LUẬN ĐẠI THỪA TRANG NGHIÊM KINH
Bồ-tát Vô Trước tạo luận
Đường, Thiên Trúc tam tạng Ba-la-phả-mật-đa dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 12

Phẩm 22: CÔNG ĐỨC

Giải thích: Đã nói các giác phần của Bồ-tát, tiếp nói các công đức của Bồ-tát.

Kệ nói:

Xả thân và thắng vị,

Nhẫn hạ và trường cần.

Bất vị bất phân biệt,

Sáu hạnh nói hy hữu.

Giải thích: Kệ này hiển thị hạnh hy hữu. Đàn hạnh, là nếu có thể thí thân mạng mình là hy hữu, ngoài ra không hy hữu. Giới hạnh, nghĩa là nếu có thể xả bỏ địa vị cao sang mộ đạo xuất gia là hy hữu, ngoài ra không hy hữu. Nhẫn hạnh, là nếu có thể không kể thân mạng nhãn nhịn chúng sinh hạ liệt là hy hữu, ngoài ra không hy hữu. Tinh tiến hạnh, là nếu có thể thời gian dài siêng năng chân chính cho đến tận cùng sinh tử không đoạn dứt là hy hữu, ngoài ra không hy hữu. Thiền hành, là nếu có thể nơi thắng định lạc mà không hưởng thiền vị, không thụ sinh nơi kia mới là hy hữu, ngoài ra không hy hữu. Tuệ hạnh, là nếu có thể khởi trí vô phân biệt mới là hy hữu, ngoải ra không hy hữu. Nếu người Thanh Văn phân biệt 4 đế mà có chán lìa, Bồ-tát thì không vậy. Đó gọi là 6 hạnh hy hữu.

Kệ nói:

Sinh vào nhà Như Lai,

Được ký và thụ chức.

Và được chứng Bồ-đề,

Bốn quả là hy hữu.

Giải thích: Kệ này hiển thị quả hy hữu. Bồ-tát có 4 quả: 1. Nhập sơ địa, sinh vào nhà Như Lai, là quả Tu-đà-hoàn. 2. Trong địa thứ 8 được thụ ký, là Tư-đà-hàm. 3. Trong địa thứ 10 được thụ chức, là quả A-na-hàm. 4. Phật địa, là quả A-la-hán. Ba quả trước là quả hữu học. Quả thứ tư là quả vô học. Đã nói hy hữu của Bồ-tát, tiếp nói Bồ-tát phi hy hữu.

Kệ nói:

Lìa dục và đại bi,

Thắng tu và bình đẳng.

Theo đây tu các độ,

Là hành phi hy hữu.

Giải thích: Bồ-tát đã được lìa dục mà hành bố thí không phải là hy hữu, vì không nhiễm trước nơi vật, vật dễ xả bỏ. Bồ-tát đã được đại bi mà trì giới, nhẫn nhục không phải là hy hữu. Nếu Bồ-tát đã được thắng tu, nghĩa là địa thứ 8, do không công dụng, không phân biệt nên thực hành 3 độ sau không phải hy hữu. Nếu Bồ-tát đã được tâm tự tha bình đẳng, hành tất cả các độ cũng chẳng phải hy hữu, do khi lợi tha tức là tự lợi, không có tâm thoái lui. Đã nói xong Bồ-tát phi hy hữu, tiếp nói Bồ-tát tâm bình đẳng.

Kệ nói:

Bồ-tát thương chúng sinh,

Không đồng sinh 5 ái.

Tự thân và quyến thuộc,

Con, bạn và người thân.

Giải thích: Kệ này hiển thị tâm bình đẳng của Bồ-tát đối với chúng sinh. Chúng sinh có 5 thứ tâm yêu không bình đẳng: 1. Yêu bản thân. 2. Yêu bà con. 3. Yêu con cái. 4. Yêu bạn bè. 5. Yêu người thân. Do 5 cái yêu này không bình đẳng cũng không rốt ráo, như người có lúc cũng hành tự hại. Còn tâm Bồ-tát yêu thương chúng sinh thì bình đẳng, do không bỏ, không thoái lui.

Kệ nói:

Không thiên lệch không phạm,

Khắp nhẫn khởi thiện lợi.

Thiền và vô phân biệt,

Sáu độ tâm bình đẳng.

Giải thích: Kệ này nói Bồ-tát hành 6 độ được tâm bình đẳng. Không thiên lệch, là tâm bố thí bình đẳng, đối với người cầu không phân biệt yêu ghét. Không phạm, là tâm trì giới bình đẳng, cho đến giới nhỏ nhặt cũng không khuyết phạm. Khắp nhẫn, là tâm nhẫn nhục bình đẳng phổ biến khắp chúng sinh hơn kém đều có thể nhẫn. Khởi thiện lợi, là tâm tinh tiến bình đẳng để khởi tất cả thiện căn và khởi tự tha tất cả lợi ích mà siêng năng làm. Thiền, là tâm học định bình đẳng. Bồ-tát tu định cũng để khởi các thiện căn và khởi các lợi ích mà tinh tiến.Vô phân biệt, là tu tâm tuệ bình đẳng, từ mới phát tâm cho đến cứu cánh, mọi tu hành các độ đều tam luân thanh tịnh. Đó gọi là các độ tâm bình đẳng. Đã nói xong Bồ-tát tâm bình đẳng, tiếp nói việc Bồ-tát nhiêu ích chúng sinh.

Kệ nói:

Khiến khí và khiến cấm,

Nhịn ác và giúp thiện.

Nhập pháp và đoạn nghi,

Sáu hạnh việc nhiêu ích.

Giải thích: Kệ này nói chư Bồ-tát dùng 6 Ba-la-mật nhiêu ích các chúng sinh. Khiến khí, nghĩa là dùng thí nhiêu ích khiến kia được thành khí cụ tu thiện. Khiến cấm, nghĩa là dùng giới nhiêu ích, tùy sức kham năng mà khiến hộ trì. Nhịn ác, là dùng nhẫn nhiêu ích, có thể nhận chịu những việc trái nghịch của chúng sinh. Giúp thiện, là dùng tiến nhiêu ích, trợ giúp chúng sinh làm các thiện nghiệp. Nhập pháp, là dùng định nhiêu ích bằng sức thần thông làm cho hồi tà quy chính. Đoạn nghi, là dùng trí nhiêu ích, dù phàm dù thánh nếu có lưới nghi đều giải trừ. Đã nói xong 6 độ nhiêu ích của Bồ-tát, tiếp nói 7 nhiêu ích tương tự của Bồ-tát: 1. Nhiêu ích tựa như người mẹ. 2. Nhiêu ích tựa như người cha. 3. Nhiêu ích tựa thiện hữu. 4. Nhiêu ích tựa đồng bạn. 5. Nhiêu ích tựa như người giúp việc khỏe mạnh. 6. Nhiêu ích tựa như A-xà-lê. 7. Nhiêu ích tựa như Hòa thượng.

Hỏi: Thế nào là nhiêu ích tựa như người mẹ?

Kệ nói:

Đẳng tâm sinh thánh địa,

Nuôi thiện phòng các ác.

Dạy tập bằng nghe nhiều,

Năm nghiệp như mẹ hièn.

Giải thích: Ví như mẹ hiền làm 5 nghiệp lợi ích cho con: 1. Mang thai. 2. Sinh ra. 3. Nuôi dưỡng. 4. Phòng hại. 5. Tập nói. Bồ-tát làm lợi ích chúng sinh cũng có 5 nghiệp như vậy: 1. Tâm bình đẳng đối với chúng sinh. 2. Làm cho chúng sinh sinh nơi đất thánh. 3. Nuôi lớn các thiện căn. 4. Phòng hộ các việc làm ác. 5. Dạy tập cho nghe nhiều. Đó là 5 thứ sự nghiệp của Bồ-tát tương tự như một bà mẹ.

Hỏi: Thế nào là làm lợi ích như một người cha?

Kệ nói:

Khiến tin khiến giới định,

Khiến thoát khiến khuyên mời,

Và phòng hộ các chướng,

Năm nghiệp như người cha.

Giải thích: Ví như người cha lành àm 5 nghiệp lợi ích cho đứa con: 1. Gieo giống. 2. Dạy nghề nghiệp. 3. Dựng vợ gả chồng cho con. 4. Phụ bạn tốt. 5. Tuyệt nợ nần không để sau con phải trả. Năm nghiệp của Bồ-tát cũng vậy: 1. Khiến tin để làm chủng tử của thánh thể. 2. Khiến học tăng thượng giới định để làm nghề nghiệp. 3. Khiến được niềm vui giải thoát để làm việc cưới gả. 4. Khiến khuyến thỉnh chư Phật để làm thiện hữu. 5. Ngăn chận chướng ngại để tuyệt nợ nần. Đó là 5 nghiệp của Bồ-tát tương tự như một người cha.

Hỏi: Thế nào là làm lợi ích như người bạn lành?

Kệ nói:

Bí thâm và kha phạm,

Tán trì và giáo thụ.

Khiến biết các việc ma,

Năm nghiệp như thiện hữu.

Giải thích: Ví như bạn lành làm cho mình 5 nghiệp lợi ích: 1. Mật ngữ làm che chở. 2. Khiến dứt việc làm ác. 3. Khen ngợi việc làm thiện. 4. Phụ giúp công việc làm. 5. Ngăn việc tập theo điều ác. Có 4 thứ việc ác: 1. Săn bắn. 2. Gian phi. 3. Say rượu. 4. Cờ bạc. năm nghiệp của Bồ-tát cũng vậy: 1. Người không kham thụ Phật pháp thì dùng bí mật ngữ nói. 2. Người phạm giới thì như pháp quở trách. 3. Người giữ đầy đủ giới luật thì khen ngợi. 4. Người tu hành thì dạy khiến mau chứng. 5. Người làm việc tà ma thì khiến biết mà giác ngộ. Đó là 5 nghiệp của Bồ-tát tương tự như người bạn lành.

Hỏi: Thế nào là làm việc lợi ích tương tự như một người đồng bạn?

Kệ nói:

Cho vui và cho lợi,

Hằng vui cũng hằng lợi,

Cho đến không chia tan,

Năm nghiệp như đồng bạn.

Giải thích: Ví như đồng bạn có trí làm cho mình 5 nghiệp lợi ích: 1. Cho điều vui. 2. Cho điều lợi ích. 3. Thường xuyên cho điều vui. 4. Thường xuyên làm cho điều lợi ích. 5. Không mâu thuẫn chia lìa. Năm nghiệp của Bồ-tát cũng vậy: 1. Cho điều vui không điên đảo. Thế gian thành tựu gọi là vui, vì do đó được cảm thụ vui. 2. Cho điều lợi không điên đảo. Xuất thế thành tựu gọi là lợi, vì do đó đối trị bệnh phiền não. Còn 3 cái nữa có thể hiểu được. Đó gọi là 5 nghiệp tương tự đồng bạn của Bồ-tát.

Hỏi: Thế nào là làm việc lợi ích như người giúp việc khỏe mạnh?

Kệ nói:

Thành sinh, khai xuất yếu,

Nhẫn hại với 2 thành.

Bằng phương tiện khéo léo,

Năm việc như kiện nô.

Giải thích: Ví như người giúp việc khỏe mạnh làm 5 việc lợi ích cho chủ: 1. Hết lòng các công việc. 2. Không lừa dối. 3. Nhịn chịu sự đánh mắng. 4. Làm việc được rất tốt. 5. Biết giỏi các phương tiện. Năm nghiệp của Bồ-tát cũng vậy: 1. Thành thục chúng sinh. 2. Khai thị xuất yếu. 3. Nhẫn các việc ác. 4. Cho vui thế gian. 5. Cho lợi xuất thế. Đó là 5 nghiệp của Bồ-tát tương tự người giúp việc.

Hỏi: Thế nào là làm lợi ích tương tự một A-xà-lê?

Kệ nói:

Dạy khắp và chỉ bày,

Vui vẻ lời dịu ngọt.

Không cầu người trả ơn,

Năm nghiệp như Xà-lê.

Giải thích: Được vô sinh nhẫn thì gọi là Xà-lê. Ví như Xà-lê làm 5 việc lợi ích cho đệ tử: 1. Dạy cho các pháp. 2. Chỉ bày những thiết yếu mau chóng. 3. Nét mặt vui vẻ. 4. Lời nói từ ái. 5. Tâm không mong đáp trả. Năm nghiệp của Bồ-tát cũng như vậy.

Hỏi: Thế nào là làm lợi ích như Hòa thượng?

Kệ nói:

Khiến đủ và giải thoát,

Đoạn chướng vui thế gian.

Và cho lợi xuất thế,

Năm nghiệp như Hòa thượng.

Giải thích: Ví như Hòa thượng làm 5 việc lợi ích cho đệ tử: 1. Độ khiến xuất gia. 2. Cho thụ giới. 3. Cấm đoán các tội lỗi. 4. Thâu giữ bằng của cải. 5. Dạy dỗ bằng giáo pháp. Năm nghiệp của Bồ-tát cũng vậy: 1. Khiến đủ 2 tụ. 2. Khiến được giải thoát. 3. Khiến đoạn các chướng. 4. Cho vui thế gian. 5. Cho lợi xuất thế. Đó là 5 nghiệp của Bồ-tát làm lợi ích như một Hòa thượng. Đã nói xong 7 nhiêu ích tương tự của Bồ-tát, tiếp nói 6 thứ chúng sinh báo ân.

Kệ nói:

Không chấp trước, không phạm,

Biết làm và thiện hạnh.

Như vậy tu 6 độ,

Là báo ân Bồ-tát.

Giải thích: Như Bồ-tát làm lợi ích chúng sinh, chúng sinh cũng như vậy báo ân Bồ-tát. Không chấp trước, là bố thí báo ân. Không phạm, là trì giới báo ân. Biết làm, là tu nhẫn báo ân. Bồ-tát thương yêu nhẫn nhịn kia biết mà làm, tức là báo ân. Thiện hành, là làm 3 độ còn lại báo ân. Lấy tinh tiến hành định tuệ tức được giải thoát, nên 3 độ sau hợp gọi là thiện hành. Đã nói chúng sinh 6 thứ báo ân, tiếp nói Bồ-tát 5 thứ hy vọng.

Kệ nói:

Sáu tăng và 6 giảm,

Thành sinh và tiến địa.

Đại giác là 5 xứ,

Hy vọng có 5 thứ.

Giải thích: Chư Bồ-tát có 5 chỗ thường khởi hy vọng: 1. Hy vọng 6 độ tăng trưởng. 2. Hy vọng 6 tế tổn giảm. 3. Hy vọng thành thục chúng sinh. 4. Hy vọng thắng tiến các địa. 5. Hy vọng vô thượng Bồ-đề. Đó là 5 thứ hy vọng. Đã nói xong 5 thứ hy vọng của Bồ-tát, tiếp nói 4 thứ quả bất không của Bồ-tát.

Kệ nói:

Dứt sợ và phát tâm,

Trừ nghi và khởi hành.

Bốn việc hóa chúng sinh,

Quyết định quả bất không.

Giải thích: Chư Bồ-tát 4 nghiệp lợi ích chúng sinh quyết được quả bất không: 1. Vì nói pháp rất sâu, quyết được không sợ hãi. 2. Khiến phát tâm Bồ-đề quyết được Phật quả. 3. Vì dứt nghi, quyết định không khởi lại. 4. Vì nói 6 độ, quyết có thể tu tập. Đó là 4 nghiệp quả bất không. Đã nói 4 thứ quả bất không của Bồ-tát, tiếp nói 6 thứ chính hạnh của Bồ-tát.

Kệ nói:

Lìa cầu, lìa hậu hữu,

Khắp khởi các công đức,

Tu thiền xả Vô sắc,

Trí hợp phương tiện hành.

Giải thích: Lìa cầu, nghĩa là chính hạnh bố thí không cầu mong báo đáp. Lìa hậu hữu, nghĩa là chính hạnh giới nhẫn không cầu có thân sau. Khắp khởi các công đức, nghĩa là chính hạnh tinh tiến. Tu thiền xả Vô sắc, nghĩa là chính hạnh thiền định. Trí hợp phương tiện hành, nghĩa là chính hạnh Bát-nhã. Tam luân thanh tịnh là Bát-nhã. Hồi hướng Bồ-đề là phương tiện. Như Kinh Bảo Tích nói: “ Thí không cầu báo, như vậy nói rộng.” Đã nói 6 thứ chính hạnh của Bồtát, tiếp nói 6 độ tiến thoái phần của Bồ-tát.

Kệ nói:

Đắm của cải, hủy cấm,

Mạn hạ và đọa thiện,

Thưởng vị và phân biệt,

Là thoái, ngược là tiến.

Giải thích: Sở đối trị 6 độ là nhân của thoái phần. Ngược lại sở đối trị là năng đối trị. Đó là nhân của tiến phần. Đã nói 6 độ tiến thoái phân của Bồ-tát, tiếp nói công đức chân thật và tương tự 6 độ của Bồ-tát.

Kệ nói:

Giả cho và trá tướng,

Dối vui và ngụy siêng,

Thân tĩnh, miệng nói khéo,

Là tự, ngược là chân.

Giải thích: Giả cho, là giả vờ bố thí. Nghĩa là người cầu xin thì nói của mình tha hồ lấy nhưng khi người đến thì keo kiệt. Trá tướng, nghĩa là giả vờ như giữ giới, tức che giấu các ác, trá hiện oai nghi. Dối vui, nghĩa là giả vờ nhẫn nhục, tức lời ngon ngọt mà chờ hại người. Ngụy siêng, nghĩa là giả vờ tinh tiến, tức chỉ nói suông rằng ta cầu Phật quả mà thật tâm mong cầu quả báo thế gian. Thân tĩnh, là giả vờ thiền định, nghĩa là thân miệng thì đoan chính mặc nhiên mà ác giác thì náo loạn trong tâm. Nói khéo, nói hay, là tựa như Bát-nhã, nghĩa là vì người mà nói khéo nhưng chính bản thân không thực hành. Sáu thứ này là hành nghiệp không chân chính, ngược lại hành nghiệp không chân chính này là hành nghiệp chân chính. Đã nói công đức chân tự của Bồ-tát, tiếp nói Bồ-tát vì chúng sinh trừ 6 tế chướng.

Kệ nói:

Hành 6 độ cho kia,

Trừ kia 6 tế chướng,

Bồ-tát hóa chúng sinh,

Mỗi địa đều như vậy.

Giải thích: Chúng sinh có 6 thứ ngăn che có thể chướng ngại 6

Ba-la-mật. Đó là xan tham, phá giới, giận dữ, lười biếng, loạn tâm, ngu si. Bồ-tát theo tuần tự khiến chúng sinh hành bố thí, cho đến khiến hành Bát-nhã, làm cho chúng sinh trừ được 6 thứ ngăn che, tức cho thí cho đến cho trí. Đã nói xong Bồ-tát trừ 6 thứ ngăn che chúng sinh, tiếp nói chư Phật thụ ký cho Bồ-tát.

Kệ nói:

Thụ ký có 2 thứ,

Người khác và thời khác.

Chuyển ký và đại ký,

Đây cũng có 2 thứ.

Giải thích: Thụ ký có 2 thứ: 1. Người sai biệt. 2. Thời sai biệt. Người sai biệt thụ ký có 4 thứ: 1. Chưa hát tâm thụ ký, là tính vị. 2. Đã phát tâm thụ ký. 3. Hiện tiền thụ ký. 4. Không hiện tiền thụ ký. Thời sai biệt thụ ký có 2 thứ: 1. Thụ ký có số lượng. 2. Thu ký vô số lượng. Lại nữa còn có 2 thứ thụ ký: 1. Chuyển thụ ký. 2. Đại thụ ký. Chuyển thụ ký, là ghi nhận cho vị Bồ-tát kia sau nơi Như Lai ấy, vào thời tiết ấy sữ được thụ ký.

Hỏi: Thế nào là đại thụ ký?

Kệ nói:

Bát địa được vô sinh,

Đoạn mạn, đoạn công dụng.

Chư Phật và Phật tử,

Đồng một thể như nhau.

Giải thích: Đại thụ ký, nghĩa là trong địa thứ 8 khi được vô sinh nhẫn, do dứt sự ngã mạn nói ta sẽ thành Phật, và dứt tất cả công dụng tướng phân biệt, nên được đồng một thể với tất cả chư Phật Bồ-tát.

Hỏi: Thế nào là đồng một thể?

Đáp: Không thấy chư Phật Bồ-tát với tự thân có sai biệt. Bởi vì sao? Vì đồng như một.

Kệ nói:

Cõi nước và danh hiệu,

Thời tiết với tên kiếp,

Quyến thuộc và pháp trụ,

Ký lại có 6 thứ.

Giải thích: Lại có 6 thứ thụ ký này: 1. Nơi cõi nước ấy. 2. Có danh hiệu như vậy. 3. Trải qua thời tiết như vậy. 4. Có kiếp tên như vậy. 5. Có quyến thuộc như vậy. 6. Chính pháp trụ thế vào thời tiết như vậy. Đã nói xong về chư Phật thụ lý, tiếp nói 6 thứ quyết định của Bồ-tát.

Kệ nói:

Tài thành và sinh thắng,

Bất thoái và tu tập.

Định nghiệp vô công dụng,

Sáu việc quyết định thành.

Giải thích: Bồ-tát do 6 độ tăng thượng được 6 thứ quyết định:

1. Của cải thành quyết định, do thí thường được thành tựu nhiều của cải. 2. Sinh thắng quyết định, do giới thường được tùy ý thụ sinh. 3. Bất thoái quyết định, do nhẫn các khổ thường không thoái lui. 4. Tu tập quyết định, do tinh tiến thường thời tập thiện không gián đoạn thôi nghỉ. 5. Định nghiệp quyết định, do thiền nghiệp thành tựu chúng sinh vĩnh viễn không thoái lui. 6. Vô công dụng quyết định, do trí được vô sinh nhẫn, trí vô phân biệt tự nhiên trụ. Đã nói xong 6 thứ quyết định của Bồ-tát, tiếp nói 6 thứ phải làm của Bồ-tát.

Kệ nói:

Cúng dường và học giới,

Tu bi, siêng việc thiện,

Xa ồn ào vui pháp,

Sáu việc quyết phải làm.

Giải thích: Để thành tựu 6 độ nên chư Bồ-tát trong các địa quyết định phải làm 6 việc: 1. Phải cúng dường, đây là để thành tựu đàn độ. Nếu không cúng dường thời gian dài lâu thì đàn độ không được viên mãn. Nghĩa của cúng dường, như có nói trong Phẩm cúng dường. 2. Phải học giới, đây là để thành tựu giới độ. Nếu không học giới thời gian dài lâu thì giới độ không được viên mãn. 3. Phải tu bi, đây là để thành tựu nhẫn độ. Nếu không nhẫn những việc không nhiêu ích thời gian dài lâu thì nhẫn độ không được viên mãn. 4. Phải siêng việc thiện, đây là để thành tựu tiến độ. Nếu tâm phóng dật không tu các thiện pháp thì tiến độ không được viên mãn. 5. Phải lìa xa nơi huyên náo, đây là để thành tựu thiền độ. Nếu ở nơi làng xóm ồn ào cãi cọ làm nỏa loạn tâm thì thiền độ không được viên mãn. 6. Phải vui với pháp, đây là để thành tựu trí độ. Nếu không trải khắp chư Phật nghe pháp không chán, như biển thâu nhận nước các dòng sông không bao giờ đầy thì trí độ không được viên mãn. Đã nói xong 6 thứ phải làm của Bồ-tát, tiếp nói 6 thứ Bồ-tát thường làm.

Kệ nói:

Chán trần và tự tỉnh,

Chịu khổ tu thiện pháp,

Không hưởng, không phân biệt,

Sáu hạnh phải thường khởi.

Giải thích: Để thành tựu 6 độ, chư Bồ-tát thường phải làm 6 việc: 1. Chán trần, nghĩa là biết 5 dục trần là tội lỗi, ví như phân nhơ, dù một chút xíu cũng hôi thối. Quả báo bố thí tuy nhiều cũng khổ. Do không tham trước nên có thể hành 3 thí. Việc này thường tu thì đàn độ viên mãn. 2. Tự tỉnh, nghĩa là ngày đêm 6 thời thường tự tỉnh xem xét 3 nghiệp đã làm, biết lỗi thì sửa đổi. Việc này thường tu thì giới độ viên mãn. 3. Chịu khổ, nghĩa là nếu có ai đến làm việc không lợi ích, và tự cầu pháp nhịn chịu các khổ lạnh nóng, thường tu những việc này thì nhẫn độ viên mãn. 4. Tu thiện pháp, nghĩa là thiện là 6

Ba-la-mật. Trong các địa thường tu việc này thì tiến độ viên mãn. 5. Không hưởng, nghĩa là trong thiền không hưởng thụ thắng lạc hằng đến cõi Dục thụ sinh. Thường tu việc này thì thiền độ viên mãn. 6. Không phân biệt, nghĩa là trong tam luân dị tướng không khởi phân biệt. Thường tu việc này thì trí độ viên mãn. Đã nói xong 6 thứ thường làm của Bồ-tát, tiếp nói 6 độ thắng loại của Bồ-tát.

Kệ nói:

Pháp thí và thánh giới,

Vô sinh khởi Đại thừa

Định bi như thật trí,

Sáu hạnh đây là hơn.

Giải thích: Thí có nhiều thứ, lấy pháp thí là hơn cả. Giới có nhiều thứ, lấy giới vô lưu mà thành nhân yêu thích là hơn hết. Nhẫn có nhiều thứ, lấy vô sinh nhẫn của địa thứ 8 là hơn hết. Tinh tiến có nhiều thứ, lấy khởi Đại thừa độ thoát chúg sinh là hơn hết. Định có nhiều thứ, lấy xuất thế đệ tứ thiền hợp với đại bi là hơn hết. Trí có nhiều thứ, lấy trí thông đạt các pháp như thật là hơn hết. Đã nói xong thắng loại của 6 độ, tiếp nói 4 thứ giả kiến lập.

Kệ nói:

Lập pháp và lập đế,

Lập lý và lập thừa.

Năm bảy bốn ba thứ,

Kiến lập giả sai biệt.

Giải thích: Bốn thứ giả kiến lập là: 1. Pháp giả kiến lập. 2. Đế giả kiến lập. 3. Đạo lý giả kiến lập. 4. Thừa giả kiến lập.

Hỏi: Mỗi giả kiến lập có bao nhiêu thứ?

Đáp: Pháp giả kiến lập có 5 thứ sai biệt. Đế giả kiến lập có 7 thứ sai biệt. Đạo lý giả kiến lập có 4 thứ sai biệt. Thừa giả kiến lập có 3 thứ sai biệt.

Pháp giả kiến lập có 5 thứ là:

Kệ nói:

Đó là 5 minh xứ,

Đều là Đại thừa chủng.

Tu-đa-la, Kì-dạ v.v…

Vì loại có sai biệt.

Giải thích: Pháp giả kiến lập 5 thứ tức là Ngũ minh luận. Năm cái này đều là Đại thừa Tu-đa-la Kì-dạ v.v… chủng loại khác nhau. Ngũ minh xứ , như có nói trong Phẩm Giác phần.

Đế giả kiến lập 7 thứ là:

Kệ nói:

Luân chuyển và không tướng,

Duy thức với y chỉ,

Tà hạnh cùng thanh tịnh,

Chính hạnh như 7 thứ.

Giải thích: Bảy thứ sai biệt, tức 7 như: 1. Luân chuyển như. 2. Không tướng như. 3. Duy thức như. 4. Y chỉ như. 5. Tà hạnh như. 6. Thanh tịnh như. 7. Chính hạnh như.

Luân chuyển như, là sinh tử, tức là 3 cõi tâm tâm pháp, đây từ phân biệt khởi. Cái phân biệt này lại từ nhân duyên khởi, không từ Tự Tại v.v… các nhân khác sinh, cũng không phải không có nhân mà sinh. Do cảnh giới phân biệt là không, cho nên tất cả mọi thời chỉ có 2 tính là phân biệt và y tha luân chuyển. Không tướng như, là pháp vô ngã. Vì tất cả các pháp đồng một không như làm tướng. Duy thức như, là trí vô phân biệt. Y chỉ như, là khổ đế. Đây có 2 thứ: một là khí thế gian, hai là chúng sinh thế gian. Tà hạnh như, là tập đế, đây tức là ái. Thanh tịnh như, là diệt đế. Đây có 2 thứ: một là phiền não chướng tịnh, hai là trí chướng tịnh. Chính hạnh như, là đạo đế. Bảy thứ như này gọi là đế giả kiến lập.

Phải biết trong đây 3 thứ như, là phân biệt và y tha 2 tính, đó là luân chuyển như, y chỉ như và tà hạnh như. Bốn thứ như, là chân thật tính, đó là không tướng như, duy thức như, thanh tịnh như và chính hạnh như. Gồm trong 2 tính phân biệt và y tha tức là thế đế. Gồm trong chân thật tính tức là chân đế.

Đạo lý giả kiến lập 4 thứ là:

Kệ nói:

Chính tư, chính kiến quả,

Trạch pháp, hiện v.v…lượng,

Cũng nói không nghĩ bàn,

Đạo lý có 4 thứ.

Giải thích: Đạo lý giả kiến lập có 4 thứ: 1. Đạo lý tương đãi. 2.

Đạo lý nhân quả. 3. Đạo lý thành tựu. 4. Đạo lý pháp nhiên.

Đạo lý tương đãi, là chính tư. Do đợi có chính tư xuất thế chính kiến mới bắt đầu khởi được, lìa chính tư duy không có phương tiện nào khác. Đạo lý nhân quả, là chính kiến và quả. Đạo lý thành tựu, là dùng hiện lượng v.v… giản trạch các pháp. Đạo lý pháp nhiên, là chỗ không thể nghĩ bàn. Pháp này đã thành nên gọi là như.

Hỏi: Vì sao chính tư duy có thể khởi chính kiến? Điều này đã thành tựu không nên nghĩ đến nữa. Vì sao chính kiến có thể đoạn phiền não và được diệt? Điều này đã thành tựu không thể nghĩ nữa. Các nghĩa như vậy đều là đạo lý pháp nhiên. Bốn thứ như thế gọi là đạo lý giả kiến lập.

Thừa giả kiến lập có 3 thứ là:

Kệ nói:

Tâm thuyết hành tụ quả,

Năm có hạ trung thượng.

Dựa vào 3 phẩm này,

Kiến lập có 3 thừa.

Giải thích: Dựa vào 5 nghĩa của 3 phẩm kiến lập 3 thừa. Năm nghĩa là: 1. Tâm. 2. Thuyết. 3. Hành. 4. Tụ. 5. Quả. Ba phẩm là hạ trung thượng. Nếu Thanh Văn thì 5 việc đều hạ. Tâm hạ, là cầu tự giải thoát. Thuyết hạ, là thuyết pháp tự lợi. Hành hạ, là hành tự lợi hạnh. Tụ hạ, là phúc trí hẹp nhỏ, chỉ có tam sinh v.v… Quả hạ, là được quả Thanh Văn. Nếu Duyên Giác thừa thì 5 việc đều trung. Nếu Bồ-tát thừa thì 5 việc đều thượng.

Tâm thượng, là 4 thứ ân tâm, như Kinh Kim Cương Bát-nhã nói. Thuyết thượng, là theo như ân tâm mà thuyết pháp. Hành thượng, là thực hành y như thuyết pháp. Tụ thượng, là như sự thực hành được đầy đủ các tụ. Quả thượng, là như sự đầy đủ các tụ được vô thượng Bồ-đề. Lại nữa nếu Thanh Văn thừa thì từ người nghe pháp, nội tự tư duy dùng trí phân biệt đắc quả. Nếu Duyên Giác thừa thì không từ người nghe pháp , nội tự tư duy cũng dùng trí phân biệt đắc quả. Nếu Bồ-tát thừa thì không từ người nghe, dùng trí vô phân biệt đắc quả. Ba thứ này gọi là thừa giả kiến lập. Đã nói xong 4 thứ giả kiến lập, tiếp nói 4 thứ cầu tri của Bồ-tát.

Kệ nói:

Vật làm khách cho nhau,

Hai tính đều là giả.

 Hai sai biệt không được,

Đó là nghĩa 4 cầu.

Giải thích: Chư Bồ-tát có 4 thứ cầu các pháp: 1. Cầu tên. 2. Cầu vật. 3. Cầu tự tính. 4. Cầu sai biệt.

Cầu tên, là suy tìm cái tên nơi vật là khách, đó gọi là cầu tên. Cầu vật, là suy tìm vật nơi tên là khách, đó gọi là cầu vật. Cầu tự tính, là suy tìm tự tính của tên và tự tính của vật biết đều là giả, đó gọi là cầu tự tính. Cầu sai biệt, là suy tìm cái sai biệt của tên và sai biệt của vật, biết đều là không, nên hoàn toàn không thể được, đó là cầu sai biệt. Đã nói 4 cầu xong, tiếp phân biệt 4 cái biết như thật.

Kệ nói:

Chân trí có 4 thứ,

Tên v.v…không thể được.

Hai lợi là nghiệp lớn,

Thành ở trong các địa.

Giải thích: Chư Bồ-tát đối với các pháp có 4 thứ biết như thật: 1. Duyên tên biết như thật. 2. Duyên vật biết như thật. 3. Duyên tự tính biết như thật. 4. Duyên sai biệt biết như thật. Biết như thật, nghĩa là do biết tất cả tên v.v… đều không thể được. Hai lợi là nghiệp lớn, thành ở trong các địa, nghĩa là chư Bồ-tát ở trong các địa khởi việc lớn tự lợi lợi tha, đó gọi là biết nghiệp như thật.

Kệ nói:

Trụ trì và thụ dụng,

Chủng tử hợp 3 nhân.

Y chỉ và tâm pháp,

Cũng chủng bị kia buộc.

Giải thích: Ba nhân là: 1. Nhân trụ trì. 2. Nhân thụ dụng. 3. Nhân chủng tử. Nhân trụ trì, là khí thế giới. Nhân thụ dụng, là cảnh giới ngũ dục. Nhân chủng tử, là thức A-lê-da. Bởi thức này là nhân của chủng tử các pháp trong ngoài. Ba nhân này như sợi dây có thể trói buộc.

Hỏi: Sự trói buộc này là trói buộc những vật gì?

Đáp: Y chỉ và tâm pháp cũng là chửng tử bị kia trói buộc. Bị trói buộc cũng có 3 thứ: 1. Y chỉ. 2. Tâm pháp. 3. Thức A-lê-da.

Hỏi: Y chỉ là những gì?

Đáp: Là nhãn v.v… 6 căn.

Hỏi: Thức A-lê-da là những gì?

Đáp: Là chủng tử các pháp trong ngoài của 3 cõi. Trong đây chỉ có thức A-lê-da có thể trói buộc, không có nhân ngã có thể trói buộc.

Đó là biết sự trói buộc như thật.

Kệ nói:

An tướng tại trước tâm,

Cùng với tự nhiên trụ,

Tất cả đều quán sát,

Đến được Đại Bồ-đề.

Giải thích: An tướng tại trước tâm, nghĩa là an tướng là phương tiện văn tư tu tuệ. Nhân sở duyên khởi phân biệt nên gọi là an tướng. Cùng với tự nhiên trụ, nghĩa là tướng kia là tự tính hiện tiền không phải phân biệt nên gọi là tự nhiên trụ. Tất cả đều quán sát, nghĩa là 2 sở duyên kia không phải là thể sở duyên vì không phân biệt. Dùng phương tiện này làm đối trị các tướng. Hai đó cần phải quán sát theo thứ tự. Nghĩa là trước quán an tướng, au quán tự nhiên trụ tướng. Hai này đều không phải thể của duyên. Kia khởi 4 đảo tức thành tùy diệt. Đến được Đại Bồ-đề, nghĩa là nếu người tu hành chỉ quán sát tướng người, thì chỉ được Bồ-đề của Thanh Văn, Duyên Giác. Nếu quán sát tướng tất cả các pháp tức được vô thượng Bồ-đề. Như vậy tùy theo chỗ trói buộc mà được giải thoát. Đây gọi là biết giải thoát như thật.

Hỏi: Giải thoát này do gì biết được, do gì hết?

Kệ nói:

Nếu trí duyên chân như,

Xa lìa 2 chấp kia,

Cũng biết nhân huân tụ,

Tính y tha tức hết.

Giải thích: Nếu biết đủ 3 tính tức hết tính y tha. Nếu trí duyên chân như, nghĩa là biết tính chân thật. Xa lìa 2 chấp kia, nghĩa là biết tính phân biệt. Cũng biết nhân huân tụ, nghĩa là biết tính y tha. Tính y tha tức hết, nghĩa là do biết 3 tính tức huân tập tụ hết. Huân tập tụ, là thức A-lê-da.

Hỏi: Cái này hết có công đức gì?

Kệ nói:

Duyên trí chân như kia,

Quán sát không tướng khác,

Hữu phi hữu hiện thấy,

Tưởng làm tự tại thành.

Giải thích: Quán sát không tướng khác, nghĩa là thấy biệt tướng và như là không sai biệt. Đây là nói nhị thừa và Bồ-tát sai biệt. Tướng nhị thừa và vô tướng sai biệt mà thấy như vậy thấy rồi phải xả tướng.

Trong vô tướng khởi duyên tác ý nhập vô tướng Tam-muội. Bồ-tát thì không như vậy. Ngoài chân như không thấy có các tướng khác, trong vô tướng cũng thấy vô tướng bởi trí Bồ-tát không tu câc thứ tướng. Hữu phi hữu hiện thấy, nghĩa là cảnh giới chân như có tên chẳng phải cảnh giới tướng có tên, vì đều hiện thấy. Tưở làm tự tại thành, nghũa là muốn làm các việc thần thông, tất cả đều do nhớ tưởng phân biệt mà thành. Đây là biết lợi ích như thật.

Hỏi: Phàm phu và Bồ-tát 2 cái thấy hiển thị như thế nào?

Kệ nói: Phàm phu vô công dụng không thấy chân như, thấy tướng không chân thật. Bồ-tát vô công dụng thấy chân như, không thấy tướng không chân thật.

Hỏi: Đã biết sai biệt, làm sao chuyển y và được giải thoát?

Kệ nói:

Phải biết không thấy thấy,

Cảnh vô nghĩa hữu nghĩa,

Chuyển y và giải thoát,

Vì để được tự tại.

Giải thích: Cảnh giới vô nghĩa, là các tướng, đây tức không thấy. Cảnh giới hữu nghĩa, là chân như, đây tức thấy. Như vậy gọi là chuyển y. Thấy cảnh giới sở chấp là vô thể, và thấy chân như là hữu thể. Như vậy gọi là giải thoát. Bởi vì sao? Vì được tự tại. Tự tại, nghĩa là tùy ý mình chuyển tự nhiên không làm các cảnh giới. Như kinh nói nếu có tướng tức bị trói buộc, nếu bị trói buộc tức không giải thoát. Không làm tất cả cảnh giới tức là giải thoát.

Hỏi: Thế nào là biết tịnh độ phương tiện như thật?

Kệ nói:

Chúng sinh đồng một giống,

Địa cảnh đều thấy khắp,

Đây tức chướng tịnh độ,

Nên biết cũng nên xả.

Giải thích: Chúng sinh đồng một giống, địa cảnh đều thấy khắp, nghĩa là khí thế giới là cảnh giới lớn. Tất cả chúng sinh đồng thấy một chủng loại, đều gọi đây là đại địa. Đây tức chướng tịnh độ, nghĩa là do cái thấy như thế tức với tịnh độ phương tiện thành ra chướng ngại. Nên biết cũng nên xả, nghĩa là Bồ-tát biết ý tưởng này là chướng ngại rồi tức phải siêng năng xả bỏ ý tưởng ấy, đó là đối trị. Đã nói xong Bồ-tát 4 thứ biết như thật, tiếp nói 5 thứ vô lượng của Bồ-tát.

Kệ nói:

Ứng hóa và ứng tịnh,

Ứng đắc và ứng thành,

Ứng thuyết, đây 5 việc,

Bồ-tát 5 vô lượng.

Giải thích: Năm việc vô lượng là: 1. Việc ứng hóa vô lượng, do bao gồm tất cả chúng sinh giới. 2. Việc ứng tịnh vô lượng, do bao gồm tất cả khí thế giới. 3. Việc ứng đắc vô lượng, do bao gồm tất cả pháp giới. 4. Việc ứng thành vô lượng, do bao gồm tất cả chúng sinh có thể hóa độ. 5. Việc ứng thuyết vô lượng, do bao gồm 12 bộ kinh là phương tiện giáo hóa chúng sinh. Đã nói xong 5 thứ vô lượng của Bồ-tát, tiếp nói Bồ-tát thuyết pháp có 8 quả.

Kệ nói:

Phát tâm và được nhẫn,

Tịnh nhãn và tận lậu,

Pháp trụ học cũng đoạn,

Thụ dụng là 8 quả.

Giải thích: Bồ-tát nếu siêng năng thuyết pháp có thể được 8 quả: 1. Các người nghe pháp hoặc phát tâm Bồ-đề. 2. Hoặc được vô sinh nhẫn. 3. Hoặc đối với các pháp xa lìa trần cấu được pháp nhãn tịnh. Đây gọi là gồm cả hạ thừa. 4. Hoặc được hết các lậu. 5. Khiến chính pháp tồn tại lâu dài, vì do thuyết chính pháp được tiếp tục thụ trì. 6. Người chưa học nghĩa khiến được học nghĩa. 7. Người chưa đoạn nghi khiến được đoạn nghi. 8. Người đã đoạn nghi khiến được thụ dụng chính pháp, được hoan hỷ lớn không chướng ngại. Đã nói xong về Bồ-tát thuyết pháp có 8 quả, tiếp nói 7 nghĩa lớn của Đại thừa Kệ nói:

Duyên, hành, trí, cần, xảo,

Quả, việc, đều đầy đủ.

Dựa vào 7 đại nghĩa,

Mà kiến lập Đại thừa.

Giải thích: Nếu đầy đủ 7 nghĩa lớn thì gọi là Đại thừa: 1. Duyên lớn, do Tu-đa-la v.v… vô lượng đại pháp rộng lớn làm duyên. 2. Hạnh lớn, do hạnh tự lợi lợi tha đều đầy đủ. 3. Trí lớn, do nhất thời thông đạt nhân pháp 2 vô ngã. 4. Siêng năng lớn, do 3 đại A-tăng-kì kiếp tu hành không gián đoạn. 5. Thiện xảo lớn, do không bỏ sinh tử mà không nhiễm. 6. Quả lớn, do rất đắc lực không sợ pháp không chung. 7. Việc lớn, do thường thường thị hiện Đại Bồ-đề, Đại Niếtbàn. Đã nói 7 nghĩa lớn của Đại thừa, tiếp nói 8 pháp bao gồm các Đại thừa.

Kệ nói:

Tính, tín, tâm, hành, nhập,

Thành, tịnh, Bồ-đề thắng.

Như vậy có 8 việc,

Bao gồm các Đại thừa.

Giải thích: Đây là 8 việc bao gồm tất cả Đại thừa. Tám việc là: 1. Chủng tính, như đã nói trong Phẩm tính. 2. Tin pháp, như đã nói trong Phẩm tín. 3. Phát tâm, như đã nói trong Phẩm phát tâm. 4. Hành hạnh, như đã nói trong Phảm độ nhiếp. 5. Nhập đạo, như đã nói trong Phẩm giáo thụ. 6. Thành thục chúng sinh, là 7 địa đầu. 7. Tịnh Phật quốc độ, là địa thứ 8 bất thoái. 8. Bồ-đề thắng, là Phật địa.

Bồ-đề có 3 thứ: Thanh Văn Bồ-đề, Duyên Giác Bồ-đề, Phật Bồ-đề. Phật Bồ-đề là lớn nên gọi là thắng. Nơi Phật địa này thị hiện Đại Bồ-đề và Đại Niết-bàn. Đã nói 8 pháp bao gồm Đại thừa, tiếp nói 5 người Bồ-tát sai biệt.

Kệ nói:

Tín hành và tịnh hành,

Tướng hành, vô tướng hành,

Cùng với vô tác hành

Sai biệt theo các địa.

Giải thích: Bồ-tát có 5 người sai biệt: 1. Người tín hành, là địa tiền một A-tăng-kì kiếp. 2. Người tịnh tâm hành, là nhập sơ địa. 3. Người tướng hành, là địa thứ 2 đến địa thứ 6. 4. Người vô tướng hành, là đị thứ 7. 5. Người vô tác hành, là 3 địa sau. Đã nói xong Bồtát 5 người sai biệt, tiếp nói Bồ-tát các tướng sai biệt.

Kệ nói:

Không đắm và thanh tịnh,

Hàng phục sân, cần đức,

Bất động và kiến thật,

Hữu dục là Bồ-tát.

Giải thích: Kệ này lấy tự lợi môn nói tướng Bồ-tát. Không đắm, là có thể hành thí không đắm trước các dục. Thanh tịnh, là có thể trì giới. Hàng phục sân, là có thể nhẫn nhục. Cần đức, là có thể tinh tiến. Bất động, là có thể tập định. Kiến thật, là có thể tu trí. Hữu dục, là có thể khởi nguyện ưa thích Đại Bồ-đề. Hành 7 việc này gọi là tướng Bồ-tát.

Kệ nói:

Tùy nhiếp và vô não,

Nại tổn và dũng lực.

Không phóng dật, đa văn,

Lợi kia là Bồ-tát.

Giải thích: Kệ này lấy lợi tha môn nói tướng Bồ-tát. Tùy nhiếp, là thí, hằng dùng tứ nhiếp nhiếp hóa chúng sinh. Vô não, là giới, tự tin nơi người, không khởi não hại. Nại tổn, là nhẫn, người đến làm trái nghịch không ôm lòng đáp trả. Dũng lực, là tiến, nghĩa là trong cảnh khổ độ chúng sinh không thoái tâm. Không phóng dật, là định, nghĩa là không đắm trước thiền vị để sinh vào hạ xứ. Đa văn, là trí, có thể đoan trừ các nghi hoặc cho chúng sinh. Như vậy siêng làm việc lợi tha là tướng của Bồ-tát.

Kệ nói:

Chán của cải, xả dục,

Quên oán, siêng làm thiện,

Tướng khéo, không ác kiến,

Nội trụ là Bồ-tát.

Giải thích: Kệ này lấy trụ công đức môn nói tướng Bồ-tát. Chán của cải, là trụ thí công đức. Biết tội lỗi của keo kiệt là đọa ác đạo làm kẻ bần cùng. Xả dục, là trụ giới công đức, vì nếu đắm trước ngũ dục thì không thể xuất gia thụ trì giới. Quên oán, là trụ nhẫn công đức. Ai đến làm tổn hại mình cũng không có tâm trả báo. Ôm lòng trả báo như vẽ trên đá. Không ôm lòng trả báo như vẽ trên mặt nước. Một đàng là đọa ác đạo. Một đàng là sinh cõi thiện. Siêng làm thiện, là trụ tiến công đức, vì thường thực hành 6 Ba-la-mật tự lợi lợi tha. Tướng khéo, là trụ định công đức, vì có khả năng khéo phân biệt 3 tướng là chỉ, cử và xả. Không ác kiến, lả trụ trí công đức, vì tất cả các tướng là không thể được. Nội trụ, là trụ nguyện công đức. Nội nghĩa là Đại thừa luận trụ không lay động.

Kệ nói:

Đủ bi và hổ thẹn,

Nại khổ và xả vui,

Giữ niệm, khéo thiền định,

Không bỏ, là Bồ-tát.

Giải thích: Kệ này lấy bất thoái môn nói tướng Bồ-tát. Đủ bi, là thí bất thoái. Thương người khổ nên năng hành thí. Sinh hổ thẹn, là giới bất thoái. Quán sát đời này đời khác và pháp, nhân, không tạo các tội lỗi. Nại khổ, là nhẫn bất thoái. Gió mưa lạnh nóng và người khác làm trái, tổn hại tất cả đều nhẫn nhịn. Xả vui, là tiến bất thoái, vì người hay làm việc siêng năng chân chính thì không đắm trước vui riêng. Giữ niệm, là định bất thoái, là người có niệm lực khéo nhiếp giữ cái tâm. Khéo thiền định, là tuệ bất thoái, vì đầy đủ trí vô phân biệt. Không bỏ, là nguyên bất thoái, vì Đại thừa đại xả.

Kệ nói:

Trừ khổ không làm khổ,

Chịu khổ không sợ khổ,

Thoát khổ không nghĩ khổ,

Dục khổ, là Bồ-tát.

Giải thích: Kệ này lấy lìa khổ môn nói tướng Bồ-tát. Trừ khổ, là thí, vì khi thí vật cho người trừ cho người sự nghèo cùng. Không làm khổ, là giới, vì khi ở trong giới không làm khổ não người khác. Chịu khổ, là nhẫn, khi tự tha đều lợi thì khổ có thể chịu được. Không sợ khổ, là tiến, khi làm việc khó làm thường không thoái lui. Thoát khổ, là định, khi lìa dục cõi Dục là giải thoát khổ khổ. Không nghĩ khổ, là tuệ, vì khi tam luân thanh tịnh thì không khởi phân biệt. Dục khổ, là nguyện vì hóa độ chúng sinh nên muốn trụ nơi sinh tử.

Kệ nói:

Lạc pháp và tính pháp,

Kha pháp và cần pháp,

Tự tại pháp, minh pháp,

Hướng pháp, là Bồ-tát.

Giải thích: Kệ này lấy nhiếp pháp môn nói tướng Bồ-tát. Lạc pháp, là thí, vì yêu thích thí v.v… các pháp. Tính pháp, là giới, vì tự tính hộ trì. Kha pháp, là nhẫn nhịn các pháp giận dữ chê bai. Cần pháp, là tiến, vì siêng hành pháp Đại thừa. Tự tại pháp, là định, vì các thiền được tự tại. Minh pháp, là tuệ, vì đầy đủ Bát-nhã vô thượng. Hướng pháp, là nguyện vì hoàn toàn yêu thích Đại Bồ-đề.

Hỏi: Vì sao gọi là pháp?

Đáp: Vì tất cả các pháp Ba-la-mật đều tùy chuyển.

Kệ nói:

Tài, chế, hộ, thiện, lạc,

Pháp, thừa, 7 thứ đây:

Bảy thứ bất phóng dật,

Nên gọi là Bồ-tát.

Giải thích: Kệ này lấy bất phóng dật môn nói tướng Bồ-tát. 1. Tài bất phóng dật, đây là do bố thí, không thí thí mà không kiên cố, thì kiên cố. 2. Chế bất phóng dật, đây là do trì giới, như Phật nói nên làm thì làm, không nên làm không làm. 3. Hộ bất phóng dật, đây là do nhẫn nhục, không hại tự tâm tha tâm. 4. Thiện bất phóng dật, đây do tinh tiến thường khởi chính cần tu hành 6 độ. 5. Lạc bất phóng dật, đây là do tu định thụ các thiền lạc mà không đam trước thiền vị. 6. Pháp bất phóng dật, đây là do có thể biết chân pháp như thật. 7. Thừa bất phóng dật, đây là do đại nguyện, ma vương đến pháp hoại tâm Bồ-đề cũng không thoái lui.

Kệ nói:

Không toại và tội nhỏ,

Không nhẫn, thoái, và loạn,

 Tiểu kiến và thừa khác,

Bảy hổ thẹn: Bồ-tát.

Giải thích: Kệ này lấy hữu tu môn nói tướng Bồ-tát, tức Bồtát có các tướng biết hổ thẹn: 1. Hổ thẹn không toại, hổ thẹn vì xan tham. 2. Hổ thẹn tội nhỏ, hổ thẹn tội nhỏ vì thấy sợ hãi. 3. Hổ thẹn không nhẫn, hổ thẹn vì không nhẫn nhịn. 4. Hổ thẹn thoái lui, hổ thẹn vì lười biếng. 5. Hổ thẹn loạn tâm, hổ thẹn vì thoái lui định lực. 6. Hổ thẹn tiểu kiến, hổ thẹn vì kiến chấp nhỏ cho là thông đạt pháp vô ngã.

7. Hổ thẹn thừa khác, hổ thẹn vì khởi tâm Tiểu thừa bỏ Đại Bồ-đề.

Kệ nói:

Kim thế, hậu thế, xả,

Khởi cần, và đắc thông,

Đẳng thuyết và đại quả:

Bảy nhiếp là Bồ-tát.

Giải thích: Kệ này lấy nhiếp sinh môn nói tướng Bồ-tát. 1. Kim thế nhiếp, nghĩa là lấy bố thí nhiếp hóa chúng sinh hiện tại. 2. Hậu thế nhiếp, nghĩa là lấy trì giới nhiếp hóa chúng sinh vị lai vì được sinh vào thắng xứ mới có thể nhiếp hóa. 3. Xả nhiếp, nghĩa là lấy nhẫn nhục nhiếp hóa chúng sinh bị não loạn. 4. Khởi cần nhiếp, nghĩa là lấy tinh tiến nhiếp hóa chúng sinh trây lười. 5. Đắc thông nhiếp, nghĩa là dùng thiền định sang nhiếp hóa chúng sinh ở phương khác. 6. Đẳng thuyết nhiếp, nghĩa là dùng trí tuệ nhiếp hóa chúng sinh các hàng hạ trung thượng, vì tâm bình đẳng thuyết pháp không tăng giảm. 7. Đại quả nhiếp, nghĩa là dùng đại nguyện nếu được Phật quả sẽ nhiếp hóa chúng sinh không bỏ sót.

Nghĩa của các kệ này là dùng dị môn mà nói 6 độ và đại nguyện, đó là tướng Bồ-tát.

Đã nói xong các tướng sai biệt của Bồ-tát, tiếp nói các tên sai biệt của Bồ-tát.

Kệ nói:

Phải biết chư Bồ-tát,

Cũng gọi Ma-ha-tát,

Cũng gọi người có tuệ,

Cũng gọi thượng thành tựu,

Cũng gọi hàng phục tử,

Cũng gọi hàng phục trì,

Cũng gọi năng hàng phục,

Cũng gọi hàng phục nha,

Cũng gọi là dũng mãnh,

Cũng gọi là thượng thánh,

Cũng gọi là đạo sư,

Cũng gọi đại danh xưng,

Cũng gọi là hữu bi,

Cũng gọi đại phúc đức,

Cũng gọi tự tại hành,

Cũng gọi chính thuyết giả.

Giải thích: Mười sáu tên gọi này đều dựa vào nghĩa lập ra. Tất cả Bồ-tát nói chung có các tên này. Nếu nghe có tên này thì biết đó là Bồ-tát. Đã nói các tên khác nhau của Bồ-tát, tiếp nói các nghĩa sai biệt của Bồ-tát.

Kệ nói:

Thật giác, đại nghĩa giác,

Nhất thiết giác, hằng giác,

Cùng với phương tiện giác,

 Năm giác: tên Bồ-tát.

Giải thích: Do có 5 giác nên gọi là Bồ-tát: 1. Thật nghĩa giác, vì giác ngộ nhân pháp vô ngã. 2. Đại nghĩa giác, là nghĩa của tự giác giác tha. 3. Nhất thiết giác, giác ngộ nghĩa của nhất thiết chủng. 4. Hằng giác, nghĩa là tuy hiện Niết-bàn mà giác là vô tận. 5. Phương tiện giác, nghĩa là tùy vật, tùy cơ mà làm phương tiện.

Kệ nói:

Tùy ngã và tiểu kiến,

Cùng với các thức thân,

 Và hư vọng phân biệt,

Bốn giác là Bồ-tát.

Giải thích: Do có 4 giác mà gọi là Bồ-tát: 1. Tùy ngã giác, vì do giác tâm. Tâm tức là thức A-lê-da. 2. Tiểu kiến giác, vì do giác ý. Ý, nghĩa là cùng với ngã kiến v.v… 4 hoặc tương ưng duyên với thức A-lê-da. 3. Thức thân giác, vì do giác thức. Thức là 6 thức thân. 4. Hư vọng phân biệt giác, vì giác do phân biệt không chân thật. Phân biệt không chân thật, tức tâm, ý và thức ở trước. Tất cả Bồ-tát chỉ có giác. Đây là phân biệt không chân thật.

Kệ nói:

Vô cảnh và chân nghĩa,

Vĩnh vô và viên mãn,

Cũng nói bất khả đắc,

Năm giác là Bồ-tát.

Giải thích: Lại do 5 giác gọi là Bồ-tát: 1. Vô cảnh giác, vì giác dựa vào tha tính. 2. Chân nghĩa giác, vì giác ngộ tính chân thật. 3. Vĩnh vô giác, nghĩa là giác ngộ nó vĩnh viễn là không. Vì đó là tính giác phân biệt. 4. Viên mãn giác, vì giác nhất thiết cảnh, nhất thiết chủng. 5. Bất khả đắc giác, vì giác tam luân thanh tịnh. Tam luân là: 1. Ứng giác, là cảnh của Bồ-tát, 2. Y giác, là thân Bồ-tát. 3. Giác tính, là trí Bồ-tát. Ba thứ này là bất khả đắc, nên gọi là bất khả đắc giác.

Kệ nói:

Thành tựu và xứ sở,

Thai tạng, tùy thứ hiện,

Cùng với đoạn thâm nghi,

Năm giác là Bồ-tát.

Giải thích: Lại do 5 giác gọi là Bồ-tát: 1. Thành tựu giác, là thành Phật quả. 2. Xứ sở giác, là ở cung trời Đâu-suất. 3. Thai tạng giác, là nhập thai mẹ. 4. Tùy thứ hiện giác, là xuất thai, thụ dục, xuất gia, tu hành, thành đạo. 5. Đoạn thâm nghi giác, là vì chúng sinh chuyển đại pháp luân.

Kệ nói:

Được, không được và trụ,

Nơi tự cũng nơi tha,

Có nói với không nói,

Có mạn và mạn dứt,

Chưa thục và đã thục,

Như đây 11 thứ,

Tất cả đều giác ngộ,

Thì gọi là Bồ-tát.

Giải thích: Do 11 thứ giác nên gọi là Bồ-tát. Được, không được và trụ, là theo thứ tự quá khứ, vị lai, hiện tại giác. Nơi tự cũng nơi tha, là nội giác và ngoại giác. Có nói với không nói, là thô giác và tế giác. Có mạn và mạn dứt, là liệt giác và thắng giác. Chưa thục và đã thục, là viễn giác và cận giác. Chưa thục là cái giác kia còn lâu xa mới giác được. Đã thục là cái giác biết đã đến gần.

Xong Phẩm công đức.

HẾT QUYỂN 12

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13