LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 72

 Phẩm thứ 6: BIỆN VỀ HIỀN THÁNH, phần 16

Khi tu giác phần tất đã được chứng tịnh. Chứng tịnh này có bao nhiêu thứ? Dựa nơi vị nào để được? Thể thật là pháp gì? Là hữu lậu hay là vô lậu? Tụng nêu:

Chứng tịnh có bốn thứ

Là Phật, Pháp, Tăng, Giới

Kiến ba được pháp giới

Kiến đạo gồm Phật, Tăng.

Pháp là toàn ba đế

Đạo Bồ-tát, Độc giác

Tín, giới hai làm thể

Bốn đều chỉ vô lậu.

Luận nói: Kinh nói về chứng tịnh, gồm có bốn thứ: (1) Ở nơi Phật chứng tịnh. (2) Ở nơi Pháp chứng tịnh. (3) Ở nơi Tăng chứng tịnh. (4) Thánh giới chứng tịnh.

Lại như vị kiến đạo, khi kiến ba đế, mỗi mỗi đế chỉ được Giới, Pháp chứng tịnh. Nơi vị kiến đạo đế thì gồm được Phật, Tăng. Nghĩa là khi kiến khổ thì được giới Thánh yêu mến và Pháp chứng tịnh.

Ở nơi những pháp nào, vì sao được Pháp chứng tịnh?

Nghĩa là chỉ ở nơi tiến đạt khổ, chỉ có pháp, không có thật hữu tình sinh tín quyết định.

Như thế, theo thứ lớp khi kiến tập đế cũng chỉ như trước được hai chứng tịnh. Tiến đạt chỉ là pháp tập có thể làm nhân của khổ, không có nội sĩ phu sinh tín quyết định. Từ đây, vô gián khi kiến diệt đế, cũng chỉ như trước được hai chứng tịnh. Tiến đạt chỉ là pháp diệt, là chân Niết-bàn. Thật có thể noi theo để cầu sinh tín quyết định. Từ đây về sau, khi kiến đạo đế, gồm ở nơi Phật, Tăng được hai chứng tịnh: Đối với Phật cùng nối tiếp các pháp vô học, được Phật chứng tịnh. Đối với Tăng cùng nối tiếp pháp học, vô học, được Tăng chứng tịnh. Nói gồm là làm rõ về lúc kiến đạo đế, cũng được Thánh giới và pháp chứng tịnh. Tiến đạt chỉ là pháp đạo, là nhân của chứng diệt. Thật có thể noi theo để cầu sinh tín quyết định. Nhưng pháp được tin, lược có hai thứ: (1) Riêng. (2) Chung.

Chung thì thông hợp bốn đế. Riêng thì chỉ ba đế. Hoàn toàn là đạo Bồ-tát, Độc giác. Đạo Bồ-tát chỉ là pháp hữu học. Đạo Độc giác thì chung cả học, vô học.

Nếu tín vô lậu duyên nơi pháp riêng sinh, gọi là duyên không xen tạp. Đối với pháp chứng tịnh, nếu tín vô lậu gồm duyên nơi Phật, Tăng gọi là duyên xen tạp. Ở nơi pháp chứng tịnh nên kiến ba đế chỉ được hai thứ.

Khi kiến đạo đế thì đầy đủ được bốn. Tại vị kiến đạo đế, vì ở nơi hiện tiền, có được ba thứ chứng tịnh Phật Pháp Tăng không?

Không phải đều hiện được. Khi kiến đạo đế hiện hành, vì duyên chung nơi các đạo đế, nên biết trong hiện tại chỉ có duyên xen tạp một pháp chứng tịnh. Nhân uy lực của chứng tịnh này tu được nhiều sát-na tín của vị lai, trong ấy có duyên riêng nơi Phật, Pháp, Tăng.

Hoặc có duyên chung nơi hai tam bảo. Các người duyên riêng, gọi là ba chứng tịnh. Các người duyên chung, là thuộc về Pháp chứng tịnh. Khi đạo loại trí hiện tiền thì tu tám trí, cũng được hai thứ pháp, giới chứng tịnh của ba đế.

Trong ba sát-na như đạo, pháp, nhẫn v.v…, vị lai chỉ tu bốn thứ của đạo đế, do đối tượng tín là riêng, nên gọi là có bốn. Nên biết thật sự chỉ có hai thứ. Nghĩa là đối với ba thứ chứng tịnh như Phật v.v…, dùng tín làm thể. Thánh giới chứng tịnh vì dùng giới làm thể, nên chỉ có hai.

Nếu bảy chi giới thật chỉ có một, vì sao trong giác phần sự thật có đến mười một?

Tức nên chỉ có mười thứ, hoặc mười sáu, hoặc nhiều, vì trong giác phần hai nghiệp thân ngữ nói có sai biệt và tướng có khác. Một thứ chánh mạng tuy có nói riêng, nhưng lìa nghiệp thân ngữ, thì không có Thể tướng riêng. Dựa nơi có tướng riêng trong giác phần trước, nói là thật sự có mười một thứ, tuy nghiệp thân ngữ mỗi mỗi có nhiều, nhưng vì chủng loại đồng, nên đều lập một, như bốn niệm trụ.

Ba chứng tịnh trước, nghĩa là tuệ cùng với tín, nếu không duyên xen tạp thì tùy nơi đối tượng duyên riêng, tuy có nhiều thứ, nhưng vì loại đồng, nên đều lập làm một. Ở đây cũng nên như thế.

Nay trong chứng tịnh, dựa vào tướng v.v… của Thánh giới nơi nghiệp thân, ngữ cùng trong Khế kinh đồng nói là không thiếu, vì không xuyên suốt v.v…, nên lập chung làm một. Tùy theo loại riêng khác của nghiệp thân, ngữ, nên phân làm hai. Do Thánh giới cùng đồng, nên lập chung làm một, do vậy nên hai so với một, không có lỗi trái nhau.

Dựa nơi nghĩa nào để lập danh xưng chứng tịnh?

Vì nhận biết rõ như thật về lý của bốn Thánh đế, nên gọi là Chứng. Chánh tín tam bảo và Thi la vi diệu cùng gọi là Tịnh. Do chứng được tịnh, nên lập danh xưng Chứng tịnh.

Chánh tín là tâm thanh tịnh cùng gồm thâu, có thể gọi là tịnh. Thi la chẳng là thanh tịnh cùng gồm thâu, đâu thể lập tên tịnh?

Bốn thứ này đều là thanh tịnh cùng gồm thâu. Vì đã lìa cấu uế của bất tín và cấu uế của phá giới. Lại, bốn thứ này chỉ là vô lậu, là vô lậu lìa cấu uế nên lập tên tịnh.

Bốn thứ này do đâu đã theo thứ lớp như thế?

Vì ba thứ còn lại lấy Phật làm căn bản. Vì Phật ở nơi chánh thuyết là có công năng, nên đối với chứng tịnh kia được lập ở đầu tiên. Công năng của chánh thuyết là do pháp giác ngộ, nên ở nơi chứng tịnh kia lập làm thứ hai. Vì hiện quán về pháp tạng chỉ là Thánh tăng, nên ở nơi chứng tịnh kia lập làm thứ ba. Vì quán về pháp tạng có thể nương dựa nơi Thánh giới, nên Thánh giới chứng tịnh được lập ở sau cùng.

Có thuyết cho: Phật là pháp sư chánh thuyết, thế nên đầu tiên là lập Phật chứng tịnh. Phật đã thuyết về Niết-bàn dứt heat ái, thế nên thứ hai là lập Pháp chứng tịnh.

Vì ai thuyết pháp? Là Tăng hướng quả, thế nên thứ ba là lập Tăng chứng tịnh.

Tăng dựa vào Thánh giới mà được kiến lập, thế nên thứ tư là lập Giới chứng tịnh.

Có thuyết nêu: Bốn thứ này cũng như người dẫn đường, con đường, khách buôn và xe cộ để đi. Nên nói bốn thứ này theo thứ lớp như thế.

Kinh nói: Vị hữu học thành tựu tám chi. Trong vị vô học thành tựu đủ mười. Vị hữu học cũng thành tựu chánh thoát, chánh trí.

Do đâu ở nơi vị hữu học kia không kiến lập chi? Chánh thoát, chánh trí lấy gì làm thể. Tụng nêu:

Học còn có trói buộc

Không chánh thoát trí chi

Giải thoát là vô vi

Tức thắng giải, diệt Hoặc.

Chi hữu vi vô học

Tức hai giải thoát uẩn

Chánh trí như giác thuyết

Là tận vô sinh trí.

Luận nói: Trong vị hữu học hãy còn có những trói buộc khác, vì chưa giải thoát, nên không có chi giải thoát. Không phải lìa một ít trói buộc mà có thể gọi là người giải thoát. Không phải không có Thể của giải thoát mà có thể lập trí giải thoát. Nên ở nơi vị hữu học không lập hai chi. Nghĩa là lập tên chi, tức dựa vào công dụng hỗ trợ thù thắng.

Ở vị hữu học đã có những trói buộc còn lại, tuy có giải thoát nhưng không có công dụng hỗ trợ thù thắng. Vì không có giải thoát thù thắng, nên trí thù thắng kia cũng không có. Vì thế hai chi này không phải ở nơi hữu học. Vì vô học đã thoát khỏi hết thảy các thứ trói buộc, vì nương dựa nơi giải thoát bên trong sinh hai trí, nên có công dụng hỗ trợ thù thắng, về lý là có thể lập chi. Hữu học thì không như thế, nên chỉ thành tám.

Thể của giải thoát có hai là hữu vi, vô vi. Giải thoát hữu vi lấy thắng giải làm thể. Giải thoát vô vi lấy diệt Hoặc làm thể. Trước lại có hai, nghĩa là học, vô học. Dựa nơi thân bảy Thánh được gọi là học. Nương dựa nơi Thánh thứ tám để lập tên vô học. Chỉ trong hữu vi giải thoát vô học có thể được kiến lập làm chi giải thoát. Vô vi hoặc diệt thì không có dụng của chi. Chi gồm thâu giải thoát lại có hai thứ, nghĩa là thời, bất thời có sai biệt.

Có thuyết nói: Vì tuệ, tâm có sai biệt, nên biết hai thứ này tức uẩn giải thoát.

Trong đây, ý của Kinh chủ đã nói như thế. Không phải chỉ thắng giải mà được tên uẩn này.

Nếu vậy là thế nào?

Nghĩa là do sức của chân trí có thể trừ diệt vĩnh viễn tham và sân, si. Tức tâm lìa cấu uế gọi là uẩn giải thoát.

Lấy gì làm chứng?

Như Khế kinh nói: Thế nào là giải thoát thanh tịnh thù thắng? Nghĩa là tâm từ tham lìa nhiễm, giải thoát. Và từ sân, si lìa nhiễm, giải thoát. Đối với uẩn giải thoát chưa mãn thì làm cho viên mãn. Đã viên mãn thì khiến gồm thâu tu dục, cần v.v….

Đối tượng chứng của uẩn giải thoát này là gì?

Nếu chỉ thắng giải là uẩn giải thoát, thì kinh không nên nói: Nghĩa là tâm từ tham lìa nhiễm, giải thoát. Và từ sân, si lìa nhiễm, giải thoát, ở nơi uẩn giải thoát, cho đến nói rộng. Do đấy chứng biết tức tâm lìa cấu uế gọi là uẩn giải thoát, không phải chỉ là thắng giải.

Sự việc này không thành chứng. Nghĩa là kinh cũng nêu rõ: Thế nào gọi là tâm thanh tịnh tối thắng? Nghĩa là lìa các pháp dục ác bất thiện, cho đến an trụ nơi tĩnh lự thứ tư. Đối với uẩn đẳng trì chưa mãn thì làm cho viên mãn, đã viên mãn thì khiến gồm thâu tu dục, cần v.v… Không phải tâm lìa cấu, tức gọi là đẳng trì. Trong phẩm Biện về sai biệt đã thành lập rộng. Như do công năng của các hành như dục v.v…, khiến các đẳng trì viên mãn mà khởi. Đẳng trì viên mãn gọi là tâm thanh tịnh. Vì đẳng trì khiến tâm lìa uế trược, nên không phải tâm lìa cấu uế tức gọi là đẳng trì.

Như thế cũng do thế mạnh của dục v.v…, khiến uẩn giải thoát viên mãn mà sinh. Giải thoát viên mãn nói là tâm giải thoát. Vì giải thoát khiến tâm lìa uế trược, nên không phải tâm lìa cấu uế tức gọi là giải thoát, nên chỗ lập của tôi là không trái với Khế kinh.

Lại, như tăng thượng mạn tương ưng với tà thắng giải, gọi là tà giải thoát, nên không thể nói đây tức là tăng thượng mạn đã nhiễm ô tâm.

Như thế, lìa mạn này tương ưng với chánh thắng giải gọi là chánh giải thoát, nên không thể nói chánh thắng giải này tức là do lìa mạn mà được tâm tịnh. Lại, nếu trong đây, tức tâm lìa cấu uế, gọi là uẩn giải thoát, không có giải thoát riêng khác, thì kinh không nên nói như trước đã nói: Tâm thanh tịnh tối thắng, vì nghĩa thanh tịnh lìa cấu uế không có riêng khác.

Lại, kinh này đã nói câu uẩn giải thoát, lý thật cũng không phải chỉ là thắng giải, mà ý nhận lấy thắng giải cùng pháp đồng tụ, nói chung gọi là uẩn giải thoát.

Do đấy, thuyết kia nói không phải chỉ là thắng giải, gọi là uẩn giải thoát, đối với tôi là không có trái. Thế nên đã nói về hai uẩn giải thoát, thể là thắng giải, lý ấy là cực thành.

Như thế là đã nói về Thể của chánh giải thoát. Thể của chánh trí, nghĩa là hiển bày về chánh kiến, như trước nói giác tức là tận vô sinh. Trước gọi là Bồ-đề, nay gọi là chánh trí.

Nói tâm vô học giải thoát, thì tâm ở nơi vị nào là chánh giải thoát? Là ở nơi vị lai, hiện tại hay quá khứ? Tụng nêu:

Tâm vô học lúc sinh

Chánh từ chướng giải thoát.

Luận nói: Như Bản luận đã nêu: Tâm vô học đầu tiên, lúc sinh ở vị lai, là từ nơi chướng giải thoát. Lại nên xét chọn nơi văn này của Bản luận. Nói câu vị lai tức nên thành phiền nặng. Nói câu lúc sinh thì nghĩa đã hiển bày.

Vấn nạn này là không hợp lý, vì tùy theo hỏi đáp. Nghĩa là trước là người hỏi hỏi về tâm vô học, ở trong đời nào là chứng đắc giải thoát?

Thế nên nay đáp nói là ở vị lai. Sợ người kia cho là chung nơi tất cả vị lai, nên lại phân biệt nói là lúc sinh. Hoặc chỉ nên nói lúc sinh giải thoát. Nhưng hoặc có người cho: Lúc sinh là hiện tại. Vì ngăn chận ý của người kia, nên nói lúc sinh ở vị lai. Hiện là đã sinh không phải là khi sinh. Hoặc căn cứ theo phần cùng nối tiếp để lập tên giải thoát, thì tất cả vị lai đều gọi chánh giải thoát.

Nếu căn cứ theo thời gian hiện hành ở đời, lập tên gọi giải thoát, thì chỉ khi sinh, gọi là chánh giải thoát. Vì hiển bày riêng hai nghĩa nên nói lúc sinh ở vị lai. Câu nói các thứ phiền nặng, tất làm rõ về nghĩa riêng. Lý nên suy cứu, không cùng phỉ bác.

Dựa vào nghĩa như thế, nên có tụng nói:

Văn nơi nghĩa đã đủ

Mà lại lại chữ dư

Không vô nghĩa có văn

Nên xét tìm nghĩa riêng.

Tuy ở nơi phần vị này, các uẩn hiện có đều được giải thoát, mà chỉ nói là tâm. Nhưng không thể nói là có thiếu sót giảm mất, do tâm sở v.v… là tùy theo tâm, trong pháp nhiễm tịnh, tâm là chủ. Tuy không có ngã, nhưng có thể ở nơi tâm, giả nói người bị trói buộc, người giải thoát v.v… Nếu đã nói về thắng nghĩa, là đã nói về số còn lại. Hoặc ở trong đây, như nêu lean pháp, dụ. Nêu lên một pháp của tâm, khiến so sánh suy xét về thứ khác. Tuy các tâm hữu học cũng ở nơi phần vị sinh, từ chướng giải thoát, nhưng luận chỉ nói về tâm vô học đầu tiên khi sinh. Người giải thoát căn cứ ở sự đoạn trừ rốt ráo chứng giải thoát.

Lại, ở đây chỉ nói về giải thoát thuần túy, nên trong ấy có tâm là giải thoát tự tánh, không phải giải thoát nối tiếp. Nên tạo ra bốn trường hợp: (1) Vô lậu hữu học. (2) Thế tục vô học. (3) Vô lậu vô học. (4) Tâm thế tục khác.

Như thứ lớp nên biết về bốn trường hợp có sai biệt.

Trong đây, tuy nêu lên sát-na đang sinh, nhưng thật sự là ở vị lai đều được giải thoát. So với người đang sinh thì sinh chướng là đồng.

Nên dựa vào uy lực này để tu vị lai. Căn thiện của thế tục cũng được giải thoát. Vì dựa vào phần cùng nối tiếp tịnh, nên giải thoát kia được sinh. Vì hiển bày lần nữa về tâm vô học đầu tiên, khi sinh ở vị lai, từ chướng giải thoát, thế nên Bản luận lại nói như thế: Nghĩa là đạo vô gián hiện đi đến đã diệt và đạo giải thoát hiện đi đến đã sinh. Bấy giờ, tâm vô học gọi là từ chướng giải thoát.

Đạo vô gián:, Nghĩa là định kim cang và quyến thuộc của định. Sắp đến vị quá khứ lập dùng tên hiện. Tiếp theo sau là thiết lập tên gọi quá khứ. Đi đến đã diệt: Là hiển bày ở nơi đang diệt. Gần với tiếp theo, tất nhập vào vị đã diệt.

Đạo giải thoát: Nghĩa là tận trí đầu tiên và quyến thuộc của trí. Sắp đến vị hiện tại, lập dùng tên hiện. Tiếp theo sau là thiết lập tên gọi hiện tại. Đi đến đã sinh là hiển bày nơi đang sinh. Gần với tiếp theo tất nhập vào vị đã sinh.

Nói bấy giờ: Nghĩa là khi đang diệt, sinh. Tâm vô học tức là tận trí ban đầu cùng khởi. Từ chướng giải thoát: Tức không phải chỉ là phiền não chướng. Nghiệp của cõi sắc, vô sắc đã chiêu cảm sinh quả, cũng là bấy giờ đã giải thoát khỏi chướng. Nghiệp này cũng chướng ngại sự việc chứng đắc A-la-hán.

Do đấy, các Đại Luận sư xưa kia đều nói thế này: Nghiệp đối với việc đắc quả Bất hoàn, quả A-la-hán thừa nhận rất là chướng ngại. Giải thích như thế về điều đã nói của Bản luận, tức đã giải thích về nghĩa tâm giải thoát của kinh.

Đạo ở nơi phần vị nào khiến chướng sinh đoạn? Tụng nêu:

Đạo chỉ vị đang diệt

Có thể khiến chướng đoạn.

Luận nói: Nói chỉ là hiển bày về đang diệt, không phải thứ khác. Như đạo sinh, chưa sinh, đều cùng giải thoát. Không phải diệt, đã diệt, đều cùng khiến chướng đoạn.

Vì sao nhận biết phần vị đang trong diệt có thể đoạn chướng không phải thứ khác?

Do nói về đạo đang sinh, là đang từ chướng giải thoát. Phần vị của đạo chưa sinh là chưa được giải thoát. Phần vị của đạo đã sinh là đã được giải thoát. Đều cùng không thể lập tên chánh giải thoát.

Nếu đạo khi đang diệt thì không thể đoạn chướng, vì sao phần vị đạo sinh được danh xưng chánh thoát?

Nên khi đang diệt, đạo có khả năng đoạn trừ chướng. Vì ở phần vị trước sau, công dụng đoạn nhất định không có.

Vì sao chưa sinh cũng gọi là giải thoát?

Vì so với người đang sinh, sinh chướng là đồng. Như nơi thế gian hiện thấy khi mở đường nước, nước gần, nước xa, đều nói là lìa chướng ngại. Như thế là đã nhận thấy đạo có thể đoạn trừ Hoặc đã sinh ở trong thân. Cũng nên có thể nói là tâm gần, tâm xa đều được giải thoát. Hoặc như đang khởi tâm vô học đầu tiên có đắc đang sinh, gọi là chánh giải thoát.

Như thế, loại kia đã tu ở vị lai, tâm vô lậu cùng có được khởi, pháp nhất định không sinh hãy còn được gọi là chánh giải thoát, huống chi là người sẽ sinh?

Trong đây, đã nói câu chánh giải thoát, là hiển bày tâm đã giải thoát, nay đang được giải thoát. Đã nêu bày như thế, há không là trái nhau? Câu nói đã giải thoát, là căn cứ nơi tự tánh giải thoát. Còn câu nói nay giải thoát, là căn cứ theo từ chướng giải thoát. Đã đối chiếu đều khác, thì nghĩa nào là trái nhau? Hoặc câu nói đã giải thoát, là căn cứ ở bản hữu giải thoất. Còn căn cứ theo thân hành ở đời để nói câu nay giải thoát. Do nay những điều đã nói không có lỗi trái nhau.

Các người vận ành ở đời đều giải thoát chăng? Không như vậy.

Vì chủ yếu là siêng năng phá trừ chướng sinh.

Có Sư khác nói: Khi chánh giải thoát cũng được gọi là tâm đã giải thoát. Vì tánh là đã xả bỏ phiền não chướng, nên về lý tất phải như thế. Vì đạo giải thoát dựa vào nơi chốn không có phiền não, nối tiếp chuyển biến. Vì đã xuất ly chướng, nên gọi là đã giải thoát. Nay vì hành ở đời, nên gọi là nay giải thoát. Do nay điều đã nói là cùng không trái nhau.

Kinh nêu rõ: Tâm từ tham nay được giải thoát.

Ở đây đã nói giải thoát, nghĩa ấy là thế nào?

Vì là khiến tâm cùng với tham lìa nhau. Vì khiến tánh tham không còn duyên nơi tâm. Tâm gọi là có tham, là vì tương ưng, vì đối tượng duyên, hay vì được tùy thuận?

Nếu vì tương ưng, tức nên chỉ tâm nhiễm gọi là được giải thoát, liền trái với tự tông nói là lìa tâm tham được giải thoát.

Lại, nếu pháp này cùng với pháp kia tương ưng, tất định không cùng khiến pháp này lìa pháp kia, tâm tức nên hoàn toàn không giải thoát khỏi tham.

Nếu vì đối tượng duyên, tức nên tâm nhiễm ô cũng được giải thoát. Về lý không nên nói tâm tương ưng với tham gọi là giải thoát. Lại, nếu tánh của tham kia duyên nơi tâm này, không có tạm thời không duyên, cùng nghĩa của duyên khác, vì sao có thể nói tâm giải thoát khỏi tham kia.

Nếu vì được tùy thuận, tức nên tâm hữu học cũng gọi là có tham, vì nương dựa nơi tham được đối tượng tùy thuận cùng nối tiếp mà khởi.

Luận giả thuộc phái Chánh lý nói như thế này: Chỉ tâm lìa tham nay được giải thoát. Những gì gọi là tướng của hai thứ tâm có tham, lìa tham?

Nghĩa là tâm nếu cùng với tham tương ưng thì gọi là tâm có tham. Nếu không tương ưng, cũng không là nhân đồng loại của tham, thì gọi là tâm lìa tham. Cho đến có si, lìa si cũng như thế.

Đã nói về tâm lìa tham được giải thoát, tức lập giải thoát chỉ là tâm không nhiễm. Nhưng tâm không nhiễm gồm có bốn thứ. Nghĩa là trong hữu lậu phân ra thiện, vô ký, và trong vô lậu phân ra hữu học, vô học.

Nói tâm lìa tham nay giải thoát: Nay giải thoát có hai, nghĩa là hành ở đời, các tâm hữu lậu cùng nối tiếp. Tất cả đều có giải thoát cùng nối tiếp. Người gia hạnh đắc cũng thừa nhận gồm có giải thoát hành ở đời. Các tâm vô lậu tất cả đều có giải thoát hành ở đời. Người vô học gồm thâu cũng thừa nhận gồm có giải thoát cùng nối tiếp.

Có các thuyết nói: Nếu tâm ngộ nhập an trụ thanh tịnh đạt được giải thoát, nên biết ở đấy là biện về giải thoát hành ở đời.

Có các thuyết cho: Người có tâm chánh thiện giải thoát, nên biết đây là biện về giải thoát cùng nối tiếp.

Có các thuyết luận: Quả A-la-hán thành tựu chánh trí và chánh giải thoát. Như thế gọi là chánh giải thoát viên mãn. Nên biết đây là biện về giải thoát tự tánh.

Do hai giải thoát của A-la-hán viên mãn, nên nêu bày gọi là tâm chánh thiện giải thoát. Nghĩa là các Thánh đạo đều gọi là giải thoát chánh tánh. Dựa vào giải thoát đó, gọi là chánh giải thoát. Vì các A-la-hán chứng đắc không có thiếu giảm, nên nói tâm A-la-hán kia là chánh thiện giải thoát.

Như thế là đã biện về hai giải thoát, trong ấy các tâm nhiễm ô đều không cùng có, nên thuyết kia nêu không thể gọi là được giải thoát.

Người lìa nhiễm ngoài, có thể nêu đủ hai, nghĩa là chánh giải thoát và tà giải thoát, nhưng không thể nói tâm chánh giải thoát. Do trong thân người kia thiếu Thánh đạo. Cũng không thể nói tâm không giải thoát, vì đối với nhiễm của địa đang có đã lìa đầy đủ.

Lại, tuy thừa nhận người kia có chánh giải thoát, nhưng không thừa nhận gọi là tâm chánh giải thoát, tức không phải như Thánh giả chuyển biến như lý. Nghĩa là nếu các Thánh đối với năm bộ kiết có thể phân tích đúng đắn dần dần mà đoạn, nên gọi là tâm chánh giải thoát. Người lìa nhiễm ngoài đối với năm bộ kiết không phân tích thích đáng, đều dùng đạo thế tục cùng thời mà đoạn. Tuy đoạn kiết nhưng không nên gọi là tâm chánh giải thoát. Nhưng thừa nhận gọi là người chánh giải thoát, vì thật sự có khả năng đoạn trừ các thứ trói buộc tà vạy. Như Đức Thế Tôn nói: Các phiền não như tham v.v… đã khiến tâm tạp nhiễm không giải thoát.

Do đấy chứng biết vì tham v.v… được đoạn trừ, nên tâm không ô nhiễm, gọi là được giải thoát. Như nước đục diệt, nước sau khi sinh, lìa đục lắng trong, gọi là nước sạch. Như thế tâm cùng với nhiễm đều cùng hành đã diệt. Các tâm khi dựa vào sự nối tiếp tịnh chuyển biến, lìa trói buộc mà sinh, gọi là giải thoát.

Người chưa lìa nhiễm, tâm không ô nhiễm, dựa vào thân có nhiễm, giống như biến đổi khác chuyển, như máu, sữa lẫn lộn, không gọi là giải thoát. Các tâm hữu học tuy là vô lậu, nhưng do cùng nối tiếp không thanh tịnh, nên không phải như tâm vô học gọi là giải thoát cùng nối tiếp. Như dựa vào mắt bệnh, có thức mờ tối sinh. Khi mắt không bệnh, thì thức phát khởi sáng sạch, không có lỗi tự tánh của nhãn thức chuyển biến. Như thế, phiền não đã làm tổn hại phần cùng nối tiếp. Dựa vào đấy, tuy có thức thiện tịnh sinh, nhưng do sức của phiền não nên chuyển biến không sáng rõ nhanh nhẹn. Khi lìa bỏ phiền não, thì thức liền sáng rõ, lanh lợi.

Do phần cùng nối tiếp kia thuận với phiền não sinh, nên tâm của chủ thể nương dựa, không gọi là giải thoát. Nếu phần cùng nối tiếp kia trái với phiền não sinh, thì tâm của chủ thể nương dựa này mới gọi là giải thoát. Vì thế người lìa nhiễm, trong thân cùng nối tiếp, tâm không nhiễm ô, đã dựa vào thân cùng nối tiếp. Xưa bị tham v.v… gây tổn hại, nay vì lìa tham v.v… nên cũng gọi là nay giải thoát. Nếu tâm cùng với tham v.v… tương ưng, tất không thể khiến giải thoát khỏi tham v.v…, nên dựa vào đấy các Luận sư Chánh lý nói: Chỉ tâm lìa tham, nay được giải thoát.

Luận giả của phái Phân biệt nói như thế này: Chỉ tâm có tham, nay được giải thoát. Như có vật chứa bị cấu uế, về sau trừ bỏ phần cấu uế đó. Như phả chi ca do xứ của đối tượng nương dựa, hiển sắc sai biệt có sắc khác lạ sinh.

Tâm tịnh như thế đã bị cấu nhiễm do tham v.v… gọi là có tham v.v… Về sau trở lại được giải thoát.

Thánh giáo cũng nêu rõ: Bản tánh của tâm là tịnh, có lúc bị nhiễm do phiền não của khách trần.

Luận giải này là không hợp lý. Vì pháp sát-na diệt, như vật chứa đựng bị cấu uế đã được trừ bỏ là không hợp lý. Nghĩa là vết bẩn cùng với vật chứa đựng đều cùng sát-na diệt, không thể chuyển đổi vật chứa đựng có cấu bẩn, tức thành vật chứa đựng không cấu bẩn. Chỉ vì duyên hợp, nên vật chứa đựng có cấu bẩn diệt, vật chứa đựng không có cấu bẩn sinh, gọi vật chứa đựng đã trừ bỏ cấu bẩn. Lại vật chứa đựng cùng với chất cấu bẩn không phải hỗ tương làm nhân để cùng có thể chấp là chất cấu bẩn đã trừ diệt, vật chứa đựng thì còn lại. Tham với tâm đối chiếu nhau tất hỗ tương làm nhân. Vì sao từ tham tâm có thể giải thoát?

Lại, đạo cùng với Hoặc có lỗi là đều cùng hành. Nghĩa là thuyết kia không thừa nhận thật sự là có quá khứ, vị lai, nên không thể nói tâm trụ nơi giải thoát. Nếu ở nơi hiện tại có tâm có tham, thì đạo lại hiện hành, khiến tâm giải thoát. Há không phải là đạo, Hoặc đã cùng lúc hiện hành. Lỗi lầm tất tùy vào đấy không thể được lìa.

Nếu cho đạo khởi đoạn trừ tùy miên tham, nên nói là cùng với tham kia cùng có, cũng không có lỗi.

Chấp thể của tùy miên không tương ưng với tâm, thì nói là tâm có tham nào, thời nay được giải thoát?

Lại, thể của tùy miên, thuyết kia chấp không phải là tham, do thuyết kia tự nói tham là triền, là nói về những gì gọi là tâm có tham, để nói thời nay từ tham giải thoát. Nên thuyết kia đã nêu bày là bạn bè hỗ trợ cho tông xấu ác.

Lại, thuyết kia không suy xét kỹ khi dẫn dụ về phả chi ca. Lý thật thì thể của phả chi ca kia không có sắc khác lạ sinh, vì cách phả chi ca thì thấy hiển sắc. Nghĩa là như thể của phả chi ca kia không nắm giữ hết hình sắc khác. Như thế cũng không có lý nắm giữ hết hiển sắc khác, mà cùng ở nơi phả chi ca kia thấy hiển sắc khác. Cách phả chi ca thấy hiển sắc của đối tượng nương dựa khác. Nếu như thừa nhận thể của phả chi ca kia có hiển sắc khác sinh, cũng không nên nói là báu phả chi ca, bản thể luôn ở nơi có sắc khác sinh. Sắc còn lại trước đều cùng phả chi ca diệt. Về sau cùng với sắc khác cùng có sắc mới sinh.

Do đấy, dụ về phả chi ca của thuyết kia đã khinh xuất như thế mà lập. Chí giáo đã dẫn so với lý là trái nhau, nên văn này nhất định không phải chân thuyết. Lại nên nêu hỏi cật vấn về các tâm có nhiễm: Thế nào gọi là bản tánh thanh tịnh? Thuyết kia nói: Tánh của tâm vốn là không nhiễm.

Nếu như vậy thì cùng với tâm sở nhiễm tương ưng, bấy giờ tâm này chuyển thành nhiễm, thế là phiền não nên chuyển thành tịnh chăng?

Do cùng với thể của tâm thanh tịnh tương ưng, vì nhiễm này tịnh kia có nhân riêng là không thể được. Lại, tánh của tâm tịnh, về lý không bị nhiễm, vì trước sau cùng có đều không thành. Nghĩa là nếu trước có tâm của tự tánh tịnh, sau phiền não sinh mới bị nhiễm, thì thể của tâm tịnh tức nên không phải là sát-na diệt. Nếu trước có Hoặc, về sau tâm tịnh sinh, thì bị Hoặc đã sinh trước cấu nhiễm, nên thể của Hoặc này không phải là sát-na diệt.

Nếu tâm cùng với Hoặc cùng thời mà sinh, thì không nên nói bản tánh của tâm là tịnh, có khi bị cấu nhiễm do phiền não của khách trần. Thừa nhận tâm cùng với phiền não là một thời, sinh một quả, một đẳng lưu, một pháp dị thục, mà nói tâm vốn tịnh, phiền não là khách trần, là lời nói trái hẳn với chánh, không hợp với lý luận. Lại, ở nơi ba đời suy tìm, nêu hỏi về phiền não, rốt cùng là không có năng lực, do tâm tịnh, nhiễm nơi quá khứ, vị lai đều không có tác dụng. Hiện tại đều cùng rơi vào một sát-na. Lại nếu nói tâm lấy tịnh làm tánh, về sau trong vị cùng với phiền não tương ưng, chuyển thành nhiễm, nên mất tự tánh. Đã mất tự tánh tức nên không gọi là tâm.

Vì thế không nên nói bản tánh của tâm là tịnh, có khi bị phiền não của khách trần làm cấu nhiễm.

Nếu ôm giữ chỗ tin ngu tối, không dám phỉ bác nói đây không phải kinh, nên biết kinh này là trái với chánh lý, tức không phải là thuyết liễu nghĩa.

Nếu như vậy thì kinh này dựa vào mật ý gì?

Dựa vào tánh của bản (chủ), khách, mật ý nêu bày như thế. Nghĩa là tâm của tánh bản (chủ) tất là thanh tịnh. Nếu tâm của tánh khách, thì cùng có nhiễm ô.

Tâm của tánh bản: Nghĩa là tâm vô ký. Không phải buồn, không phải vui, nơi vị tự nhiên chuyển. Các loại hữu tình phần nhiều trụ nơi tâm này. Vì trong tất cả vị đều cùng có, tức tâm này tất tịnh không phải là nhiễm ô.

Tâm của tánh khách: Nghĩa là tâm còn lại. Không phải các hữu tình phần nhiều an trụ. Cũng có các phần vị không phải đều chấp nhận có. Người đoạn căn thiện tất không có tâm thiện. Trong vị vô học tất không có nhiễm. Tâm này có nhiễm, không phải chỉ là tịnh. Như nói: Bản tánh của nước sông là lắng trong, có khi có một ít đất bụi của khách trần khiến cho nước đục.

Như thế chỉ căn cứ trong tâm cùng nối tiếp, khi trụ nơi tánh của bản (chủ) gọi là tịnh. Lúc trụ ở vị tánh của khách thì chấp nhận tạm thời có nhiễm.

Giải thích trên đây so với chánh lý của giáo là không trái nhau. Đâu thể nói tâm tạp nhiễm bản tánh là tịnh? Đến phần vị trừ diệt nhiễm, gọi là được giải thoát. Há không phải là tâm khởi tham đạt được chỗ tùy theo đều gọi là tâm có tham?

Không phải chỉ tham là cùng có. Giải thích này là không hợp lý. Vì không phải tâm tùy theo chỗ đạt được mà có thể gọi là có tham. Vì Bổ-đặc-già-la có thể nói là tùy theo chỗ đạt được gọi là có tham. Nghĩa là các đắc khởi đắc các pháp đã chứng đắc, không khiến thuộc về pháp khác, chỉ khiến thuộc về hữu tình, nên các hữu tình do uy lực đắc, gọi là có giới. Các pháp như tâm tâm sở v.v… của người có tham v.v… thì không như thế, vì chủ yếu là cùng với tâm kia đều cùng có, mới gọi là có tâm kia. Nếu khác với đây, thì các tâm có tham cũng nên được gọi là có sân, si v.v…

Có sân v.v… nên gọi là có tham. Lại, tầm được cùng có các tâm tâm sở, nên đều có thể gọi là có tầm, tức nên hoàn toàn không định không có tầm chỉ có tứ.

Lại như trước đã nói: Trước đã nói là thế nào?

Nghĩa là tức nên tâm hữu học cũng gọi là có tham, thừa nhận cũng đâu có lỗi.

Nếu là có tham nên là đối tượng đoạn. Không phải là chân đối trị, thì không hợp với Thánh giả, vì đã vĩnh viễn đoạn trừ tham. Tu tâm có tham là chân đối trị.

Lại, như Đức Phật nêu bày câu có tầm tứ, dựa vào tầm tứ tương ưng, không phải là hai thứ kia được đều cùng khởi. Như thế, Đức Phật nói câu tâm có tham, chỉ dựa nơi tham tương ưng, không phải tham được đều cùng khởi.

Nếu như vậy thì hữu lậu và hữu tùy miên, tức nên chỉ tương ưng với lậu, với pháp tương ưng của tùy miên, nhưng pháp này không hẳn như thế, vì các sắc v.v… cũng được gọi là hữu lậu, hữu tùy miên.

Câu nói do hai hữu, về nghĩa là chung nơi nhiều giải thích. Nghĩa là lậu tùy tăng cùng với pháp lậu là đồng, vì đều cùng được, gọi là pháp hữu lậu. Nếu ở nơi xứ này tùy miên tùy tăng và tùy miên tương ưng, thì gọi là hữu tùy miên. Lại, các pháp hữu vi tùy theo nhân duyên sinh diệt, không tùy theo bản tánh của nhân duyên chuyển biến. Nếu tánh của pháp này tùy theo nhân duyên sinh tức tánh của pháp ấy tùy theo nhân duyên diệt, không phải do thế mạnh của tham khiến tâm không nhiễm chuyển thành nhiễm ô, chỉ có tâm nhiễm ô của tự tánh khởi, cùng với tham tương ưng. Do tương ưng với tham, nên được gọi là có tham. Tánh của tâm là nhiễm, vốn không do tham, nên tâm không nhiễm, bản tánh là thanh tịnh. Các tâm nhiễm ô, bản tánh là nhiễm ô, nghĩa này quyết định không thể nghiêng động.

Như trong Khế kinh nói có ba giới (cảnh giới), nghĩa là đoạn, lìa, diệt.

Trong hai giải thoát đã nói ở trước, thì ba giới này lấy gì làm thể? Ba giới như thế có sai biệt như thế nào? Tụng nêu:

Vô vi nói ba giới

Giới lìa chỉ lìa tham

Giới đoạn đoạn kiết khác

Giới diệt diệt sự kia.

Luận nói: Ba giới như đoạn v.v…, tức phần trước nói giải thoát vô vi dùng làm tự thể. Tuy nhiên, thể của ba giới căn cứ theo giả nên có khác. Nếu căn cứ theo thật sự thì không có sai biệt.

Thế nào gọi là căn cứ theo giả nên có khác?

Nghĩa là lìa kiết tham, gọi là giới lìa. Đoạn trừ tám kiết còn lại, gọi là giới đoạn. Diệt tất cả các kiết còn lại như tham v.v…, là thể của sự đã bị trói buộc, gọi là giới diệt.

Do đâu ba giới có sai biệt như thế? Nghĩa là pháp hữu lậu lược gồm có ba: (1) Có thể trói buộc nhưng không phải có thể cấu nhiễm. (2) Có thể trói buộc cũng là có thể cấu nhiễm. (3) Không phải cả hai.

Pháp thuận với trói buộc cấu nhiễm, đoạn trừ ba pháp này là đã chứng vô vi. Như thứ lớp gọi là ba giới như đoạn v.v…

Có Sư khác nói: Chỉ đoạn dứt thứ có thể trói buộc, thì có riêng vô vi, đoạn trừ thứ khác thì không như thế.

Sư kia cho loại có thể trói buộc có duyên nơi tám kiết, có duyên nơi kiết ái, có duyên nơi sự khác. Đoạn dứt ba thứ này là đã chứng vô vi. Như thứ lớp gọi là ba giới như đoạn v.v…

Có Sư khác nêu: Chỉ đoạn trừ loại có thể cấu nhiễm là có riêng vô vi. Đoạn trừ thứ khác thì không như thế.

Sư kia cho ái có duyên nơi tám kiết, có duyên nơi kiết ái, có duyên nơi sự khác. Đoạn trừ ba thứ này là chứng được vô vi. Như thứ lớp gọi là ba giới như đoạn v.v…

Tùy theo sự của đối tượng trói buộc, được riêng trạch diệt, nên trong ba thuyết, thuyết đầu là tốt.

Ở đây, Thượng tọa nói như thế này: Chỉ tùy theo tình mình, tạo ra phân biệt này, kiến lập Thánh đế Niết-bàn v.v…, trong ấy chỉ dùng ái làm môn, nói đoạn trừ các Hoặc. Như Khế kinh nói: Thế nào là tập Thánh đế? Nghĩa là ái, ái của hữu sau, cho đến nói rộng.

Thế nào là diệt Thánh đế? Nghĩa là các ái đã đoạn, lìa, diệt.

Thế nào gọi là Niết-bàn? Nghĩa là các ái đã đoạn, lìa, diệt. Nếu đối với sắc v.v… đã đoạn dục tham v.v… Ta nói người kia gọi là đã đoạn sắc v.v… Tất cả hành đoạn, gọi là giới đoạn. Tất cả hành lìa, gọi là giới lìa. Tất cả hành diệt, gọi là giới diệt.

Đức Phật đã thuyết giảng kinh đều là liễu nghĩa, không có ý nghĩa sâu xa riêng, không nên giải thích khác.

Thuyết này là không đúng, vì ở trước đã nói. Nghĩa là tôi trước đã nói: Nếu căn cứ theo thật sự, thì thể của ba giới như thế là không có sai biệt. Nhưng nơi mỗi mỗi thể, giả nêu là ba. Do vô vi này là pháp vô tướng. Giả lập danh tướng, tất là đối đãi với hữu vi. Nghĩa là mỗi mỗi tự thể của vô vi này, vì đoạn trừ đắc của tám kiết, nên gọi là giới đoạn. Vì lìa bỏ đắc của kiết ái, nên gọi là giới lìa. Vì diệt hết đắc của uẩn kia, nên gọi là giới diệt. Tùy theo thuộc đối tượng đối đãi khác, giả lập ba danh xưng. Lý thật thì thể của vô vi không có ba danh xưng riêng biệt, ở nơi mỗi mỗi thể đều có đủ ba nghĩa. Tuy ở trong nghĩa lìa ái đã đạt được, nhưng Đức Thế Tôn cũng nói là đoạn, là diệt. Tuy nhiên, dựa nơi phần đối trị gần, thì chỉ nói tiếng lìa. Tuy ở trong nghĩa diệt các uẩn đã đạt được, nhưng Khế kinh cũng nói rõ là đoạn, là lìa. Nhưng trong các kinh phần nhiều nói là uẩn diệt, nên ở nghĩa này chỉ nói tiếng diệt. Tuy trong nghĩa đoạn trừ kiết khác đã đạt được, nhưng Khế kinh cũng nói là lìa, là diệt. Nhưng lìa, diệt, gọi là nói riêng về hai thứ trước, nên ở nơi nghĩa này, chỉ nói tiếng đoạn. Hoặc vô vi này, tùy theo sự của đối tượng trói buộc có nhiều thứ, nên thể thật cũng có nhiều. Ba giới do đấy mà thể thật đều riêng. Nhưng dựa nơi hợp lập tánh của một Niết-bàn, nên nói ba giới lần lượt tương tức. Thế nên kinh nêu rõ: Tất cả hành đoạn, gọi là giới đoạn, cho đến nói rộng. Lý thật thì kinh này nhất định không phải là liễu nghĩa, vì không phải tất cả hành đều là nên đoạn, cũng không phải đều là sự đã nên lìa. Tuy nhiên, kinh này nói câu đều đoạn lìa, nên biết kinh này, ý riêng có đối đãi để nói. Nếu cho ở nơi xứ khác đã phân biệt nói: Các pháp hữu lậu, tất cả nên đoạn. Ở đây tuy là nêu bày chung về câu nói tất cả hành. So sánh với xứ kia tức biết hành này chỉ là hữu lậu, nên không có lỗi kinh này không phải là liễu nghĩa.

Điều này không thành biện hộ giúp. Trong kinh Phiệt Dụ đã nói: Đạo vô lậu cũng có thể đoạn trừ. Như nói: Ta nói pháp môn dụ như chiếc bè, pháp hãy còn nên đoạn, huống chi là phi pháp. Không thể do đấy liền tạo ra lời nói này: Hành vô lậu đoạn, cũng gọi là giới đoạn. Chớ nên nói giới đoạn tức là thể của ba giới. Thánh đạo cũng nên là sự của đối tượng lìa. Vì sự của đối tượng lìa này chỉ là đối tượng duyên của tham, nên kinh đã nói kia đều là liễu nghĩa, không có ý nghĩa sâu xa riêng, về lý nhất định là không đúng. Hiện thấy kinh này đã thuyết giảng với ý riêng. Thuyết kia lại ở nơi môn khác này nói: Nếu từ các hành tham ái đã vĩnh viễn đoạn, thì bấy giờ các hành đều gọi là đoạn, nên gọi là giới đoạn. Như Khế kinh nêu: Nếu đối với sắc v.v… đã đoạn trừ dục tham, Ta nói người kia gọi là đã đoạn trừ sắc v.v… Nếu đối với các hành, phiền não không sinh, thì bấy giờ các hành từ tham được lìa, nên gọi là giới lìa. Tức tất cả hành lúc không còn chuyển, gọi là giới diệt.

Như thế, Thượng tọa đối với ba giới như đoạn v.v… đã kiến lập sự sai biệt rất là tạp loạn. Như đoạn tham nên sắc v.v… gọi là đoạn. Như thế cũng nên do lìa tham, nên sắc v.v… gọi là lìa. Do diệt tham nên sắc v.v… gọi là diệt. Thế thì chỉ dựa nơi tham ái vĩnh viễn đoạn trừ nói là đoạn, lìa, diệt. Như nói: Đối với sắc đã hoàn toàn đoạn ái, lìa ái, diệt ái, cho đến nói rộng. Nên khi từ các hành đoạn dứt tham ái, tức nên thành tựu đủ giới đoạn, lìa, diệt, không nhọc sức còn chấp về lìa diệt của pháp khác.

Lại, đối với các hành phiền não không sinh, các hành lìa tham đã gọi là giới lìa, ái nơi phiền não khác sở dĩ không sinh, là do phiền não trong các hành đã đoạn.

Do đâu không thừa nhận cũng gọi là giới đoạn?

Pháp không sinh này có thứ mang tên giới lìa, có thứ không mang tên giới diệt. Điều này có lý gì?

Các pháp không sinh, rất nên gọi là diệt, vì Khế kinh nói: Do vô minh diệt nên các hành diệt. Lại khi Niết-bàn, các hành không chuyển, đã gọi là giới diệt. Lúc chưa Niết-bàn, các phiền não diệt, sao không phải là giới diệt? Chủ yếu do lìa ái, thì phiền não còn lại được đoạn, hành mới không chuyển, gọi là bát Niết-bàn. Nên trong giới diệt có giới đoạn, lìa.

Ba giới như thế tức nên không có sai biệt. Nếu cho ba giới này tuy còn tạp loạn, do một ít nhân. Trong cảnh giới vô vi, căn cứ ở phần vị có khác để lập ba giới riêng.

Do đâu không thừa nhận luận điểm của các Luận sư Đối pháp. Như trước đã nêu rõ về ba giới có sai biệt. Hoặc giả, hoặc thật, đều không có tạp loạn. Thế nên Thượng tọa đã tuân theo vọng tình của mình, hủy báng, bài bác tông của tôi, nói: Tùy theo kiến giải của mình, như thế là tự yêu, ghét, dứt bỏ lời nói của người khác. Khi đàm luận về chánh lý, không nên gạt bỏ, nhặt lấy. Căn cứ theo đây là đã giải thích về ba tướng có sai biệt của tưởng đoạn, lìa, diệt trước các Khế kinh. Hoặc ở nơi địa của nghiệp đầu, ta sẽ đoạn trừ tưởng, gọi là đoạn tưởng. Nếu là địa lìa nhiễm, thì ta chính thức đoạn tưởng, gọi là lìa tưởng. Nếu là địa đã hoàn thành, ta đã đoạn tưởng, gọi là diệt tưởng. Hoặc ở trong gánh nặng uẩn đã thọ nhận, kiến không xả bỏ lỗi, khởi dục xả bỏ tưởng, gọi là đoạn tưởng. Do xả cùng với đoạn tên gọi có khác biệt. Nếu ở trong uẩn còn lại không còn sinh đã thấy rõ công đức thù thắng khởi dục cầu tưởng, gọi là diệt tưởng, vì không sinh cùng với diệt tên gọi có sai biệt.

Đã được lìa nhiễm, thanh tịnh nối tiếp, đối với pháp của các uẩn không có đoái nghĩ, lưu luyến. Ở nơi bát Niết-bàn thấy rõ tưởng tĩnh diệu, gọi là lìa tưởng, vì không lưu luyến cùng với lìa, tên gọi có sai biệt.

Nếu sự có thể nhàm chán, tất có thể lìa bỏ chăng? Không như thế. Vì sao? Tụng nêu:

Duyên chán, tuệ khổ, tập

Duyên lìa bốn hay đoạn

Tương đối cùng rộng hẹp

Nên thành bốn trường hợp.

Luận nói: Chỉ duyên nơi khổ, tập là đã khởi nhẫn trí, gọi là nhàm chán. Pháp khác thì không như thế. Trong cảnh của bốn đế đã khởi nhẫn trí. Người có thể đoạn trừ Hoặc đều được mang tên lìa bỏ. Do rộng hẹp có khác, nên thành bốn trường hợp:

1. Có nhàm chán không phải là lìa bỏ: Nghĩa là duyên nơi khổ, tập, không khiến hoặc đoạn. Nhẫn trí hiện có vì duyên nơi cảnh của nhàm chán, vì không phải là lìa nhiễm. Nên biết trong đây, trước là lìa dục nhiễm, sau là kiến đế. Khổ, tập pháp nhẫn và khổ trí, tập trí trong kiến đạo, chỉ gọi là nhàm chán duyên, nhàm chán cảnh. Nhẫn không gọi là lìa bỏ Hoặc, vì trước đã đoạn. Trí không gọi là lìa bỏ, vì không phải là đối trị đoạn. Và khổ trí, tập trí thuộc về đạo gia hạnh, giải thoát, thắng tấn trong tu đạo, chỉ gọi là nhàm chán duyên, nhàm chán cảnh, nên không gọi là lìa bỏ, vì không phải là đối trị đoạn.

2. Có lìa bỏ không phải là nhàm chán: Nghĩa là duyên nơi diệt, đạo, có thể khiến Hoặc đoạn. Nhẫn trí hiện có vì có thể lìa nhiễm, vì duyên nơi cảnh vui thích. Nên biết trong đây, người chưa lìa dục nhiễm nhập kiến đế, tức diệt, đạo pháp nhẫn và các diệt, đạo, loại nhẫn hiện có, cùng diệt trí, đạo trí thuộc về đạo vô gián trong tu đạo, chỉ gọi là lìa bỏ, vì là đối trị đoạn, nên không gọi là nhàm chán duyên, ưa thích cảnh.

3. Có nhàm chán cũng là lìa bỏ: Nghĩa là duyên nơi khổ, tập, có thể khiến Hoặc đoạn, do nhẫn trí hiện có. Nên biết trong đây, người chưa lìa dục nhiễm nhập kiến đế, khổ tập pháp nhẫn và các khổ tập loại nhẫn hiện có cùng khổ trí, tập trí thuộc về đạo vô gián trong tu đạo.

4. Có không phải là nhàm chán cũng không phải là lìa bỏ: Nghĩa là duyên nơi diệt, đạo, không khiến Hoặc đoạn, do nhẫn trí hiện có. Nên biết trong đây, người trước lìa dục nhiễm, sau kiến đế, diệt đạo pháp nhẫn và diệt trí, đạo trí trong kiến đạo, cùng diệt trí, đạo trí thuộc về đạo gia hạnh, giải thoát, thắng tấn trong tu đạo.

HẾT – QUYỂN 72