KINH KIM QUANG MINH TỐI THẮNG VƯƠNG

Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Sa-môn Nghĩa Tịnh
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 8

 

Phẩm 16: THIÊN NỮ ĐẠI CÁT TƯỜNG

Bấy giờ, Thiên nữ Đại Cát Tường liền đứng dậy, đảnh lễ trước chân Đức Phật, chắp tay cung kính, bạch Đức Phật rằng:

–Bạch Thế Tôn! Nếu con thấy có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bàtắc, Ưu-bà-di nào thọ trì, đọc tụng vì người giảng nói kinh vua Tối Thắng Kim Quang Minh này, con sẽ chuyên tâm cung kính, cúng dường các vị Pháp sư này… như thức ăn, thức uống, quần áo, đồ nằm, thuốc thang và tất cả đồ cần dùng khác… đều khiến cho đầy đủ không thiếu thốn. Hoặc ngày, hoặc đêm hành giả đối với câu cú, ý nghĩa của kinh vua này, quán sát, tư duy, trụ trong an vui, khiến cho kinh điển này được lưu hành rộng rãi ở Thiệm-bộ châu. Vì hữu tình đã ở chỗ vô lượng trăm ngàn Đức Phật gieo trồng căn lành, thường khiến cho họ được nghe, chẳng bị mai một. Lại ở vô lượng trăm ngàn ức kiếp, họ sẽ nhận được nhiều niềm vui thù thắng của trời, người gặt hái mùa giàu thịnh, trừ hẳn sự đói kém, tất cả hữu tình luôn luôn được an lạc, cũng được gặp gỡ các Đức Phật Thế Tôn, vào đời vị lai mau chóng chứng quả đại Bồ-đề vô thượng, chấm dứt hẳn nạn khổ trong ba đường luân hồi.

Bạch Thế Tôn! Con nhớ vào đời quá khứ, có Đức Lưu Ly Kim Sơn Bảo Hoa Quang Chiếu Cát Tường Công Đức Hải Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác… đầy đủ mười hiệu. Con ở chỗ Phật đó gieo trồng căn lành. Nhờ năng lực uy thần từ bi mẫn niệm của Đức Như Lai đó nên khiến cho con ngày hôm nay, nghĩ đến nơi nào, nhìn thấy chỗ nào và đi đến nước nào cũng có thể khiến cho vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh được nhiều an lạc, cho đến y phục, thức ăn uống, đồ dùng sinh hoạt, các vật báu như vàng, bạc lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đều khiến cho sung túc. Nếu lại có người chí tâm đọc tụng kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này thì cũng phải ngày ngày đốt nhiều loại hương thơm và những loài hoa đẹp vì con mà cúng dường Đức Lưu Ly Kim Sơn Bảo Hoa Quang Chiếu Cát Tường Công Đức Hải Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Lại phải mỗi ngày ở trong ba thời, hành giả xưng niệm danh hiệu của con, đặc biệt dùng hương hoa và những món ăn ngon cúng dường cho con, cũng thường nghe nhận kinh vua vi diệu này, được phước như vậy. Rồi nói kệ rằng:

Do trì kinh sâu nhiệm như vậy
Quyến thuộc, tự thân lìa suy kém
Y, thực, đồ cần không thiếu thốn
Uy quang tuổi thọ khó tận cùng.
Hay khiến vị đất thường tăng trưởng
Các trời tuôn mưa thuận thời tiết
Khiến cho Thiên chúng đều hoan hỷ
Cùng với thần rừng, thần ngũ cốc
Rừng rậm, cây trái đều tươi tốt
Tất cả lúa má đều thành tựu
Muốn cầu châu báu đều mãn nguyện
Nghĩ đến điều gì đều như ý.

Đức Phật bảo Thiên nữ Đại Cát Tường rằng:

–Hay thay! Hay thay! Ngươi có thể nghĩ nhớ được nhân duyên xưa như vậy, là báo ân cúng dường, lợi ích an lạc cho vô biên chúng sinh, lưu truyền kinh này vô tận.

 

Phẩm 17: THIÊN NỮ ĐẠI CÁT TƯỜNG TĂNG TRƯỞNG TÀI VẬT

Lúc bấy giờ, Thiên nữ Đại Cát Tường lại Bạch Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thành của Thiên vương Bệ-thất-la Mạt-noa ở phương Bắc tên là Hữu tài (Aơkavatì), cách thành chẳng xa có khu vườn tên là Diệu hoa phước quang (Puxpakuxumaprabha), bên trong có thắng điện làm bằng bảy báu. Bạch Thế Tôn! Con thường ở đó. Nếu lại có người muốn cầu cho ngũ cốc ngày ngày thêm nhiều, kho lẫm tràn đầy thì nên phát khởi lòng kính tin, dọn sạch một phòng, dùng cù-ma tô lên đất, nên vẽ hình tượng của con, nhiều loại chuỗi ngọc trang trí xung quanh. Sau đó, tắm gội thân thể, mặc quần áo sạch sẽ, dùng hương thơm xoa khắp, vào trong tịnh thất, phát tâm vì con, mỗi ngày ba thời, xưng danh hiệu Đức Phật đó và danh hiệu kinh này cung kính đảnh lễ Nam-mô Lưu Ly Kim Sơn Bảo Hoa Quang Chiếu Cát Tường Công Đức Hải Như Lai. Rồi mang những hương hoa và nhiều thức ăn thức uống hảo hạng mà hết lòng cúng dường và cũng dùng hương hoa và cả những thức ăn thức uống hiến dâng hình tượng của con. Rồi lại đem thức ăn thức uống tung rải các phương khác cúng thí cho các thần…, dùng lời chân thật mời gọi trời Đại Cát Tường, nói lên lời cầu nguyện. Nếu như lời nói là chẳng hư dối thì đối với con, lời thỉnh cầu chớ khiến cho rỗng không vậy! Khi ấy Thiên nữ Cát Tường biết việc này rồi, liền sinh ra ý niệm thương xót khiến cho trong nhà ấy của cải, lúa gạo tăng trưởng. Hành giả liền phải tụng chú triệu thỉnh con: Trước tiên xưng danh hiệu Phật và Bồtát. Nhất tâm kính lễ:

Nam-mô Nhất thiết Thập Phương Tam Thế Chư Phật

Nam-mô Bảo Kế Phật.

Nam-mô Vố Cấu Quang Minh Bảo Tràng Phật.

Nam-mô Kim Tràng Quang Phật.

Nam-mô Bách Kim Quang Tạng Phật.

Nam-mô Kim Cái Bảo Tích Phật.

Nam-mô Kim Hoa Quang Tràng Phật.

Nam-mô Đại Đăng Quang Phật.

Nam-mô Đại Bảo Tràng Phật.

Nam-mô Đông Phương Bất Động Phật.

Nam-mô Đông Phương Bảo Tràng Phật.

Nam-mô Tây Phương Vô Lượng Thọ Phật.

Nam-mô Bắc Phương Thiên Cổ Âm Vương Phật.

Nam-mô Diệu Tràng Bồ-tát

Nam-mô Kim Quang Bồ-tát

Nam-mô Kim Tạng Bồ-tát

Nam-mô Thường Đề Bồ-tát

Nam-mô Pháp Thượng Bồ-tát

Nam-mô Thiện An Bồ-tát.

Lễ kính chư Phật, Bồ-tát như vậy rồi, tiếp đến phải tụng chú triệu thỉnh con Thiên nữ Đại Cát Tường. Nhờ năng lực của chú này nên điều mong cầu của hành giả đều được thành tựu.

Thiên nữ liền nói chú rằng:

Nam mô thất lị mạc ha thiên nữ, đát điệt tha, bát lị bô luật noa chiết lệ, tam mạn đa, đát lị thiết nê mạc ha tỳ ha la yết đế, tam mạn đá tỳ đàm mạt nê, mạc ha ca lí đã, bát lị để sắt sá bát nê, tát bà ác, tha ta đạn nê, tô bát lạt để bô lệ, a gia na đạt ma đa mạc ha tỳ câu tỷ đế, mạc ha mê đốt lỗ, ổ ba tăng tứ đê, mạc ha hiệt lị sử, tô tăng cận lí tứ đê, tam mạn đa át tha, a nô ba lạt nê, tá ha (Namo zrimahàdevì tadyathà paripùrịa-care Samanta-darzanì mahàvihàragate samanta pitamamati mahàkarya prativixỉhapani sarvànthasamamtanu(?)supratipure ayanadharmata mahàbhàgena mahàmaitri upasaưhete mahàkleza susamgqhite anupulana svàhà).

Bạch Thế Tôn! Nếu người nào trì tụng thần chú như vậy triệu thỉnh con thì con nghe thỉnh rồi, liền đến chỗ người ấy mà khiến cho ước nguyện của họ được như ý. Bạch Thế Tôn! Câu pháp quán đỉnh này là câu quyết định thành tựu, là câu chân thật, là câu không hư dối, chính là hạnh bình đẳng, đối với các chúng sinh là căn lành chân chánh. Nếu có người thọ trì đọc tụng chú thì nên bày ngày bảy đêm thọ tám quan trai giới, vào buổi sáng sớm, trước tiên đánh răng, rửa mặt sạch sẽ và đến quá trưa, dâng hương hoa cúng dường tất cả chư Phật, tự sám hối tội lỗi, vì thân mình và các loài chúng sinh mà hồi hướng phát nguyện. Để khiến cho sự cầu mong chóng, được thành tựu, nên dọn sạch sẽ một căn phòng, hoặc ở nơi thanh tịnh vắng vẻ, lấy cù-ma làm đàn tràng, đốt hương chiên-đàn mà cúng dường, đặt một tòa ngồi thù thắng vi diệu với phướn, lọng trang nghiêm, dùng các loài hoa quý trải khắp nơi bên trong đàn tràng. Rồi hành giả nên phải chí tâm trì tụng chú nói trên để cầu con đến. Bấy giờ, con liền hộ niệm quan sát người đó, liền vào nhà, lên tòa ngồi và nhận sự cúng dường của người ấy. Từ đó về sau, con sẽ khiến cho người kia trong giấc ngủ, mơ thấy được con. Người đó cầu, điều gì, con đều dùng sự thật bảo cho biết, nếu ở xóm làng, rừng sâu và chỗ ở của Tăng… cầu xin điều gì, con đều khiến cho viên mãn. Vàng, bạc, của báu, trâu, dê, lúa, mì, thức ăn, thức uống, quần áo… đều được nhận những niềm vui vừa ý. Đã được quả báu thù thắng vi diệu như vậy thì phải dùng phần thượng hạng để cúng dường Tam bảo và cúng thí cho con, tu sửa pháp hội, thiết bày những đồ ăn uống, sắp đặt hương hoa khắp nơi, lấy những đồ cúng dường đã cúng dường rồi lại vì con cúng dường, con sẽ trọn đời luôn ở đây để ủng hộ người này, khiến cho họ không thiếu thốn, cầu mong điều gì đều được như ý. Hành giả cũng phải mọi lúc cung cấp, cứu giúp những người nghèo thiếu, chẳng nên xan tham, tiếc rẻ, riêng vì thân mình, thường đọc tụng kinh này, thường xuyên cúng dường chẳng dứt, phải đem phước này thí khắp tất cả, hồi hướng về đạo Bồ-đề, nguyện ra khỏi sinh tử, mau chóng được giải thoát.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen rằng:

–Hay thay! Này Thiên nữ Cát Tường! Ngươi có thể lưu truyền kinh này như vậy, người và mình đều được lợi ích, không thể nghĩ bàn.

 

Phẩm 18: ĐỊA THẦN KIÊN LAO

Bấy giờ, thần đất Kiên Lao liền ở giữa đại chúng, đứng dậy chắp tay cung kính, bạch:

–Bạch Thế Tôn! Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này, nếu đời hiện tại, hoặc đời vị lai, hoặc ở thánh ấp, xóm làng, cung vua, lầu đài và A-lan-nhã, núi non, rừng sâu… mà có kinh này lưu hành, bạch Thế Tôn, con sẽ đi đến chỗ ấy cúng dường cung kính, ủng hộ lưu thông. Nếu địa phương nào vì thầy nói pháp, đặt bày tòa cao để diễn nói kinh thì con dùng thần lực, chẳng hiện thân ra, ở tại tòa ngồi, đội vị ấy trên đầu con được nghe pháp, vô cùng vui mừng, được nếm vị pháp, tăng thêm ánh sáng uy đức, vui mừng không lường. Tự thân con đã được lợi ích như vậy, cũng khiến cho đất đai sâu hơn mười sáu vạn tám ngàn do-tuần đến giới hạn của Kim cang luân, vị đất những nơi ấy đều tăng thêm, cho đến đất trong bốn biển cũng phì nhiêu, ruộng lúa mầu mỡ gấp bội hơn ngày thường, cũng lại khiến cho sông ngòi, ao hồ trong Thiệm-bộ châu cùng những cây cối, cỏ thuốc, rừng rậm, các loại hoa quả, rễ thân, cành lá và những giống lúa… có hình dạng đáng ưa, mọi người ưa nhìn, hương sắc đầy đủ, đều đáng thọ dụng. Nếu các hữu tình thọ dụng đồ ăn, thức uống thù thắng vi diệu như vậy rồi thì sống lâu, sắc lực, các căn yên ổn, tăng thêm ánh sáng, không có những đau khổ, tâm tuệ dũng kiện, không gì mà chẳng đủ khả năng đảm nhận. Lại nũa, đại địa này hễ có việc cần đến, dù trăm ngàn sự nghiệp cũng đều hoàn thành.

Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên này nên Thiệm-bộ châu yên ổn, thịnh vượng an vui, nhân dân đông đúc, không có các suy kém, tất cả chúng sinh đều được an vui. Đã được thân tâm an lạc như vậy thì họ đối với kinh vua này càng thêm kính tin sâu sắc. Bất cứ ở đâu mọi người đều nguyện thọ trì, cúng dường, cung kính, tôn trọng và tán thán.

Lại nữa, tất cả các chỗ pháp tòa của Đại sư nói pháp kia, con đều đến đó, vì các chúng sinh, khuyến thỉnh nói kinh Vương Tối Thắng này. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì nhờ nói kinh này, tự thân con cùng các quyến thuộc đều được lợi ích, khí lực sáng rỡ, uy thế dũng mãnh, dung mạo đẹp đẽ gấp bội ngày thường.

Bạch Thế Tôn! Con, thần đất Kiên Lao nhờ ân pháp vị đã khiến cho đất của Thiệm-bộ châu ngang dọc bảy ngàn do-tuần đều thêm mầu mỡ… cho đến như trước, tất cả chúng sinh đều được an vui. Vì thế, bạch Thế Tôn! Những chúng sinh đó vì báo ân con nên khởi ý niệm này: “Ta sẽ nhất định nghe ghi nhận kinh này với lòng cung kính cúng dường, tôn trọng, tán thán.” Khởi ý niệm này rồi, họ liền từ ở chỗ như thành ấp, xóm làng, nhà cửa, đất trống… đi đến chỗ pháp hội, đảnh lễ Pháp sư, tin nhận kinh này. Đã nghe rồi, họ đều trở về chỗ cũ, lòng rất vui mừng, cùng nhau nói rằng: “Chúng ta hôm nay được nghe diệu pháp vô thượng sâu xa tức là đã bao gồm được các công đức chẳng thể nghĩ bàn. Nhờ năng lực của kinh, chúng ta sẽ gặp vô lượng, vô biên trăm ngàn ức vô số Đức Phật, phụng sự cúng dường, lìa khỏi hẳn những chỗ khổ cực trong ba đường.

Lại nữa, vào đời vị lai, trong trăm ngàn đời thường sinh lên cõi trời và ở cõi người được nhiều niềm vui thù thắng vi diệu.” Những người đó đều trở về chỗ cũ, vì mọi người nói kinh vương này, hoặc một ví dụ, một phẩm, một nhân duyên xưa, một danh hiệu Như Lai, một danh hiệu Bồ-tát, một bài tụng bốn câu, hoặc chỉ một câu mà vì các chúng sinh nói kinh điển này, thậm chí chỉ là danh tự của đầu đề. Bạch Thế Tôn! Các chúng sinh ấy ở chỗ nào thì đất nơi đó đều trở nên mầu mỡ, phì nhiêu hơn chỗ khác, hễ những vật sống trên đất đai đó đều được tăng trưởng sum suê to rộng khiến cho các chúng sinh đều được an lạc. Họ có nhiều của cải quý báu, ưa làm việc bố thí, lòng kính tin Tam bảo luôn sâu sắc và giữ vững lòng tin.

Thần đất nói lời này xong. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo thần đất Kiên Lao:

–Chúng sinh nào nghe kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này, thậm chí chỉ một câu, sau khi mạng chung cũng sẽ được vãng sinh cõi trời Tam thập tam và các cõi trời khác. Nếu có chúng sinh vì muốn cúng dường kinh vương này mà trang nghiêm nhà cửa, thậm chí chỉ giăng lên một cái táng che, treo một dải phướn lụa ngũ sắc, do nhân duyên này, muốn sinh lên sáu cõi trời thì đúng như ý niệm được thọ sinh, cung bảy báu vi diệu tùy ý thọ dụng, mỗi mỗi đều tự nhiên có bảy ngàn Thiên nữ cùng chung nhau vui vẻ, ngày đêm luôn được niềm vui thù thắng chẳng thể nghĩ bàn.

Đức Phật nói lời này xong. Bấy giờ, thần đất Kiên Lao bạch:

–Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên này nên nếu khi có bốn chúng lên pháp tòa nói pháp này thì con sẽ ngày đêm ủng hộ người đó, tự ẩn thân mình ở tại chỗ tòa ngồi, đội vị ấy lên đầu. Bạch Thế Tôn! Kinh điển như vậy được những chúng sinh đã ở chỗ trăm ngàn Đức Phật gieo trồng căn lành lưu truyền chẳng diệt ở Thiệm-bộ châu. Những chúng sinh đó nghe kinh này thì ở đời vị lai vô lượng trăm ngàn ức vô số kiếp, trên trời, trong loài người, luôn được niềm vui thù thắng, được gặp các Đức Phật, mau chóng thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chẳng chịu sự khổ sinh tử trong ba đường.

Bấy giờ, thần đất Kiên Lao bạch:

–Bạch Thế Tôn! Con có “tâm chú” có thể lợi ích cho trời, người, an lạc cho tất cả. Nếu có người nam, người nữ và bốn chúng nào muốn được gần gũi thấy thân thật của con thì nên chí tâm trì tụng Đà-la-ni này, người ấy ước nguyện gì đều được mãn nguyện, như là của cải, châu báu, kho tàng. Và nếu cần thần thông, thuốc sống lâu mầu nhiệm, cùng thuốc trị mọi bệnh, thu phục kẻ địch, chế ngự các ngoại đạo…, hành giả phải ở trong tịnh thất, an trí đạo tràng, tắm gội thân rồi mặt áo tinh khiết, ngồi trên tòa ngồi bằng cỏ, ở nơi có xá-lợi, trước hình tượng tôn quý, hoặc chỗ có tháp thờ xá-lợi, đốt hương, rải hoa, bày đồ ăn thức uống cúng dường. Vào mùng tám có trăng, hợp ngày sao Bố sái thì tụng chú triệu thỉnh:

Đát điệt tha chỉ lí chỉ lí, chủ lỗ chủ lỗ, cú lỗ cú lỗ, câu trụ câu trụ, đổ trụ đổ trụ, phược ha, phược ha, phạt xả phạt xả, tá ha (Tadyathà ciri ciri curu curu kuru kuru kutu kutu totu totu bhaha bhaha zavari zavari svàhà).

Bạch Thế Tôn! Thần chú này, nếu có bốn chúng tụng một trăm linh tám lần để triệu thỉnh con thì con vì người đó liền đến đó.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sinh muốn được thấy con hiện thân cùng nói năng thì cũng nên an trí pháp thức như trước mà tụng thần chú này:

Đát điệt tha, át chiết nê, hiệt lực sát nê thất ni đạt lí ha ha tứ tứ khu lỗ, phạt lệ, tá ha (Tadyathà acani griliga kxanati ziri ziddhari ha ha hi hi kuru bhàre svàhà).

Bạch Thế Tôn! Nếu người khi trì chú này, nên tụng một trăm lẻ tám lần, đồng thời tụng chú trước thì con nhất định hiên thân khiến cho người ấy ước nguyện gì đều được thành tựu, hoàn toàn không luống uổng. Khi muốn tụng chú này, trước phải tụng chú hộ thân:

Đát điệt tha nĩ thất lí mạt xả yết trí, nại trí củ trí, bột địa, bột địa, bột địa lệ, tỳ trí tỳ trí, củ cú trí, khư bà chỉ lí, tá ha (Tadyathà niziri mazakani nati kuti buddhi buddhire biti biti kukuti baciri svàhà).

Bạch Thế Tôn! khi tụng chú này, lấy chỉ ngũ sắc, tụng hai mươi mốt biến thì làm hai mươi mốt nút buộc sau khuỷu tay trái, liền hộ thân không có nỗi sợ hãi. Nếu có người chí tâm tụng chú này thì điều cầu xin nhất định được như ý, con chẳng nói dối! Con đem Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo mà làm bằng cớ chứng biết sự thật này.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo thần đất:

–Hay thay! Hay thay! Ngươi có thể dùng thần chú thật ngữ đó hộ trì Kinh vương này và người nói pháp! Do nhân duyên này khiến cho ngươi đạt được vô lượng phước báo.

 

Phẩm 19: ĐẠI TƯỚNG DƯỢC-XOA TĂNG-THẬN-NHĨ-DA

Bấy giờ, đại tướng Dược-xoa Tăng-thận-nhĩ-da cùng với hai mươi tám bộ các thần Dược-xoa, ở trong đại chúng, đều đứng dậy, sửa lại áo vai phải, gối phải quỳ xuống đất, chắp tay hướng về Đức Phật bạch:

–Bạch Thế Tôn! Kinh Vương Tối Thắng Kim Quang Minh này, nếu đời hiện tại và đời vị lai ở đâu có tuyên nói lưu hành hoặc ở thành ấp, xóm làng, núi non, rừng sâu, hoặc cung điện vua, hoặc chỗ Tăng ở, bạch Thế Tôn! Con đại tướng Dược-xoa Tăng-thận-nhĩ-da cùng với hai mươi tám bộ Dược-xoa, các thần đều đi đến chỗ ấy, đều tự ẩn hình để theo ủng hộ thầy nói pháp, khiến cho vị ấy lìa khỏi khổ não, thường được an lạc. Và người nghe pháp, hoặc nam hoặc nữ, hoặc đồng nam, đồng nữ, ở trong kinh này, cho đến thọ trì một bài tụng bốn câu, hoặc trì một câu, hoặc danh hiệu đầu đề của kinh vua này và đối với danh hiệu một Đức Như Lai, danh hiệu một vị Bồ-tát trong kinh mà phát tâm xưng niệm thì con sẽ cứu hộ, giúp đỡ khiến cho hành giả không bị tai nạn, lìa khổ được vui.

Bạch Thế Tôn! Vì sao tên con là Chánh Liễu Tri? Nhân duyên này chính Đức Phật chứng biết. Con biết các pháp, con hiểu tất cả pháp, theo tất cả pháp đúng như thật, chủng loại, thể tính sai biệt của tất cả các pháp ấy. Bạch Thế Tôn! Các pháp như vậy con đều có thể biết rõ. Con có ánh sáng trí khó nghĩ bàn, con có đuốc trí khó nghĩ bàn, con có hành trí khó nghĩ bàn, con có trí tuệ khó nghĩ bàn! Con đối với cảnh giới trí khó nghĩ bàn mà vẫn có thể thông đạt.

Bạch Thế Tôn! đối với tất cả pháp, con có thể biết, hiểu, giác ngộ và quán sát đúng đắn.

Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên này, con, đại tướng Dược-xoa, tên là Chánh Liễu Tri! Do nghĩa này nên con có thể khiến cho thầy nói pháp kia nói ra lời biện luận rõ ràng, đầy đủ, trang nghiêm, cũng khiến cho tinh khí theo lỗ chân lông mà vào, thân lực sung mãn, uy thần dũng kiện, ánh sáng trí khó nghĩ bàn, đều được thành tựu, được nhớ nghĩ đúng đắn, không thoái lui, thân được lợi ích, khiến không suy giảm, các căn an vui luôn hoan hỷ. Do nhân duyên này, những hữu tình kia đã ở chỗ trăm ngàn Đức Phật, gieo trồng những căn lành tu nghiệp phước nên ở Thiệm-bộ châu tuyên giảng kinh này, lưu hành rộng rãi, chẳng để mai một. Những hữu tình đó nghe kinh này rồi, được ánh sáng đại trí chẳng thể nghĩ bàn và vô lượng phước trí tụ. Ở đời tương lai, họ sẽ ở vô lượng ức vô số kiếp được niềm vui thù thắng của trời, người chẳng thể nghĩ bàn, thường được gặp gỡ chư Phật, mau chóng chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, không bị những cực khổ ở cõi Diêm-la và trong khổ ba đường.

Bấy giờ, đại tướng Dược-xoa Chánh Liễu Tri bạch Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con có Đà-la-ni, nay đối trước Đức Phật, xin tự nói lên, vì muốn làm ích lợi, thương xót các loài hữu tình.

Đại tướng Dược-xoa liền nói chú:

Nam mô phật đà dã, nam mô đạt ma dã, nam mô tăng già dã, nam mô bạt la hám ma dã, nam mô nhân đạt la dã, nam mô chiết đốt nẩm, mạc hát la xà nẩm, đát điệt tha, tứ lí tứ lí, nhị lí nhị lí, cù lí, mạc ha cù lí, kiền đa lí, mạc ha kiền đà lí, đạt la nhị trĩ, mạc ha đạt la nhị trĩ, đan trà khúc khuyến đệ, ha ha ha ha ha, tứ tứ tứ tứ tứ, hô hô hô hô hô hô, hán lỗ đàm mê cù đàm mê, giả giả giả giả, chỉ chỉ chỉ chỉ, chủ chủ chủ chủ, chiên trà nhiếp, bát la, thi yết la, thi yết la, ốt để sắt tra tứ, bạc già phạm, tăng thân nhĩ gia, tá ha (Namo Buddhàya, namo dharmàya, namaf saưghàya, namo Brahmàya namo Indràya, namaf caturnàư mahàràjànàư, tadyathà hiri hiri mili mili Gaurì Mahà-gaurì Gandhàrì Draviđi Mahàdraviđi daịđa khukunte hahahhhahaha hi hi hi hi hi ho ho ho ho ho haja dhama kudame ca ca ca ca ci ci ci ci cu cu cu cu caịđezvara zikhara zikhara uttixỉahi bhagavan saưciĩjàya svàhà).

Nếu lại có người đối với minh chú này có thể thọ trì thì con sẽ cấp cho đồ dùng sinh hoạt an vui, thức ăn uống, y phục, hoa quả, trân châu kỳ lạ, hoặc cầu trai, gái, đồng nam, đồng nữ, vàng bạc, châu báu, các chuỗi ngọc… con đều cung cấp tùy theo sự nguyện cầu khiến cho họ không thiếu thốn. Minh chú này có uy lực lớn, khi người nào tụng chú thì con sẽ mau chóng đến chỗ người ấy, khiến cho họ không có chướng ngại, thành tựu như ý. Khi trì chú này thì nên biết pháp như sau: Trước vẽ bày một hình tượng Dạ-xoa Tăng-thận-nhĩ-da cao hai mươi thước, tay cầm mâu và thuẩn. Ở trước tượng này tạo lập đàn tràng bốn phương, rồi đặt bình đựng nước mật, hoặc nước đường cát, hương hoa, hương bột, hương đốt và những vòng hoa. Lại, ở trước đàn làm cái lò lửa bằng đất, trong lò để lửa than, lấy hạt cải tô-ma đốt ở trong lò, miệng tụng chú đã nêu trước một trăm linh tám lần, cứ mỗi lần là một lần đốt, cho đến khi đại tướng Dược-xoa, là con tự đến hiện thân hỏi người tụng chú rằng: “Ý ông cầu mong điều gì?” Rồi liền theo lời vị ấy đáp, họ mong điều gì, con đều khiến cho họ được đầy đủ; hoặc cầu vàng, bạc và các kho tàng, hoặc muốn như thần tiên cưỡi hư không mà đi, hoặc cầu Thiên nhãn thông, hoặc muốn biết điều trong tâm người khác… Đối với tất cả loài hữu tình, con đều cho họ tự tại như ý, khiến cho đoạn trừ phiền não, mau được giải thoát, đều được thành tựu.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo đại tướng Dược-xoa Chánh Liễu Tri:

–Hay thay! Hay thay! Ông có thể lợi ích cho tất cả chúng sinh như vậy, nói thần chú này, ủng hộ chánh pháp, lợi lạc vô biên!

Phẩm 20: CHÁNH LUẬN VƯƠNG PHÁP

Bấy giờ, nữ thần đất này tên là Kiên Lao, ở trong đại chúng, đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Đức Phật, chắp tay cung kính, bạch:

–Bạch Thế Tôn! Ở trong các nước, người làm quốc vương, nếu không có chánh pháp thì không thể trị nước, làm an ổn, nuôi dưỡng chúng sinh và bản thân được ở lâu dài ngôi tối thắng. Nguyện xin Thế Tôn từ bi rủ lòng thương, con nói về điều cốt yếu trị nước của chánh luận vương pháp, khiến cho các vị quốc vương được nghe pháp rồi, theo đúng như lời dạy tu hành và giáo hóa chân chánh cho đời, có thể khiến cho ngôi vị được bảo tồn lâu dài, trong nước được an ninh, nhân dân đều nhờ ân lợi ích.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn, ở trong đại chúng, bảo địa thần Kiên Lao:

–Người hãy lắng nghe, thuở quá khứ có vị vua tên là Lực Tôn Tràng, nhà vua ấy có người con tên là Diệu Tràng đã được nhận ngôi Quán đảnh thời gian chưa lâu. Bấy giờ, vua cha bảo Diệu Tràng rằng: “Có vương pháp chính luận tên là Thiên chủ Giáo Pháp (Devendrasamaya) lúc trước khi ta nhận ngôi Quán đảnh rồi lên làm vua, vua cha tên là Trí Lực Tôn Tràng đã vì ta nói chính luận vương pháp đó. Ta y theo luận này, ở hai vạn năm khéo léo trị nước, ta không hề khởi lên một ý niệm làm điều phi pháp, đến ngày hôm nay, ngươi cũng nên như vậy, chớ lấy điều phi pháp mà trị nước. Sao gọi là Chánh luận vương pháp? Con hãy lắng nghe! Ta sẽ vì con mà nói.”

Bấy giờ, vua Lực Tôn Tràng liền vì người con ấy, dùng kệ nói Chánh luận rằng:

Ta nói luận vương pháp
Lợi ích các hữu tình
Đoạn trừ nghi thế gian
Diệt trừ mọi lỗi lầm.
Tất cả các vua trời
Và các vua cõi người
Phải sinh lòng hoan hỷ
Chắp tay nghe ta nói
Thuở xưa các Thiên chúng
Nhóm tại núi Kim cang
Bốn vua liền đứng dậy
Thưa hỏi Đại Phạm vương:
Bậc Phạm Chủ Tối Thắng
Tự tại trong chư Thiên
Nguyện thương xót chúng con
Đoạn dứt các nghi hoặc
Vì sao ở cõi người
Mà được gọi là trời?
Lại vì nhân duyên gì
Danh hiệu là Thiên tử?
Sao sinh ở nhân gian
Riêng được làm quốc vương?
Vì sao ở cõi trời
Lại được làm Thiên vương?
Như vậy, trời Hộ thế
Thưa hỏi Phạm vương xong.
Bấy giờ, Phạm thiên vương
Liền vì họ nói rằng:
Hộ thế! Ông nên biết
Vì lợi ích hữu tình
Hỏi ta phép trị nước
Ta nói, hãy lắng nghe!
Do lực nghiệp lành trước
Sinh thiên được làm vua
Nếu ở tại cõi người
Thống lĩnh làm quốc vương.
Các trời cùng gia hộ
Sau đó vào thai mẹ
Đến trong thai mẹ rồi
Chư Thiên lại giữ gìn.
Tuy sinh tại cõi người
Tôn thắng nên gọi thiên!
Do chư Thiên giữ gìn
Cũng được gọi Thiên tử!
Chủ Tam thập tam thiên
Góp sức giúp nhân vương
Và tất cả chư Thiên
Dùng năng lực tự tại
Trừ diệt các phi pháp
Nghiệp ác, khiến chẳng sinh,
Dạy hữu tình tu thiện
Khiến được sinh cõi trời.
Người và chúng Tô-la,
Càn-thát-bà, cả thảy
Chiên-trà-la, La-sát
Đều đem nửa lực mình
Một nửa lực cha mẹ
Khiến bỏ ác tu lành
Chư Thiên cùng hộ trì
Thị hiện phước báo lành.
Nếu tạo các nghiệp ác
Khiến trong đời hiện tại
Chư Thiên chẳng hộ trì
Hiện bày quả báo ác
Dân chúng tạo nghiệp ác
Vua bỏ chẳng cấm ngăn
Ấy chẳng thuận chánh lý
Đúng như pháp sửa trị.
Nếu thấy ác chẳng ngăn
Phi pháp liền tăng thêm
Liền khiến ở trong nước
Gian trá ngày nhiều thêm.
Vua thấy người trong nước
Tạo ác chẳng ngăn chặn
Chúng trời Tam thập tam
Đều sinh tâm giận tức.
Nhân đây bỏ quốc chính
Dua nịnh khắp thế gian
Bị kẻ địch xâm lược
Phá hoại cõi nước ấy,
Nhà ở và của cải
Dành dụm đều mất tan,
Sinh dua nịnh lừa dối
Lại chiếm đoạt của nhau.
Nhờ chánh pháp có vua
Mà chẳng thành pháp ấy
Dân chúng bị phá tan
Như voi đạp ao sen
Gió bão nổi bất thường
Mưa to chẳng phải lúc
Yêu tinh biến lạ lùng
Nhật, nguyệt thực tối tăm.
Ngũ cốc, các hoa quả
Kết quả đều chẳng thành
Đất nước bị đói kém
Do vua bỏ chánh pháp.
Nếu vua bỏ chánh pháp
Dùng pháp ác dạy người
Chư Thiên ở cung điện
Nhìn thấy sinh lo buồn.
Những vị Thiên vương đó
Cùng nhau mà nói rằng:
Vua này làm phi pháp
Thân gần bè đảng ác
Ngôi vua chẳng yên lâu
Chư Thiên đều giận hờn.
Do các trời luôn giận
Nước ấy sẽ bại vong.
Dùng phi pháp dạy dân
Lưu hành trong cả nước
Chiến tranh, lắm gian nguy
Dịch bệnh sinh các khổ.
Vua trời chẳng hộ niệm
Trời khác cũng bỏ luôn
Đất nước sẽ diệt vong
Thân vua thọ khổ sở
Cha mẹ và vợ con
Anh em cùng chị em
Thương yêu phải chia lìa
Cho đến khi chết mất.
Biến quái, các sao rơi
Hai mặt trời cùng mọc
Giặc thù phương khác đến
Dân chúng bị tán loạn
Đất nước, những trọng thần
Bị ruồng bỏ mà chết
Voi, ngựa yêu vân vân…
Cũng lại đều tản mất.
Nơi nơi giặc nổi lên
Nhiều người chết oan uổng
Ác quỷ liền vào nước
Dịch bệnh lan tràn khắp.
Đại thần lớn nhất nước
Và cả các quan lại
Ai ai cũng dua nịnh
Cùng đều làm phi pháp.
Thấy người làm phi pháp
Thì sinh tâm yêu thích
Còn người làm pháp lành
Trị phạt khổ cực hình.
Do yêu kính người ác
Trị phạt những người thiện
Nên các sao, mưa gió
Vận hành chẳng đúng thời.
Ba điều xấu sinh ra
Chánh pháp sẽ ẩn mất
Chúng sinh không ánh sáng
Mầu mỡ đất không còn.
Do kính ác, khinh thiện
Có ba thứ lỗi lầm
Mưa đá tuôn phi thời
Khổ, đói, dịch, lan tràn.
Những trái cây, lúa gạo
Đều giảm mất vị ngon.
Ở trong đất nước ấy
Chúng sinh bệnh nhiều thêm.
Những cây cối trong nước
Trước sinh trái ngọt ngon.
Do đây đều tổn giảm
Đắng chát, không vị ngon.
Trước có vườn rừng đẹp
Chỗ du ngoạn hữu tình
Bỗng nhiên đều khô héo
Người thấy sinh lo buồn.
Gạo, mì, những quả trái
Dần tiêu mất vị ngon
Lòng chẳng thích khi ăn
Làm sao tăng các đại?
Giảm ánh sáng chúng sinh
Suy vi hết thế lực
Ăn uống tuy nhiều hơn
Mà chẳng thể no đủ.
Tất cả các chúng sinh
Ở trong cõi nước ấy
Ốm yếu, không kiên cường
Việc làm chẳng kham nổi.
Dân chúng nhiều bệnh tật.
Các khổ bức ngặt thân
Ma quỷ tràn lan khắp
Đâu cũng sinh La-sát.
Nếu vua làm phi pháp
Gần gũi với người ác
Khiến ba loại thế gian
Nhân đó bị suy tổn.
Như vậy vô số lỗi
Sinh ra trong nước ấy
Đều do thấy người ác
Mà bỏ, chẳng nghiêm trị.
Do chư Thiên gia hộ
Được làm đến quốc vương
Mà chẳng dùng chánh pháp
Giữ gìn cõi nước mình.
Nếu người tu hạnh lành
Thì sẽ được sinh Thiên
Nếu người tạo nghiệp ác
Chết sẽ đọa ba đường.
Vua để người trong nước
Mặc chúng tạo lỗi lầm
Cõi trời Tam thập tam
Đều vô cùng bực tức.
Chẳng thuận chư Thiên dạy
Và mẹ cha bảo răn
Đây là người phi pháp
Chẳng hiếu tử, chẳng vua.
Nếu ở trong đất nước
Thấy người làm phi pháp
Theo đúng phép trị phạt
Chẳng nên bỏ qua suông.
Vậy nên các Thiên chúng
Đều hộ trì quốc vương
Do diệt các pháp ác
Hay tu các căn lành
Nên vua ở cõi đời
Được phước báo hiện tiền.
Khuyên chúng sinh tu thiện
Từ bỏ các nghiệp ác
Chỉ bày quả thiện, ác
Nên được làm quốc vương.
Chư Thiên cùng hộ trì
Tất cả đều tùy hỷ
Nhờ lợi mình, lợi người
Dùng chánh pháp trị nước
Thấy có người dua nịnh
Phải đúng, phải trị liền.
Giả sử mất hương vị
Nhân duyên bị hại mạng
Cũng không làm pháp ác,
Hay thấy ác bỏ luôn.
Tai hại nặng nề nhất
Không gì hơn mất ngôi
Đều do kẻ dua nịnh
Bọn này phải nghiêm trị.
Nếu người nịnh lừa dối
Sẽ mất ngôi quốc vương
Do đó pháp vua mất
Như voi vào vườn hoa.
Thiên vương đều giận dữ
A-tô-la cũng vậy
Do người làm quốc vương
Trị nước chẳng dùng pháp
Vậy nên đúng như pháp
Mà trị phạt người ác
Pháp lành dạy chúng sinh
Chẳng thuận theo phi pháp.
Thà bỏ đi thân mạng
Cũng không theo phi pháp
Đối với người thân, sơ
Xem bình đẳng tất cả.
Nếu làm vua đúng pháp
Trong nước không phe phái
Pháp vương được tiếng thơm
Nghe khắp trong ba cõi.
Chúng Tam thập tam thiên
Hoan hỷ mà nói rằng:
Pháp vương Thiệm-bộ châu
Tức chính là con ta
Dùng thiện dạy chúng sinh
Dùng chính pháp trị nước
Khuyên thực hành chánh pháp
Sẽ sinh vào cung ta
Thiên tử và chư Thiên
Cùng chúng A-tô-la
Được vua dạy Chánh Pháp
Thường được tâm hoan hỷ
Thiên chúng đều hoan hỷ
Cùng hộ trì quốc vương
Sao mọc đúng vị trí
Nhật, nguyệt không trái thường
Gió hòa hợp thời tiết
Mưa ngọt tuôn thuận thời
Mùa màng đều bội thu
Không còn ai đói kém
Tất cả những Thiên chúng
Ở đầy nơi cung điện.
Vì vậy, này quốc vương!
Quên mình hoằng chánh pháp,
Nên tôn trọng pháp bảo
Cho dân chúng lạc an
Nên thường gần chánh pháp
Công đức tự trang nghiêm
Quyến thuộc thường hoan hỷ
Xa lìa các điều ác.
Dùng pháp dạy chúng sinh
Luôn khiến được yên ổn
Khiến tất cả mọi người
Tu hành mười điều lành.
Lãnh thổ thường thịnh vượng
Đất nước được an ninh.
Vua dùng pháp dạy người
Khéo điều phục các ác
Thường được nhiều tiếng thơm
An lạc các chúng sinh.

Bấy giờ, tất cả các quốc vương trong đại địa và các đại chúng nghe Phật nói toát yếu vấn đề nhà vua xưa kia trị nước, được chưa từng có đều rất hoan hỷ, tín thọ, phụng hành.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10