chuyển biến.

Nếu như vậy tức nên không thừa nhận cùng với xả thọ tương ưng, vì đã chuyển biến theo hành tướng trong xứ xả thọ.

Đã không phải không thừa nhận tương ưng với xả thọ, cùng với hỷ lạc đều cùng có, về lý nhất định nên thừa nhận. Chớ cho là hoàn toàn không cùng với thọ tương ưng. Nên tuy nói bốn vô lượng này có khả năng đối trị sân v.v…, nhưng không thể đoạn trừ các phiền não. Vì phải được tác ý thắng giải tương ưng phát khởi, thì tác ý chân thật mới có thể đoạn trừ Hoặc.

Lại, tác ý này chỉ duyên nơi cảnh của hữu tình, phải duyên nơi pháp để tác ý thì mới có thể đoạn trừ Hoặc. Lại, tác ý này chỉ duyên nơi cảnh hiện tại, phải duyên chung nơi ba đời, hoặc duyên nơi không phải đời, mới có thể đoạn trừ Hoặc.

Lại, vì đạo giải thoát ở đây có thể đạt được, nên chủ yếu là đạo vô gián mới có khả năng đoạn trừ Hoặc.

Có thuyết nói: Vì thuộc về tĩnh lự căn bản hữu lậu, nên nhân đây có lỗi. Không nên nói ba vô lượng dựa vào sáu địa, vì vị chí, trung gian ở đây tức nên không có.

Vì sao kinh nói vô lượng này đoạn trừ sân v.v… Cũng không có trái nhau. Vì đoạn trừ có hai. Hoặc do sức này dẫn dắt đạo đoạn.

Nghĩa là điều phục sân v.v… dẫn dắt đạo đoạn sinh. Thế nên trong kinh nói là đoạn trừ sân v.v…

Nếu như vậy vì sao trong Khế kinh đã nói: Do khéo tu từ, trụ nơi quả Bất hoàn?

Ở đây, Thánh đạo đã dùng tên từ để nói, như ở nơi xứ khác nói tưởng là danh v.v… Hoặc dựa nơi Thánh giả, trước đã được tâm từ, sau thường tu hành, được lìa dục để nói. Hoặc dựa nơi vì được từ do tu tạo thành, tinh tấn tu hành, được lìa dục mà nói.

Có thuyết cho: Bốn vô lượng này dựa vào thân của cõi dục, cõi sắc, vì vô sắc không duyên nơi oán, thân v..v… Vì tu vô lượng này, tất nên trước là duyên nơi oán thân kia. Nghĩa như thật tức chỉ dựa vào thân cõi dục. Ở trong cõi dục chỉ người là có thể khởi. Nếu hỷ không phải hỷ thọ thì thành tựu một, tất gồm đủ bốn. Nếu hỷ tức là hỷ thọ, trở thành tựu một nhất định thành ba.

Sinh nơi định thứ ba v.v… thì chỉ không thành hỷ. Dựa vào nghĩa nào nên trong Khế kinh nói: Tu bốn vô lượng thì từ tối đa là đến trời Biến tịnh. Bi tối đa là đến không vô biên xứ. Hỷ tối đa là đến thức vô biên xứ. Xả tối đa là đến vô sở hữu xứ. Vì sao pháp của cõi sắc có thể chiêu cảm quả của cõi vô sắc? Lại, bốn tĩnh lự đều có từ, do đâu tu từ chỉ tột cùng là đến trời Biến tịnh?

Có thuyết khác nói: Ở đây, mỏi mệt đối với tư duy, tìm cầu. Ngưỡng mong đấng Từ Tôn sẽ giải thích nghĩa này.

Nghe truyền: Cụ thọ Ca Đa Diễn Ni Tử đã từng đem nghĩa ấy để hỏi Tôn giả Thiết Ma Đạt Đa. Tôn giả kia suy xét tìm cầu, liền nhập định tịch tĩnh. Đến sáng sớm, sắp vì Cụ thọ kia giải thích.

Bấy giờ, Cụ thọ Ca Đa Diễn Ni Tử lại nhập định tịch tĩnh, lúc chưa gặp lại thì cả hai đều bát Niết-bàn. Do đấy, mãi đến nay không ai có thể giải thích. Phái Tỳ-bà-sa đã nêu ra giải thích này nói: Nên biết kinh này đã dựa nơi điểm tương tợ để nêu bày. Nghĩa là pháp lạc thọ tương tợ với từ. Từ tạo tác cùng với hành tướng lạc chuyển, nên lạc đến trời Biến tịnh. Vì địa trên đều không có, nên nói là tu từ, tột cùng là ở nơi trời Biến tịnh. Pháp cầu lìa khổ thì tương tợ với bi. Bi tạo tác cùng với hành tướng cứu khổ chuyển. Thân của cõi sắc có khả năng tạo ra nhân sinh khởi khổ thô trọng. Có thân tức là có đoạn đứng đầu vv… Cận phần của không xứ thì chán lìa thân cõi sắc, nên nói tu bi thì tận cùng là ở nơi không xứ. Pháp khinh an lạc là tương tợ với hỷ. Vì hỷ tạo tác cùng với hành tướng an lạc chuyển. Nơi thức vô biên xứ thì khinh an, lạc tăng, duyên nơi vô biên thức của chính mình làm môn. Tướng của vô biên thức thì rất tăng trưởng an lạc, nên nói tu hỷ, thì tột cùng là ở nơi thức xứ. Pháp có thể từ bỏ thì tương tợ với xả. Vì xả tạo tác cùng với hành tướng từ bỏ chuyển. Vô sở hữu xứ do trong cận phần đã từ bỏ hành tướng vô biên thành mãn. Thế nên nói tu xả tột cùng là ở nơi vô sở hữu xứ.

Có thuyết nêu: Kinh này dựa nơi phần thuận nhau để nêu bày. Nghĩa là từ định từ khởi đẳng lưu vui thích, thuận với định thứ ba. Từ định thứ ba khởi đẳng lưu dục, cũng thuận với định từ. Như thế, cho đến xả vô sở hữu, khởi đẳng lưu dục, lần lượt thuận với nhau.

Thuyết này lý không hiển bày nên chỉ có hư ngôn. Hoặc nên ở trong đó lại cầu đạt ý hướng sâu xa.

Có thuyết nói: Kinh này căn cứ theo phần ý lạc để thuyết giảng. Nghĩa là người ưa thích từ thì vui thích nơi định thứ ba. Cho đến kẻ ưa thích xả thì vui thích nơi vô sở hữu xứ.

Thuyết này cũng vô lý, vì do gì để chứng biết?

Vì thế nên như giải thích trước là tốt. Đầu tiên khi muốn dẫn khởi bốn vô lượng, trước hết đối với hữu tình phân làm ba phẩm, gọi là bạn thân, ở giữa (không thân oán) và oán thù.

Ba phẩm đều phân làm ba là thượng, trung, hạ.

Bạn thân phẩm thượng: Là bạn sinh pháp sinh thân, nhờ vào ân nặng của bạn kia, xả bỏ liền khó an trụ.

Bạn thân phẩm trung: Là bạn giao tiếp về pháp, của cải rất cùng thân ái.

Bạn thân phẩm hạ: Là bạn chỉ giao tiếp về của cải, cũng cùng thân ái.

Người không thân oán phẩm thượng: Là người từ xưa, từng không thấy nghe.

Người không thân oán phẩm trung: Là người tuy thấy nghe nhưng không qua lại giao tiếp.

Người không thân oán phẩm hạ: Là người tuy có đi đến giao tiếp nhưng đều lìa ân oán.

Kẻ thù oán phẩm thượng: Nghĩa là đoạt lấy danh dự, thọ mạng và bạn thân.

Kẻ thù oán phẩm trung: Nghĩa là đoạt lấy thân mạng mình, duyên nơi tiền của.

Kẻ thù oán phẩm hạ: Nghĩa là đoạt lấy thân mạng của bạn thân, duyên nơi tiền của.

Đối với các hữu tình đã phân ra phẩm riêng xong, người đầu tiên tu từ vô lượng, trước là ở nơi người thân phẩm thượng, phát khởi thắng giải ban cho vui thanh tịnh. Nếu do từ vô thủy thường tập mà thành A-thế-da (ý lạc) xấu ác, khiến tâm cứng bướng, gặp ít bức não liền mang lòng oán hận sâu xa. Duyên nơi hạng người này trở lại dứt bỏ, thắng giải ban cho vui. Lại thúc đẩy nên cố gắng sức, tư duy về ân nặng của người kia, đối với họ lại sinh khởi ý lạc ban cho vui. Do sức thường tập, nên ý hận đã vĩnh viễn mất, thắng giải cho vui cùng nối tiếp, không bỏ tức tu từ này đã thành xong. Đối với người thân phẩm trung, hạ, cũng lần lượt tu thắng giải như thế.

Đối với ba phẩm thân thích đã được tâm bình đẳng, tiếp theo gồm chung đối với hữu tình không thân oán thuộc phẩm thượng, trung, hạ nơi các chỗ oán tu tập dần ý lạc ban cho vui. Cho đến sau cùng, đối với thân oán phẩm thượng, được tâm bình đẳng, đều không có lên xuống, tăng giảm. Ngang với đây gọi là tu từ thành mãn.

Tu bi và hỷ, so sánh với từ nên nêu bày. Nghĩa là quán ba khổ đã bức bách khắp hữu tình, không nên ở trong đó lại tăng thêm khổ, chỉ nên như đã siêng năng gia tăng cứu vớt, tu tập dần dần, tâm muốn cứu vớt, cho đến oán thân bằng nhau không có lên xuống, tăng giảm. Ngang với đây gọi là tu bi thành mãn.

Các hữu tình được vui lìa khổ, tức sinh vui thích sâu xa, như chính mình không khác. Ngang với đây gọi là tu hỷ thành mãn.

Người đầu tiên tu xả, trước hết là xả đối với người không thân oán. Không phải trước là xả loại hữu tình oán thân, vì giận, yêu khó bỏ. Lại, hạng không oán thân thuận với sức xả tăng, ở trong ấy như trước. Tức trước tiên xả bỏ phẩm thượng, tiếp theo xả bỏ phẩm trung hạ, cùng với oán thân, từ phẩm hạ đến phẩm trung, từ phẩm trung đến phẩm thượng, trước xả bỏ người oán, do người thân khó xả bỏ. Như Khế kinh nói: Tham khó đoạn, không phải là sân. Như thế, tu tập dần dần, đối với xả đến bạn thân phẩm thượng bình đẳng với không oán thân phẩm thượng. Đối khắp hữu tình xả bỏ tướng sai biệt. Ngang với đây gọi là tu xả thành mãn.

Nếu đối với hữu tình vui thích cầu đạt công đức, thì người ấy đối với từ v.v… có thể nhanh chóng tu thành, không phải kẻ đối với hữu tình ưa thích cầu tìm lỗi lầm. Do kẻ đoạn thiện thì có đức có thể ghi chép. Độc giác, Lân Dụ có lỗi có thể nhận lấy, vì quả của tội phước ở trước hiện có thể thấy.

HẾT – QUYỂN 79