LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 60

Phẩm thứ 6: BIỆN VỀ HIỀN THÁNH, phần 4

Đã nói về tướng của quán bất tịnh có sai biệt xong. Tiếp theo nên biện về trì tức niệm (Quán sổ tức). Tướng sai biệt của quán này là thế nào? Tụng nêu:

Tức niệm tuệ năm địa

Duyên gió, dựa thân dục

Hai đắc thật ngoài không

Có sáu, nghĩa là đếm v.v…

Luận nói: Nói tức niệm: Tức trong Khế kinh đã nói là niệm A na a ba na. Nói A na: Nghĩa là trì tức nhập (mang hơi thở vào), là nghĩa dẫn gió bên ngoài khiến vào thân. A ba na: Nghĩa là mang hơi thở ra, là nghĩa dẫn gió bên trong khiến ra khỏi thân. Như Khế kinh nêu rõ: Bí-sô nên biết! Mang hơi thở vào, nghĩa là uống hút gió bên ngoài khiến vào trong thân. Mang hơi thở ra, nghĩa là xua đẩy gió bên trong khiến ra ngoài thân.

Tuệ do sức của niệm quán hơi thở này làm cảnh, nên gọi là niệm A na A ba na.

Có Sư khác cho: Nói A na, nghĩa là có thể mang đến. A ba na, nghĩa là có thể mang đi.

Ý của lời nói này là hiển bày về nghĩa hơi thở vào, hơi thở ra, có thể mang theo đem đến. Tuệ do niệm quán hơi thở này, nên được mang tên niệm ấy.

Biện về gió thuộc nơi thân lược có sáu thứ: (1) Gió của hơi thở vào. (2) Gió của hơi thở ra. (3) Gió phát ngữ. (4) Gió trừ bỏ. (5) Gió tùy chuyển. (6) Gió lay động thân.

Nghĩa là các hữu tình ở phần vị thai, noãn, trước hết là ở nơi rốn, nghiệp sinh, gió khởi, xuyên qua thân thành lỗ, như cộng ngó sen. Đầu tiên, có gió đến đi vào bên trong thân. Nhân nơi miệng, mũi này, gió khác nối tiếp vào. Lần trước và sau này, được gọi là gió của hơi thở vào. Gió của hơi thở vào này vừa đến trong thân, là có gió nối tiếp ra, gọi là gió của hơi thở ra. Như thợ luyện vàng, vừa kéo miệng bễ là tự nhiên gió vào. Tánh của gió theo pháp như thế chỉ có lỗ hổng, tất tùy theo vào, nên vào rồi, thì đè xuống, khiến gió kia trở lại đi ra. Hơi thở vào, hơi thở ra, theo thứ lớp cũng như thế. Về lý thật thì gió này không có vào, không có ra, chỉ chuyển như thế, có thể tổn ích thân. Trong đường cùng nối tiếp, giả gọi là vào ra. Phần vị chuyển hơi thở vào có thể xua đuổi các vật hôi hám, cấu uế hư nát trong thân, hỏa giới tăng trưởng khiến thân cử động nhẹ nhàng. Khi chuyển hơi thở ra, có thể loại trừ các thứ hơi nóng dồn tụ, hỏa giới tổn giảm khiến thân chìm nặng.

Gió phát ngữ: Nghĩa là có gió riêng dục là ưu tiên, lần lượt đã dẫn phát ngữ, tâm khởi đã khiến tăng thịnh, sinh từ nơi rốn lưu chuyển nhanh đến yết hầu, kích động dị thục sinh, nuôi lớn đại chủng, dẫn tánh đẳng lưu. Đại chủng gió sinh, vỗ động răng môi, cuống lưỡi có sai biệt. Do thế mạnh này dẫn khởi, hiển bày danh, cú, văn ở vị lai. Tự tánh của sắc được tạo, ở bên trong miệng này, gọi là ngữ, cũng là nghiệp khi lưu xuất bên ngoài, chỉ gọi là ngữ. Tâm sinh đại chủng, lý ấy là cực thành. Nghĩa là thấy tâm tham sân si khởi, sắc mặt có vẻ đượm buồn, rối loạn khác thường. Lại cũng nghe truyền nói, nên mang giữ giận độc, cả khuôn mặt như sinh lửa, không phải có tâm từ, tham dẫn lửa sinh thiêu đốt thân v.v…

Gió trừ bỏ: Nghĩa là có gió riêng, vận hành theo đường đại, tiểu tiện, có thể loại trừ hai thứ cấu uế. Do các thứ cấu uế bức bách bên trong, nên có khổ thọ sinh. Do khổ thọ sinh, phát khởi trừ bỏ dục, vì trừ bỏ dục nên tâm dẫn khởi gió. Tâm này khởi gió thành nghiệp trừ bỏ. Lại, sức của gió này khiến thân an ổn.

Gió tùy chuyển: Nghĩa là có gió riêng tùy thuận khắp các lỗ chân lông của chi thân chuyển biến. Do đấy nên được mang tên gió tùy chuyển. Gió này không dựa nơi tâm, chỉ dựa vào sức của nghiệp, theo lỗ trống nơi thân tự nhiên lưu hành. Do gió này dựa vào lỗ trống an trụ, nên có thể trừ bỏ các vật cấu uế, hôi hám, mục nát.

Gió lay động thân: Nghĩa là có gió riêng, có thể kích động thân dẫn khởi biểu nghiệp. Nên biết gió này khởi, dùng tâm làm nhân, hiện bày khắp các chi thân, có thể tạo kích động. Nhân hiển bày về nghĩa của gió theo đấy biện về sáu thứ gió. Nhưng trong đây, chính là nêu rõ về hai hơi thở. Ý ở đây là biện về trì tức niệm. Tự tánh của niệm này là tuệ, không phải thứ khác. Do Khế kinh nói câu nhận biết rõ. Vì ở phẩm này niệm là vượt hơn, nên được mang tên niệm. Do sức của niệm đã ghi, giữ lượng hơi thở ra vào, nên vì làm rõ duyên nơi hơi thở, định tuệ được thành. Do công năng của niệm, nên nói là niệm, và tùy theo tánh của hành, nên căn cứ ở môn trước. Đối tượng nương dựa của niệm này chỉ chung nơi năm địa. Nghĩa là dựa vào cõi dục, tĩnh lự trung gian và cận phần của tĩnh lự thứ nhất, thứ hai, thứ ba. Do đấy, chỉ cùng với xả căn tương ưng, vì đối trị tầm. Do tu niệm này, nên các thọ như lạc, khổ v.v… có thể thuận dẫn phát các tầm như thân quen, nên đối trị tầm, chủ yếu là tự nhiên thọ nhận phần vị hiện tiền.

Nếu như vậy thì vì sao trong phần biện về trì tức niệm đã nói nhận biết rõ hỷ lạc?

Điều này cũng không có lỗi. Vì nơi các phần vị siêng năng tu trì tức niệm, trung gian có tướng vô sắc kia sinh. Các sư Du già tuy nhận biết về tướng vô sắc kia, nhưng đối với trì tức niệm, không gọi là trái vượt. Căn cứ theo đây để mật nói câu nhận biết rõ về hỷ lạc. Không thể do đấy mà chấp trì tức niệm, cũng cùng được tương ưng với thọ khác. Lý thật ở đây cũng nhận biết về pháp khác, do thân niệm trụ, trong phần vị gia hạnh, cũng nói là quán phần nhiều nơi sáu pháp. Nghĩa là nếu các pháp tùy thuộc nơi thân, thì đối với pháp tướng kia nên như lý quán sát, cũng gọi là ở nơi thân trụ, tuần tự theo thân quán. Hoặc hành giả kia chuyển duyên nơi gió nhận biết rõ, tạm thời quán sát về hỷ thọ, lạc thọ. Thế nên nói câu: Nhận biết rõ về hỷ lạc.

Do đấy, nên nêu rõ: Các Thánh đệ tử, bấy giờ ở nơi thọ an trụ, tuần tự quán thọ. Há không phải là phần vị này đã phát sinh trì tức niệm? Không như vậy thì ý lạc của gia hạnh kia không dứt, nên nhanh chóng lại khởi niệm duyên nơi gió.

Nếu như thế thì vì sao chỉ nhận biết về hỷ lạc, không nhận biết về thọ khác? Do hai thọ này là nhân của tham nhiễm sức mạnh là hơn hết. Hành giả muốn khiến tâm đối với tham nhiễm, nhanh chóng được giải thoát, nên quán riêng về hỷ, lạc.

Có Sư khác cho: Hỷ lạc này không phải là trì tức niệm, mà là công đức đã sinh do gia hạnh kia, nên nhận biết về hỷ lạc, lập tên trì tức niệm.

Có thuyết nêu: Ba tĩnh lự căn bản dưới, chính ở phần vị định cũng có xả thọ.

Thuyết kia nói niệm này dựa chung nơi tám địa. Định trên hiện tiền thì hơi thở liền không có. Niệm này chỉ duyên nơi gió hơi thở làm cảnh, không phải duyên chung nơi sáu thứ gió đã nói ở trên. Niệm ấy, đầu tiên dựa vào thân của cõi dục khởi, chỉ nơi nẻo người, trời, trừ châu Bắc câu lô, chỉ là gia hạnh đắc, không phải lìa nhiễm đắc. Người chưa lìa nhiễm, nhất định do gia hạnh nên hiện ở trước, nên không phải thuộc về địa lìa nhiễm đắc.

Đã nói đều là thuộc về địa cận phần, không phải căn bản. Lại, niệm này chỉ là gia hạnh thù thắng dẫn sinh, tức không nên nói niệm này có lìa nhiễm đắc. Niệm này chỉ tác ý chân thật tương ưng.

Có thuyết cho: Cũng chung nơi tác ý thắng giải. Hữu tình của chánh pháp mới có thể tu tập, ngoại đạo không có, vì không có người giảng nói, nên không thể nhận biết về pháp vi tế. Niệm này cùng với ngã chấp là hoàn toàn trái nhau, vì ngã chấp kia có thì niệm này không có. Do đủ sáu nhân, nên tướng này được viên mãn. Sáu nhân đó là: (1) Đếm. (2) Tùy thuận. (3) Chỉ. (4) Quán. (5) Chuyển. (6) Tịnh.

Đếm: Nghĩa là buộc giữ tâm đếm hơi thở ra vào, từ một đến mười, không giảm, không tăng, e sợ tâm đối với cảnh rất tụ tán. Nhưng ở đây, chấp nhận có ba lỗi: (1) Lỗi đếm giảm. (2) Lỗi đếm tăng. (3) Lỗi đếm lẫn lộn.

Lỗi đếm giảm: Nghĩa là đối với hai v.v… cho là một v.v…

Lỗi đếm tăng: Là đối với một v.v… cho là hai v.v…

Lỗi đếm lẫn lộn: Tức đối với năm lần thở vào đếm làm năm lần thở ra. Thở ra đếm làm thở vào. Là nghĩa đối với thở vào cho là thở ra, đối với thở ra cho là thở vào.

Lìa ba lỗi lầm này, gọi là đếm đúng.

Hoặc ba lỗi: (1) Lỗi quá chậm. (2) Lỗi quá gấp. (3) Lỗi tán loạn.

Lỗi quá chậm: Nghĩa là do gia hạnh quá chậm chạp nên liền có lười biếng, buồn ngủ vây buộc tâm. Hoặc lại buông thả khiến tâm phân tán dong ruổi nơi cảnh ngoài.

Lỗi quá gấp: Nghĩa là do gia hạnh quá vội vàng, liền khiến thân tâm khởi mất cân bằng. Hoặc khi cố sức đếm hơi thở ra vào, hơi thở bị bức bách, liền khiến trong thân, gió bất hòa khởi lên. Do gió này, nên đầu tiên khiến cho các mạch của chi thân thường lớn. Gió này ở phần vị tăng, có thể dẫn sinh bệnh. Vì chi thân có bệnh sinh, nên gọi là thân không bình đẳng. Hoặc do cố sức đếm hơi thở ra vào, tâm bị bức xúc, có thể dẫn đến cuồng loạn. Hoặc vì bị chế ngự do ưu sầu nhiều. Như thế gọi là tâm không bình đẳng.

Có thuyết nói: Các hữu, tất cả thức ăn uống thượng diệu nuôi lớn chi thân, không bằng có phương tiện điều hòa hơi thở ra vào. Tức là tất cả các thứ chất độc, dao đâm, lửa đốt, hầm tro nóng v.v… gây tổn hoại chi thân, không bằng không có phương tiện điều hòa hơi thở ra vào.

Lỗi tán loạn: Là do tâm tán loạn liền bị tất cả phiền não chê trách, phá bỏ. Nếu trong khoảng đếm mười, tâm tán loạn thì lại nên từ một theo thứ lớp đếm, sau cùng thì trở lại từ đầu, cho đến được định.

Thông thường khi đếm hơi thở, trước nên đếm hơi thở vào, vì nơi phần vị mới sinh, thì hơi thở vào ở trước, cho đến khi chết, thì hơi thở ra là sau cùng. Như thế, vì nhận biết xét rõ giác phần vị tử sinh, nên đối với tưởng vô thường, dần dần có thể tu tập.

Tùy thuận: Nghĩa là buộc giữ tâm một chốn tùy theo hơi thở ra vào, suy niệm về hơi thở ra vào: Là ngắn là dài, là xa đến nơi chốn nào, lại quay trở lại để suy niệm về hơi thở vào, là vận hành khắp thân hay là vận hành một phần. Tùy nơi hơi thở ra vào kia, vận hành đến yết hầu, tim, rốn, bắp vế, đầu gối, ống chân, gót chân, ngón tay, niệm luôn theo đuổi.

Có Sư khác cho: Niệm hơi thở vào này là từ nơi dưới bàn chân xuất sinh, xuyên qua kim luân dưới đến phong luân, rồi quay trở lại từ chỗ bắt đầu. Nếu niệm hơi thở ra, lìa thân đến một khoảng, một tầm, tùy vào chỗ đến, niệm mới luôn theo đuổi.

Có Sư khác nói: Niệm gió của hơi thở ra, đến gió Phệ-lam-bà, rồi quay trở lại.

Ở đây, Kinh chủ đã bài bác Sư kia nói: Tác ý chân thật của niệm này đều cùng khởi, không nên niệm hơi thở đến phong luân v.v… Sư kia nói căn bản của niệm hơi thở tuy cùng với tác ý thật đều cùng có, nhưng trung gian có tương ưng với tác ý thắng giải khác sinh khởi, là khiến cho tác ý chân thật chóng thành, nên ở khoảng giữa dấy khởi giả tưởng này. Tuy vậy, nhưng không có lỗi niệm hơi thở ra, vì ý lạc của gia hạnh niệm hơi thở không thôi dứt.

Chỉ: Nghĩa là buộc giữ niệm chỉ ở nơi đầu sống mũi, hoặc ở khoảng giữa chân mày, cho đến ngón chân, tùy theo nơi chốn được ưa thích, an định tâm ấy. Quán hơi thở trụ nơi thân như sợi tơ trong hạt ngọc, là lạnh là ấm, là tổn giảm, là tăng ích.

Quán: Nghĩa là quán xét gió của hơi thở này xong, gồm quán hơi thở cùng có sắc tạo của đại chủng. Cùng dựa vào sắc, trụ nơi tâm và tâm sở, quán đủ năm uẩn dùng làm cảnh giới.

Chuyển: Nghĩa là di chuyển duyên nơi gió của hơi thở nhận biết rõ, đặt yên trong căn thiện càng về sau cùng hơn hẳn. Nghĩa là niệm trụ là đầu đến pháp thế đệ nhất.

Tịnh: Nghĩa là thăng tiến nhập kiến đạo v.v…

Có Sư khác nói: Niệm trụ là đầu, định kim cang dụ là sau, gọi là chuyển đến tận trí v.v… mới gọi là tịnh.

Tướng của hơi thở có sai biệt. Vì sao nên biết? Tụng nêu:

Thở vào ra theo thân

Dựa hai sai biệt chuyển

Số tình, không chấp thọ

Đẳng lưu, chẳng duyên dưới.

Luận nói: Tùy theo hơi thở của địa sinh thân, thuộc về địa kia. Vì hơi thở là thuộc về một phần thân, hơi thở vào ra này chuyển dựa nơi thân tâm có sai biệt. Bản luận nêu rõ: Hơi thở dựa nơi thân chuyển, cũng dựa nơi tâm chuyển, tùy theo đối tượng ứng hợp kia. Nếu hơi thở vào ra chỉ dựa nơi thân chuyển, không dựa nơi tâm chuyển, thì nhập định vô tưởng, hoặc nhập định diệt tận, cùng sinh vào trời Vô tưởng, hơi thở cũng nên chuyển, cho đến nói rộng.

Gồm đủ bốn duyên, nên hơi thở mới được chuyển. Dựa theo lý này nên nói câu: “Tùy theo đối tượng ứng hợp kia”, chứng tỏ hơi thở tất dựa vào thân tâm có sai biệt.

Nói bốn duyên: (1) Hơi thở vào ra đã nương dựa nơi thân. (2) Lỗ chân lông mở ra. (3) Đường gió thông hợp. (4) Hơi thở vào ra theo tâm thô của địa hiện tiền.

Trong bốn duyên này, theo đấy có duyên thiếu, thì hơi thở liền không chuyển. Vì trong phần vị không tâm thì tâm không có, nên sinh nơi cõi vô sắc, bốn thứ kia đều không có nên hơi thở không chuyển. Ở trong thai, noãn, Yết-la-lam v.v…, vì lỗ chân lông chưa mở, đường gió chưa thông hợp, nên hơi thở không chuyển. Nếu ở nơi phần vị Yết-lạt-lam của thai noãn, hơi thở vào ra chuyển, thì nên vội vã, lay động. Vì thân yếu mỏng, tức nên tan hoại. Phần vị Át-bộđàm, thân tuy đã dày dần, nhưng không có lỗ trống, nên hơi thở cũng không chuyển.

Người nhập định thứ tư, lỗ chân lông không mở, vì tâm thô không hiện, nên hơi thở không chuyển.

Do đâu chỉ nói nhập định không phải là sinh? Há không phải là đã nói sinh, như nói sinh nơi vô tưởng hữu. Gốc không nêu sinh nơi vô tưởng, chỉ nói nhập định, tức sinh nơi vô tưởng kia đã thành, do trong Khế kinh đã nói như thế này: Người ấy trước nhập định, sau mới sinh nơi trời Vô tưởng kia.

Có Sư khác cho: Sinh nơi định thứ tư có thể phát khởi biểu nghiệp, lúc tâm hiện tiền, cũng có hơi thở chuyển. Sinh nơi vô tưởng kia vì cùng có nghĩa hơi thở hiện tiền, nên không nói là sinh.

Sư Tỳ-bà-sa không thừa nhận nghĩa này.

Nếu như vậy thì sinh nơi trời Vô tưởng kia làm sao phát ngôn? Trời Vô tưởng kia cũng có gió, nhưng không gọi là hơi thở, vì không có quả tổn ích, nên không có lỗi.

Nói các căn thành thục là các căn đầy đủ. Lời nói này không hiển bày các căn như mắt v.v…, vì hiện thấy căn kia thiếu, hơi thở cũng chuyển. Chỉ ở nơi bốn duyên là đủ nói tiếng căn thành thục đầy đủ, do tiếng các căn đã làm rõ về nghĩa tăng thượng. Bốn duyên đối với hơi thở chuyển là có sức tăng thượng. Luận giả nêu là căn cũng không có lỗi. Các căn như thế, ở phần vị như noãn v.v… gọi là chưa thành thục. Các hữu tình đang nhập định thứ tư v.v… gọi là chưa viên mãn.

Nói người nhập định thứ tư, lỗ chân lông không mở, vì sao có sắc thân mà không có lỗ chân lông? Lỗ chân lông, nghĩa là không giới. Há có sắc tụ lìa không giới chăng?

Lý thật nên như thế. Chỉ hiện nay, ở đây, căn cứ theo đường hơi thở thông suốt, nói là có sắc thân nhưng không có lỗ chân lông, cũng không có lỗi.

Do đâu chỉ nhập tĩnh lự thứ tư, thân không có lỗ chân lông, không phải là định khác?

Vì đẳng trì của tĩnh lự thứ tư kia rất thuần hậu, nên dẫn đại chủng của định thứ tư hiện có khắp thân, tức do duyên này.

Tôn giả Thế Hữu nói: Khi nhập định kia thì lỗ chân lông nơi thân khép lại. Nếu nhập tĩnh lự thứ tư của thế tục, thì thân không có lỗ chân lông. Lý ấy có thể như thế, do định kia có thể dẫn đại chủng vi mật đầy khắp nơi thân thuộc về địa kia. Nếu khi nhập định thứ tư vô lậu thì thân này vì sao cũng không có lỗ chân lông?

Vì định kia chỉ dẫn tùy thuận địa đã sinh, vì đại chủng hiện tiền, tạo ra vô biểu, nên định vô lậu kia đã dẫn đại chủng, tuy thuộc về xứ sinh, nhưng rất vi mật, vì cùng với định kia là tương tợ, nên không có lỗi.

Nếu sinh nơi địa của tĩnh lự kia, thì thân không có lỗ chân lông, vì sao sinh nơi địa kia có thể phát ra ngôn ngữ?

Không phải phát ra ngôn ngữ, chủ yếu do nơi lỗ chân lông, chỉ do cằm chuyển động, cũng được phát ra âm thanh. Như tiếng cơ quan há là do lỗ chân lông?

Có Sư khác nêu: Sinh nơi địa của tĩnh lự kia, từ yết hầu trở lên, cũng có lỗ chân lông.

Có thuyết nói: Sinh nơi địa của tĩnh lự kia tâm có thể phát ngữ, lúc hiện ở trước, tạm thời mở lỗ chân lông. Hơi thở vào ra này thuộc về số hữu tình. Trong thân không có giác thì hơi thở không có. Tuy là từ bên ngoài đi tới nhưng hệ thuộc nghĩa bên trong. Hơi thở vào ra này không phải là có chấp thọ, vì hơi thở thiếu giảm tướng chấp thọ, nên trong thân tuy có, có gió chấp thọ, mà gió của hơi thở này chỉ không có chấp thọ. Thể của hơi thở vào ra này là đẳng lưu, là quả đã sinh của nhân đồng loại, nên trong thân tuy có gió dị thục nuôi lớn, nhưng gió của hơi thở này chỉ là tánh đẳng lưu. Phần vị thân tăng trưởng thì hơi thở liền tổn giảm, khi thân tổn giảm thì hơi thở tăng trưởng. Không phải đối tượng được nuôi lớn đoạn xong, về sau lại cùng nối tiếp. Không phải dị thục sinh, vì sắc của dị thục khác không có tướng này. Chỉ là đối tượng quán của tâm ở địa trên và tự địa, không phải là cảnh của đối tượng duyên nơi tâm thuộc địa dưới. Nghĩa là sinh nơi cõi dục, khởi tâm thuộc cõi dục, thì hơi thở thuộc cõi dục nơi thân cõi dục kia, dựa vào tâm của cõi dục chuyển, tức đối tượng quán của tâm kia. Nếu sinh nơi cõi dục khởi tâm của định thứ nhất, thì hơi thở thuộc cõi dục nơi thân cõi dục kia, dựa vào tâm của định thứ nhất chuyển, tức đối tượng quán của tâm kia. Khởi tâm của định thứ hai, thứ ba, đều căn cứ theo trước để nói.

Sinh nơi tĩnh lự thứ nhất, khởi tâm của ba địa. Sinh nơi hai, sinh nơi ba, khởi hai, khởi tự địa, căn cứ theo sinh nơi cõi dục, như lý nên nêu rõ.

Nếu sinh nơi địa trên, khởi tâm của địa dưới, thì hơi thở của địa trên thuộc thân nơi địa trên kia, dựa vào tâm của địa dưới chuyển, không phải là đối tượng quán của tâm kia.

Như thế, đối tượng quán của tâm thuộc bốn địa, thì hơi thở của cõi dục, hơi thở của định thứ nhất, thứ hai, thứ ba, như thứ lớp ấy, là đối tượng quán của tâm thuộc tự địa, địa thứ hai, địa thứ ba. Địa có hơi thở bốn, địa không có hơi thở năm. Trụ nơi địa có hơi thở, khởi tâm của địa không có hơi thở. Hơi thở tất không chuyển. Trụ nơi địa không có hơi thở, khởi tâm của địa có hơi thở, hơi thở cũng không chuyển. Trụ nơi địa có hơi thở, khởi tâm của địa có hơi thở, tùy theo đối tượng ứng hợp kia thì có hơi thở vào ra chuyển biến.

Đã biện về trì tức niệm (Quán sổ tức), thì tướng thành mãn ấy là thế nào?

Nên nói thế này: Nếu hành giả quán, thì chuyên chú nơi tưởng, quán hơi thở vi tế từ từ lưu chuyển. Nghĩa là tưởng hiện bày khắp thân, như một lỗ của ống tre, gió hơi thở liên tục, như xâu chuỗi mạt ni, không thể cử động thân, không phát khởi thân thức. Ngang với đây thì nên nói là trì tức niệm đã thành tựu.

Có Sư khác nói: Tăng trưởng tự tại, sự việc làm đã hoàn thành, gọi là niệm hơi thở này đã thành tựu.

Nói ban đầu tăng trưởng là nhằm nêu rõ trì tức niệm nơi phẩm thượng trung hạ, theo thứ lớp được thành lập, cho đến nếu có lúc tùy theo đối tượng ưa thích kia có thể thở vào, có thể thở ra, gọi là tự tại. Nếu ở nơi phần vị này thân có thể thâu tóm lợi ích, xa lìa tham đam, dựa vào tầm, gọi là sự việc làm đã hoàn thành.

Có Sư khác cho: Nếu gồm đủ sáu tướng thì xa lìa ba lỗi. Hoặc nếu tu đầy đủ mười sáu thứ hành tướng thù thắng, thì ngang với mức độ này, nên nói là trì tức niệm đã thành tựu.

Kinh nói: Trì tức niệm có mười bảy thứ. Nghĩa là niệm hơi thở vào ra, nhận biết rõ là ta đã niệm hơi thở vào ra. Nhận biết hơi thở vào ra ngắn dài, nhận biết rõ hơi thở hiện có khắp thân.

Nhận biết thân hành chỉ. Nhận biết về hỷ, lạc. Nhận biết về tâm hành chỉ, tâm hành tâm, khiến tâm hoan hỷ, khiến tâm thâu giữ, khiến tâm giải thoát. Tùy quán vô thường, tùy quán đoạn, tùy quán lìa, tùy quán diệt. Như thế mỗi mỗi đều tự nhận biết rõ.

Trong mười bảy thứ này thì loại thứ nhất là quán chung, mười sáu thứ sau là quán sai biệt.

Căn cứ nơi bốn niệm trụ, như thứ lớp nên biết, mỗi niệm trụ đều có bốn môn thành mười sáu thứ.

Vì sao nhận biết rõ về tâm hành có thể thuộc về thọ niệm trụ?

Vì nhân thọ nhận tên của quả, nên không có lỗi. Không phải trong đây nói về tâm hành, nghĩa là tư. Nên biết thọ trong đây gọi là tâm hành. Nghĩa là do tham đắm hương vị của lạc thọ liền đối với những cảnh giới kia hoặc tâm sinh tư tạo tác, gọi là tâm hành. Vì thọ là nhân của tư, nên gọi tâm hành thì không có lỗi.

Hoặc chỉ có thể nhận biết rõ tự thể của thọ. Về nghĩa căn cứ theo đấy cũng đối với tự thể như tư v.v… Theo thứ lớp có thể nhận biết rõ tướng sinh, trụ, hoại. Như nếm một giọt nước mặn trong biển cả, tức cũng nhận biết khắp vị nước của biển cả. Nên chỉ nhận biết về thọ, gọi là nhận biết về tâm hành. Giải thích rộng về mỗi mỗi tướng, như trong kinh giải thích đã biện.

Như thế là đã nói về hai môn nhập tu. Do hai môn này, tâm liền được định. Tâm được định rồi thì lại tu gì? Tụng nêu:

Dựa đã tu thành chỉ

Vì quán tu niệm trụ

Do tự tướng, cộng tướng

Quán thân, thọ, tâm, pháp.

Tự tánh tuệ như văn v.v…

Đối tượng duyên xen tạp

Nói thứ lớp tùy sinh

Trị đảo nên chỉ bốn.

Luận nói: Đã tu thành chỉ dùng làm đối tượng nương dựa để quán nhanh chóng thành, tu bốn niệm trụ. Không phải là không được định, nên có thể thấy như thật.

Thế nào là tu tập bốn niệm trụ?

Dùng tự tướng, cộng tướng để quán thân, thọ, tâm pháp. Nghĩa là người tu quán, chuyên tâm một hướng, dùng tự tướng, cộng tướng đối với cảnh như thân v.v…, mỗi mỗi quán riêng để tu bốn niệm trụ, phân biệt pháp này cùng với pháp khác, nghĩa có sai biệt, gọi là quán tự tướng. Phân biệt nêu bày pháp này cùng với pháp khác, nghĩa không sai biệt, gọi là quán cộng tướng. Lại, quán tự tướng của thân niệm trụ, nghĩa là quán xét về mười xứ trong ngoài thân, tự tánh đều riêng khác, từ nhãn đến xúc, mỗi mỗi đều có tự tướng của xứ.

Như thế, nơi mỗi tự tướng của xứ kia đều ở trong pháp riêng, có chánh trí sinh, gọi là quán tự tướng. Khi quán tự tướng này được thành mãn, là có sắc của đạo khởi, bấy giờ mới lập chủng tánh của tự tướng mang tên thân niệm trụ. Chủng tánh này cũng nhận biết khắp tự tướng của pháp kia. Do pháp này đều có riêng chánh trí sinh, không phải trong các cảnh sinh chung một trí.

Có thuyết nói: Không phải quán vô biểu sắc trong quán tự tướng này, vì vô biểu sắc so với phẩm vô sắc là rất giống nhau.

Có thuyết cho: Quán này cũng quán về vô biểu, vì cũng phân biệt ở vô biểu có sắc của đạo sinh. Tiếp theo quán cộng tướng của thân niệm trụ: nghĩa là quán xét về tướng nơi mỗi mỗi xứ của thân, tuy có sai biệt, mà thân cùng đồng. Lại, vào thời bấy giờ, quán mười một xứ, đều là tướng sắc không có sai biệt. Nghĩa là đều không vượt qua đại chủng đã tạo.

Như thế, ở trong một loại pháp kia, có chánh trí sinh, gọi là quán cộng tướng. Khi quán cộng tướng này được thành mãn, có sắc của đạo khởi, bấy giờ mới lập, chủng tánh của cộng tướng mang tên thân niệm trụ. Chủng tánh này cũng nhận biết khắp về cộng tướng của pháp kia. Do đấy, gồm có một chánh trí sinh, không phải trong các cảnh đều sinh một trí. Hoặc quán tự tướng của thân niệm trụ, nghĩa là quán nơi thân đều có tự tánh riêng. Tiếp theo là quán cộng tướng của thân niệm trụ, nghĩa là quán trên thân cùng với hữu vi khác đều có tánh vô thường, và hữu lậu khác, đều là tánh khổ, cùng với tất cả pháp khác đều cùng có tánh không, vô ngã. Nếu khi quán thân không có hai niệm trụ, chỉ là cực vi tập hợp, nên mỗi mỗi sai biệt, bấy giờ gọi là thân niệm trụ thành.

Như thế, nên biết tướng niệm trụ như thọ v.v… cùng thành mãn, tùy theo đối tượng ứng hợp, thể đều không phải là sắc, nên không có cực vi sai biệt. Hoặc như trước đã nói về quán tướng cứu cánh. Nghĩa là ở phần vị sau sau thì căn thiện tăng trưởng, như nước trong thửa ruộng tràn ngập đầy dẫy, tuôn chảy.

Có thuyết nêu: Đột nhiên tướng phi ái khởi, tướng này có hai thứ là: (1) Có thể phát khởi sân. (2) Khiến không vui.

Trong đây, chỉ có tướng khiến không vui, vì sự đã tập nếu chưa tự tại, vì cầu thành mãn, nên khởi vui thích. Vui thích này đối với sự đã hành tập là đã được tự tại, vì chấm dứt mong cầu, nên không có vui thích.

Bốn niệm trụ này, mỗi loại đều có ba thứ.

Tự tánh cùng xen tạp, đối tượng duyên thì riêng khác. Tự tánh niệm trụ lấy tuệ làm thể. Khế kinh nêu rõ: Vì một hướng đến đạo, một là nghĩa đơn độc của người cầu chiến thắng. Do đấy nắm giữ đây để phá trừ phiền não oán đối. Dựa vào đạo này mà hành, có thể hướng đến viên tịch. Thế nên ở đây, lập tên hướng đến đạo. Chỉ độc tôn này, gọi là một hướng đến đạo. Đạo này tức là tuệ. Đối với sự việc đoạn trừ phiền não, hướng đến Niết-bàn, tuệ là tối thắng. Như thế kinh đã thuyết giảng. Chị em nên biết! Các Thánh đệ tử cầm gươm trí tuệ, có thể cắt đứt tất cả kiết phược, tùy miên, hướng thẳng tới Niết-bàn không có trở ngại.

Lại, Khế kinh nêu rõ: Nếu có hữu tình đối với thân trụ, tuần tự quán thân, gọi là thân niệm trụ. Đối với thọ, tâm, pháp nói cũng như thế. Đối với các tên gọi tuần tự quán, chỉ nêu bày về thể của tuệ, không phải tuệ thì không có dụng tuần tự quán. Nên Bản luận cũng nói: Thân niệm trụ là thế nào? Nghĩa là tuệ duyên nơi thân. Ba pháp còn lại nói cũng như thế. Nên biết chỉ tuệ được mang tên niệm trụ.

Trong tuệ những gì gọi là tự tánh của niệm trụ?

Nên biết chỉ nhận lấy văn, tư, tu tạo thành. Ở đây, tùy thuận gia hạnh của văn đã khởi, tuệ duyên nơi nghĩa riêng gọi là văn tạo thành.

Nếu tùy thuận gia hạnh của nghĩa tư đã khởi, thì không phải không chờ đợi danh, cũng không phải ở nơi định, tuệ duyên nơi nghĩa riêng, gọi là tư tạo thành. Nếu ở trong định, tùy thuận quán nghĩa riêng, tuệ không chờ đợi danh, gọi là tu tạo thành. Tức điều này cũng gọi là ba thứ niệm trụ. Niệm trụ cùng xen tạp tức dùng tuệ, tuệ còn lại cùng có làm thể. Các pháp cùng có của tuệ cùng với tuệ đều cùng thời cùng xen tạp an trụ. Như Khế kinh nói: Bí-sô nên biết! Nói tụ pháp thiện thì lời nói ấy tức nói về bốn niệm trụ. Đã ở nơi niệm trụ nói câu tụ thiện, nên dùng tuệ cùng có nhiều pháp làm thể.

Bản luận cũng nói: Do thân tăng thượng đã sinh đạo thiện, chung nơi hữu lậu, vô lậu, cũng gọi là thân niệm trụ, cho đến nói rộng.

Văn này là nêu chung về các pháp cùng có, cùng với tuệ tương ưng gọi là niệm trụ. Văn này không nói duyên nơi đạo của thân. Chớ nói đạo này như tự tánh niệm trụ, thể chỉ nhận lấy đạo tương ứng làm thể của mình. Niệm trụ của đối tượng duyên lấy các pháp nơi đối tượng duyên của tuệ làm thể, vì tất cả pháp đều là đối tượng duyên của tuệ, nên gọi là tuệ trụ.

Vì sao trong kinh nêu dẫn dùng tên khác, tạo ra giải thích rộng khác?

Điều này cũng không có lỗi. Căn cứ nơi ba thứ trước để giải thích tên gọi của niệm trụ, đều chỉ là tuệ. Lại, căn cứ theo tự tánh để giải thích danh xưng niệm trụ. Nghĩa là trong các pháp, nếu có một pháp do niệm đạt được trụ, thì pháp đó gọi là niệm trụ.

Đây là pháp nào?

Là tuệ, không phải pháp khác.

Đâu thể biết tuệ trụ chủ yếu là do sức của niệm?

Do có niệm nên tuệ thêm sáng rõ. Nghĩa là tuệ được trụ là do niệm đã gìn giữ. Là nhờ sức của niệm hỗ trợ mới được nghĩa trụ.

Như thế, khi nêu lên để giải thích tên niệm trụ, chỉ dựa ở tuệ, không dựa vào pháp khác.

Thế nên giải thích rộng, như danh đã được nêu lên. Danh, nghĩa cùng phù hợp, thì đây có lỗi gì.

Nếu căn cứ theo phần cùng xen tạp để giải thích về danh xưng niệm trụ, nghĩa là cùng với tuệ cùng có niệm mới được trụ. Vì khiến niệm được trụ, nên tuệ được mang tên niệm trụ. Niệm trụ tương ưng và pháp câu hữu cùng với niệm trụ cùng xen tạp, gọi là niệm trụ tướng tạp.

Há không phải là định v.v… cũng cùng với tuệ cùng có mới được an trụ? Tức nên thừa nhận thể của tuệ, khiến cho định v.v… được trụ, nên được mang tên trụ như định v.v… Không như vậy thì trong đây là làm rõ về niệm tuệ, vì sức cùng hỗ trợ là vượt hơn, nên lập riêng tên niệm trụ. Nghĩa là tuệ nếu đối với thân, thọ, tâm, pháp, khi dùng tự tướng, cộng tướng để tuần tự quán theo, chủ yếu phải do sức của niệm gìn giữ mới được sáng rõ, vì ở nơi địa này thường quen ghi nhận, gìn giữ, mới có thể tiến tu địa chưa hành tập khác.

Thế nên, đối với tuệ, khi nhận biết lựa chọn pháp, niệm rất có khả năng làm trợ bạn kiên cường. Niệm đối với thân v.v…, lúc được an trụ, chủ yếu là do sức của tuệ giữ gìn, mới có thể ghi nhận sáng rõ. Nên đứcThế Tôn nói: Nếu có người đối với thân trụ tuần tự quán thân, thì niệm liền an trụ không sai lầm.

Tôn giả Vô Diệt cũng nói thế này: Nếu có hành giả có thể đối với thân trụ, tuần tự theo thân quán, duyên nơi thân thì niệm được trụ. Cho đến nói rộng. Hoặc nếu hành giả quán thân v.v… xong, vô gián không thể quán về thọ v.v…, liền nên truy niệm thời gian gia hạnh trước, đã có các hành tướng từng tu thọ v.v… Do truy niệm, nên tướng kia hiện tiền. Nhân đấy liền có thể quán sát thọ v.v… Nên nói có niệm, tuệ được thêm sáng rõ.

Như thế, niệm sinh do sức của tuệ trước, nên niệm cùng với tuệ là trợ bạn thù thắng. Hoặc hai pháp này đối với tất cả thời, công năng hiện có là cùng tùy thuận hơn kém. Nên nêu rõ hai thứ đã cùng hỗ trợ là hơn hết.

Nếu căn cứ ở đối tượng duyên để giải thích danh xưng niệm trụ, nghĩa là tuệ do niệm, khiến niệm được trụ, tức ở nơi thể của tuệ lập danh xưng niệm trụ. Các pháp như thân v.v… nơi đối tượng duyên của niệm trụ, là đối tượng duyên của niệm trụ, gọi niệm trụ của đối tượng duyên. Căn cứ theo ba thứ giải thích tên niệm trụ, đều làm rõ tuệ mạnh nên riêng gọi là niệm trụ. Do niệm trụ này là lý của tuệ thành, nên giải thích so với chỗ nêu lên là không có lỗi trái nhau.

Luận giả Phân biệt nói như thế này: Niệm trụ tức dùng niệm làm tự thể. Trong ấy, không nên nêu đặt niệm căn. Nên hai văn nêu lên và giải thích đều cùng nói về niệm. Ở đây không nêu danh xưng tuệ trụ.

Ngôn thuyết của Luận giả kia là phi lý. Vì sao? Vì tuy ở đây đã nêu đặt niệm, gọi là tưởng, nhưng dựa vào dung của nghiệp đã đặt để tuệ căn. Như các căn tín, định, tuệ, tuy không như thứ lớp để chứng tịnh, tĩnh lự đã phân biệt rõ trong đế, mà do nghĩa của công năng đã đặt để.

Thế nên hai văn nêu lên và giải thích đều nói rõ về tuệ. Nghĩa là trước đã biện nêu dẫn danh xưng niệm trụ, dựa vào tuệ, không phải pháp khác, để hiển bày chỉ rõ về tuệ. Nên trong phần giải thích đã nêu đủ do tuần tự quán xét chánh tri. Hai thứ tuệ gọi là lại nói về tuệ. Do nêu lên giải thích ở đây đều không trái nhau.

Nói về từ niệm trụ, về nghĩa như trước đã nêu rõ. Trước đã nêu rõ như thế nào? Nghĩa là trước đã nói: Vì hiển bày sức cùng hỗ trợ của niệm tuệ là hơn hẳn. Thế nên lập riêng tên gọi v.v… niệm trụ.

Lại vì làm rõ đủ về ba thứ niệm trụ, nên không phải ở đây đã nói chữ tuệ trụ. Nghĩa là nói chữ niệm, là chứng tỏ niệm trụ cùng xen tạp. Lại nói chữ trụ, là để chỉ rõ về niệm trụ của đối tượng duyên. Nói câu tuần từ quán là để chỉ rõ về niệm trụ của tự tánh. Nếu nói tuệ trụ, thì chỉ giới hạn ở thể của tuệ, vì tự tướng không xả bỏ để được tên gọi tuệ trụ. Ở đây tức chỉ biện về niệm trụ của tự tánh, nên là đã bỏ hết đối tượng duyên và cùng xen tạp, thì pháp kia đều nên không gọi là niệm trụ. Nhưng không nên thừa nhận như thế, vì nơi Khế kinh và trong Bản luận đều nói về ba thứ. Do đấy làm chứng các lời nói về niệm trụ, là đề cập về tuệ, không phải pháp khác, quyết định thành lập. Do đâu nên nói về ba thứ niệm trụ?

Vì có ba loại hữu tình ngu tối về hành tướng, tư lương, đối tượng duyên, nên nói về ba thứ niệm trụ. Hoặc căn trí nơi phần vị giải thoát đều có ba, cơ duyên ứng hợp không đồng, nên nói ba loại. Trong ba thì cùng xen tạp có thể đoạn trừ phiền não, không phải hai loại kia có thể đoạn trừ, vì quá giảm, tăng. Cùng với tuệ tạp trụ, được mang tên là cùng xen tạp. Về lý tức chỉ nên nói pháp cùng có với tuệ có thể được gọi là niệm trụ cùng xen tạp không phải tuệ cùng với tuệ có thể có cùng xen tạp. Không có một thân, hai tuệ đều cùng có, do đấy nhận biết tuệ không phải thuộc về cùng xen tạp, không nên chỉ nói niệm trụ cùng xen tạp, có thể đoạn trừ phiền não. Lý nên nói đủ: Tự tánh cùng xen tạp là có thể đoạn trừ phiền não. Đối với sự việc đoạn trừ phiền não, tuệ là hàng đầu. Không có lỗi như thế. Vì khi đoạn trừ phiền não, đối với tuệ cũng lập tên cùng xen tạp. Nghĩa là được chỉ quán bình đẳng, vận hành đạo, có khả năng đoạn trừ phiền não, lý đó là quyết định. Tất cả tâm tâm sở v.v… còn lại, có thứ thuộc phẩm chỉ, có thứ thuộc về phẩm quán. Khi ở đây bình đẳng thì ở kia cũng bình đẳng.

Do tất cả lý cùng xen tạp này đều bằng nhau, làm rõ khi đoạn trừ các Hoặc, lý cùng xen tạp là như nhau, nên cũng đối với tuệ lập tên cùng xen tạp, vì phần nhiều ở nơi đối tượng được thành tựu, có công năng hơn hẳn, nên niệm trụ của tự tánh không phải là không có thể cũng đoạn trừ các phiền não, vì thể là tuệ. Nhưng gọi là tự tánh, nghĩa là không có đối tượng chờ đợi do khi đoạn trừ phiền não, tất phải chờ đợi pháp khác, nên ở phần vị đoạn trừ phiền não, tuệ được lập tên cùng xen tạp.

Do đấy đã nói về niệm trụ cùng xen tạp, có thể đoạn trừ phiền não, về lý là khéo thành lập. Trong ấy, đoạn trừ phiền não, chỉ do tu tuệ tạo thành. Nhưng không phải ở đây, văn tuệ, tư tuệ là vô dụng, vì hai tuệ này luôn tùy thuận tu, nên như rễ cây trồng. Trong tu tuệ tạo thành, chỉ pháp niệm trụ là có thể đoạn trừ phiền não. Duyên nơi bốn uẩn, năm uẩn, hoặc duyên nơi Niết-bàn tức có khả năng đoạn trừ Hoặc. Trong pháp niệm trụ, thì tác ý cộng tướng là có công năng đoạn trừ phiền não. Tác ý tự tướng, vì duyên nơi phần ít cảnh, nên không có công năng này.

Trong bốn niệm trụ thì ba thứ trước chỉ không duyên tạp. Loại thứ tư thì chủng cả hai. Nhưng trí của ba đế chỉ có duyên tạp mới có thể đoạn trừ phiền não. Chỉ trí của diệt đế tuy không duyên tạp, nhưng cũng đoạn trừ phiền não. Bên trong trí duyên tạp, cho đến duyên nơi ba uẩn, cũng nhất định không có công năng đoạn trừ Hoặc. Tức ở trong ấy, duyên chung nơi tất cả. Hữu lậu, vô lậu vì vô vi v.v… cũng nhất định không có công năng đoạn trừ Hoặc. Nhưng không tạp thì duyên nơi ít tạp, nhiều tạp, đối với việc đoạn trừ phiền não, không phải là hoàn toàn vô dụng. Vì dẫn phát có thể đoạn, nên tu trị thân khí. Hành giả kia ở nơi đoạn trừ Hoặc, chỉ có thể làm tự thể của hai đạo gia hạnh, thắng tấn, chỉ có pháp niệm trụ của duyên tạp trong xứ và chỉ duyên nơi pháp niệm trụ không xen tạp của diệt đế, cũng làm thể của đạo vô gián giải thoát. Nếu đoạn trừ phiền não, chỉ do pháp niệm trụ, thì pháp niệm trụ là đạo vô gián. Khi đạo vô gián này hiện tiền, vì sao có thể tu ba niệm trụ còn lại? Nếu ba niệm trụ không phải thuộc về đối trị đoạn thì nhân nơi đạo vô gián, tu ở vị lai. Khi đoạn trừ nhiễm của xứ Hữu đảnh, tức nên tu thế tục trí. Trong các đạo vô gián, nên tu tha tâm trí. Hành giả kia do chướng ngại nào mà không tu vị lai. Nên ở đây phải nên hiểu rõ nghĩa lý sâu xa, không phải chủ yếu đồng đối trị mới tu vị lai. Cũng không phải đối tượng tu đều không có hạn lượng. (Phần sau biện về xứ tu sẽ giải thích rộng).

Niệm trụ như thân v.v… đều có ba thứ. Vì duyên nơi trong, ngoài đều có sai biệt. Lại, trong thân niệm trụ có ba thứ, duyên nơi phần tự nối tiếp gọi là trong. Duyên nơi thân v.v… của người khác, gọi là ngoài. Cùng duyên nơi hai thứ, nói là trong ngoài. Do có ngã ái nên chậm trễ, tức quán nội thân cũng như bên ngoài. Hoặc bên trong, như trước duyên không có chấp thọ, gọi là ngoài. Duyên nơi phần cùng nối tiếp của người khác, nói là trong, ngoài. Chờ đợi không có chấp thọ và chờ đợi tự thân được hai tên gọi. Hoặc duyên nơi căn, cảnh và cùng có, gọi là ba. Hoặc duyên nơi số hữu tình và số phi tình, duyên chung nơi hai thứ có sai biệt là ba. Hoặc duyên nơi số phi tình bên ngoài hữu tình và các thứ sai biệt như tóc lông v.v… là ba, vì chúng đều từ nội thân sinh, vì lìa căn trụ, nên được đủ hai tên gọi. Hoặc duyên nơi hữu tình hiện tại, gọi là trong. Duyên nơi phi tình bên ngoài nơi ba đời gọi là ngoài. Duyên nơi hữu tình quá khứ, vị lai, nói là trong, ngoài. Vì là loài hữu tình nên rơi vào pháp số. Lại phi tình kia, trong vị lai sẽ rơi vào số hữu tình. Đang rơi vào pháp số, thì phi tình kia nơi thời quá khứ từng rơi vào số hữu tình. Đang rơi vào pháp số, thì hữu tình kia nơi pháp không sinh là loại sinh. Ba thứ niệm trụ như thọ v.v… mỗi mỗi thứ đều có ba. Tùy theo đối tượng ứng hợp của chúng, căn cứ ở trước, nên giải thích.

Bốn niệm trụ này nói là theo thứ lớp sinh. Sinh lại do đâu theo thứ lớp như thế?

Sinh theo thứ lớp như thế là vì cùng tùy thuận. Hữu tình phần nhiều ở trong các sắc ưa thích thọ dụng, nên không đạt được pháp thù thắng. Ưa thích thọ dụng sắc, dùng gì làm duyên? Nghĩa là ở trong thọ tình thức vui thích sâu xa. Vui thích ở nơi thọ, do tâm không điều phục. Tâm không điều phục là do các phiền não. Tâm do tín v.v… có thể khiến điều phục. Tùy quán về lý này, tức bốn niệm trụ sinh. Hoặc tùy nơi đối tượng duyên thô tế mà sinh, nhưng không phải do tâm này quán sau cùng, vì trong pháp thì Niết-bàn là hết sức vi tế. Khi tưởng tư v.v… kia tuần tự quán về thọ, căn cứ theo nghĩa đã có thể nhận biết rõ về tướng của chúng, đồng dựa vào tâm khởi các thứ an nguy.

Có Sư khác cho: Sắc có thể tụ tán, có thể lấy, có thể bỏ, tương tợ cùng nối tiếp, vì bất tịnh, khổ v.v… là dễ nhận biết rõ. Vì đa phần duyên nơi thân sinh tham v.v…, vì giới nữ lần lượt khởi xứ tham. Nên quán bất tịnh, trì tức niệm (Quán sổ tức) và phân biệt giới, là ba môn nhập tu. Tất cả phần nhiều duyên nơi thân làm cảnh, nên ở phần vị tu niệm trụ, thì đầu tiên là quán. Quán này làm nhân sinh ra xúc khinh an, do xúc khinh an dẫn sinh lạc thọ.

Kinh nêu rõ thân an liền thọ lạc.

Lạc thọ như thế là dựa vào tâm sinh. Tâm tịnh làm nhân được quả giải thoát. Do thọ này v.v… theo thứ lớp mà quán, nên niệm trụ sinh khởi theo thứ tự như thế. Bốn niệm trụ này không tăng, không giảm, có thể đối trị làm tịnh v.v… bốn điên đảo.

Quán thân bất tịnh đối trị điên đảo ở nơi bất tịnh cho là tịnh. Tuy là điên đảo hão huyền duyên chung nơi năm uẩn, nhưng chỉ quán tự tánh của thân không phải là tịnh, liền có thể điều phục chung. Như người đã quán thể của phân là bất tịnh, thì cũng không vui thích xuất sinh từ phân.

Như thế là đã quán về thể của thân là bất tịnh, tức cũng không vui thích từ thân sinh ra. Do đấy, quán thân là bất tịnh, là đối với năm thủ uẩn, đều không vui thích. Vì người mê có tưởng tịnh làm thân, người ấy mới vui thích dựa vào thân sinh ra. Thế nên quán thân là bất tịnh thì đối với thân đã khởi, cũng không vui thích.

Khi an trụ nơi quán bất tịnh như thế, tuy không quán gần về âm thanh v.v… làm cảnh, nhưng đối với ca hát v.v… đã dứt bỏ như phân uế.

Như thế khi an trụ nơi thân niệm trụ, tuy không quán gần về thọ v.v… làm cảnh, quán tự thể của thân là bất tịnh, mà sau cùng không vui thích ba cảnh như lạc thọ v.v… Lại, tuy không quán cảnh sắc, vô sắc, do là bất tịnh, nhưng đối với cảnh đó, không phải là không dẫn sinh hành tướng không ưa thích.

Vì vậy tịnh điên đảo tuy duyên nơi năm uẩn, nhưng nếu thân niệm trụ thành, tức có điều phục chung. Ba niệm trụ sau tuy đều quán riêng, so sánh với thân niệm trụ này, nên tư duy về lý có thể điều phục chung.

Quán thọ là khổ có thể đối trị điên đảo đối với khổ cho là lạc. Nghĩa là nếu có pháp chân thật có thể vui thích mong muốn, thì đó là nghĩa vui đối với nhiều lỗi lầm tai hại, trong hành tướng đã xen tạp, nhận thấy có công đức thù thắng đáng vui thích. Đó gọi là điên đảo đối với khổ cho là lạc. Điên đảo này tất dùng tham đắm thọ làm ưu tiên, vì ở trong thọ đã tham chấp sâu dày. Tham chấp rồi mới làm đối tượng nương dựa cho tất cả bức xúc, sầu não.

Trong hành hữu lậu vọng sinh tưởng lạc.

Thế nên khi quán thọ là tánh khổ, liền có thể điều phục điên đảo chấp lạc.

Quán tâm vô thường có thể đối trị điên đảo ở nơi vô thường cho là thường. Tức người hành quán, vì chán ghét thọ, nên đối với đối tượng nương dựa, tâm thấy có rất nhiều phẩm loại sai biệt dẫn sinh quán vô thường, khiến trước hiện tại, liền ở nơi hữu vi, không sinh tưởng thường, nên có thể điều phục chung, điên đảo chấp là thường.

Quán pháp vô ngã thì có thể đối trị điên đảo đối với vô ngã cho là ngã. Nghĩa là có một loại hữu tình nghe nói ngã là vô thường, tâm không sinh vui mừng, bèn có suy nghĩ thế này: Điều gì đã khiến tâm này có nhiều sai biệt? Điều ấy tức là ngã.

Vì để ngăn chận loại chấp ngã kia, lại nên quán xét đúng loại trừ ba thứ thì số còn lại cũng chỉ là pháp, liền đối với tất cả, không khởi tưởng ngã, nên có thể điều phục chung về điên đảo chấp ngã. Hoặc vì đối trị đoạn thực, xúc thực, thức thực, tư thực, nên như thứ lớp kiến lập bốn niệm trụ như thân v.v… Số chỉ có bốn, không tăng, không giảm.

HẾT – QUYỂN 60