LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 75

Phẩm thứ 7: BIỆN VỀ TRÍ, phần 3

Như thế là đã biện về các trí có sai biệt. Trí đã tạo thành đức, nay sẽ hiển bày chỉ rõ.

Ở đây, trước là biện về đức không chung của Phật. Lại, đầu tiên thành Phật, ở nơi quả vị tận trí để tu pháp Phật không chung có mười tám thứ. Những gì là mười tám? Tụng nêu:

Mười tám pháp không chung

Tức mười lực v.v… của Phật.

Luận nói: Mười lực, bốn vô úy, ba niệm trụ và đại bi của Phật, như thế hợp gọi là mười tám pháp không chung. Chỉ chư Phật khi đối với tận trí đã tu, Thánh khác không có, nên gọi là không chung. Mười lực của Phật có sai biệt như thế nào? Tụng nêu:

Lực xứ phi xứ: mười

Nghiệp tám, trừ diệt đạo

Định căn, giải giới chín

Hướng khắp chín hoặc mười.

Túc trụ, tử sinh tục

Tận sáu hoặc mười trí

Trí túc trụ tử sinh

Dựa tĩnh lự thông khác

Thân Phật, Thiệm bộ nam

Nơi cảnh không ngăn ngại.

Luận nói: Mười lực của Phật là:

(1) Lực của trí nhận biết về xứ phi xứ: Dùng đủ mười trí của Như Lai làm tánh.

Vì dựa nơi nghĩa nào để lập danh xưng lực này?

Đức Phật ở trong kinh đã tự thuyết giảng thế này: Bí-sô nên lắng nghe! Như Lai đối với xứ đã nhận biết như thật là xứ. Như Lai đối với phi xứ nhận biết như thật là phi xứ. Cho đến nói rộng.

Nhận biết về tự tánh công năng của tất cả pháp, lý nhất định là có, gọi là trí của xứ.

Nhận biết về tự tánh công năng của tất cả pháp, lý nhất định là không có, gọi là trí của phi xứ.

Trí này duyên chung nơi cảnh của tình, phi tình, cùng với nhất thiết trí đều không trái nhau. Sợ vì đối với chỗ lược nêu, ít công sức, khó tỏ ngộ, nên trong đây lại phân tích nêu ra chín trí khác. Như Đức Bạc-già-phạm, trong kinh Đa Giới đã tự phân biệt rộng về hành ác của thân v.v… nơi nghĩa của xứ, phi xứ, đã chiêu cảm quả phi ái, nhất định là có xứ này, chiêu cảm quả khả ái, tất không có xứ này. Cho đến nói rộng.

Trong kinh kia những điều chưa nêu bày, tôi xin dựa nơi giáo khác lại lược phân biệt. Nghĩa là các Đức Như Lai cũng còn có lầm lỗi, đối với các thứ tức nên phân biệt, mà hoàn toàn ghi nhận. Không có các công đức không chung như lực, vô úy, ba niệm trụ v.v…, tất không có xứ này. Các Thánh cũng còn khởi Hoặc do kiến đạo đoạn, che giấu tội, đọa ác, tất không có xứ này.

Người tạo vô gián, hiện thân kiến pháp. Kẻ rơi vào tánh tà, hiện nhập chánh tánh. Trong pháp của ngoại đạo, có Sa-môn chân thật.

Có người tuy thọ sinh mà không có tử. Có người Bất hoàn lại sinh nơi cõi dục. Có A-la-hán lại thọ hữu sau. Có kẻ đã xả bỏ hai thứ thức cũng còn xứ hiện hành. Có mười ba giới, có mười chín uẩn, có đời thứ sáu, có đế thứ tư, có thứ năm. Tất không có xứ này. Như Lai bị các sử, có thể ngăn chận, dứt bỏ. Sứ giả của Đức Thế Tôn, sự việc chưa đạt cứu cánh. Đang ở trong định từ, định diệt tận, người tùy tín hành, tùy pháp hành, có thể bị tổn hại. Người châu Bắc câu lô, chết bị đọa trong nẻo ác, cùng có trung yểu. Tất không có xứ này.

Các hành không diệt, Niết-bàn là vô thường. Phàm phu có khả năng đoạn trừ Hoặc của xứ Hữu đảnh. Ở nơi một phần cùng nối tiếp có hai tâm đều cùng hành. Vô lậu làm nhân, chiêu cảm quả dị thục. Năm thức có được cùng với giác chi tương ưng. Trong phần vị ngủ, chiêm bao, có sinh có tử. Đắc quả thoái chuyển v.v… tất không có xứ này.

Có năm thức thân không tầm, không tứ. Duyên nơi danh quá khứ, vị lai lìa thế gian làm cảnh. Có tỷ, thiệt, thức là hữu phú vô ký. Có người sinh nơi cõi trên, nhập hiện quán. Có tai thấy sắc, có mắt nghe tiếng, lưỡi nếm mùi hương v.v… Tất không có xứ này.

Các loại như thế được mang tên là phi xứ. Cùng với đây trái nhau đều gọi là thị xứ.

Há không phải là trí của xứ đã nhận biết phi xứ. Các trí của phi xứ cũng đã nhận biết xứ, đâu cần phải nhọc công nêu bày cả hai danh xưng xứ, phi xứ. Tuy về lý thật sự là như thế, nhưng nêu bày cả hai là muốn ngăn chận luận thuyết cho là không có nhân, nên nói danh xưng thị xứ. Vì nhằm ngăn chận loại bỏ luận thuyết về nhân ác, nên nói danh xưng phi xứ. Tức dựa vào thể của một trí để nêu bày về cả hai, không có lỗi.

Làm sao nhận biết ở trong lực của một xứ, phi xứ, e tóm lược khó tỏ ngộ, nên cần phải phân tích nêu ra lực của chín thứ còn lại?

Do các lực còn lại đều có nghĩa của lực này.

Nghĩa là như thật nhận biết hành ác, có khả năng chiêu cảm dị thục khả ái. Hành diệu có khả năng cảm dị thục phi ái. Tất không có xứ này. Cùng với đây trái nhau, nhất định là có xứ này.

Lại, nhận biết như thật thuận với phần thoái chuyển, nhất định có thể đạt được đức thù thắng. Thuận với phần thắng tấn thì có thể dẫn đến thoái đọa. Tất không có xứ ấy. Cùng với đây trái nhau, nhất định là có xứ ấy.

Lại, nhận biết như thật nếu căn của phẩm này có thể chứng quả này, căn này chưa mãn, cõi này đã chứng. Tất không có xứ ấy. Cùng với đây trái nhau, nhất định là có xứ ấy.

Lại, nhận biết như thật thắng giải thấp kém, hỷ lạc thô ác, có thể đạt đến đức thù thắng. Tất không có xứ ấy. Cùng với đây trái nhau, nhất định là có xứ này.

Lại, nhận biết như thật tánh giới của các loài hữu tình đều riêng khác mà tình khế hợp. Tất không có xứ này. Cùng với đây trái nhau, nhất định là có xứ này.

Lại, nhận biết như thật hành hướng đến sinh tử, có thể chứng đắc Niết-bàn. Hành hướng tới Niết-bàn có thể chiêu cảm sinh tử. Tất không có xứ này. Cùng với đây trái nhau, nhất định là có xứ này.

Lại, nhận biết như thật về biên vực trước là có khởi đầu. Tất không có xứ ấy. Cùng với đây trái nhau, nhất định là có xứ ấy.

Lại, nhận biết như thật chưa đoạn kiết sinh thì chết rồi không sinh. Hoặc người kia đã sinh, rốt cùng là không chết. Hoặc người kia không đi đến nẻo thiện, nẻo ác. Tất không có xứ ấy. Cùng với đây trái nhau, nhất định là có xứ này.

Lại, nhận biết như thật tác ý phi lý, có thể đạt được lậu tận. Tất không có xứ ấy. Cùng với đây trái nhau, nhất định là có xứ ấy.

Ở trong mỗi mỗi lực như thế, tôi lược nêu lên một phần để hiển bày về xứ, phi xứ. Nếu nêu bày hết sự việc kia, thì ngôn luận là vô cùng. Nên đều gọi là lực của xứ, phi xứ. E vì tóm lược khó tỏ ngộ, nên lập riêng tên khác.

(2) Lực của trí nhận biết về nghiệp dị thục: Tám trí làm tánh, trừ diệt, đạo trí. Nghĩa là khéo phân biệt loại nghiệp như thế, chiêu cảm các quả dị thục của loại như thế. Trí nhận biết không bị ngăn ngại, gọi là lực của trí nghiệp dị thục. Hoặc gọi là lực của trí tự nghiệp. Nghĩa là khéo phân biệt về loại quả như thế, là lực của nghiệp do mình đã gây tạo, đã chiêu cảm, không phải vợ, con v.v…. có thể cùng trao cho hay đoạt lấy.

Loại nghiệp như thế, tất chiêu cảm tự quả, không thể chuyển đổi. Trí nhận biết không bị ngăn ngại, gọi là lực của trí tự nghiệp.

Lại, Đức Phật tự nói về tướng của lực này: Bí-sô hãy lắng nghe! Phật đối với pháp thọ của các nghiệp thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại có xứ riêng, nhân riêng, sự riêng, quả riêng, đều nhận biết như thật. Cho đến nói rộng.

Các nghiệp có ba, pháp thọ có bốn. Vì nghiệp và pháp thọ nên gọi là nghiệp. Pháp thọ hoặc là pháp của nghiệp, nên gọi là pháp nghiệp. Tức là nghĩa phẩm loại của các nghiệp. Đây là hiển bày Đức Như Lai đối với xứ v.v… nơi phẩm loại của các nghiệp v.v… thuộc quá khứ v.v… có sai biệt và quả đã thọ nhận đều có thể nhận biết như thật, cho đến nói rộng.

Trong đây xứ riêng: Là nghĩa phương sở riêng. Nhận biết ở nơi xứ kia đã tạo nghiệp như thế, nên ở nơi xứ kia nghiệp này mới thục. Nghĩa là nhận biết nghiệp này tạo ở xứ trời v.v…, nghiệp này sẽ ở nơi xứ như người v.v… thành thục. Đó gọi là nhận biết rõ như thật về xứ riêng.

Nói nhân riêng: Là nghĩa duyên riêng. Nhận biết nghiệp như thế, gặp duyên này thành thục. Hoặc nhận biết nghiệp này do duyên này tạo. Đó gọi là nhận biết rõ như thật về nhân riêng.

Nói sự riêng: Là nghĩa vật riêng. Nhận biết nghiệp như thế, đến khi thành thục, sức có thể dẫn sinh vật riêng như sắc v.v… Hoặc tức nhận biết tự tánh của nghiệp không đồng, gọi là nhận biết về sự riêng. Nghĩa là nhận biết nghiệp này do vật này làm tánh, nghiệp khác thì không như thế. Đó gọi là nhận biết rõ như thật về sự riêng.

Nói quả riêng: Là nghĩa dị thục riêng. Nhận biết nghiệp như thế, nhất định chiêu cảm quả dị thục. Nghiệp này không nhất định có thể chiêu cảm dị thục. Dị thục của nghiệp này trải qua từng ấy thời gian, có không trải qua như thế. Dị thục của nghiệp này hãy còn có hữu hữu, vô dư khác.

Các loại dị thục có sai biệt như thế v.v… rất vi tế, khó hiểu rõ, nhưng có khả năng nhận biết rõ. Đó gọi là nhận biết rõ như thật về quả riêng.

  1. Lực của trí nhận biết về tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí.
  2. Lực của trí nhận biết về căn thượng hạ.
  3. Lực của trí nhận biết về vô số thắng giải.
  4. Lực của trí nhận biết về vô số cảnh giới.

Bốn lực như thế đều dùng chín trí làm tánh, chỉ trừ diệt trí. Nghĩa là nhận biết như thật về tự tánh của các tĩnh lự v.v… gọi là đạt được. Dùng phương tiện thâu giữ vị, tịnh, vô lậu, thuận với phần thoái, trụ, tiến, quyết trạch v.v… Trí nhận biết không bị ngăn ngại, gọi là lực của trí nhận biết về tĩnh lự v.v…

Lại, Đức Phật đã tự thuyết giảng về tướng của lực này nói: Bísô nên lắng nghe! Phật đối với tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí được an lập theo tạp nhiễm, thanh tịnh, đều nhận biết như thật. Cho đến nói rộng.

Về tướng của tĩnh lự v.v…, nơi phẩm Định sẽ biện.

Tạp nhiễm, nghĩa là có thể làm chướng ngại cho việc chứng đắc tĩnh lự v.v… Thanh tịnh, nghĩa là tức các pháp này là thanh tịnh. Các pháp tịnh trụ, gọi là an lập. Hoặc thuận theo phần thoái, gọi là tạp nhiễm. Thuận với phần thắng tấn, thuận với phần quyết trạch, gọi là thanh tịnh. Thuận với phần trụ, gọi là an lập.

Nếu nhận biết như thật về các loại hữu tình do phẩm căn có sai biệt đã có thể đạt được các đức thù thắng. Trí nhận biết không bị ngăn ngại, gọi là lực của trí nhận biết về căn thượng, hạ.

Lại, Đức Phật đã tự thuyết giảng về tưởng của lực này nói: Bísô nên lắng nghe! Phật đối với các căn thượng, hạ của hữu tình đều nhận biết như thật, cho đến nói rộng.

Ý này làm rõ Đức Phật nhận biết các căn hơn kém của các hữu tình không có nhầm lẫn. Tuy có căn loại trung nhưng đối đãi với hơn kém, là thuộc về kém hơn, nên không hiển bày riêng.

Trong đây danh xưng căn là nói về pháp nào?

Nghĩa là nói về tín v.v… Kẻ đoạn căn thiện, trong phần cùng nối tiếp chung, cũng có pháp thiện như tín v.v… của khứ, lai. Hoặc là nói về ý v.v…

Nếu nhận biết như thật về hỷ, lạc của các loại hữu tình có sai biệt. Trí nhận biết không bị ngăn ngại, gọi là lực của trí nhận biết về vô số thắng giải.

Lại, Đức Phật đã tự thuyết giảng về tướng của lực này nói: Bísô nên lắng nghe! Phật đối với vô số thắng giải của hữu tình đều nhận biết như thật, cho đến nói rộng.

Ý này hiển bày Đức Phật nhận biết về hỷ lạc của các hữu tình có vô số phẩm loại sai biệt. Tức thắng giải, hỷ lạc, gọi là sai biệt.

Nếu nhận biết như thật về các loại hữu tình, nơi biên vực trước từ vô thủy do thường tập mà thành. Chí tánh, tùy miên cùng các pháp tánh có vô số sai biệt. Trí nhận biết không bị ngăn ngại, gọi là lực của trí nhận biết về vô số cảnh giới.

Lại, Đức Phật đã tự thuyết giảng về tướng của lực này nói: Bísô nên lắng nghe! Phật đối với vô số cảnh giới của thế gian, không phải một giới, đều nhận biết như thật, cho đến nói rộng.

Vô số cảnh giới: Là hiển bày về nghĩa đều riêng khác. Không phải một giới: Là làm rõ về nghĩa rất nhiều. Nên biết trong đây cảnh giới cùng với chí tánh, tùy miên, pháp tánh, gọi đấy là sai biệt.

Bốn lực như thế đều duyên nơi hữu vi, nên trong mười trí chỉ gồm thâu chín trí.

1. Lực của trí nhận biết về hành đi đến khắp. Tiếng hoặc là làm rõ về nghĩa này có hai đường: Nếu cho chỉ duyên nơi các đạo của chủ thể đi đến thì chín trí làm tánh, trừ diệt trí. Nếu cho gồm duyên nơi quả thuộc đối tượng đi đến của đạo, thì dùng mười trí làm tánh. Nghĩa là nhận biết như thật về nhân quả của sinh tử và nhận biết toàn bộ đạo. Trí nhận biết không bị ngăn ngại, gọi là lực của trí nhận biết về hành đi đến khắp.

Lại, Đức Phật đã tự thuyết giảng về tướng của lực này nói: Bísô nên lắng nghe! Phật ở trong tất cả hành đi đến khắp, đều nhận biết như thật, cho đến nói rộng.

Ý này hiển bày Đức Phật có thể nhận biết như thật về hành đi đến sinh tử, hành đi đến Niết-bàn. Trong hành đi đến sinh tử, có hành đi đến địa ngục, cho đến đi tới các trời. Trong mỗi mỗi hành đi đến lại có nhiều thứ. Hành đi đến Niết-bàn có ba thừa riêng khác, trong mỗi mỗi hành đi đến lại có nhiều thứ. Dựa vào phần chung để nói về tên của một hành đi đến khắp.

2. Lực của trí túc trụ tùy niệm.

3. Lực của trí nhận biết về tử sinh.

Hai lực như thế đều dùng thế tục trí làm tánh. Tướng của hai lực này có sai biệt. Nghĩa là nhận biết như thật về túc trụ nơi quá khứ của tự tha có sai biệt. Trí không bị ngăn ngại, gọi là lực thứ tám. Nếu nhận biết như thật về các loại hữu tình nơi đời vị lai, các hữu nối tiếp sinh. Trí nhận biết không bị ngăn ngại, gọi là lực thứ chín.

Lại, Đức Phật đã tự thuyết giảng về tướng của hai lực này nói: Bí-sô nên lắng nghe! Phật ở nơi vô số túc trụ của quá khứ từ một đời, hai đời, cho đến nói rộng. Thiên nhãn tịnh của Phật vượt quá con người, nhận thấy các hữu tình, cho đến nói rộng. Biện về hai tướng này như trong sáu thông.

4. Lực của trí nhận biết về lậu tận. Tiếng hoặc cũng hiển bày về nghĩa có hai đường:

5. Nếu cho chỉ duyên nơi lậu tận làm cảnh thì sáu trí làm tánh, trừ đạo, khổ, tập, tha tâm trí.

6. Nếu cho gồm duyên nơi phương tiện của lậu tận thì dùng mười trí làm tánh. Về lý tức nên như thế. Do trong phần biện về tướng nói đối với tận và vì tận nơi trí không bị ngăn ngại, nên hai thứ đều gọi là lực của trí nhận biết về lậu tận.

Lại, Đức Phật đã tự thuyết giảng về tướng của lực này nói: Bísô nên lắng nghe! Vì Phật lậu tận, nên đối với các vô lậu tâm tuệ giải thoát. Tự thể hiện thông đạt gồm đủ chứng lãnh nhận, có thể chính tự biết: Nẻo sinh tử của ta đã hết, cho đến nói rộng.

Ba lực sau này, tức là ba thông. Do trong sáu thông thì ba lực này là thù thắng. Ở nơi quả vị vô học, lập làm ba minh. Tại thân Như Lai cũng gọi là lực. Thần cảnh, thiên nhĩ được lập tại thân Phật, cũng không có dụng lớn, nên không gọi là lực. Lại như thiên nhãn, có thể thấy hữu tình, ở trong nẻo thiện, ác dị thục có sai biệt. Do đấy, có thể dẫn trí thù thắng sinh. Cũng nhận biết rõ đúng là có thể chiêu cảm nghiệp kia. Vì thế kiến lập danh xưng trí tử sinh. Thần cảnh, thiên nhĩ không có dụng lớn này, thế nên hai thông kia không lập làm lực. Tuy nhiên, không nói riêng về tha tâm lực, vì nghĩa đã gồm thâu ở trong lực như căn v.v…, do trong căn v.v… của người khác có tâm tâm sở.

Lại, Đức Bạc-già-phạm gồm đủ nhất thiết trí, đối với luận v.v… như công xảo cũng được tự tại, mà ở nơi Phật sự ngang bằng với đây đã hoàn thành. Trí còn lại ở đấy không có dụng thù thắng riêng. Thế nên tuy có cũng không nêu bày riêng. Chỉ dựa vào mười thứ đối tượng nhận biết đã hiểu rõ khắp, Đức Phật đã ứng hợp hành tác đều viên mãn.

Nghĩa gì gọi là mười thứ đối tượng nhận biết?

Nghĩa là nghĩa nhân không phải nhân trong các pháp. Phần nhiều phân tán nơi địa nghiệp quả có sai biệt. Phẩm loại công đức của địa định là không đồng. Căn, giải, giới của hữu tình nơi đối tượng được hóa độ có khác nhau. Nhân quả của đối tượng đối trị, chủ thể đối trị luôn có sai biệt. Biên vực trước, biên vực sau đã từng trải qua đều bất đồng. Phương tiện lìa nhiễm khiến không nối tiếp là có khác. Chỉ do hiểu biết rõ các thứ này thì đã hoàn thành. Pháp khác thiết lập có, không có, không dẫn đến tăng giảm, nên chỉ mười thứ được gọi là lực.

Lại, Đức Phật quán xét các hữu tình của đối tượng được hóa độ, lập giáo ứng hợp căn cơ, chỉ cần mười trí. Nghĩa là do trí đầu tiên quán chúng sinh được hóa độ, ở trong các thừa có thể kham nhận, không thể kham nhận là khác nhau. Do trí thứ hai quán chúng sinh được hóa độ, ở trong phần tương tục thì nghiệp chướng đều sai biệt. Do trí thứ ba quán chúng sinh được hóa độ, đối với tĩnh lự v.v… có vị, không có vị, phiền não làm chướng ngại, nhẹ, nặng có sai khác. Do biết hai nhân này, tức cũng nhận biết về chướng dị thục. Do trí thứ tư quán chúng sinh được hóa độ, công năng hướng đến phẩm thanh tịnh luôn có khác nhau. Do trí thứ năm quán chúng sinh được hóa độ, gia hạnh nơi phẩm chứng tịnh là có sai biệt.

Do trí thứ sáu quán chúng sinh được hóa độ, đối với phẩm chứng tịnh bẩm nhận chí tánh riêng khác. Do trí thứ bảy quán chúng sinh được hóa độ, các việc đã thi hành có ích, không ích, có vô số thứ sai biệt chính là khuyên tu chỉ. Do trí thứ tám quán chúng sinh được hóa độ, trong đời quá khứ đã tích tập có khác nhau. Do trí thứ chín quán chúng sinh được hóa độ, trong đời vị lai, kiết sinh luôn sai biệt. Do trí thứ mười quán chúng sinh được hóa độ, phương tiện để chứng đắc giải thoát có khác.

Nơi mười trí này, nếu theo đấy thiếu một, liền không đầy đủ sự việc hóa độ hữu tình. Nếu nhiều hơn lại không có công dụng, nên không tăng giảm.

Đã biện về tự tánh. Do dựa nơi địa riêng khác: Nghĩa là lực thứ tám, thứ chín dựa vào bốn tĩnh lự. Tám lực còn lại thì dựa chung nơi mười một địa để khởi. Mười một địa là: Cõi dục, bốn tĩnh lự, vị chí, trung gian và bốn vô sắc. Các địa có đức thù thắng gồm chung là có từng ấy.

Đã biện về phần dựa nơi địa. Dựa nơi thân riêng khác: Là đều dựa vào thân Phật, là thân người nam của châu Thiệm Bộ. Chỉ các thứ này là có thể làm đối tượng nương dựa của lực.

Mười trí như thế nơi hàng Nhị thừa cũng có, vì sao ở nơi Phật mới nhận lấy danh xưng lực?

Phàm thọ nhận danh xưng lực, nghĩa là hành chuyển không có ngăn ngại. Trí Phật đối với cảnh hành chuyển không hề bị ngăn ngại, nên được gọi là lực. Các vị khác thì không như thế. Vì các vị Nhị thừa hãy còn không có khả năng thấy biết các hữu tình cùng nối tiếp, thuận với thiện của phần giải thoát, huống chi lại có thể nhận biết được những phần thâm diệu vi tế khác. Như Tôn giả Xá-lợi-tử đã bỏ người cầu được hóa độ. Cũng không thể quán biết chim ưng đã đuổi bắt chim bồ câu. Hai đời trước sau đã sinh nhiều, ít v.v… Tôn giả Đại Mục Kiền Liên không thể quán thấy gió nghiệp đã dẫn sinh các quỷ có sai biệt. Thế nên, thiên nhãn thông v.v… của hàng Nhị thừa quán cảnh giới xa, gần, so với Phật là có khác. Vì không phải là vô ngại, nên không gọi là lực.

Hàng Nhị thừa so với Phật thì về lậu tận đã đồng. Do đâu trí kia chỉ nơi Phật gọi là lực?

Chỉ Đức Thế Tôn có trí thông đạt khắp các hữu tình, là trí nhận biết về biệt tướng của tất cả lậu tận. Nghĩa là Đức Bạc-già-phạm đối với phẩm loại có sai biệt của tất cả lậu tận nơi các hữu tình, trí nhận biết không bị ngăn ngại. Hàng Nhị thừa thì không như vậy, thế nên danh xưng lực chỉ thuộc về Phật.

Lại, chỉ trí của chư Phật là dũng mãnh, thông lợi. Thế nào là dũng mãnh thông lợi? Lực nơi trí của Phật có công năng đoạn trừ nhanh chóng phiền não và tập khí. Như Bổ-đặc-già-la có sức mạnh, yếu, cầm dao bén, lụt để chặt phát cỏ v.v…

Tướng uẩn của các loại hữu tình không có riêng khác, sao Đức Phật quán có vô số giới?

Tướng uẩn của các loài hữu tình tuy là đồng, nhưng ở trong đó không phải không có sai biệt. Nghĩa là thể của các uẩn kia tuy không khác, nhưng có vô lượng phẩm loại không đồng. Đức Phật như lượng nhận biết, đều không bị ngăn ngại, nên Đức Thế Tôn có được lực của trí nhận biết về vô số giới. Hoặc danh xưng của các Như Lai là cao xa, có vô biên diệu dụng của trí tuệ hy hữu, chỉ Phật mới có thể nhận biết, không phải là đối tượng lường tính của các vị khác. Ở trong tướng không dị biệt đã được hiểu rõ của chư vị khác đâu có trở ngại Đức Như Lai có thể nhận biết tướng riêng.

Đã biện về lãnh vực tâm lực của chư Phật. Sẽ biện về thời gian còn là Bồ-tát cũng đã hoàn thành thân lực. Tụng nêu:

Thân: Lực Na-la-diên

Hoặc chi tiết đều vậy

Bảy mười tăng sức voi v.v…

Xúc xứ này làm tánh.

Luận nói: Lực nơi sinh thân của Phật là bằng lực Na-la-diên v.v…

Có Sư khác cho: Chi tiết nơi thân Phật, mỗi mỗi thứ đều gồm đủ lực Na-la-diên. Về lý thật thì thân lực của chư Phật là vô biên, cũng như tâm lực, vì có thể giữ vững đại công đức của Chánh đẳng Bồ-đề vô thượng.

Chi tiết thân của bậc Đại giác, Độc giác và Chuyển luân vương là cùng liên hệ như thứ lớp kia, giống như rồng cuộn khúc, nối kết liền nhau, nên ba lực cùng đối chiếu là có hơn, kém. Lực của Na-ladiên lượng ấy là thế nào? Là tăng gấp mười mười lần lực của bảy thứ như voi v.v… Nghĩa là voi thường, Hương tượng, Ma-ha Nặc-kiệnna, Bát-la-tắc, Kiến-đề, Phạt-lãng-già-già, Nộ-la, Na-la-diên.

Lực càng về sau tăng gấp mười lần lực lùi về trước.

Có thuyết nói: Tăng gấp sáu, mười mười lần so với trước là bằng lực của nửa thân Na-la-diên. Lực này tăng một lần thành lực của Na-la-diên.

Có Sư khác nêu: Lượng này như ngàn lần lực của tượng vương nơi trời Ái-la-phạt-noa. Lực của tượng vương này, lượng ấy là thế nào? Trời Ba mươi ba sắp dạo chơi nơi các vườn hoa, thú, tượng vương nhận biết rồi, hóa làm các đầu có vô số thứ trang nghiêm, đi đến cung trời. Quyến thuộc của chư thiên luôn có nhiều ngàn, cưỡi voi xong, bay lên không trung, như nắm lấy lá cây hoa, nhanh chóng đi đến nơi chốn dạo chơi, tùy ý vui đùa thỏa thích.

Uy lực nơi đại tượng vương của trời là như thế. Lực này tăng gấp ngàn lần thì bằng lực của Na-la-diên.

Ở trong các thuyết chỉ thuyết nói về số nhiều là hợp lý. Thân lực như thế, dùng xúc xứ làm tánh. Tánh này nên gồm chung là các xúc có sai biệt. Có thuyết nói: Chỉ là đại chủng có sai biệt.

Có thuyết cho: Xúc được tạo này lìa bảy hữu bên ngoài.

Có thuyết nêu: Lực là nặng, người yếu kém là nhẹ.

Như thế gọi là lực nơi sinh thân của Phật.

Tướng bốn vô úy của Phật riêng khác như thế nào? Tụng nêu:

Bốn vô úy như lớp

Lực đầu mười, hai, bảy.

Luận nói: Bốn vô úy của Phật, như kinh đã nêu bày rộng: (1) Vô úy Chánh đẳng giác, dùng mười trí làm tánh, cũng như lực đầu tiên. (2) Vô úy lậu tận vĩnh viễn, dùng sáu, mười trí làm tánh, như lực thứ mười. (3) Vô úy thuyết chướng pháp, dùng tám trí làm tánh, như lực thứ hai. (4) Vô úy thuyết xuất đạo, dùng chín, mười trí làm tánh, như lực thứ bảy.

Do đâu vô úy của chư Phật chỉ là bốn?

Chỉ do số lượng này là hiển bày về đức viên mãn nơi tự tha của Phật Thế Tôn đều cùng đạt đến cứu cánh. Nghĩa là vô úy thứ nhất tức hiển bày về trí đức viên mãn nơi tự thân của Phật, Thế Tôn. Vô úy thứ hai làm rõ về đoạn đức viên mãn nơi tự thân của Phật, Thế Tôn. Hai vô úy này là hiển bày về đức tự lợi viên mãn của Phật. Vì để làm rõ đức lợi tha viên mãn của Thế Tôn, thế nên lại nói về hai vô úy sau. Vô úy thứ ba là nhằm ngăn chận hành theo tà đạo. Vô úy thứ tư khiến hướng đến chánh đạo. Nghĩa là ở nơi xứ xứ, Đức Phật đã vì các đệ tử thuyết giảng pháp chướng khiến dứt trừ. Tức là khiến theo phương tiện để tu tập đoạn đức. Lại ở nơi xứ xứ, vì các đệ tử thuyết giảng về đạo xuất ly, khiến chánh hành, tức là khiến theo phương tiện tu tập trí đức.

Hai vô úy này là hiển bày về đức lợi tha viên mãn của Phật. Chỉ do bốn vô úy này, tùy theo đối tượng ứng hợp của chúng đã làm rõ về trí đức, đoạn đức viên mãn nơi tự, tha của Phật, đạt đến cứu cánh nên chỉ lập bốn thứ.

Vì sao có thể nói vô úy tức là trí?

Nên nói vô úy là do trí tạo thành. Về lý thật tức nên như thế. Song vì nhằm chỉ rõ vô úy dùng trí làm nhân thân cận, thế nên căn cứ theo trí để nêu ra thể của vô úy.

Phàm nói về người vô úy, nghĩa là không khiếp sợ, do có trí nên không khiếp sợ người khác, nên trí được làm tánh nhân của vô úy. Chỉ do bốn diệu trí của Phật là nhân của bốn vô úy. Nghĩa là các Đức Như Lai đối với hết thảy tướng của tất cả pháp, thì diệu trí này là nhân của vô úy thứ nhất. Nếu các Đức Như Lai đối với tất cả phiền não và tập khí đều đã đoạn trừ, thì diệu trí ấy là nhân của vô úy thứ hai. Chỉ Đức Phật, Thế Tôn của ta do gồm đủ vô úy này, nên bị xâm hại, hủy báng, không buồn, được cúng dường, tán thán, không vui. Tuy luôn chống trái, nhưng thường tạo lợi ích. Tuy luôn gia tăng đả phá loại trừ, nhưng vẫn hiện bày tâm xót thương sâu đậm. Tuy có đủ thần thông trí tuệ thiện xảo thù thắng hỗ trợ, nhưng không tỏ ra kiêu mạn. Đối với kẻ muốn lìa bỏ, không khởi giận dữ ngờ vực. Đối với người ưa gần gũi, thừa hành, không yêu mến thiên lệch. Tuy hành trì nhiếp sự, nhưng không cầu được giúp đỡ. Tuy buông lời quở trách, nhưng không hề mong trái lìa. Tuy phải xua đuổi tạm thời, nhưng không dùng lời nói thô dữ. Tuy đã đuổi bỏ hẳn, nhưng không khiến rơi vào nẻo tà. Tuy không hề sợ hãi, nhưng không tạo xấu ác. Tuy thường thân ái mà không sinh tham. Tuy hiển bày đức mình, nhưng không dua theo danh lợi. Tuy chỉ rõ lỗi của người khác, nhưng không theo đấy để sỉ nhục. Tuy thâu giữ truyền dạy đồ chúng, nhưng không tạo lập bè nhóm cho mình. Tuy quở trách bạn tà, nhưng không phá bỏ bè bạn người khác. Tộc họ trọng vọng, nhiều người luôn đến để thân cận, nương dựa. Chỉ nêu bày chỉ rõ về chánh pháp mà không cùng giao du.

Những thứ ấy đều do diệu trí lậu tận, nên diệu trí này làm nhân của vô úy thứ hai.

Nếu các Như Lai nhận biết chúng đệ tử có giảm, có tăng, thì diệu trí này là nhân của hai vô úy sau. Hoặc thể của vô úy tức là bốn diệu trí. Khiếp nhược, sợ hãi, gọi là úy. Ở đây tức đối với pháp, không có hiểu biết thấu đạt, là nghĩa mang giữ sợ hãi. Trí đối với sợ hãi (úy) này có công năng đối trị gần. Cùng với úy trái nhau, nên gọi là vô úy.

Há không phải là vô trí tức là thể của úy? Vì sao nói thể của trí tức là vô úy?

Vấn nạn này là không đúng. Vì trí là đối trị gần cho nhiều pháp. Như thế tức không nên khởi nghi. Nghĩa là trí như chủ thể đối trị gần vô trí, tức cũng đối với sợ hãi, có công năng đối trị gần, nên được mang tên trí, cũng gọi là vô úy. Như đối trị vô trí thì cũng có thể đối trị nghi, nên được mang tên trí, cũng gọi là quyết định. Vô trí của đối tượng được đối trị, tuy không tức là nghi, nhưng trí thì không nghi, danh hai, thể một.

Như thế, vô trí tuy cùng với sợ là khác nhau, nhưng tên gọi vô úy tức nói về thể của trí. Vì một pháp thiện có thể đoạn trừ nhiều pháp ác.

Có thuyết nói: Vô trí cũng gồm thâu thể của sợ hãi, nên ở đây không nên nêu vấn nạn.

Lực cùng với vô úy có gì sai biệt?

Hai thứ ấy không sai biệt, vì thể đều cùng là trí. Nhưng đối với nghĩa riêng nơi thể của trí, gọi là lực. Lại dựa nơi nghĩa riêng để lập tên vô úy. Nghĩa là nhân không khuất phục, gọi là lực. Nhân không khiếp sợ gọi là vô úy. Hoặc đầu tiên an lập gọi là lực. Lập xong thì bất động, gọi là vô úy. Hoặc không phải bị người khác chế ngự, gọi là lực. Có khả năng hàng phục người khác, gọi là vô úy.

Có Sư khác nêu: Ví dụ như lương y, thấu tỏ khắp về phương thuốc, gọi là lực. Khéo chữa lành các bệnh, gọi là vô úy.

Có thuyết cho: Mạnh mẽ tráng kiện gọi là lực. Dũng mãnh không khiếp sợ gọi là vô úy.

Như thế, nghĩa của hai thứ ấy cũng có riêng khác. Tức nghĩa của sự thành tựu xong là nghĩa của lực. Nghĩa không khiếp nhược, sợ hãi là nghĩa của vô úy.

Ba niệm trụ của Phật cùng khác biệt như thế nào? Tụng nêu:

Ba niệm trụ, niệm tuệ

Duyên thuận, trái cùng cảnh.

Luận nói: Ba niệm trụ của Phật, như kinh đã thuyết giảng rộng.

Các chúng đệ tử hoàn toàn cung kính, có thể hành chánh thọ. Đức Như Lai duyên nơi đấy không sinh hoan hỷ, xả bỏ nhưng luôn an trụ nơi chánh niệm, chánh tri. Đó gọi là niệm trụ thứ nhất của Như Lai.

Các chúng đệ tử chỉ không cung kính, không hành chánh thọ. Đức Như Lai duyên nơi đấy không sinh lo buồn, xả bỏ nhưng luôn an trụ nơi chánh niệm, chánh tri. Đó gọi là niệm trụ thứ hai của Như Lai.

Các chúng đệ tử gồm một loại cung kính, có thể hành chánh thọ, một loại không cung kính, không hành chánh thọ. Đức Như Lai duyên nơi đấy không sinh vui buồn, xả bỏ nhưng luôn an trụ nơi chánh niệm, chánh tri. Đó gọi là niệm trụ thứ ba của Như Lai.

Tuy có đối tượng được hóa độ, không cung kính, thọ hành, nhưng Đức Phật Thế Tôn vẫn luôn tuôn mưa chánh pháp.

Do phương tiện này, nên chúng đệ tử kia, ở vào thời gian khác, hoặc các hữu tình khác đã được nhập nơi chánh pháp. Không phải trước nói bốn, nay lại nói ba. Có thể nói chung: Niệm trụ có bảy. Nay ba là đã gồm thâu trong bốn trước. Nghĩa là ở bên ngoài duyên là thuộc về pháp niệm trụ. Nhưng thể của ba thứ này là chung nơi niệm, tuệ. Tức do an trụ nơi chánh niệm, chánh tri, ở trong ba cảnh không sinh vui buồn. Không thể thấy có các Đại Thanh văn ở trong ba cảnh, không sinh hoan hỉ, lo lắng, liền cho ba thứ này không phải là pháp không chung của Phật. Chỉ Đức Phật ở nơi ba pháp này và vì tập đoạn, nên khéo thấu suốt chủng tánh của các hữu tình có riêng khác. Hoặc chúng đệ tử tùy thuộc Đức Như Lai, có thuận trái đều cùng nên rất vui mừng, lo buồn. Đức Phật có khả năng không khởi, có thể cho là hy hữu, kỳ diệu, không phải thuộc về các Thanh văn không khởi, vì không phải là đặc biệt kỳ lạ. Nên chỉ ở nơi Đức Phật được danh xưng không chung.

Đại bi của chư Phật vì sao cùng riêng khác? Tụng nêu:

Đại bi chỉ tục trí

Tư lương, hành tướng, cảnh

Vì bình đẳng phẩm thượng

Khác bi, do tám nhân.

Luận nói: Đại bi của Đức Như Lai dùng thế tục trí làm tánh, duyên khắp nơi tất cả hữu tình làm cảnh. Vì tạo ra ba hành tướng như khổ khổ v.v…, nên không phải là trí vô lậu có lý như thế.

Danh xưng đại bi này đã dựa vào nghĩa nào để lập?

Vì dựa nơi năm nghĩa, nên lập tên gọi đại này:

1. Do tư lương nên đại. Nghĩa là do đại phước đức, trí tuệ làm tư lương nên đã được thành tựu.

2. Do hành tướng nên đại. Nghĩa là lực này có thể ở nơi cảnh của ba khổ tạo tác hành tướng.

3. Do đối tượng duyên nên đại. Nghĩa là đại bi này dùng chung hữu tình nơi ba cõi làm đối tượng duyên.

4. Do bình đẳng nên đại. Nghĩa là đại bi này bình đẳng đối với tất cả hữu tình, tạo ra lợi ích an lạc.

5. Do phẩm thượng nên đại. Nghĩa là phẩm tối thượng, lại không có bi nào khác có thể sánh bằng với bi này.

Có Sư khác nêu rõ: Do đại gia hạnh nên đã chứng đắc. Chỉ nơi thân Đại sĩ đã thành tựu. Vì nhập nơi số châu báu của đại công đức, nên có thể nhổ bật hết các thứ khổ não lớn của hữu tình, nên lập danh xưng đại bi.

Bi cùng với đại bi có sai biệt gì?

Sai biệt của hai thứ này do tám thứ nhân: (1) Do tự tánh. Vì tự tánh của vô sân, vô ngại là khác nhau. (2) Do dựa vào thân chung khác. Tức chỉ Đức Phật dựa vào thân khác. (3) Do hành tướng. Vì hành tướng của một khổ, ba khổ có khác. (4) Do đối tượng duyên. Vì đối tượng duyên của một cõi, ba cõi là khác. (5) Do dựa vào địa, chung nơi các địa còn lại và tĩnh lự thứ tư có khác nhau. (6) Do chứng đắc. Lìa nhiễm nơi cõi dục và xứ Hữu đảnh để chứng đắc là khác biệt. Lại, bi là trước khi lìa nhiễm đắc, còn chỉ khi lìa nhiễm đắc là có sai biệt. (7) Do cứu giúp. Sự hy vọng và thành tựu cứu giúp có khác. (8) Do thương xót. Thương xót bình đẳng, không bình đẳng là khác nhau.

Có Sư khác nói: Đại bi của chư Phật là tùy thuận khắp, rộng xa, vi tế, có thể tạo lợi ích rộng lớn. Các loại như Thanh văn v.v… đã khởi tâm bi, thì không thể thương xót nơi cõi sắc, cõi vô sắc. Đức Phật đối với hai cõi trên đều khởi tâm xót thương tột cùng, vượt quá hàng Nhị thừa, xót thương đến ngục vô gián.

Đã biện về đức của Phật khác với các hữu tình khác. Pháp của chư Phật cùng đối chiếu là đều bình đẳng chăng? Tụng nêu:

Do tư lương pháp thân

Lợi tha Phật tương tợ

Thọ lượng cùng chủng tánh

Chư Phật có sai biệt.

Luận nói: Do ba sự nên chư Phật đều bình đẳng: (1) Do tư lương bình đẳng viên mãn. (2) Do pháp thân bình đẳng thành tựu. (3) Do lợi tha bình đẳng đạt cứu cánh.

Do thọ mạng, chủng tánh, thân lượng là có khác, nên chư Phật cùng đối chiếu là cùng có sai biệt.

Thọ mạng khác: Nghĩa là thọ mạng của Phật có ngắn, dài.

Chủng tánh khác: Nghĩa là Phật sinh nơi chủng tánh Sát-đế-lợi Bà-la-môn.

Tộc họ khác: Tức tộc họ của Phật là Kiều-đáp-ma, Ca-diếpba vv…

Thân lượng khác: Nghĩa là thân Phật có nhỏ, lớn v.v…

Nói hiện bày pháp của chư Phật, trụ lâu, gần v.v…

Như thế có khác, là do thời kỳ xuất thế, hữu tình được hóa độ, căn cơ thích hợp có riêng khác. Các người có trí tư duy về ba thứ viên đức của Như Lai, sinh khởi tâm yêu kính sâu xa. Ba thứ đức đó là: (1) Nhân viên đức. (2) Quả viên đức. (3) Ân viên đức.

Nhân viên đức đầu tiên lại có bốn thứ: (a) Tu trọn vẹn: Hai thứ tư lương là phước đức, trí tuệ đã tu tập không sót. (b) Tu trong thời gian dài: Trải qua ba A-tăng-xí-da đại kiếp đã tu hành không mỏi mệt. (c) Tu vô gián: Tức tinh tấn, siêng năng, dũng mãnh nơi từng sát-na, sát-na tu trì không bỏ dở. (d) Tu tôn trọng: Cung kính đối với việc học, không đoái tưởng, luyến tiếc, tu hành không kiêu mạn.

Tiếp theo, Quả viên đức cũng có bốn thứ: (a) Trí viên đức. (b) Đoạn viên đức. (c) Uy thế viên đức. (d) Sắc thân viên đức.

Trí viên đức có bốn thứ: Một là: Vô sư trí. Hai là: Nhất thiết trí. Ba là: Nhất thiết chủng trí. Bốn là: Vô công dụng trí.

Đoạn viên đức có bốn thứ: Một là: Tất cả phiền não đoạn. Hai là: Tất cả chướng của định đoạn. Ba là: Tất cánh đoạn. Bốn là: Đều tập đoạn.

Uy thế viên đức có bốn thứ: Một là: Uy thế đối với ngoại cảnh, biến hóa, trụ trì tự tại. Hai là: Uy thế đối với thọ lượng, hoặc thâu ngắn, hoặc kéo dài tự tại. Ba là: Uy thế đối với chướng ngại không, hành rất xa nhanh, lớn nhỏ cùng nhập tự tại. Bốn là: Uy thế khiến vô số bản tánh của thế gian theo pháp như thế chuyển hành thù thắng, hy hữu kỳ diệu.

Uy thế viên đức lại có bốn thứ: Một là: Chúng sinh khó hóa độ tất có thể hóa độ. Hai là: Đáp các vấn nạn tất quyết nghi. Ba là: Lập giáo tất xuất ly. Bốn là: Các bè nhóm xấu ác tất có thể hàng phục.

Sắc thân viên đức có bốn loại: Một là: Đủ chúng tướng. Hai là: Đủ tùy hảo. Ba là: Đủ đại lực. Bốn là: Xương của nội thân cứng chắc vượt quá kim cương.

Bên ngoài phát ra ánh sáng thần diệu hơn cả trăm ngàn mặt trời.

Ân viên đức sau cũng có bốn thứ: Nghĩa là khiến vĩnh viễn giải thoát sinh tử trong ba nẻo ác. Hoặc có khả năng dẫn khởi nẻo thiện, đặt yên nơi ba thừa. Nói chung viên đức của Như Lai là như thế.

Nếu phân tích riêng tức có vô biên. Chỉ Đức Phật, Thế Tôn mới có thể nhận biết, có thể nêu bày, chủ yếu là lưu giữ mạng hành trải qua nhiều A-tăng-xí-da đại kiếp mới có thể nói hết.

Như thế tức đã làm rõ thân của Phật, Thế Tôn có đủ vô biên nhân quả ân đức thù thắng, đặc biệt kỳ diệu như núi báu lớn.

Có các kẻ ngu tự mình thiếu hẳn chúng đức, tuy nghe nói đến núi công đức và pháp đã thuyết giảng của Phật như thế, nhưng không thể tin tưởng, kính trọng. Các người có trí nghe nói như thế, thì sinh tâm tin kính hết mực sâu xa.

Những người trí kia do một niệm nơi tâm tin tưởng kính trọng tột cùng, tức đã chuyển diệt vô biên nghiệp ác bất định, vì thâu nhận Niết-bàn thù thắng nơi hàng người trời nên nói: Như Lai xuất hiện ở đời, làm phước điền vô thượng cho các người trí. Dựa vào đấy dẫn sinh quả khả ái thù thắng, đích thực nhanh chóng đạt đến cứu cánh. Như Đức Bạc-già-phạm tự nói. Tụng nói:

Nếu ở phước điền Phật

Hay trồng phần ít thiện

Trước được nẻo thiện thắng

Sau tất đạt Niết-bàn.

Đã nói về công đức không chung của Như Lai. Công đức chung nay sẽ biện. Tụng nêu:

Lại có pháp Phật khác

Chung phàm phu, Thánh khác

Là vô tránh nguyện trí

Cùng đức vô ngại giải.

Luận nói: Đức Thế Tôn lại có vô lượng công đức, so với Thánh giả khác và phàm phu là chung. Nghĩa là vô tránh nguyện trí, vô ngại giải, thông tĩnh lự, vô sắc, đẳng chí, đẳng trì, vô lượng giải thoát, thắng xứ, biến xứ v.v… tùy theo đối tượng ứng hợp với các công đức kia. Nghĩa là ba môn trước chỉ chung với Thánh khác, còn thông tĩnh lư v.v… thì cũng chung với phàm phu. Tuy tất cả công đức trong thân Phật, hành tướng luôn thanh tịnh thù thắng tự tại nhưng so với công đức của Thanh văn v.v… là có khác. Nhưng dựa nơi loại đồng mà nói, thì gọi là chung. Lại trong ba công đức chung với Thánh khác, thì vô tránh là thế nào? Tụng nêu:

Vô tránh: Thế tục trí

Sau tĩnh lự bất động

Ba châu duyên chưa sinh

Cõi dục có sự Hoặc.

Luận nói: Có A-la-hán nhớ nghĩ về nhiều đời từ xưa đã thọ thân tạp loại, phát sinh Hoặc của mình và người khác, do sự nối tiếp ấy, nên thọ nhận quả phi ái, liền khởi suy niệm: Thân có phiền não, duyên nơi đấy khởi Hoặc, hãy còn chiêu cảm quả khổ, huống chi là thân lìa phiền não gồm đủ đức thù thắng. Tư duy xong thì phát sinh trí tướng như thế.

Do phương tiện này, khiến hữu tình khác, không duyên nơi thân mình sinh tham, sân v.v…

Vô tránh này đều chỉ dùng thế tục trí làm tánh. Duyên nơi người khác ở vị lai tu đoạn trừ Hoặc, không phải trí vô lậu chuyển theo hành tướng này.

Nếu thể của vô tránh là thuộc về trí thì vì sao nói hành tập đẳng trì vô tránh?

Điều này là không trái nhau. Vì một phẩm tương ưng có nhiều công đức, theo đấy nêu bày một. Như trong một ngọn núi có vô số vật theo đấy nêu lên một thứ để tiêu biểu cho tên núi. Về lý tức nên vô tránh là thuộc về trí. Giúp đỡ phần cùng nối tiếp của người khác, nơi vị lai Hoặc sinh dùng phương tiện thiện xảo làm ưu tiên thì sự việc mới thành. Tuy nhiên, tất cả tránh gồm có ba thứ: Uẩn, lời nói, phiền não có sai biệt.

Uẩn tránh, nghĩa là chết. Lời nói tránh, nghĩa là tranh chấp. Phiền não tránh, nghĩa là một trăm lẻ tám phiền não. Do lực của thế tục trí này có thể ngừng dứt phiền não tránh, nên được mang tên vô tránh. Trí này chỉ dựa vào tĩnh lự thứ tư, vì trái với nhân khổ. Vì tĩnh lự thứ tư, trong lạc thông hành rất là thù thắng. Bất động nơi quả ứng (quả A-la-hán) tức có thể khởi, không phải là thứ khác. Pháp khác hãy còn không thể tự đề phòng Hoặc (phiền não) dấy khởi, huống chi là có khả năng ngừng dứt phiền não nơi thân người khác. Trí này chỉ nương dựa nơi thân người của ba châu, không phải là châu Bắc và xứ khác, vì tánh của trí ấy là mạnh mẽ, nhanh nhẹn. Duyên nơi hoặc hữu sự chưa khởi của cõi dục thì sinh. Chớ khiến Hoặc của người khác duyên nơi mình mà sinh, nên các Hoặc vô sự thì không thể ngăn phòng, bên trong khởi thì tùy theo chỗ ứng hợp, duyên chung nơi cảnh.

Đã biện về vô tránh. Nguyện trí là thế nào? Tụng nêu:

Nguyện trí hay duyên khắp

Còn lại như vô tránh.

Luận nói: Dùng nguyện làm trước, dẫn diệu trí khởi, như nguyện mà hiểu rõ, nên gọi là Nguyện trí. Tự tánh, địa, chủng tánh, thân của trí này so với vô tránh là đồng. Chỉ đối tượng duyên là khác, vì dùng tất cả pháp làm đối tượng duyên.

Vì sao nguyện trí có thể nhận biết vị lai?

Vì quán xét kỹ về quá khứ, hiện tại, so sánh để nhận biết. Như quan sát lúa mạ có tươi, có úa, tức so sánh nhận biết thửa ruộng kia có tốt, có xấu.

Nếu như vậy thì vì sao lập danh xưng nguyện trí?

Vì phàm phu, hàng hữu học cũng có thể nhận biết. Không như thế thì đối tượng nhận biết có nhất định, không nhất định. Nhưng nghe truyền nói các Đại Thanh văn, ghi nhận về sự việc của vị lai có không nhất định. Tức không phải khởi nguyện trí thì có nhận biết sai lầm này, vì thế tục trí khác quán về đối tượng ghi nhận là dị biệt. Hoặc các Đại Thanh văn kia đã ghi nhận không có lỗi không nhất định, vì chỉ quán ở phần bắt đầu, không quán phần chung cuộc. Như trước khi mưa xuống, trong khoảng chưa rơi tới đất. Vì La-hỗ-la đã bỏ chỗ kế thừa. Như trước đã mang thai, thật sự là nam, thời gian sau, người kia chuyển hình thành nữ.

Quỷ ở thành Vương xá, đầu tiên chiến đấu được thắng. Về sau, nơi thành Quảng nghiêm, các quỷ đã bị hàng phục. Vì con người muốn cùng đánh còn quỷ thì trước hết là chiến đấu.

Hoặc thật do nguyện trí mới thấy vị lai. Nhưng khi gia hạnh, thì trước hết là khởi tỷ trí, quán đời quá khứ, hiện tại, so sánh theo đấy để lường xét về vị lai, dẫn nguyện trí sinh, mới có khả năng thấy đúng. Tức do thấy đúng này, nên có thể nhận biết về vô sắc. Nghĩa là trước quán về hành đẳng lưu nơi nhân của cõi vô sắc kia, có tỷ trí sinh, dẫn khởi nguyện trí đích thực.

Hoặc quán tâm khi tử sinh ở cõi dục, cõi sắc, so sánh lường xét mà biết được từ nơi chốn đã sinh, dẫn sinh nguyện trí, mới có khả năng nhận biết đúng thật. Hoặc tỷ trí nhận biết cũng không có lỗi, vì chứng đắc tỷ trí thí đối tượng duyên tất đồng.

Nếu so sánh không nhận biết thì vì sao có thể chứng đắc? Tức là nguyện trí phải nên không thể nêu bày là lực có thể duyên khắp nơi ba cõi, ba đời. Các A-la-hán bất thời giải thoát muốn ở nơi cảnh kia khi đang nhận biết rõ thì trước hết cần phải phát nguyện trông mong: Tôi sẽ nhận biết về các pháp kia. Về sau nhập biên vực tĩnh lự thứ tư, dùng làm gia hạnh.

Từ vô gián này, như nguyện lực ở trước đã dẫn chánh trí khởi, đối với cảnh đã trông mong, đều nhận biết như thật. Nói biên vực định, như phần sau sẽ giải thích.

Lực của nguyện trí này có thể nhận biết quá khứ, so với túc trụ trí thì có sai biệt gì?

Nguyện trí nhận biết chung về tự tướng, cộng tướng. Các túc trụ trí thì nhận biết về cộng tướng, không phải thứ khác. Nhận biết trong cộng tướng cũng có sai biệt. Nguyện trí thì sáng rõ, còn túc trụ trí thì không như vậy. Ở nơi đối tượng duyên hiện có, tức đối với tha tâm trí, biện về tướng sai biệt, nên tư duy như lý.

HẾT – QUYỂN 75

Print Friendly, PDF & Email