KINH KIM QUANG MINH TỐI THẮNG VƯƠNG

Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Sa-môn Nghĩa Tịnh
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 7

Phẩm 13: ĐÀ-LA-NI VÔ NHIỄM TRƯỚC

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Nay có pháp môn tên là Đà-la-ni Vô Nhiễm Trước chính là pháp tu hành của các Bồ-tát, các Bồ-tát quá khứ đã thọ trì, là mẹ của Bồ-tát.

Nghe nói lời này rồi, Tôn giả Xá-lợi Tử bạch:

–Bạch Thế Tôn! Đà-la-ni là câu nghĩa gì? Bạch Thế Tôn! Đàla-ni là chẳng phải phương xứ, chẳng phải không phương xứ.

Đức Phật bảo Xá-lợi Tử rằng:

–Hay thay! Hay thay! Này Xá-lợi Tử! Ông đối với Đại thừa đã có thể phát khởi, đã tin chắc Đại thừa, tôn trọng Đại thừa! Đúng như lời ông nói, Đà-la-ni là chẳng phải phương xứ, chẳng phải không phương xứ, chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại, chẳng phải sự, chẳng phải phi sự, chẳng phải duyên chẳng phải phi duyên, chẳng phải hành chẳng phải phi hành, không có pháp sinh cũng không có pháp duyệt, nhưng vì lợi ích cho các Bồ-tát nên nói lời như vậy. Đối với công dụng của Đà-la-ni này, nghĩa lý của chánh đạo được an lập tự tại, là công đức của chư Phật, là giới cấm của chư Phật, là đối tượng học của chư Phật, mật ý của chư Phật, là chỗ sinh ra chư Phật. Cho nên, gọi là pháp môn Đà-la-ni Vô nhiễm trước thù thắng vi diệu.

Ngài Xá-lợi Tử bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Đức Thiện Thệ vì con nói pháp Đà-la-ni này! Các Bồ-tát nào có thể an trụ thì đối với Bồ-đề vô thượng chẳng còn thoái chuyển, thành tựu nguyện chân chánh, được Vô sở y, tự tánh biện tài, được việc hiếm có, an trụ đạo Thánh… đều do được Đà-la-ni này!

Đức Phật bảo Xá-lợi Tử rằng:

–Hay thay! Hay thay! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói! Nếu có Bồ-tát được Đà-la-ni này, nên biết người này như Phật không khác. Nếu ai cúng dường, tôn trọng, phụng sự cung cấp cho Bồ-tát này, phải biết, tức là cúng dường Phật. Này Xá-lợi Tử! Nếu có người khác nghe Đà-la-ni này rồi thọ trì, đọc tụng, sinh ra tin chắc thì cũng nên cung kính cúng dường người ấy như Phật không khác. Nhờ nhân duyên này nên đạt được quả vị Vô thượng.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói Đà-la-ni:

Đát điệt tha, san đà lại nĩ, ốt đa lạt nĩ, tô tam bát la để sắt sĩ đá, tô na ma, tô bát lạt để sắt sĩ đá tỷ thệ dã, bạt la, tát để dã, bát lạt để thận nhã, tô a, lô ha, thận nhã na mạt để, ốt ba thiền nĩ, a phạt na mạt để, a tỳ sư thiền nỷ, a ty tỳ gia ha la thâu bà, phạt để, tô ni thất lị đa, bạc hổ quận xã, a tỳ bà đa, tá ha (Tadyathà sandhàraịi apadhàraịi susaưpratixthita sunàma supratixthita vijayabala satya(teja)pratizĩjà suroha zĩjanamati (jĩànprati) upadhani abanàmani abhizigịi abhivyàkara zubhapati sunizità bahùư gunja (guưbha) abhipàda svàhà).

Đức Phật bảo Xá-lợi Tử:

–Câu Đà-la-ni Vô nhiễm trước này, nếu Bồ-tát nào có thể khéo an trụ, có thể thọ trì đúng đắn, nên biết, người đó hoặc ở một kiếp, hoặc trăm kiếp, hoặc ngàn kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp, phát nguyện chân chánh không cùng tận, thân cũng chẳng bị dao, gậy, thuốc độc, nước, lửa, thú dữ… làm tổn hại. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì Đà-la-ni Vô nhiễm trước này chính là mẹ của chư Phật đời quá khứ, mẹ của chư Phật đời vị lại, mẹ của chư Phật đời hiện tại.

Này Xá-lợi Tử! Nếu lại có người dùng bảy báu đầy trong mười phương vô số tam thiên đại thiên thế giới dâng cúng chư Phật và dùng vô số y phục, thức ăn thượng hạng để cúng dường trải qua vô số kiếp, nếu lại có người đối với Đà-la-ni này, thậm chí chỉ có thể thọ trì một câu thì phước sinh ra nhiều gấp bội đối với phước kia. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì pháp môn thậm thâm Đà-la-ni Vô nhiễm trước này chính là mẹ của các Đức Phật.

Tôn giả Xá-lợi Tử và các đại chúng nghe pháp này rồi đều rất vui mừng và nguyện thọ trì.

 

Phẩm 14: NHƯ Ý BẢO CHÂU

(NGỌC BÁU NHƯ Ý)

Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, bảo A-nan-đà:

–Các ông nên biết! Có Đà-la-ni tên là Như ý bảo châu, xa lìa được tất cả các tai nạn, cũng có thể ngăn chặn những sấm chớp, được các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đời quá khứ đã từng tuyên nói. Hôm nay, ta ở trong kinh này cũng vị đại chúng các ông mà tuyên nói, có thể đối với trời, người làm lợi ích hơn, thương xót thế gian, ủng hộ tất cả, khiến cho được an lạc.

Đại chúng và A-nan-đà nghe lời Đức Phật nói rồi, đều chí thành chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn, nghe nhận thần chú. Đức Phật dạy rằng:

–Các ông hãy lắng nghe! Ở phương Đông có vua ánh chớp tên là A-yết-đa (Aghata), phương Nam có vua ánh chớp tên là Thiết-đêlỗ (Satadru), phương Tây có vua ánh chớp tên là Chủ Đa Quang (Cyutaprabha), phương Bắc có vua ánh chớp tên là Tô-đa-mạt-ni (Sutamaịi). Nếu thiện nam, thiện nữ nào được nghe danh hiệu của những vua ánh chớp như vậy và biết phương hướng thì người này liền lìa xa tất cả những điều sợ hãi và các tai nạn đều tiêu hết. Nếu ở nơi nào viết tên vua ánh chớp bốn phương này thì nơi ấy không có nỗi sợ sấm chớp, cũng không có tai nạn và các chướng ngại phiền não, bất đắc kỳ tử cũng đều lìa xa.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói chú rằng:

–Đát điệt tha, nĩ nhị, nĩ nhị, nĩ nhị, ni dân đạt lý, thất lý lô ca, lô yết nĩ, thất lý thâu la ba nĩ, hạt lạc xoa, hạt lạc xoa.

Con tên là… và chỗ này là… tất cả sự khủng bố và các khổ não, sấm chớp, sét đánh thình lình… cho đến chết oan đều lìa xa hết, tá ha (Tadyathà nimini nimini nimiídharì triloka lokàni trizùrapàịi rakxa svàhà).

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Quán Tự Tại, ở giữa đại chúng, liền đứng dậy, sửa bày áo vai phải, chắp tay cung kính, bạch:

–Bạch Thế Tôn! Con nay cũng ở trước Đức Phật lược nói thần chú Như ý bảo châu, đối với trời, người làm lợi ích lớn, thương xót thế gian ủng hộ tất cả, khiến cho họ được an lạc, có đại uy lực, việc cầu xin được như ý.

Rồi liền nói chú rằng:

Đát điệt tha, hát đế, tỳ hát đế, nĩ hát đế, bát lạt thất thể kê, bát lạt để, mật thất lệ, thú đề, mục để tỳ mạt lê, bát lạt bà tá lệ, an trà lệ bát trà lệ, thuế đế, bát trà la bà tử nĩ, hát lệ yết trà lệ, kiếp tất lệ, băng yết la ố tỷ, đạt địa mục xỉ, hát lạc xoa, hát lạc xoa.

Con tên là… và chỗ ở này là… tất cả những sự sợ hãi, khổ não… cho đến chết oan đều lìa xa hết! Nguyện cho con không thấy việc tội ác, thường được sự hộ niệm của ánh sáng oai thần đại Bi của Bồ-tát Quán Tự Tại, tá ha. (Tadyathà gate vigate nigate pratyarthake pratimitre zuddhe mukte vimale prabhàsvare aịđare paịđare zvete Paịđaravàzini Hari Kaịỉari Kapili Piígalàkxi Dadhimukhi rakxa rakxa… svàhà).

Bấy giờ, Bồ-tát Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ liền đứng dậy, chắp tay cung kính bạch Đức Phật rằng:

–Bạch Thế Tôn! Con nay cũng nói chú Đà-la-ni tên là Vô thắng, đối với trời, người làm lợi ích lớn, thương xót thế gian, ủng hộ tất cả, có đại thế lực, việc cầu xin được như ý nguyện.

Rồi liền nói chú rằng:

Đát điệt tha, mẫu ni mẫu ni, mẫu ni lệ, mạt để mạt để, tô mạt để, mạc ha mạc để, ha ha ha, ma bà, dĩ na tất để đế, ba hả, bát chiết la ba nĩ, ô hám điệt lật trà, tá ha (Tadyathà muni muni munine hare mati mati sumati mahàmati ha ha ha ha mabha iịa (?) sthite pàpa vajrapàịi ahaư ciri ca svàhà).

Bạch Thế Tôn! Thần chú này của con tên là Vô thắng ủng hộ. Nếu có người nam hay người nữ nào một lòng thọ trì, ghi chép, đọc tụng nhớ nghĩ chẳng quên thì con ngày đêm luôn luôn ủng hộ người đó, đối với tất cả những sự sợ hãi… cho đến chết oan đều lìa xa hết.

Lúc bấy giờ, vua trời Phạm, vị chủ của thế giới Ta-bà, liền đứng

dậy, chắp tay cung kính bạch:

–Bạch Thế Tôn! Con cũng có Đà-la-ni Vi diệu pháp môn, đối với trời, người, làm lợi ích lớn, thương xót thế gian ủng hộ tất cả, có đại thế lực, đều cầu xin được như nguyện.

Ông liền nói chú rằng:

–Đát điệt tha, ê lí, nĩ lí, địa lí, tá ha, bạt la hám ma bố lệ, bạt la hám ma mạt mê, bạt la hàm ma yết tỳ bổ sáp bả tăng tất đát lệ, tá ha.

(Tadyathà hili mili dhili svàhà Brahmapure Brahmamaịi Brahmagarbhe puxpasaưsthire svàhà).

Bạch Thế Tôn! Thần chú của con tên là Phạm trị, có thể ủng hộ tất cả những người trì chú này, khiến cho họ lìa khỏi lo buồn và các nghiệp tội… cho đến chết oan đều lìa xa hết.

Bấy giờ, vua trời Đế Thích liền đứng dậy, chắp tay cung kính bạch:

–Bạch Thế Tôn! Con cũng có Đà-la-ni tên là Bạt-chiết-la Phiến-nĩ. Thần chú Đại minh này có thể trừ tất cả những sự sợ hãi, tai nạn… cho đến chết oan cũng đều lìa xa hết, cứu khổ, ban vui, lợi ích cho trời, người.

Rồi liền nói chú rằng:

Đát điệt tha, tỳ nĩ, bà lạt nĩ, bạn đà ma thiền trệ ma nhị nĩ trí, nhỉ cù lý, kiện đà lý, chiên trà lý, ma đăng kỳ, bốc yết tử, tát la bạt lại tỳ, tư na mạt đê, đáp ma, ốt đa lạt nĩ, mạc hô lạt ni, đát lạt ni, kế chước yết la bà chỉ, xả phạt lí, xa phạt lí, tá ha (Tadyathà vini variịi vandhamadaịđe maịinetini Gauri Caịđali Màtaígi Pukkasi saraprabha hinamatya tama uttaraịi mahàraịi dhàraịiku cakravàke zavari zavari svàhà).

Bấy giờ, vua trời Đa văn, vua trời Trì quốc, vua trời Quảng mục, vua trời Tăng trưởng đều đứng dậy, chắp tay cung kính bạch Đức Phật rằng:

–Bạch Thế Tôn! Con nay cũng có thần chú tên là Thí nhất thiết chúng sinh vô úy. Đối với các khổ não, thường vì chúng sinh ủng hộ, khiến cho họ được an vui, tăng thêm tuổi thọ, không có các nạn khổ…

cho đến chết oan đều khiến xa lìa.

Rồi các trời liền nói chú rằng:

Đát điệt tha bổ sáp bế, tô bổ sáp bế, độ ma bát lạt ha lệ, a tạp gia bát lạt thiết tất đế, phiến đế niết, mục đến man yết liệt tốt đổ đế, tất đá tỵ đế, tá ha (Tadyathà puxpe supuxpe duma parihare àryaparizasiddhe zàntini mukte maư-galye stute siddhavite svàhà).

Bấy giờ, lại có các đại Long vương như là Long vương Mạt-natư, Long vương Điển Quang, Long vương Vô Nhiệt Trì, Long vương Điển Thiệt, Long vương Diệu Quang đều đứng dậy, chắp tay cung kính bạch Đức Phật rằng:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng có Đà-la-ni Như Ý Bảo Châu có thể ngăn chặn chớp ác, trừ các sợ hãi, có thể đối với trời, người làm lợi ích lớn, thương xót thế gian ủng hộ tất cả, có đại uy lực, việc cầu xin đều như ý nguyện… cho đến chết oan đều lìa xa hết, tất cả các thuốc độc những việc làm sử dụng độc, chú thuật và việc chẳng an lành đều khiến cho trừ diệt. Chúng con nay đem thần chú này kính dâng lên Thế Tôn, nguyện xin Thế Tôn thương xót Từ bi nạp thọ, khiến cho chúng con lìa khỏi loài rồng này, vĩnh viễn xả bỏ xan tham. Vì sao? Vì do xan tham này mà chúng con ở trong sinh tử chịu các khổ não! Chúng con nguyện đoạn trừ chủng tử xan tham.

Các vua rồng liền nói chú rằng:

Đát điệt tha, a chiết lệ, a mạt lệ, a mật lật đế ố xoa duệ, a tuệ duệ, bôn ni bát lị gia lật đế, tát bà ba hả, bát lị khổ ma ni duệ, tá ha, a li duệ bát đậu, tô ba ni duệ, tá ha (Tadyathà acale amale amqte akxye abhaye puịya-paryàpte sarvapàpaprazamaniye svàhà aliye pànđu suparịiye svàhà).

Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ nào miệng nói minh chú Đà-la-ni này, hoặc chép thành kinh quyển để thọ trì, đọc tụng, cung kính, cúng dường thì nhất định không bị sấm chớp sét đánh và các sự sợ hãi, khổ não, lo buồn… cho đến chết oan đều lìa xa hết, thuốc độc, yêu quái, yếm trù, các loài rắn độc, sư tử, cọp, sói hại người… cho đến muỗi, mòng đều không làm hại được.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo khắp đại chúng rằng:

–Hay thay! Hay thay! Những thần chú này đều có năng lực lớn, có thể tùy theo điều mong cầu của chúng sinh, khiến được thành tựu tất cả, được lợi ích lớn, trừ sự chẳng chí tâm. Các ông chớ nghi ngờ.

Đại chúng nghe lời nói của Đức Phật rồi, hoan hỷ tín thọ, phụng hành.

 

Phẩm 15: THIÊN NỮ ĐẠI BIỆN TÀI

Bấy giờ, Thiên nữ Đại Biện Tài, ở giữa đại chúng, liền đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Đức Phật, bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nếu có Pháp sư nói kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này thì con sẽ làm tăng thêm trí tuệ cho vị ấy, trang nghiêm đầy đủ các ngôn từ biện luận. Nếu vị Pháp sư đó, văn tự câu nghĩa ở trong kinh, có chỗ nào quên, con đều khiến cho nhớ được tất cả, có thể khai ngộ khéo léo, lại ban cho Đà-la-ni tổng trì vô ngại. Lại nữa, kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này, được những hữu tình đã ở chỗ trăm ngàn Phật gieo trồng các căn lành, thường thọ trì thì ở Thiệm-bộ châu lưu hành rộng rãi, nên không bị mai một; lại khiến cho vô lượng hữu tình nghe kinh điển này đều được biện tài linh lợi chẳng thể nghĩ bàn, đại tuệ vô tận, hiểu biết rõ ràng về các luận và các nghề khéo, có thể ra khỏi sinh tử, mau đạt đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trong đời hiện tại, được tăng thêm tuổi thọ, những vật dụng sinh hoạt đều được đầy đủ. Bạch Thế Tôn! Con sẽ vì vị pháp sư thọ trì kinh này và các hữu tình khác ưa nghe kinh điển này mà nói cho họ phép tắm gội bằng thần chú và thuốc. Người đó có các sao xấu, tai nạn, cùng lúc mới sinh sao tùy thuộc trái nhau, khổ về dịch bệnh, chiến trận đấu tranh, ác mộng quỷ thần, bùa ngải, yểm mị, chú thuật, thây chết đứng lên… những điều ác làm chướng nạn như vậy đều khiến cho trừ diệt. Người có trí nên làm theo phép tắm gội như vậy, phải chọn lấy ba mươi hai vị thuốc thơm, như là xương bồ, ngưu hoàng, mục túc, xạ hương, hùng hoàng, hợp hôn thọ, bạch bì, khung cùng, câu kỹ căn, tùng chi, quế bì, hương phụ tử, trầm hương, chiên-đàn, linh lăng hương, đinh tử, uất kim, bà luật cao, vi hương, trúc hoàng, tế đậu khấu, cam tùng, hoắc hương, mao căn hương, sất chi, ngải nạp, an tức hương, giới tử, mã cần, long hoa tu, bạch giao, thanh mộc phân lượng đều bằng nhau.

Vào ngày của sao Bố sái (Pusya), trộn chung giã nát, lấy bột hương ấy, phải dùng chú này chú nguyện vào đó một trăm lẻ tám biến chú rằng:

Đát điệt tha, tô ngật lật đế, ngật lật đế ngật lật đế kiếp ma đát lý, thiệm nộ yết la trệ, hác yết lạt trệ, nhân đạt la xà lợi nhị, thước yết lại trệ- bát thiết điệt đệ, a phạt để yết tế, kế na củ đổ củ đổ, cước ca tỵ lệ, kiếp tỵ lệ kiếp tỵ lệ mạt để, thi la mạt để na để độ la mạt để lý, ba phạt trĩ bạn trĩ lễ, thất lệ thất lệ tát để tất thể đệ tá ha (Tadyathà sukqti kqti kqti kàmatale jankarati ukarati indrajalini zakarante vàcacile abant-i(ka)kasikena kudu (kudu)… khakavile kapile kapile kapilamati zìlamati sandhiduramati paba-(da)ka bhaưcile Zire Zile satyasthite svàhà).

Nếu khi ưa như pháp tắm gội,
Làm đàn trắng tám khuỷu tay vuông
Nên ở chỗ tịch tịnh yên ổn
Tâm luôn nghĩ đến việc mong cầu.
Nên trát phân bò làm đàn tràng
Các hoa đẹp rải khắp lên trên
Phải dùng đồ vàng, bạc tinh khiết
Đựng đầy vị ngon, sữa, mật ong.
Ở chỗ bốn cửa đàn tràng ấy
Bốn người thủ hộ pháp như thường
Sai bốn đồng tử đẹp, trang nghiêm
Bưng bình nước đứng ở bốn góc
Ở đây thường đốt hương An tức
Năm loại âm nhạc trỗi chẳng dứt
Phướn, lọng trang nghiêm lụa ngũ sắc
Đặt ở bốn bên của đạo tràng.
Bên trong đàn tràng có gương sáng
Bốn góc đều có dao và tên
Chính giữa đàn tràng chôn chậu lớn
Nên dùng ván thấm đặt bên trên.
Dùng bột thơm đã hòa nước nóng
Cũng đặt ở bên trong đàn tràng
Sắp đặt đầy đủ như thế xong
Sau đó mới tụng chú kiết đàn.

Chú kết giới rằng:

Đát điệt tha, at lạc kế, na dã nê tứ lệ nhì lệ kỳ lệ, xí xí lệ tá ha (Tadyathà anrake nayane hile mile gile kikile svàhà).

Kết giới như vậy xong
Mới vào trong đàn tràng
Chú nguyện hai mốt biến
Rồi vẩy nước bốn phương.
Thứ đến chú nước thơm
Một trăm lẻ tám lần
Vây màn lại bốn bên
Sau đó tắm gội thân.

Chú nguyện vào nước và nước thuốc bằng chú rằng:

Đát điệt tha, tác yết trí, tỳ yết trí, tỳ yết trà phạt để, tá ha (Tadyathà sugati vigati vigaca vade svàhà).

Khi tắm gội xong, nước thuốc tắm gội ấy và thức ăn thức uống cúng dường ở trong đàn tràng đều đem bỏ bên trong sông, ao, phần còn lại đều gồm lấy. Tắm xong như vậy, mặc áo sạch sẽ, hành giả ra khỏi đàn tràng, vào trong tịnh thất, vị thầy chú nguyện dạy cho người ấy phát thệ nguyện rộng lớn: Đoạn trừ hẳn mọi điều ác, thường tu hành các điều thiện, đối với loài hữu tình, phát khởi lòng đại Bi. Do nhân duyên này hành giả đạt được vô lượng phước báo như ý nguyện.

Lại nói kệ tụng rằng:

Nếu có các chúng sinh bệnh khổ
Đủ loại phương thuốc trị chẳng lành
Nếu y pháp tắm gội như vậy
Đồng thời đọc tụng kinh điển này
Luôn luôn ngày đêm chẳng thất niệm
Chuyên tâm ân cần sinh lòng tin
Tất cả lo khổ tiêu trừ hết
Đủ của báu, giải thoát bần cùng
Mặt trời, mặt trăng, sao bốn phương
Uy thần ủng hộ được nhiều năm
Yên ổn các tường thêm phước đức
Nguy ách tai nạn diệt trừ tan.

Hành giả lại tụng chú hộ thân hai mươi mốt biến. Chú rằng:

Đát điệt tha, tam mê, tỳ tam mê, tá ha, tác yết trệ tỳ yết trệ, tá ha, tỳ yết tra phạt để, tá ha, ta yết la, tam bộ đã dã tá ha, tắc kiến đà, ma đa dã tá ha, ni la kiến đà dã, ta ha, a bát la thị đá, tỳ lê gia dã, tá ha, tứ ma bàn đá, tam bộ đa dã, tá ha, a nĩ mật la, bạc đát la dã, tá ha, nam mô bạc dà phạt đô, bạt la hám ma tả tá ha, nam mô tát la toan để, mạc ha đề tỵ duệ tá ha, tất điên đô mạn ( chỗ này nói lên thành tựu và con là…) mạn đát la bát tha tá ha, đát lạt đỗ tỷ điệt đá, bạt la hám ma nô mạt đổ, tá ha (Tadyathà samme visamme svàhà, sugate vigate svàhà. Vigata (pamgaci) vati svàhà, Sàgarasaưbuddhayà svàhà skandà màtaya svàhà, nilakaịỉàya svàhà, aparajita vìryàya svàhà, himavantàya svàhà, animilavàktàya svàhà, namo bhagavate Brah maịi svàhà, namo Sarasvati-mahà devye svàhà, siddyantu màư mantrapàda svàhàdharata vacito Brahmànu manora(tha-vqto) svàhà).

Lúc bấy giờ, Thiện nữ Đại Biện Tài nói chú tắm gội pháp đàn tràng rồi, đảnh lễ dưới chân Đức Phật mà bạch rằng:

–Bạch Thế Tôn! Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bàdi nào thọ trì, đọc tụng, ghi chép lưu hành kinh vua vi diệu này, theo đúng lời dạy tu hành, hoặc ở tại thành ấp, xóm làng, đồng trống, núi rừng, chỗ ở của tăng ni, con vì người này, đem những quyến thuộc trổi lên âm nhạc cõi trời, đi đến chỗ người ấy ủng hộ cho họ, trừ các bệnh khổ, sao băng quái lạ, dịch bệnh, đánh nhau, bị phép vua câu thúc, ác mộng, thần ác làm chướng ngại, đầu độc, yếm bùa… đều diệt trừ hết, đem lại nhiều lợi ích cho những người trì kinh. Tỳ-kheo… và những người nghe kinh này đều mau qua khỏi biển sinh tử, Bồ-đề không thoái chuyển.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nghe lời nói này rồi khen Thiên nữ Biện Tài:

–Hay thay! Hay thay! Này Thiên nữ! Người có thể đem an lạc lợi ích cho vô lượng, vô biên loài hữu tình, nói thần chú này và pháp thức đạo tràng nước thơm, quả báo thật khó nghĩ bàn! Ngươi phải ủng hộ kinh vua Tối thắng chớ để mai một mà phải được lưu thông rộng rãi!

Bấy giờ, Thiên nữ Đại Biện Tài lễ dưới chân Đức Phật rồi trở lại tòa ngồi của mình.

Khi ấy, Pháp sư thọ ký, Bà-la-môn Kiều-trần-như nương thần lực Phật, ở trước đại chúng, khen Thiên nữ Biện Tài rằng:

Trời Biện Tài thông minh dũng mãnh
Đều nên thọ trời, người cúng dường
Tiếng lành lan khắp cả thế gian
Cho tất cả chúng sinh mãn nguyện
Ở đỉnh núi cao, nơi thù thắng
Lấy tranh làm nhà ở trong đó
Luôn kết cỏ mềm làm áo mặc
Tại chỗ ở thường kiễng một chân.
Đại chúng chư Thiên đến tập họp
Đều đồng một lòng thỉnh, ngợi khen
Nguyện xin trời Biện Tài trí tuệ
Ban lời vi diệu cho tất cả.

Lúc bấy giờ, Thiên nữ Biện Tài liền nhận lời mời vì họ nói chú rằng:

Đát điệt tha mộ lệ chỉ lệ, a phạt đế a phạt tra phạt để, hưởng ngộ lệ danh cụ lệ, danh cụ la phạt để, ương cụ sư, mạt lị chỉ tam mạt để, tỳ tam mạt để ố cận, lị mạc cận lị đát la chỉ, đát la giả phạt, để chất chất lí thất lí mật lí, mạt nan địa, đàm mạt lị chỉ, bát la noa tất lị duệ, lô ca thệ sắt thế, lô ca thất lệ sắt chỉ, lô ca tất lị duệ, tất đà bạt lị đế, tỳ ma mục xỉ thâu chỉ chiệt lị, a bát lị để hát đế, a bát lị để yết đá bột địa, nam mẫu chỉ, nam mẫu chỉ, mạc ha đề tỵ bát lị để cận lị hôn noa, nam ma tắc ca la, con tên là… bột địa, đạt lí xa tứ, bột địa, a bát lạt để hát đá, bà bạt đổ, ba mê tỳ thâu điệt đổ, xá tất đát la thâu lộ ca, mạn đát la tất đắc ca, ca tỳ gia địa sổ, đát điệt tha, mạc ha bát lạt bà tỵ, tứ lí mật lí tứ lí mật lí, tỳ chiết lỵ đổ mê bột địa, con tên là, bột địa thâu đề, bạc dà phạt điểm, đề tỳ diệm, tát la toan điểm yết la trệ kê do lệ kê do la mạt để, tứ lí mật lí tứ lí mật lí, a bà ha gia nhị, mạc ha đề tỵ bột đà tát đế na, đạt ma tát đế na, tăng già tát đế na, nhân đạt la tát đế na, bạt lũ noa tát đế na, duệ lô kê tát để bà địa na, đê câm tát đế na, tát để phạt giả nê na a bà ha gia nhị, mạc ha đề tỵ, tứ lí mật lí tứ lí mật lí, tỳ chiết đạt đổ, con tên là… bột địa, nam mô bạt dà phạt để mạc ha đề tỵ, tát la toan để, tất điện đổ, mạn đát la bát đà nhĩ, tá ha. (Tadyathà miri cyore avate avjevati hingule miígule piígalevati ankhuxa màricye saưmati visaưmati(dazamati)agrati makhye taraci taracivati cirsi ciri zirimiri manadhi damakhe màrìcye praịàpàrye lokajyexỉhà loka znexỉhì lokàvìrye siddha parate bhìmamukhi zucicarì apratihate apratihatàbuddhi namuci(mahà)namuci mahàdevye pratigraha namas-kàra mama buddhi dazabi(drasiki) buddhi apratihata bhavatu sirahame vizuddha cito zàstrazloka-mantra-piỉaka kapiyadizo tadyathà mahàprabhava hili mili vicaratu vibuddhi mama buddhi (vi)zuddhi bhagavatye deveyaư Sarasvatiư karati keyuramati hiri miri hiri miri abhaya me mahàdevi buddha-satyena dharma-satyena saíghasatyena Indrasatyena Varuịasatyena yelokyesatya satyena texàư satyena satyavacàniya abhaya me mahàdevi hili mili hilimili vicaratu mama bu ddhi no namo bhagavati mahàdeve Sarasvatya siddhyantu mantra pada me svàhà).

Bấy giờ, Thiên nữ Biện Tài nói bài chú này rồi, bảo vị Bà-lamôn rằng:

–Hay thay! Thưa Đại sĩ! Ngài có thể vì chúng sinh mà cầu biện tài vi diệu và những trí tuệ thần thông quý báu, lợi ích rộng rãi cho tất cả, mau chứng Bồ-đề! Như vậy thì nên biết hãy thọ trì chánh pháp.

Thiên nữ liền nói kệ rằng:

Trước nên tụng Đà-la-ni này
Khiến cho thuần thục không sai lầm
Qui kính Tam bảo, các Thiên chúng
Thỉnh cầu gia hộ, nguyện tùy tâm
Kính lễ chư Phật và Pháp bảo
Chúng Bồ-tát, Độc giác, Thanh văn
Tiếp đến lễ Phạm vương, Đế Thích
Và trời hộ thế, Tứ Thiên vương
Tất cả những người tu Phạm hạnh
Đều chí thành kính trọng ân cần.
Nên ở chỗ Lan-nhã tịch tịnh
Tụng chú nói trên, khen ngợi pháp
Nên ở trước trời, rồng, tượng Phật
Những gì mình có, dâng cúng dường
Đối với tất cả các chúng sinh
Phát khởi lòng Từ bi xót thương
Thế Tôn tướng hảo thân vàng ròng
Giữ tâm chánh niệm, không tán loạn
Thế Tôn hộ niệm nói giáo pháp
Theo căn cơ khiến tu tập định,
Đối với văn nghĩa, khéo tư duy
Nương theo tính không để tu tập.
Nên ở trước hình tượng Đức Phật
Nhất tâm chánh niệm mà ngồi yên
Liền được Tam-ma-địa diệu trí
Và được Đà-la-ni tột cùng
Kim khẩu Như Lai diễn nói pháp
Tiếng vi diệu điều phục trời, người
Tướng lưỡi tùy duyên hiện hy hữu
Rộng dài che phủ cõi ba ngàn
Âm thanh Phật vi diệu như vậy
Chí thành nhớ nghĩ, lòng không sợ
Chư Phật đều nhờ phát nguyện lớn
Được tướng lưỡi không thể nghĩ bàn,
Tuyên nói các pháp đều chẳng có
Ví như hư không, không nắm giữ
Âm thanh chư Phật và tướng lưỡi
Chánh niệm thệ nguyện được viên mãn
Nếu thấy cúng dường trời Đại biện
Hoặc đệ tử theo lời thầy dặn
Trao pháp mầu này khiến tu học
Tôn trọng, tùy tâm đều được thành.
Nếu người muốn được trí tối thượng
Nên phải nhất tâm trì pháp này
Tăng trưởng phước trí các công đức
Nhất định được thành tựu, không nghi
Nếu cầu của thì được nhiều của
Cầu tiếng thơm thì được tiếng thơm
Cầu xuất ly thì được giải thoát.
Nhất định thành tựu, đừng nghi ngờ!
Vô lượng, vô biên các công đức
Tùy theo sở nguyện ở trong lòng
Nếu theo như vậy mà thực hành
Ắt được thành tựu, không nghi ngờ!
Phải ở chỗ sạch, mặc áo sạch
Nên lập đàn tràng tùy to, nhỏ
Dùng bốn bình sạch đựng mỹ vị
Đúng thời, cúng dường các hoa hương
Treo lụa ngũ sắc cùng phướn, lọng
Hương xoa, hương bột, trang nghiêm khắp
Cúng dường Phật và trời Đại biện
Cầu thấy thân trời được toại nguyện
Nên hai mốt ngày tụng chú trên
Được diện kiến Thiên Thần Đại Biện
Nếu như chẳng thấy Thiên thần ấy
Nên gắng chí tâm chín ngày nữa
Về sau, trong đêm, còn chẳng thấy
Lại cầu chỗ thanh tịnh thù thắng
Vẽ trời Biện Tài đúng như pháp
Trì tụng cúng dường, không rời tâm
Ngày đêm tinh tấn không biếng trễ
Tự lợi, lợi tha không tận cùng
Cho quần sinh phước báo thu được
Những điều cầu nguyện đều viên thành.
Nếu chẳng như ý, trải ba tháng
Sáu tháng, chín tháng hoặc một năm
Ân cần cầu thỉnh, lòng chẳng đổi
Thiên nhãn, Tha tâm đều đạt được.

Bấy giờ, Bà-la-môn Kiều-trần-như nghe lời nói này rồi, trong lòng rất vui mừng, khen là chưa từng có, nói với các đại chúng:

Trời, người, tất cả đại chúng các ông, như vậy, nên biết, đều phải một lòng lắng nghe! Tôi nay lại muốn nương theo pháp thế đế khen ngợi Thiên nữ Biện Tài thù thắng vi diệu!

Vì Bà-la-môn liền nói lời kệ:

Kính lễ Thiên nữ Na-la-diên
Ở trong thế giới được tự tại
Hôm nay, tôi ngợi khen Tôn giả
Đều như thuở xưa tiên nhân nói.
Thành tựu cát tường, lòng yên ổn
Thông minh, tàm quý, có tiếng thơm
Làm mẹ hay sinh ở thế gian
Dũng mãnh thực hành đại tinh tấn.
Ở chỗ quân trận luôn chiến thắng
Nuôi lớn diều phục lòng từ nhẫn
Hiện làm chị cả vua Diêm-la
Thường mặc áo tơ tằm xanh biếc.
Hình dáng xấu đẹp đều có đủ
Mắt có thể khiến người thấy sợ
Vô lượng thắng hạnh vượt thế gian
Những người kính tin đều nhiếp lấy.
Hoặc tại núi cao, chỗ rừng xâu
Hoặc ở bờ sông hay hang động
Hoặc tại cây lớn, các tòng lâm
Thiên nữ vương ở những nơi này.
Giả sử núi rừng, các dã nhân
Thường hay cúng dường cho Thiên nữ
Dùng lông Khổng tước làm cờ hiệu
Ở tất cả thời, luôn hộ đời.
Sư tử, cọp, sói luôn vây quanh
Trâu, dê, gà… cũng hay nương cậy
Rung chuông lớn phát ra âm thanh
Núi Tần-đà chúng đều nghe.
Hoặc cầm ba kích, đầu hình tròn
Trái, phải luôn nắm cờ nhật nguyệt
Ngày chín, ngày mười một hàng tháng
Phải nên cúng dường vào lúc ấy
Hoặc hiện đại Thiên nữ Ba-tô
Thấy có chiến tranh, lòng xót thương,
Quan sát trong tất cả hữu tình
Thiên nữ trên hết không ai qua
Bò đen Hoan hỷ (Gopinandà) quyền hiện lên
Cùng thời chiến đấu luôn được thắng
Có thể trụ lâu ở thế gian
Cũng làm hòa nhẫn và bạo ác.
Bốn pháp minh Đại Bà-la-môn
Huyễn hóa, chú thuật…đều thông hết
Được tự tại ở trong Thiên tiên
Có thể làm chủng tử, đại địa.
Khi các Thiên nữ tập hội đông
Như hải triều lên sẽ ứng hiện.
Với chúng Dược-xoa, các rồng thần
Đều làm thượng thủ, hay điều phục
Phạm hạnh bậc nhất hàng nữ nhân
Nói lời giống như chủ thế gian
Ở chỗ ngôi vua như hoa sen
Nếu ở bến sông, như cầu nối
Khuôn mặt giống như vầng trăng tròn
Đầy đủ đa văn làm chỗ dựa
Biện tài xuất chúng như núi cao
Ai niệm, đều làm bến cho họ.
A-tô-la và chúng chư Thiên
Đều cùng khen ngợi công đức ấy
Cho đến Đế Thích ngàn mắt nhìn
Dùng lòng ân cần mà quan sát
Chúng sinh nếu có điều cầu mong
Đều khiến cho họ mau thành tựu
Đầy đủ thông tuệ, pháp Văn trì
Là người bậc nhất trong đại địa
Trong khắp thế giới mười phương này
Như đèn sáng lớn thường soi chiếu
Cho đến các cầm thú, quỷ thần
Mọi điều mong cầu đều toại nguyện
Giữa các người nữ như núi cao
Như tiên nhân xưa lâu đời
Thường lìa dục như thiếu nữ thiên
Lời chân thật như Đại thế chủ (Mahàprajàpati)
Thấy khắp các loài ở thế gian
Cho đến các cung trời cõi Dục
Chỉ có Thiên nữ, bậc duy nhất
Chẳng hữu tình nào có thể hơn
Nếu ở chỗ chiến trận sợ hãi
Hoặc thấy bị rơi vào hầm lửa
Khi bị nạn bến sông, trộm cướp
Đều khiến cho họ trừ kinh sợ.
Hoặc bị gông cùm theo phép vua
Hoặc bị oán thù muốn giết hại
Nếu tâm chuyên chú chẳng đổi đời
Nhất định giải thoát các lo khổ.
Ủng hộ cả người thiện, người ác
Từ bi thương nghĩ thường hiện tiện
Vậy nên tôi đem lòng chí thành
Cúi đầu quy y đại Thiên nữ.

Bấy giờ, vị Bà-la-môn lại dùng chú khen Thiên nữ rằng:

Kính lễ! Người tôn quý ở thế gian
Người đứng đầu trong những người mẹ
Ba loại thế gian đều cúng dường
Hình dáng, khuôn mặt người ưa nhìn
Vô số diệu đức dùng nghiêm thân
Mắt như cánh sen xanh dài rộng
Ánh sáng phước trí, trọn tiếng thơm
Ví như ngọc Mạt-ni vô giá.
Tôi nay ngợi khen Đấng Tối Thắng
Lòng được toại nguyện điều mong cầu
Công đức chân thật diệu cát tường
Ví như hoa sen rất thanh tịnh.
Thân sắc đoan nghiêm đều ưa nhìn
Các tướng hy hữu khó nghĩ bàn
Phóng ánh sáng trí tuệ Vô cấu.
Ở trong các niệm luôn đứng đầu
Trong loài thú như sư tử chúa
Thường trang nghiêm bằng tám cánh tay
Đều cầm dao, giáo, búa, cung tên
Chày dài, vòng sắt, dây tơ buộc.
Đoan chánh ưa nhìn như trăng tròn
Ngôn từ thông suốt, âm hòa nhã
Nếu có chúng sinh, lòng nguyện cầu
Việc thiện tùy niệm khiến viên mãn.
Đế Thích, chư Thiên đều cúng dường
Đều cùng khen ngợi và quy y
Sinh ra công đức khó nghĩ bàn
Tất cả mọi thời luôn cung kính.

Tá ha.

(Bài chú tụng trên đây là chú cũng là bài tán. Nếu khi tụng chú thì nhất định phải tụng bài đó trước.)

Nếu muốn cúng thỉnh trời Biện tài
Nương theo bài chú khen ngợi này
Sớm chiều thanh tịnh tụng chí thành
Thì điều mong cầu, đều toại nguyện

Bấy giờ, Đức Phật bảo vị Bà-la-môn rằng:

–Hay thay! Hay thay! Ông có thể làm lợi ích chúng sinh như vậy, ban cho an lạc bằng cách khen ngợi Thiên nữ đó, thỉnh cầu gia hộ, được phước vô biên.

(Phẩm chú pháp này có lược, có rộng, hoặc mở, hoặc hợp, trước sau chẳng đồng. Bản kinh chữ Phạm đã nhiều, nhưng chỉ y vào một bản, sau khi dịch lại so sánh định lại mới biết được).

Bấy giờ, Bà-la-môn Kiều-trần-như nói lên lời khen ngợi như trên và chú tán thán pháp để khen ngợi Thiên nữ Biện Tài xong, bảo các đại chúng:

–Thưa chư vị! Nếu muốn thỉnh Thiên nữ Biện Tài thương xót gia hộ, ở đời hiện tại được biện tài vô ngại, thông minh đại trí, ngôn từ thiện xảo, tài năng đặc biệt bao quát tất cả, văn sức luận nghị, tùy ý thành tựu, không hề trở ngại,… thì nên phải chí thành ân cần kính trọng triệu thỉnh rằng:

Nam-mô Phật-đà. Nam-mô Đạt-ma. Nam-mô Tăng-già. Nammô chúng chư Bồ-tát, Độc giác, Thanh văn, tất cả Thánh chúng, chư Phật quá khứ, hiện tại, trong mười phương… đều đã quen tập lời nói chân thật, hay nói lời tùy thuận, hợp với căn cơ nói lời chân thật, không có lời nói hư dối, đã ở vô lượng ức đại kiếp thường nói lời chân thật. Người nào nói lời chân thật con đều tùy hỷ. Do chẳng nói dối nên lưỡi dài rộng có thể che phủ mặt, che phủ châu Thiệm-bộ và bốn thiên hạ, có thể che phủ một ngàn, hai ngàn, ba ngàn thế giới, che phủ khắp mười phương thế giới, viên mãn cùng khắp chẳng thể nghĩ bàn, có thể trừ tất cả phiền não nóng bức.

Kính lễ! Kính lễ! Tất cả chư Phật có tướng lưỡi như vậy! Nguyện cho con tên là… đều được thành tựu biện tài vi diệu! Chí tâm quy mạng:

Kính lễ chư Phật biện tài vi diệu.
Chư Đại Bồ-tát biện tài vi diệu.
Bậc Thánh, Độc giác biện tài vi diệu.
Bốn hướng, bốn quả biện tài vi diệu.
Lời bốn Thánh đế biện tài vi diệu.
Chánh hạnh, Chánh kiến biện tài vi diệu
Phạm chúng, chư tiên biện tài vi diệu.
Đại thiên Ô-ma (Ùmà) biện tài vi diệu
Tắc-kiền-đà thiên biện tài vi diệu
Ma-na-tư (Manasi) vương biện tài vi diệu
Thông minh dạ vương (Ràtridevata) biện tài vi diệu
Tứ đại Thiên vương biện tài vi diệu
Thiên tử Thiên Trụ biện tài vi diệu
Kim Cang Mật Chủ biện tài vi diệu
Trời Phệ-suất-nộ (Vixịu) biện tài vi diệu
Thiên nữ Tỳ-ma (Bhìmà) biện tài vi diệu
Thiên thần Thị Sổ (Saưkhyàyana) biện tài vi diệu
Thiên nữ Thất-lị (Zisumatà) biện tài vi diệu
Thất-lị-mạt-đa biện tài vi diệu
Ê-lí (Heli) ngôn từ biện tài vi diệu
Mẹ lớn của các mẹ biện tài vi diệu
Quỷ mẹ Há-li-để (Harìtì) biện tài vi diệu
Các thần Dược-xoa biện tài vi diệu
Các vua ở mười phương biện tài vi diệu
Hỗ trợ cho con được các nghiệp thù thắng
Khiến được biện tài vi diệu vô cùng.
Kính người không giả dối
Kính lễ bậc giải thoát
Kính lễ người ly dục
Kính người bỏ buộc ràng
Kính bậc lòng thanh tịnh
Kính lễ đấng ánh sáng
Kính bậc chân thật ngữ
Kính bậc không trần cấu,
Bậc trụ nghĩa thù thắng
Kính lễ đại chúng sinh
Kính lễ trời Biện tài
Cho con lời vô ngại
Nguyện điều con mong cầu
Đều mau chóng thành tựu!
Không bệnh thường an lạc
Được tuổi thọ lâu dài
Hiểu rõ các thần chú
Siêng tu đạo Bồ-đề
Làm lợi ích quần sinh
Nguyện cầu sớm toại nguyện
Con nói lời chân thật!
Con nói không lừa dối!
Thiên nữ Diệu Biện Tài
Khiến con được thành tựu
Nguyện xin đấng Thiên nữ
Khiến lời con vô ngại
Mau nhập vào miệng, thân
Thông minh, biện tài đủ!
Nguyện cho lưỡi của con
Được biện tài Như Lai
Nhờ uy lực ngôn ngữ
Điều phục các chúng sinh.
Con nói ra lời nào
Theo việc đều thành tựu
Người nghe, tâm cung kính
Việc làm chẳng luống uổng.
Nếu con cầu biện tài
Mà chẳng được thành tựu
Lời Thiên nữ chân thật
Đều trở thành hư vọng!
Có tạo tội Vô gián
Lời Phật khiến điều phục
Và lời nó báo ân
Của bậc A-la-hán
Xá-lợi Tử, Mục-liên…
Đứng đầu đệ tử Phật
Lời chư vị chân thật
Nguyện con đều thành tựu!
Con nay cung kính thỉnh
Chúng Thanh văn của Phật
Nguyện xin chóng đến đây
Thành tựu lòng con cầu!
Nguyện cầu lời chân thật
Đều nguyện không hư dối
Trên từ Sắc cứu cánh
Đến cõi trời Tịnh cư
Đại Phạm và Phạm phụ
Tất cả chúng Phạm vương
Cho đến khắp ba ngàn
Chủ thế giới Ta-bà
Đều cùng với bà con…
Con nay đều triệu thỉnh!
Nguyện rũ lòng Từ bi
Thương xót và cứu giúp
Trời Tha hóa tự tại
Và trời Lạc biến hóa
Chúng trời Đâu-suất-đà
Từ Thị sẽ thành Phật
Các chúng trời Dạ-ma
Và trời Tam thập tam
Chúng trời Tứ Thiên vương
Tất cả chúng chư Thiên
Thần đất, nước, lửa, gió
Nương ở núi Diệu cao
Các thần bảy núi biển
Và tất cả quyến thuộc
Mãn tài (Pùrịa-bhadra) và Ngũ đỉnh (Paĩic-azikhi)
Mặt trời, mặt trăng, sao
Các Thiên chúng như vậy
Khiến thế gian yên ổn.
Những vị Thiên thần ấy
Chẳng tạo nghiệp lỗi lầm!
Kính lễ mẹ con quỷ
Và con nhỏ yêu thương
Chúng Trời, Rồng, Dược-xoa
Càn-thát, A-tô-la
Và cả Khẩn-na-la
Mạc-hô-lạc-già nữa…
Con nhờ lực Thế Tôn
Đều cúi mình triệu thỉnh!
Nguyện rũ lòng Từ bi
Cho con vô ngại biện!
Tất cả chúng trời, người
Biết rõ tâm người khác
Đều nguyện thêm sức thần
Cho con biện tài diệu!
Cho đến tận hư không
Cùng khắp cả thế giới
Có loài chúng sinh nào

Đều cho con biện tài!

Bấy giờ, Thiện nữ Biện Tài nghe lời thỉnh này rồi thì bảo vị Bàla-môn rằng:

–Hay thay! Thưa Đại sĩ! Nếu có người nam, người nữ nào có thể y theo chú và chú tán như vậy, thọ trì pháp thức như đã nói trước, quy y Tam bảo, giữ tâm chánh niệm, đối với sự mong cầu đều chẳng luống uổng, lại thêm thọ trì, đọc tụng kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này nên những điều nguyện cầu đều có kết quả toại nguyện, mau được thành tựu, trừ khi mất tín tâm.

Vị Bà-la-môn vô cùng hoan hỷ chắp tay kính nhận.

Bấy giờ, Đức Phật bảo Thiên nữ Biện Tài:

–Hay thay! Hay thay! Ngươi có thể lưu truyền Kinh vương vi diệu này, ủng hộ người thọ trì kinh và có thể làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, khiến cho họ được an lạc, nói pháp như vậy, ban cho biện tài chẳng thể nghĩ bàn, được phước không lường, những người phát tâm mau chóng đi đến Bồ-đề.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10