LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 76

Phẩm thứ 7: BIỆN VỀ TRÍ, phần 4

Đã biện về nguyện trí. Thế nào là vô ngại giải? Tụng nêu:

Vô ngại giải có bốn

Tức Pháp, Nghĩa, Từ, Biện

Danh nghĩa, ngôn, nói đạo

Trí không thoái làm tánh.

Pháp, Từ chỉ tục trí

Năm, hai địa chỗ dựa

Nghĩa mười sáu, Biện chín

Đều nương tất cả địa

Chỉ đắc tất đủ bốn

Khác, như nói vô tranh.

Luận nói: Các pháp vô ngại giải, nói chung là có bốn: (1) Pháp vô ngại giải. (2) Nghĩa vô ngại giải. (3) Từ vô ngại giải. (4) Biện vô ngại giải.

Bốn vô ngại này, nêu chung như thứ lớp ấy, dùng duyên danh, nghĩa, ngôn và thuyết đạo, trí không thể thoái chuyển làm tự tánh. Nghĩa là trí không thoái chuyển duyên nơi pháp của chủ thể giảng giải gồm có danh, cú, văn thân được lập làm vô ngại giải thứ nhất.

Hướng đến nghĩa của đối tượng được giảng giải, gọi đấy là danh. Tức là hiển bày làm rõ nghĩa tự tánh của pháp. Biện về nghĩa của đối tượng được giảng giải, gọi đấy là cú. Tức là biện về nghĩa sai biệt của pháp đã hiểu rõ. Âm thanh không chờ đợi nghĩa, riêng mình có thể tạo hiểu biết, sinh đối tượng nương dựa, nói đấy là văn. Tức là Ca, già, trá, đa, ba v.v… Về lý tức nên có hiểu biết về âm thanh không chờ đợi nghĩa. Hiểu biết này không nên không có cảnh của đối tượng duyên. Cảnh nơi đối tượng duyên này được gọi là văn. Văn, nghĩa là không thể tự mình gần với nghĩa, chỉ cùng với danh, cú làm chỗ dựa của nghĩa giảng giải.

Ba thứ danh cú văn này có khả năng gìn giữ các nghĩa của đối tượng được giảng giải và khuôn phép để sinh khởi hiểu biết, nên gọi là pháp. Tức tự tánh của ba thứ ấy gọi đó là thân. Thể của tự tánh nơi thân danh có sai biệt, nên ba thứ này so với nghĩa của tiếng là rất gần gũi, xen tạp.

Vì cảnh sinh khởi hiểu biết về tướng riêng là khó nhận biết, nên nói thân, ngôn là hiển bày có Thể riêng. Nếu trí không thoái chuyển duyên nơi tất cả pháp, thì thắng nghĩa hiện có được lập làm vô ngại giải thứ hai. Nghĩa tức là tự tướng, cộng tướng của các pháp. Tuy danh, thân v.v… cũng thuộc về nghĩa này, nhưng không phải là thắng nghĩa, vì có nhiều tưởng. Nghĩa là có như nghĩa, có không như nghĩa. Có có nghĩa, có không có nghĩa. Có dựa vào giả chuyển, có dựa vào thật chuyển. Hiểu rõ nghĩa này là vô gián, hoặc ở vào thời gian sau, có các đối tượng suy tính lường xét, gọi là thắng nghĩa.

Vì nhằm hiển thị cảnh nơi đối tượng duyên của nghĩa vô ngại giải, không phải là ngữ và danh, nên đối tượng duyên này nói là thắng nghĩa. Nghĩa là đối tượng duyên này chỉ nhận lấy dựa vào ngữ khởi danh, danh đã làm rõ nghĩa, không phải là nhận lấy rộng như thế. Đối tượng hành của tâm gọi là nghĩa.

Nếu trí không thoái chuyển duyên nơi các phương vực, ngôn, từ tục, Thánh, thì lập làm vô ngại giải thứ ba. Tức có thể nhận biết rõ về thế ngữ, điển ngữ ở nơi các phương vực có vô số sai biệt.

Nếu trí không thoái chuyển duyên hợp với chánh lý, nêu bày không trở ngại, cùng duyên nơi hai đạo định tuệ tự tại, thì lập làm vô ngại giải thứ tư. Tức ở nơi văn nghĩa, có thể tuyên dương đúng đắn. Ngôn từ không có ngưng đọng, vướng mắc, gọi là biện. Và các công đức hiện có đã được, không do công năng gia hạnh, mà tự nhiên hiện tiền tự tại, cũng gọi là biện.

Ở đây, khả năng dấy khởi biện thì lập làm tên gọi biện. Hiểu rõ về biện cùng nhân nơi trí gọi là biện vô ngại giải. Tức trước đã nói có thể tuyên dương đúng đắn, khéo ứng hợp với căn cơ của vật, không trái với thắng nghĩa. Ngôn thuyết hiện có gọi là hợp với chánh lý. Tức trước đã nêu: Ngôn từ không có ngưng đọng vướng mắc, không chờ đợi xứ sở, thời gian và hữu tình v.v… Biện minh, phân tích tự tại, gọi là không có vướng mắc, ngăn ngại. Tức như trên đã nói: Công đức đã được không do gia hạnh, tự nhiên hiện tiền, gọi là hai đạo định tuệ tự tại.

Lại, chủ thể giảng giải, đối tượng được giảng giải phù hợp với trí, gọi là hai vô ngại giải đầu. Nghĩa là thấu đạt danh này thuộc về nghĩa như thế, cùng thấu đạt nghĩa này có danh như thế, gọi là chủ thể nêu giảng, đối tượng được nêu giảng phù hợp với trí. Thấu đạt về thời gian, tạo tác cùng gia hạnh nơi ngôn từ, gọi là vô ngại giải thứ ba. Thấu đạt về ngôn thuyết đã ưa thích và nhân của đạo tự tại, gọi là vô ngại giải thứ tư. Lại, sáu đối tượng nhận biết như sắc v.v… gọi là nghĩa. Tức đây là hữu vi, vô vi như thiện v.v…

Sắc, phi sắc v.v… có sai biệt, nghĩa là pháp. Tức ngôn thuyết giảng giải hai thứ này, nghĩa là từ. Ba trí tức là ba vô ngại giải trước. Tức trí duyên nơi ba thứ không bị ngăn ngại, gọi là vô ngại giải thứ tư.

Lại, thông đạt hai đế thế tục, thắng nghĩa, gọi là vô ngại giải một, hai. Vô ngại giải này, tức là đức tự lợi viên mãn của hành giả, có thể khéo tuyên thuyết về hai đế như thế, gọi là vô ngại giải thứ ba. Đối với ba vô ngại giải này khéo léo vấn đáp thông suốt các vấn nạn, gọi là vô ngại giải tứ tư. Đây tức là đức lợi tha viên mãn của hành giả.

Có thuyết nói: Ngu si, do dự, tán loạn, là nhân khiến đối với việc tuyên thuyết biện minh có vướng mắc ngăn ngại. Do giải thoát ba thứ này, nên được hiện pháp lạc trụ. Và do lạc trụ này, nên hành lợi tha thành tựu, trí này gọi là biện vô ngại giải.

Nếu được như thế, nhất định có thể tuyên thuyết, phù hợp với chánh lý, ngôn từ lưu loát cùng có được công đức tự tại hiện tiền.

Lại, đối với ngôn từ của thắng nghĩa như danh v.v…, trong thuyết giảng không có vướng đọng, đều được thiện xảo, như thứ lớp kiến lập bốn vô ngại giải. Ba thứ trước, phần thiện xảo được gọi là nhân. Do vì cảnh không đồng, nên có sai biệt.

Vô ngại giải thứ tư gọi là quả, tức khả năng thuyết giảng không vướng mắc. Lại do bốn phần sự lợi tha đều thành tựu. Nghĩa là khéo nơi văn, thấu đạt về nghĩa, thanh vận thư thả vi diệu, định tuệ tự tại, nên vô ngại giải được kiến lập có bốn.

Đây tức nói tổng quát về thể của vô ngại giải, gồm hiển bày về bốn thứ đối tượng duyên có sai biệt. Khế kinh lược nêu dẫn số và danh này. Trong các Đối pháp đã nêu rõ rộng về tướng của các thứ vô ngại giải kia. Lại, kinh liệt kê các vô ngại giải này, nghĩa trước, pháp sau. Trong các Đối pháp, thì nêu pháp trước, nghĩa sau. Đây là hiển bày chỉ rõ lúc hai trí sinh, hoặc nghĩa nhân nơi danh, hoặc danh nhân nơi nghĩa, nên kinh cùng với luận đã nêu dẫn có sai biệt. Tức là người nghe pháp, trước hết phân biệt về danh, đã biết đúng danh, tiếp theo là tìm hiểu về nghĩa của danh đó. Biết đúng về nghĩa xong, mới muốn vì người khác thuyết giảng. Tiếp theo tất nên cầu đạt trí thuyết giảng không có ngăn ngại vướng mắc.

Dựa nơi thứ lớp này, nên danh ở trước. Nhưng trí của nghĩa trong bốn thứ này là rất thù thắng, so với trí khác là trợ bạn, nên nghĩa ở trước. Nghĩa là ở trong nghĩa, nếu đã thông đạt đúng đắn thì tiếp theo nên tạo phương tiện để tìm tòi, nghiên cứu về danh của nghĩa kia. Đã nhận biết danh, tức muốn vì người khác thuyết giảng, tiếp theo nên cầu đạt trí thiện xảo đối với việc thuyết giảng. Thế nên bốn pháp này theo thứ lớp như vậy.

Biện vô ngại giải, nếu duyên nơi thời thuyết giảng, thì có khác gì với từ vô ngại giải thứ ba? Thứ ba tức thông đạt về ngôn từ giáo huấn, giải thích. Như vì có biến đổi, ngăn ngại, nên gọi là sắc v.v… Sự thông đạt này là hợp lý, nên thuyết giảng không bị trở ngại.

Có thuyết nói: Từ là giảng giải về tự tánh của các pháp. Biện thì có thể chỉ rõ về các pháp có sai biệt.

Có thuyết cho: Ở nơi pháp thuyết giảng trực tiếp gọi là từ. Lần lượt phân tích không vướng mắc gọi là biện. Duyên nơi hai thứ ba, bốn này có riêng khác.

Pháp, từ trong bốn thì dùng thế tục trí làm tánh, không phải trí vô lậu duyên nơi danh thân v.v… và vì cảnh giới của sự nơi ngôn từ là thế tục.

Pháp vô ngại giải nương dựa chung nơi năm địa. Nghĩa là dựa vào cõi dục và bốn tĩnh lự căn bản. Vì trong địa trên không có danh thân v.v…, và ở địa ấy không duyên riêng nơi danh v.v… của địa dưới.

Từ vô ngại giải chỉ nương dựa nơi hai địa. Nghĩa là nương dựa nơi cõi dục và tĩnh lự căn bản thứ nhất. Trong các địa trên không có tầm tứ, nên nơi địa đó tất không có ngôn ngữ của chính mình.

Nêu nhân này là phi lý. Vì sao? Vì không phải trí phát ngữ, gọi là vô ngại giải.

Chớ cho vô ngại giải trong định là không có. Do đấy, không nên tạo ra thuyết này: Vì không có tầm tứ nên trong địa trên không có vô ngại giải. Không có lỗi lầm này, vì nghĩa của nhân có khác.

Thế nào là nghĩa của nhân?

Nghĩa là ý này nói: Hai pháp tầm, tứ có khả năng phát sinh ngôn ngữ, nên tướng không vắng lặng, tự tánh là thô động. Vì ở địa trên không có tầm tứ này, nên vắng lặng vi tế.

Từ vô ngại giải duyên nơi ngôn từ bên ngoài, cũng không vắng lặng, nên thuộc về loại thô động. Thế nên vô ngại giải này không có nơi địa trên. Trong tĩnh lự thứ nhất cũng có tầm tứ, nên ở trong định cũng có vô ngại giải này. Do đấy cực thành, chỉ dựa nơi hai địa.

Nghĩa vô ngại giải dùng mười, sáu trí làm tánh. Nghĩa là nếu các pháp đều gọi là nghĩa, thì dùng mười trí làm tánh. Nếu chỉ Niếtbàn gọi là nghĩa, thì dùng sáu trí làm tánh, là pháp, tục, loại, diệt, tận, vô sinh trí. Biện vô ngại giải dùng chín trí làm tánh. Nghĩa là chỉ trừ diệt, vì duyên nơi thuyết đạo.

Hai vô ngại giải này dựa chung nơi tất cả địa khởi. Nghĩa là dựa vào cõi dục, cho đến xứ Hữu đảnh.

Biện vô ngại giải ở trong thuyết đạo, thừa nhận tùy duyên nơi một, đều được khởi, nên dựa chung nơi các địa cũng không có lỗi. Tuy nhiên, ở trong ấy chỉ duyên nơi người thuyết. Nghĩa là chỉ dựa ở hai địa cùng với thứ ba là đồng.

Có thuyết nói: Tận trí, vô sinh trí không phải thuộc về vô ngại giải, do vô ngại giải là tánh của kiến. Thuyết kia nói vô ngại giải thứ hai hoặc bốn, hoặc tám. Vô ngại giải thứ tư chỉ có bảy trí.

Căn cứ theo như trên nên biết. Bốn thứ vô ngại giải này, nên biết như bốn Thánh chủng, tùy được một thứ, tất được đủ bốn. Không phải không đủ bốn mà có thể gọi là được. Tùy muốn hiện khởi hoặc đủ, không đủ.

Có Sư khác cho: Có khi không được đủ, vì không có lý, được một tất khiến được bốn.

Có thuyết nêu: Bốn vô ngại giải này sinh, như thứ lớp thường hành tập tính toán suy xét về Phật ngữ. Thanh minh, nhân minh làm gia hạnh trước. Nếu ở nơi bốn xứ chưa được thiện xảo, tất không thể sinh khởi vô ngại giải. Lý thật thì tất cả vô ngại giải sinh, chỉ học Phật ngữ là có thể làm gia hạnh. Chủ yếu phải chờ đợi các thứ danh cú v.v… đã được hành tập lâu từ đời trước. Bốn thứ thiện xảo hiện nay mới có thể tu. Tên gọi vô ngại giải, giải thích có nhiều nghĩa. Nghĩa là ở nơi các cảnh kia lãnh nhận tỏ ngộ vô ngại, nên gọi là vô ngại giải. Hoặc đối với các cảnh kia, quyết đoán vô ngại, gọi là vô ngại giải. Hoặc đối với các cảnh kia kia, chánh thuyết vô ngại, gọi là vô ngại giải.

Có Sư khác nêu rõ: Bát-lạt-để là tiếng trợ giúp nói về nghĩa hiện tiền. Như Bát-lạt-để nơi lửa mặt trời đến sau là nghĩa lửa mặt trời hiện tiền đến sau. Tam là nói về không điên đảo. Tỳ đà mục là nói về trí. Câu nói này ý là chỉ rõ ở nơi cảnh hiện tiền trí không điên đảo gọi là vô ngại giải.

Bốn vô ngại giải nơi ba thừa đều cùng đạt được. Vì sao kinh nói chỉ mỗi Đức Thế Tôn ri gọi là thành tựu bốn vô ngại giải?

Không có lỗi trái nhau. Vì kinh đã tự giải thích. Nghĩa là kinh kia nói: Chỉ Đức Phật không có sai lầm, thành tựu vô thượng nên nói như thế. Thanh văn, Độc giác, vì trí không thoái chuyển trong cảnh của tự phần, nên gọi là vô ngại giải. Chư Phật, Thế Tôn đối với tất cả pháp đều nhận biết viên mãn, nên gọi là vô ngại giải.

Có sư khác cho: Không có riêng khác. Do vô ngại giải thứ tư, tức dựa nơi ba thứ trước đã tập hợp chung để kiến lập.

Thuyết này là phi lý, vì duyên nơi pháp, nghĩa, từ, so với duyên nơi trí thuyết đạo là cùng riêng khác. Bốn vô ngại giải này dựa nơi địa theo tự tánh, đối tượng duyên, so với vô tránh là dị biệt.

Trước nay đã biện về chủng tánh, dựa vào thân như nói về vô tránh. Nghĩa là chủng tánh bất động dựa vào thân người nơi ba châu.

Như thế là đã nói về trí vô tránh v.v… Tụng nêu:

Sáu dựa biên vực được

Biên vực sáu định sau

Thuận khắp đến cứu cánh

Phật, gia hạnh khác được.

Luận nói: Vô tránh, nguyện trí, bốn vô ngại giải, sáu thứ đều dựa vào định biên vực mà được, do sức của định biên vực đã dẫn phát. Thể của tĩnh lự biên vực có sáu loại. Sáu thứ nêu trước, trừ từ vô ngại giải, năm thứ còn lại chỉ dựa phần ít. Ngoại trừ năm thứ này, lại còn có gia hạnh khác đã đạt được tĩnh lự của phẩm trên, gọi là định biên vực, nên thành sáu thứ. Từ vô ngại giải tuy dựa vào định kia được, nhưng thể không phải thuộc về tĩnh lự kia. Vì tên gọi biên vực chỉ dựa nơi tĩnh lự thứ tư. Tất cả địa này đã tùy thuận khắp, tăng đến cứu cánh, nên được mang tên biên vực tận cùng. Do đấy, không ứng hợp cũng chung nơi địa khác.

Vì sao các địa này gọi là đã tùy thuận khắp? Nghĩa là khi chính thức tu học tĩnh lự này, từ tĩnh lự thứ nhất theo thứ tự thuận nhập cho đến xứ Hữu đảnh. Lại từ xứ Hữu đảnh theo thứ tự ngược nhập đến tĩnh lự thứ nhất.

Từ tĩnh lự thứ nhất theo thứ lớp thuận nhập, lần lượt cho đến tĩnh lự thứ tư, gọi là đã tùy thuận khắp nơi tất cả địa.

Thế nào là các địa này gọi là tăng đến cứu cánh?

Nghĩa là chuyên tu tập tĩnh lự thứ tư, từ phẩm hạ đến phẩm trung, từ phẩm trung đến phẩm thượng.

Ba phẩm như thế, mỗi phẩm lại đều chia làm ba: Sinh phẩm thượng thượng, gọi là đạt đến cứu cánh. Tĩnh lự như thế được mang tên biên vực tận cùng.

Trong đây, ba thừa không phải là không có sai biệt, nhưng mỗi thừa đều ở nơi thừa mình được mang tên cứu cánh. Tên gọi biên vực ở đây là hiển bày về nghĩa không vượt qua. Không vượt hơn đây, nên nói câu biên vực tận cùng. Vì làm rõ về nghĩa loại, nghĩa tột cùng. Như nói về bốn tế và nói thật tế.

Hai câu nói như thế là chỉ rõ về tĩnh lự này, là loại tối thượng tối cực trong định. Công đức thù thắng phần nhiều từ định này dẫn sinh. Trong lạc thông hành thì định này là tối thắng.

Có thuyết nói: Thể của vô tránh tức là bi. Vì xót thương hữu tình, nên tu vô tránh. Hướng nhập vô tránh dùng bi làm môn.

Vì sao khác với bi có riêng tự thể?

Thuyết này là phi lý, vì không quyết định. Nghĩa là tu vô tránh không phải nhất định do bi. Hành tướng cứu khổ đối với các hữu tình, chỉ vì khiến cho phiền não kia không sinh, dùng tư duy tĩnh lặng làm môn mà nhập. Nếu như thừa nhận quyết định dùng bi làm môn, cũng không thể nói lấy bi làm thể. Chớ cho tuệ do định phát, vì thể tức là định. Nếu trụ nơi vô tránh có thể đoạn trừ Hoặc của người khác, thì Đức Thế Tôn tức nên không trụ nơi vô tránh. Các vị Khí Hư, Chỉ Man tức duyên nơi Phật sinh Hoặc. Thật ra không phải vô tránh luôn hiện tiền. Do Phật, Thế Tôn gồm đủ vô lượng đức, tùy lúc muốn khởi một thứ hiện tiền, đâu thể tất cả thời chỉ trụ riêng nơi vô tránh.

Đức Phật đối với Thánh trụ phần nhiều trụ nơi không. Trước hết do môn này nhập nơi ly sinh, vì công năng dẫn xả, vì rất vi diệu, vì rất khó tu, vì là không chung, nên Đức Phật ở nơi trụ phạm hạnh, phần nhiều trụ ở bi, vì hoàn toàn có thể cứu độ các khổ của hữu tình. Vô tránh thì không như vậy, nên phần nhiều không khởi. Đức Thế Tôn đối với các Cụ thọ kia khéo hiện bày sự việc tạo lợi ích cho người khác, chí tuy thù thắng vô biên, nhưng không phải lúc nào cũng trụ nơi vô tránh. Vì muốn nhổ sạch vĩnh viễn các thứ phiền não kia, nên đầu tiên là buông thả khiến khởi, về sau mới điều phục.

Như thế, có thể gọi là thương xót chân thật. Nguyện trí làm ưu tiên mới khởi vô tránh, không phải khởi nguyện trí thì do vô tránh làm ưu tiên. Tức chủ yếu trước hết là nhận biết về các loại hữu tình. Do ta an trụ nơi oai nghi như thế, phiền não liền sinh. Thứ khác thì không như thế. Sau đấy mới khởi vô tránh hiện tiền. Nguyện trí không duyên do vô tránh khởi. Tuy cùng có tĩnh lự biên vực làm ưu tiên, nhưng do gia hạnh có khác nên chỗ đạt được có sai biệt.

Có thuyết nói: Hai thứ này lần lượt gồm thâu nhau.

Về lý là không ứng hợp, vì hành tướng riêng khác. Nghĩa là hành tướng riêng khác là đoạn trừ Hoặc của người khác. Khởi hành tướng riêng, vì hiểu rõ về đối tượng nhận biết. Nếu trong gia hạnh vì đoạn trừ Hoặc của người khác, về sau từ định khởi, Hoặc của người khác không sinh. Như thế tức gọi là sự vô tránh đã thành. Nếu nơi phần vị gia hạnh vì hiểu rõ đối tượng nhận biết, về sau khi khởi định, thì hiểu rõ về cảnh của đối tượng nhận biết. Như thế gọi là sự nguyện trí đã thành tựu. Hành tướng đã khác thì làm sao cùng gồm thâu?

Như thế là đã nói về vô tránh, nguyện trí v.v… Trừ Đức Phật, còn các Thánh khác chỉ do gia hạnh đắc, không phải lìa nhiễm đắc, vì không phải đều đạt được, nên chỉ Đức Phật ở đây là cũng do lìa nhiễm đắc.

Công đức của chư Phật, vào lúc tận trí đầu tiên hiện tiền, do lìa nhiễm, nên tất cả đều được tức khắc. Thời gian sau tùy thuộc ý muốn, có thể dẫn khởi hiện tiền, không do gia hạnh. Vì Đức Phật, Thế Tôn đối với tất cả pháp đã tự tại chuyển.

Đã biện về đức của ba thứ trước, chỉ chung với Thánh khác. Đức cũng chung với phàm phu, lại nên biện. Tụng nêu:

Thông sáu tức thần cảnh

Thiên nhãn, nhĩ, tha tâm

Túc trụ, lậu tận thông

Đạo giải thoát thuộc tuệ.

Bốn tục, tha tâm năm

Lậu tận thông như lực

Năm dựa bốn tĩnh lự

Từ địa dưới làm cảnh.

Thanh văn, Lân dụ Phật

Hai, ba ngàn, vô số

Chưa từng do gia hạnh

Từng tu lìa nhiễm đắc.

Ba đầu thân niệm trụ

Tha tâm ba, khác bốn

Thiên nhãn, nhĩ vô ký

Bốn thông khác chỉ thiện.

Luận nói: Thông có sáu thứ: (1) Thần cảnh trí chứng thông. (2) Thiên nhãn trí chứng thông. (3) Thiên nhĩ trí chứng thông. (4) Tha tâm trí chứng thông. (5) Túc trụ tùy niệm trí chứng thông. (6) Lậu tận trí chứng thông.

Tuy trong sáu thông, thông thứ sáu chỉ thuộc về Thánh, nhưng do năm thông trước, phàm phu cũng đạt được, nên dựa vào tướng chung để nói cũng chung với phàm phu.

Sáu thông như thế là thuộc về đạo giải thoát, tuệ là tự tánh như quả Sa-môn.

Nói đạo giải thoát là hiển bày về nghĩa xuất ly chướng, vì trong đạo thắng tấn cũng cùng có.

Như thế, tuệ thông nơi đạo vô gián là không có, vì vị này nhất định ngăn chận tha tâm trí. Chớ cho là A-la-hán đã xả bỏ đạo vô gián, tức cũng gọi là xả bỏ lậu tận thông. Luận Phẩm Loại Túc nói: Tuệ thiện là chung nơi hai thứ tức nên không phải là thông, vì tánh vô ký, vì nghĩa đều riêng khác, nên kiến giải kia là không trái.

Kiến giải kia nói về pháp của đối tượng nhận biết và đối tượng thông hợp. Nêu lên các trí tuệ là chủ thể nhận biết thông hợp để hiển bày về pháp của đối tượng nhận biết và đối tượng thông hợp. Tuy các trí tuệ đều là chủ thể nhận biết thông hợp, nhưng lại nói là thiện thắng duyên khắp. Đối tượng nhận biết, đối tượng thông hợp tuy không có rộng hẹp, nhưng ngoài chủ thể nhận biết, thì có riêng chủ thể thông hợp, nên nói về pháp của đối tượng nhận biết xong, lại nói về pháp của đối tượng thông hợp.

Ở đây, chỗ biện về thông chỉ là quả của định thù thắng, tuệ thông là vô ký so với kiến giải kia thì đâu có trái.

Lại, kiến giải kia chỉ nói thông, nghĩa là tuệ thiện, không nói chỉ là thiện, nên cũng không trái. Như nói về chủ thể nhận biết, nghĩa là các trí thiện.

Há ác, vô ký đều không phải thuộc về trí. Đây kia chung riêng nên tạo ra bốn trường hợp: (1) Có thông kia không phải là tuệ này. Nghĩa là trừ bốn thông, còn lại là tuệ thiện. (2) Có tuệ này không phải là thông kia. Nghĩa là hai tuệ vô ký của đạo giải thoát. (3) Có thông kia cũng là tuệ này. Nghĩa là tức bốn thông. (4) Có không phải là thông kia cũng không phải là tuệ này. Nghĩa là trừ các thuyết trước.

Trừ tha tâm và lậu tận, bốn thông còn lại là thuộc về thế tục trí.

Các Sư phương Tây cho: Túc trụ thông gồm có sáu trí. Nghĩa là tục, pháp, loại và khổ, tập, đạo. Thế tục trí có khả năng hiểu rõ về sự việc thế tục trong quá khứ. Số còn lại tùy theo đối tượng ứng hợp, đều duyên nơi tự cảnh. Nhưng quán xét ý của kinh, chỉ thuộc về thế tục trí. Như nói: Tùy thuận nhớ lại về vô lượng túc trụ, nghĩa là hoặc một đời, cho đến nói rộng. Không phải trí vô lậu chuyển biến theo hành tướng này.

Tha tâm thông thuộc về năm trí. Nghĩa là pháp, loại, đạo, thế tục, tha tâm trí.

Lậu tận thông như nói về lực. Nghĩa là hoặc sáu, hoặc mười trí. Do đấy đã làm rõ về lậu tận trí thông, dựa vào tất cả địa, duyên nơi tất cả cảnh. Năm thông trước dựa vào bốn tĩnh lự, không dựa vào vô sắc. Cận phần trung gian, vô sắc kia không định thuộc đối tượng nương dựa của năm thông. Chủ yếu tức gồm thâu chi định là chỗ dựa của năm thông, không phải lậu tận thông cũng không dựa vào các địa vô sắc kia. Vì các địa đều có thể duyên nơi lậu tận. Vì không chờ đợi quán sắc làm gia hạnh.

Cảnh của ba thông trước, vô sắc không thể duyên, do ba thông này chỉ duyên riêng nơi sắc. Tu tha tâm thông thì dùng sắc làm môn. Tu túc trụ thông thì dần dần nhớ nghĩ về phần vị sai biệt mới được thành mãn. Vì ở trong gia hạnh, tất quán sắc. Dựa vào địa vô sắc, tức không có khả năng như thế.

Nếu như vậy thì trung gian và năm cận phần cũng cùng duyên nơi sắc, tức nên có năm thông. Không phải như thế, do nhân đã nói ở trước. Nghĩa là gồm thâu chi định là chỗ dựa của năm thông, nếu không gồm thâu chi thì đẳng trì yếu kém. Lại vì chỉ quán kia tùy theo đấy giảm một.

Nếu như vậy thì do đâu có lậu tận thông? Vì địa của lạc khổ trì tốc (chậm nhanh) đều có khả năng dứt hết lậu, nên năm là công đức thù thắng do tu riêng. Chủ yếu là dựa nơi địa thù thắng mới có thể phát khởi. Nếu túc trụ thông không dựa vào vô sắc, nên không thể nhớ lại sự việc của cõi vô sắc. Vậy Khế kinh vì sao nêu rõ: Trong pháp vô thượng của Phật, Thế Tôn nói là Đức Phật có thể nhớ lại những sự việc có sắc, không sắc v.v… của quá khứ?

Đây là tỷ trí quyết định về đối tượng nhận biết, vì không phải túc trụ thông, nên không có lỗi. Nghĩa là các ngoại đạo, nếu thấy hữu tình mạng chung ở cõi dục, cõi sắc, mà không biết xứ sinh, liền chấp loài hữu tình chết rồi là đoạn diệt. Thấy sinh nơi cõi dục, cõi sắc mà không biết xuất phát từ đâu, liền chấp hữu tình vốn không có mà có. Hàng Thanh văn, Độc giác thấy hữu tình kia mạng chung, trong hai vạn kiếp không thấy nơi chốn hiện có, liền cho hữu tình kia chết, sinh nơi không xứ, nhưng hữu tình kia hoặc sinh lên cõi trời, không hết thọ lượng mà mạng chung.

Như thế, cho đến trong tám vạn kiếp, không thấy nơi chốn hiện có, liền cho hữu tình nọ chết rồi, sinh lên xứ phi tưởng phi phi tưởng. Nhưng hữu tình kia hoặc sinh xuống địa dưới, trải qua hai, ba đời v.v… Khi thấy sinh nơi cõi dục, cõi sắc, thì cho nơi chốn từ đấy sinh đến đây cũng thế.

Đức Thế Tôn quán xét hữu tình kia khi chết, khi sống, so sánh nhận biết như thật là chúng đã sinh đến đây là từ nơi chốn nào. Có người hết thọ lượng, có kẻ chết yểu giữa chừng, tuy cũng so sánh nhận biết, nhưng không phải là không quyết định. Nên so với Thánh khác, tỷ trí nhận biết có riêng khác. Khi tu ba thông trước như thần cảnh v.v…, thì tư duy về âm thanh ánh sáng nhẹ dùng làm gia hạnh. Thành xong thì tự tại tùy theo chỗ mong muốn để hiện bày.

Các hữu tình muốn tu tha tâm thông, trước hết phải quán xét kỹ về hai tướng của thân tâm mình, trước sau biến đổi khác, lần lượt cùng tùy thuận. Sau đó lại quán xét kỹ về tướng của thân tâm người khác.

Do gia hạnh này nên dần dần được thành. Thành rồi, không quán các sắc của tự tâm, đối với tha tâm v.v… tức có thể nhận biết như thật. Các hữu tình muốn tu túc trụ thông, trước hết là tự suy xét đầy đủ theo thứ lớp về tâm diệt trước, dần dần lại quán ngược về phần vị của đời này. Càng lùi về trước có sai biệt, đến tâm kiết sinh, cho tới có thể nhớ nghĩ nhận biết về một niệm trước của trung hữu, gọi là gia hạnh của tự túc trụ đã thành. Gia hạnh của người khác khiến nhớ nghĩ cũng như thế. Thông này đầu tiên khởi, chỉ nhận biết theo thứ tự. Khi thường tập quen thành, cũng có thể nhớ lại vượt quá các sự việc đã nhớ nghĩ. Chủ yếu là nhớ nghĩ về các sự việc đã từng thọ nhận. Xưa từng nghe người nơi cõi Tịnh cư chết là từ cõi vô sắc mất, sinh đến xứ Tịnh cư này.

Dựa vào sự tương tục của người khác, khi đầu tiên khởi thông này. Ngoài ra cũng dựa vào sự tương tục của chính mình để khởi.

Như thế, cảnh của năm thông chỉ từ địa dưới. Lại như thần cảnh tùy dựa vào địa nào, thì ở nơi địa dưới của mình, hành hóa tự tại. Đối với địa trên thì không như vậy, vì uy lực kém. Bốn thông còn lại cũng như thế, tức tùy theo đối tượng thích hợp. Vì vậy không thể nhận lấy cõi vô sắc làm cảnh của hai thông tha tâm, túc trụ này. Tức năm thông ấy đối với cảnh của thế giới, các Thánh có tác dụng rộng, hẹp là không đồng. Nghĩa là Đại Thanh văn, Lân dụ, Đại giác, không tác ý cùng tột, như thứ lớp ở nơi cảnh của một, hai, ba ngàn các thế giới có thể khởi tác dụng tự tại như hành chuyển biến hóa v.v…

Nếu tác ý tối đa, như thứ lớp, có thể ở nơi hai ngàn, ba ngàn vô số thế giới dấy khởi tác dụng tự tại.

Năm thông như thế, nếu có thế dụng thù thắng, mãnh liệt, thì từ vô thủy đến nay, người chưa từng được tức do gia hạnh đạt được. Nếu từng tập quen không có thế dụng thù thắng và chủng loại kia tức đều do lìa nhiễm đạt được. Nếu khởi hiện tiền thì đều do gia hạnh.

Đức Phật đối với tất cả đều do lìa nhiễm đạt được, theo đấy muốn hiện tiền, không do gia hạnh. Thánh giả của ba thừa, phàm phu của hữu sau, thông đạt được là từng được, chưa từng được. Phàm phu còn lại chỉ đạt được là từng được.

Căn cứ theo bốn niệm trụ để biện về sáu thông, thì căn cứ nơi cảnh, căn cứ nơi thể, hai nghĩa có khác.

Có thuyết nói: Hai thông tức thiên nhãn, thiên nhĩ. Bốn thứ còn lại dùng tuệ làm tánh. Thuyết kia nói: Nhãn, nhĩ thông là cảnh của thân niệm trụ. Bốn thông còn lại đều là cảnh của pháp niệm trụ. Nhưng thật sự thì sáu thứ đều lấy tuệ làm tánh.

Kinh nêu rõ là đều có khả năng thông đạt cảnh, do đấy là cảnh của pháp niệm trụ. Nếu căn cứ theo thể để biện thì trong sáu thông ba thông trước chỉ là thân, vì chỉ duyên nơi sắc. Nghĩa là thần cảnh thông duyên nơi bốn xứ ngoài, thiên nhãn duyên nơi sắc, thiên nhĩ duyên nơi thanh.

Nếu như vậy thì do đâu nói sinh tử trí nhận biết về loại hữu tình? Do trong hiện thân đã thành các hành ác v.v… của thân ngữ ý. Không phải thiên nhãn thông có khả năng nhận biết sự việc này. Có trí thù thắng riêng là quyến thuộc của thông. Dựa vào thân Thánh khởi tức có thể nhận biết như thế, là vì sức của thiên nhãn thông đã dẫn, nên cùng với thông là hợp, lập danh xưng tử sinh trí. Tha tâm trí thông thì thuộc về ba niệm trụ, là thọ tâm pháp, vì duyên nơi tâm v.v… Túc trụ, lậu tận theo Kinh chủ thì muốn khiến cho mỗi mỗi đều thuộc chung nơi bốn niệm trụ, vì duyên chung nơi tất cả cảnh của năm uẩn. Nhưng thật sự thì túc trụ thuộc về pháp niệm trụ. Tuy Khế kinh nói: Niệm từng lãnh nhận các sự khổ, vui v.v… là nhớ lại các thọ như khổ, lạc v.v… của đời trước, có các vật dụng đã lãnh nhận. Tức là tạp duyên thuộc về pháp niệm trụ. Lậu tận như lực, hoặc là pháp niệm trụ, hoặc là bốn, không nên nói nhất định thuộc về bốn niệm trụ.

Nếu căn cứ theo tánh như thiện v.v… để phân biệt sáu thông: Có Sư khác nói: Sáu thông đều là thiện nhưng thật sự thì nhãn, nhĩ chỉ là tánh vô ký. Bốn thông còn lại hoàn toàn là thiện.

Kinh chủ ở đây nêu ra giải thích này nói: Thiên nhãn, thiên nhĩ thông thuộc về tánh vô ký, là vì nhãn thức, nhĩ thức tương ưng với tuệ.

Nếu như vậy thì đâu thể nói là dựa nơi bốn tĩnh lự?

Vì tùy theo căn để nói, nên cũng không có lỗi. Nghĩa là hai căn nhãn, nhĩ của đối tượng nương dựa, do sức của bốn tĩnh lự đã dẫn khởi, tức thuộc về địa của bốn tĩnh lự kia, nên dựa vào bốn địa, vì nương dựa chung nơi căn, nên nói câu dựa nơi bốn tĩnh lự. Hoặc đây là dựa vào đạo vô gián của thông để nêu bày, vì đạo vô gián của thông đã dựa vào bốn địa.

Giải thích này là không hợp, vì sáu thông đều thuộc về đạo giải thoát. Hai thức nhãn, nhĩ là đạo giải thoát, về lý là không thành. Nên nói như thế này: Trong bốn tĩnh lự, có định tương ưng với tuệ vô ký thù thắng, có thể dẫn sinh quả của đại chủng hơn hẳn thuộc tự địa. Tuệ này hiện tiền, liền dẫn sinh thiên nhãn, thiên nhĩ của tự địa khiến hiện tiền, vì đã nương dựa nơi căn, phát khởi nhãn, nhĩ thức. Cho nên hai thức nhãn nhĩ là tương ưng với tuệ, không phải là thông. Tức chỉ có thể nói là thông đã dẫn dắt. Như Khế kinh nêu rõ: Ba minh vô học. Ba minh kia đối với sáu thông lấy gì làm tánh? Tụng nêu:

Thứ năm, hai, sáu minh

Đối trị ngu ba đời

Chân sau hai giả nêu

Học có tối không sáng.

Luận nói: Nói ba minh là: (1) Túc trụ trí chứng minh. (2) Tử sinh trí chứng minh. (3) Lậu tận trí chứng minh.

Như thứ lớp ấy, dùng quả vị vô học gồm thâu thông thứ năm, thứ hai, thứ sáu làm tự tánh của mình. Ba thứ trong sáu, riêng gọi là minh. Như theo thứ lớp là nhằm đối trị ngu ba đời. Nghĩa là túc trụ trí thông đối trị ngu của đời trước. Tử sinh trí thông đối trị ngu của đời sau. Lậu tận trí thông đối trị ngu của đời giữa. Thế nên ba trí này nêu riêng danh hiệu minh.

Lại, túc trụ thông nhớ nghĩ về sự khổ của tự tha nơi đời trước. Tử sinh trí thông quán xét về sự khổ của tự tha nơi đời sau. Do đấy, chán bỏ các khổ của sinh tử. Khởi lậu tận thông thì quán về Niết-bàn an lạc. Nên chỉ ba thứ lập riêng làm minh.

Lại, ba thông này như thứ lớp, có thể xả bỏ hữu kiến thường đoạn, nên lập làm minh. Lại ba thông này có thể loại trừ ba thứ ngu của pháp hữu tình nơi hữu, nên lập riêng làm minh.

Có Sư khác nói: Túc trụ có khả năng nhận thấy các uẩn trong quá khứ, lần lượt cùng làm nhân, theo thứ lớp truyền tiếp, đều không có tác giả. Do đấy có thể dẫn đến môn giải thoát không. Tử sinh có khả năng quán về sinh tử của hữu tình, xoay chuyển theo cõi dưới cõi trên, cũng như rưới nước vào bánh xe đang quay, nên không mong cầu quả báo của ba hữu. Do đấy có thể dẫn phát môn giải thoát vô nguyện. Vì dùng chán lìa làm môn, nên quy về pháp vô tướng, tức khởi lậu tận là môn giải thoát vô tướng. Thế nên, ba thông là nêu lên riêng danh hiệu minh.

Ba thông này đều gọi là minh vô học. Nghĩa là cùng ở trong thân vô học khởi, trong ấy, thông sau cùng cùng có là thông vô lậu chân thật. Hai thông còn lại, vì giả nói nên thể chỉ là phi học phi vô học. Do đấy, thông sau cùng được mang tên vô học, vì tự tánh cùng nối tiếp đều là vô học. Hai thứ trước được mang tên vô học, chỉ do cùng nối tiếp, không do tự tánh. Như Luận Thi Thiết nói: Có đẳng trì tương ưng với tuệ vô phú vô ký. Không do thiện, và vì vô lậu, nên được lập danh hiệu Thánh, vì trong thân Thánh có thể đạt được vô lậu này, nên gọi là Thánh. Ở đây cũng nên như thế, nên gọi là vô học.

Trong thân hữu học, vì có ngu tối, nên tuy có hai thông trước, nhưng không lập làm minh. Tuy có tạm thời điều phục, diệt trừ ngu tối, nhưng về sau trở lại bị che lấp, nên không thể lập minh. Chủ yếu là tối tăm vĩnh viễn không còn mới gọi là minh.

Trong Khế kinh nói: Chỉ rõ, dẫn dắt có ba. Ba thứ kia đối với sáu thông lấy gì làm tánh? Tụng nêu:

Thứ nhất, bốn, sáu dẫn

Dạy khuyên dẫn làm quý

Định do thông mà thành

Dẫn đến quả lợi lạc.

Luận nói: Có ba thị đạo (chỉ rõ, dẫn dắt): (1) Thị đạo thần biến. (2) Thị đạo ghi nhận tâm. (3) Thị đạo dạy khuyên.

Như thứ lớp trên, trong sáu thông dùng thông thứ nhất, thứ tư, thứ sáu làm tự tánh. Chỉ do ba thứ thị đạo này đã dẫn dắt chúng sinh của đối tượng hóa độ khiến người mới phát tâm là tối thắng, nên khả năng chỉ rõ, khả năng dẫn dắt được lập danh xưng thị đạo (chỉ rõ, dẫn dắt). Trong ba loại thị đạo, thì dạy khuyên là hơn hết. Vì nhất định do thông tạo thành, vì nhất định dẫn đến quả lợi ích, an vui. Nghĩa là hai thị đạo trước, cũng có khả năng hành chú thuật v.v…, vì không chỉ do thông, nên không phải là quyết định. Như có chú thuật tên là Kiệnđà-lê, người trì chú này liền có thể tự tại bay lên hư không. Hoặc có cỏ thuốc gồm đủ công năng thù thắng, hoặc uống, hoặc cầm giữ tức được bay đi tự tại.

Lại có chú thuật tên Y-sát-ni, người trì chú này liền có thể nhận biết được tâm niệm của người khác. Hoặc do xem tướng, nghe tiếng nói của người kia, cũng có thể nhận biết rõ về tâm của người khác đã suy nghĩ. Thị đạo dạy khuyên, trừ lậu tận thông, các thông còn lại thì không thể thực hiện, nên là quyết định. Hoặc hai thị đạo trước thì các ngoại đạo cũng có khả năng. Thị đạo thứ ba thì không như vậy, nên gọi là quyết định. Lại hai thị đạo trước có khi chỉ khiến người khác tạm thời hồi tâm, không thể dẫn phát đạt được lợi ích cứu cánh và quả an lạc. Thị đạo dạy khuyên cũng nhất định khiến người khác dẫn sinh lợi ích hiện có và quả an lạc, vì có thể dùng phương tiện như thật để thuyết giảng. Do đấy thị đạo dạy khuyên là tối thắng, không phải thị đạo khác.

Hai chữ thần cảnh là nói về nghĩa gì? Tụng nêu:

Thể thần, tức đẳng trì

Cảnh hai, là hành hóa

Hành ba ý uy Phật

Thân vận thắng giải thông

Hóa hai, là dục sắc

Bốn hai ngoài tánh xứ

Đây đều có hai thứ

Giống như thân tự tha.

Luận nói: Danh xưng thần đã nêu, chỉ là đẳng trì thù thắng. Do đẳng trì này có khả năng tạo sự việc thần biến. Nhưng Khế kinh nói: Quả của thần gọi là thần. Ý là nêu dẫn thô để làm rõ tế. Lại, vì hiển bày đẳng trì thù thắng là nhân gần của thần kia. Nhưng thể của sự thần biến thật sự không phải là thần.

Quảng diễn về nghĩa này như trong phần nói về giác phần ở trước đã biện. Các sự thần biến được gọi là cảnh. Cảnh này có hai thứ, là hành và hóa. Hành lại có ba thứ:

1. Thân vận hành: Nghĩa là cưỡi hư không mà đi, cũng như chim bay.

2. Thắng giải: Nghĩa là đối với phương xứ rất xa, tạo khởi tư duy gần, liền có khả năng nhanh chóng đi đến đó. Như đối với trời Sắc cứu cánh là phương xứ rất xa, tạo ra tư duy gần, tức liền có thể đi đến.

Vốn không có đến đi, vì sao cho là hành nhanh chóng?

Ở đây, thật sự cũng là hành, chỉ do giải gần về hành rất nhanh chóng, nên được mang tên thắng giải. Hoặc như Đức Thế Tôn nói: Cảnh giới của tĩnh lự là không thể nghĩ bàn, nên chỉ Đức Phật mới có khả năng hiểu rõ.

3. Ý thế: Nghĩa là ở nơi phương xứ rất xa, khi nêu lên tâm duyên, thì thân tức có thể đi đến. Thế này như ý nên được mang tên ý thế. Như tâm nhận lấy cảnh, chỉ khoảnh khắc là đến xứ Sắc cứu cánh. Nên trong ba thứ này thì ý thế chỉ có ở Phật. Thân vận hành, thắng giải, cũng chung nơi các thừa khác. Nghĩa là thần thông của Đức Thế Tôn là rất nhanh chóng, tùy theo phương xa gần, khởi tâm liền đến. Do đấy, Đức Thế Tôn đã nói: Cảnh giới của chư Phật là không thể nghĩ bàn. Như mặt trời tỏa ra ánh sáng, tích tụ lưu chuyển cũng như thế. Vì khả năng tức khắc đi đến nơi xa, nên nói là hành.

Nếu cho không như vậy, thì ẩn mất ở xứ này, hiện ra ở phương kia, trung gian đã đoạn, nghĩa của hành tức nên không có. Hoặc oai thần của Phật là không nghĩ bàn, nên khởi tâm tức đến, không thể lường xét, tức hành của ý thế, chỉ Đức Thế Tôn có. Thắng giải thì gồm chung nơi Thánh khác. Thân vận hành thì cùng với phàm phu.

Hóa lại có hai thứ: Nghĩa là cõi dục, cõi sắc. Nếu hóa ở cõi dục tức là bốn xứ ngoài trừ thanh. Nếu hóa nơi cõi sắc thì chỉ hai xứ, nghĩa là sắc, xúc, do trong cõi sắc không có hương, vị. Hóa của hai cõi này đều có hai thứ. Nghĩa là thuộc về tự thân và tha thân có riêng khác.

Thân ở cõi dục hóa có bốn thứ, ở cõi sắc cũng như vậy, nên gồm chung thành tám. Tuy sinh ở cõi sắc, tạo tác hóa ở cõi dục, nhưng ở cõi vô sắc thì thành lỗi hương vị, vì tự thân hóa tác chỉ có hai xứ.

Có thuyết nói: Cũng hóa bốn, như y phục v.v… Điều ấy là không thành. Không phải thần cảnh thông có thể dấy khởi sự hóa. Chủ yếu là các tâm có thể biến hóa của thông quả này. Tâm có thể biến hóa này có bao nhiêu thứ? Tướng như thế nào? Tụng nêu:

Tâm biến hóa mười bốn

Quả định hai đến năm

Như chỗ dựa định được

Từ tịnh, tự sinh hai.

Sự hóa do tự địa

Ngữ thông do tự dưới

Hóa thân cùng hóa chủ

Ngữ tất không phải Phật.

Trước lập nguyện giữ thân

Sau khởi tâm ngữ khác

Có chết lưu thể cứng

Khác nói không nghĩa lưu.

Đầu: Nhiều tâm một hóa

Thành mãn: Trái với đây

Tu đắc thuộc vô ký

Đắc khác chung ba tánh.

Luận nói: Tâm có thể biến hóa, gồm có mười bốn. Nghĩa là dựa nơi bốn tĩnh lự căn bản sinh. Tĩnh lự thứ nhất sinh chỉ có hai thứ: (1) Thuộc cõi dục. (2) Tĩnh lự thứ nhất.

Tĩnh lự thứ hai, thứ ba, thứ tư, như thứ lớp ấy có ba, bốn, năm. Không có địa trên dựa vào địa dưới, vì địa dưới kém. Địa trên dưới quan hệ với quả của một tĩnh lự. Địa như hành v.v… của đối tượng nương dựa có hơn kém. Một địa quan hệ với quả của tĩnh lự trên dưới. Địa tuy đồng, nhưng hành của đối tượng nương dựa có hơn kém. Địa dưới hệ thuộc quả của địa trên. Quả của địa dưới hệ thuộc địa trên. Như thứ lớp địa kém hơn có hành của đối tượng nương dựa hơn kém. Như được tĩnh lự thì tâm hóa cũng như thế. Vì quả cùng với đối tượng nương dựa đều cùng thời đạt được. Tuy nhiên, được tĩnh lự gồm có ba thời: Lìa nhiễm, thọ sinh và gia hạnh có khác nhau. Nghĩa là khi lìa nhiễm của địa dưới, được tĩnh lự của địa trên, cũng được định này đã dẫn quả của tâm hóa. Khi từ địa trên mất sinh nơi cõi sắc và do gia hạnh khởi công đức thù thắng, chỉ có mới được tĩnh lự của đối tượng nương dựa, cũng gồm được tâm hóa đã dẫn kia. Dựa nơi thân của cõi dục được A-la-hán và ở phần vị luyện căn, khi được quả ứng, mười bốn tâm hóa nơi một thời được chung. Cho đến thân ở tĩnh lự thứ tư, đắc quả A-la-hán, thì được năm tâm hóa. Không có nghĩa từ tâm hóa trực tiếp xuất quán. Tâm hóa này từ định tịnh và tự loại sinh. Có thể vô gián sinh tự loại định tịnh, nên chỉ từ hai sinh hai, không phải thứ khác. Chỉ tâm hóa của tự địa khởi sự hóa của tự địa.

Hóa đối tượng phát ngữ do từ tâm của địa dưới. Nghĩa là cõi dục, định thứ nhất hóa chỉ là ngữ nơi tâm của tự địa, địa trên hóa phát khởi ngữ do tâm của định thứ nhất. Địa trên kia tự không có khởi tâm biểu. Nếu sinh nơi cõi dục và định thứ hai v.v… thì khi sự hóa chuyển, làm sao khởi biểu, không phải đường oai nghi, tâm xứ công xảo, dựa vào thân của cõi khác mà có thể hiện khởi. Người kia tất nương dựa nơi thân của tự cõi, nên điều ấy không có lỗi. Dẫn đến cõi kia, gồm thâu đại chủng hiện tiền, làm đối tượng nương dựa. Nghĩa là dẫn đại chủng của cõi sắc hiện tiền, cùng với thân của cõi dục ngầm hợp mà trụ. Dựa nơi thân này khởi công năng phát sinh tâm biểu của địa kia, không có lỗi tâm biểu của địa định dựa vào thân của địa tán. Hoặc khởi dựa nơi định, có thể phát sinh tâm biểu, như dựa vào định sinh thiên nhãn, thiên nhĩ thức. Nếu một hóa chủ khởi nhiều hóa thân, thì chủ yếu khi hóa chủ nói, các hóa thân mới nói, ngôn âm giảng giải khẳng định, tất cả đều đồng. Nên có Già tha nêu bày như thế này:

Khi một hóa chủ nói

Các hóa thân đều nói

Một hóa chủ nếu im

Các hóa thân cũng thế.

Ở đây chỉ nói về phần khác, Đức Phật thì không như vậy, vì định lực của chư Phật là hết sức tự tại, so với lời nói của hóa thân chấp nhận là không cùng thời.

Ngôn âm nơi đối tượng giảng giải cũng chấp nhận có riêng khác. Nếu khi hóa thân của ba địa trên nói năng, thì tâm biểu của định thứ nhất hiện tiền phát ra. Phần vị khởi của tâm này đã xuất sinh tâm hóa, tức nên không có hóa thân hóa vì sao nói năng?

Do sức của nguyện từ trước, lưu lại thân đã biến hóa. Về sau khởi tâm khác, phát nghiệp ngữ biểu, nên không có lỗi lời nói của hóa thân thiếu đối tượng nương dựa. Không phải chỉ khi mạng của hóa chủ hiện tại, có khả năng lưu lại hóa thân khiến trụ trong thời gian lâu. Nhưng cũng có hóa thân khiến trụ đến sau khi mạng chung. Tức như Tôn giả Đại Ca Diếp Ba đã để lại thân toàn xương, đến thế hệ của Từ Tôn. Chỉ thể chắc thật mới có thể lưu lại lâu. Khác với đây thì Tôn giả Ẩm Quang tức nên lưu lại nhục thân v.v…

Có Sư khác cho: Nguyện lực để lại thân, tất không có khả năng khiến đến sau khi qua đời, Thánh Đại Ca Diếp lưu lại bộ thân toàn xương do các thiên thần gìn giữ khiến trụ lâu.

Người đầu tiên tập nghiệp: Do nhiều tâm hóa, chủ yếu là dựa vào đối tượng nương dựa khởi một sự hóa. Người tập thành mãn: Do một tâm hóa, có thể không dựa vào đối tượng nương dựa mà khởi rất nhiều sự hóa. Tâm có thể biến hóa gồm có hai loại: (1) Tu tạo thành. (2) Sinh đắc v.v…

Quả của hóa thân đã khởi, cũng như nói về phần tập thành mạn kia. Hóa do tu tạo thành, gồm thâu xứ như trước, tức không có khả năng hóa làm thân hữu tình. Hóa do sinh đắc v.v… ở trong cõi dục hóa làm chín xứ. Cõi sắc hóa bảy, dựa vào căn không lìa. Nói hóa chín v.v…, lý thật là không có khả năng hóa làm căn. Tu quả không tâm thì hóa khác cùng có. Tu quả khởi biểu thì do tâm của hóa chủ. Phần còn lại thì cùng tự tâm khởi thân ngữ biểu. Tu quả ăn uống nếu vì để nuôi thân, tất tiêu hóa ở trong thân hóa chủ. Nếu vì sự khác, như nuốt vàng, đá v.v…, hoặc tức trụ trong thân sự hóa của hóa chủ kia. Hoặc tùy đối tượng thích nghi, để ở nơi xứ riêng. Hóa ăn uống của hóa thân khác, tùy trụ nơi đối tượng nương dựa. Tu quả tâm hóa, chỉ là tánh vô ký, ngoài ra thì chung cả ba tánh, nghĩa là thiện, ác v.v… Như tâm có thể biến hóa của trời, rồng v.v…, thì các loài kia cũng có khả năng hóa tác tự thân tha thân.

Nói thiên nhãn, thiên nhĩ là nói về nghĩa gì? Là nói về thể của tuệ hay là nói về sắc căn? Nếu là tuệ thì không nên gọi là thiên nhãn, thiên nhĩ. Nếu là sắc căn thì không nên gọi là thông?

Vấn đề này trước đã nêu rõ.

Trước đã nêu rõ về những gì?

Nghĩa là nêu rõ trong bốn tĩnh lự căn bản, có định tương ưng với tuệ vô ký thù thắng, gọi là thiên nhãn thông và thiên nhĩ thông. Tuệ vô ký này đã dẫn sinh quả của đại chủng thù thắng, gọi là thiên nhãn, thiên nhĩ. Thể của chúng là gì? Tụng nêu:

Thiên nhãn nhĩ là căn

Tức sắc tịnh địa định

Luôn đồng phần không thiếu

Lấy chướng tế cùng xa.

Luận nói: Thể ở đây tức là căn thiên nhãn, nhĩ. Nghĩa là duyên nơi âm thanh, ánh sáng làm gia hạnh, dựa vào bốn tĩnh lự, ở nơi biên của nhãn, nhĩ dẫn khởi đại chủng vi diệu của địa kia, tạo ra hai căn nhãn nhĩ của sắc tịnh, thấy sắc nghe tiếng gọi là thiên nhãn, thiên nhĩ.

Nhãn, nhĩ như thế, vì sao gọi là thiên?

Vì thể tức là thiên, thuộc về địa định, vì rất thanh tịnh, nên lập dùng danh xưng thiên. Do đấy, kinh nói: Thiên nhãn, thiên nhĩ, nghĩa là không có da, thịt, gân vây buộc cùng máu, chỉ là sắc tịnh được tạo do đại chủng vi diệu. Nhưng chủng loại của thiên nhãn, thiên nhĩ có ba: (1) Tu đắc thiên. Tức như trước đã nói. (2) Sinh đắc. Nghĩa là sinh trong nẻo trời. (3) Giống với thiên. Nghĩa là sinh nơi nẻo khác, do nghiệp thù thắng v.v… đã dẫn sinh. Có khả năng thấy nghe xa, giống với thiên nhãn, thiên nhĩ. Như quan giữ kho báu, Bồ-tát, Luân vương, các rồng, quỷ thần và trung hữu v.v… Tu đắc nhãn nhĩ quá, hiện, vị lai sinh luôn là đồng phần, do đến hiện tại tất cùng với thức là cùng có. Có thể thấy nghe, nên ở nơi xứ sở tất gồm đủ, không bị che mờ, không thiếu. Như tất cả hữu tình sinh nơi cõi sắc đều có khả năng tùy theo đối tượng thích ứng, nhận lấy chướng ngăn cách kia, vì các sắc, tiếng ở nơi các phương là rất vi tế, rất xa v.v… Nên ở trong đây có tụng nói:

Nhục nhãn đối các phương

Bị sắc xa tế chướng

Không có công dụng thấy

Thiên nhãn thấy không sót.

trước đã nói tâm hóa tu đắc các thứ còn lại là có khác. Năm thứ

như thần cảnh v.v… là đều có khác chăng? Cũng có. Vì sao? Tụng nêu:

Thần cảnh năm tu sinh

Do chú, thuốc nghiệp thành

Tha tâm tu sinh chú

Lại thêm chiêm tướng thành.

Ba tu sinh nghiệp thành

Trừ tu, đều ba tánh

Người chỉ vô sinh đắc

Địa ngục đầu nên biết.

Luận nói: Loại thần cảnh trí gồm có năm thứ: (1) Tu đắc. (2) Sinh đắc. (3) Chú thành. (4) Thuốc thành. (5) Nghiệp thành.

Vua Mạn-đà-da và trung hữu v.v… thì các thần cảnh trí là thuộc về nghiệp thành.

Có Sư khác nêu: Thần cảnh có bốn, tức ba hạng trước, biến hóa là một.

Nói biến hóa: Như Khế kinh nói: Phân một làm nhiều, cho đến nói rộng. Loại tha tâm trí gồm có bốn thứ. Ba thứ trước như trên, thêm chiêm tướng thành. Ba thứ còn lại đều có ba. Nghĩa là tu đắc sinh đắc nghiệp thành. Trừ tu đắc, số còn lại đều chung nơi thiện v.v… Vì không phải là quả của định, nên không được mang tên thông. Trong nẻo người đều không có sinh đắc, ngoài ra đều cùng có. Tùy theo đối tượng ứng hợp kia thì bản tánh sinh niệm là thuộc về nghiệp thành. Con người do nghiệp từ trước, nên có khả năng nhớ lại quá khứ.

Đối với nẻo địa ngục, lúc đầu tiên thọ sinh, chỉ dùng tha tâm túc trụ sinh đắc để nhận biết về tâm của kẻ khác v.v…, cùng quá khứ sinh khổ thọ bức bách xong, lại có không có nghĩa nhận biết.

Hữu tình kia nhớ nghĩ về quá khứ, lấy gì để chứng biết?

Như Khế kinh nói: Hữu tình ở địa ngục kia tự nhớ nghĩ lại: Chúng ta nơi quá khứ đã từng nghe người khác nói về lỗi lầm của các dục nhưng đã không chán lìa, nên đến hiện thời phải nhận lấy các thứ khổ dữ dội này.

Hữu tình kia chỉ có thể nhớ lại theo thứ lớp là một đời trước kia. Nơi nẻo khác tùy chỗ thích hợp, luôn có nghĩa nhận biết. Bàng sinh nhận biết về quá khứ, như tiếng tù và, loài chó v.v… Quỷ nhận biết về quá khứ, như có tụng nói:

Xưa ta tích tập của

Do pháp, hoặc phi pháp

Người khác nay giàu vui

Riêng ta chịu nghèo khổ.

Trời nhận biết về quá khứ, như có tụng nói:

Ta thí rừng Thệ đa

Mong Đại Pháp vương trụ

Hiền Thánh Tăng thọ dụng

Nên tâm ta hoan hỷ.

Lại, Khế kinh nói: Các người sinh lên nẻo trời, mới sinh tất khởi ba thứ suy niệm: Ta từ đâu mất? Nay sinh vào xứ nào? Nhân nơi nghiệp nào nên sinh đến xứ này?

HẾT – QUYỂN 76