LONG THỌ BỒ TÁT KHUYẾN GIỚI VƯƠNG TỤNG
Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam Tạng Pháp sư Nghĩa Tịnh
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

Tụng này Bồ tát Long Thọ dùng lối thơ thay văn sách, gởi một bài cho bạn thân, làm vua ở Nam Ấn Độ. Sách nầy trước đã được dịch, cất giấu ở xứ Thần Châu, thế gian phần nhiều không thấy, khiến cho lời hay không được biết đến. Vì thế càng thêm quyết định bổn văn, mong muốn khiến được lưu thông không bị ngưng trệ. Sa môn Nghĩa Tịnh mới đến Đông Ấn độ, nước Đam-ma-lập-để phiên dịch.

Hữu tình vì vô minh che tâm
Do đó khởi lòng từ khai mở
Đại đức Long Thọ vì quốc vương
Gởi thơ khuyên bảo khiến tu học

Một Hàng Tụng nầy là lời thuật của người sau, nêu bản ý của bức thư.

Đủ đức, ta diễn pháp như như
Vì sanh phước ái mà khởi thuật
Bậc chân thiện phải nên nghe xét
Tụng nầy gọi là nền cầu Thánh
Bất luận cây gì chạm tượng Phật
Những người có trí đều cúng dường
Giá như thơ ta chẳng hay khéo
Nói theo chánh pháp chớ nên khinh.
Vua tuy trước rõ pháp như như
Nghe thêm lời Phật tăng thêm hiểu
Giống như Tường phấn ánh trăng soi
Há chẳng tươi sáng thêm thù diệu
Phật, Pháp cùng tăng chúng
Thí, Giới lại cùng Thiên
Mỗi mỗi nhóm công đức
Phật dạy phải thường niệm
Thập thiện các Nghiệp đạo
Thân, miệng, ý thường gần
Xa lìa các thứ rượu
Cũng hành nghề thanh tịnh
Biết của cải chẳng bền
Bí-sô, thí như pháp
Nghèo hèn và tái sinh
Đời sau làm thân hữu
Các đức nương Giới ở
Như đất lớn hết thảy
Chớ hèn kém nghĩ tạo
Phật dạy phải thường tập
Thí , Giới, Nhẫn, Dũng, Định
Tuệ không thể xưng lượng
Đây hay đến phải tu
Qua bể Hữu thành Phật
Nếu hiếu dưỡng cha mẹ
Nhà nầy có Phạm vương
Hiện được tiếng khen tốt
Đời sau sanh cõi Trời
Sát, đạo, dâm, vọng ngữ
Mê ăn thích giường cao
Dứt mọi rượu, ca múa
Hương xoa, hoa trang điểm
Nếu nam, nữ thành tựu
Tám chi Thánh giới nầy
Sẽ sanh Trưởng tịnh thiện
Trên sáu cõi Trời Dục
Keo, dối, nịnh, tham, lười
Dòng họ mạn, dâm, sân
Học rộng tuổi trẻ kiêu
Thảy xem như giặc thù
Nói không sanh do siêng
Bởi phóng dật có chết
Siêng làm lớn thiện pháp
Vậy khá tu cẩn thận
Lúc trước lìa buông lung
Sau nếu siêng tu sửa
Giống như vẹt mây che
Đêm rực rỡ ánh trăng
Tôn-đà-la, Nan-đà
Ương-cụ-lý ma-la
Đến nhà Ỷ-mạc-ca
Đổi ác đều thành thiện
Dũng tấn không đồng Nhẫn
Chớ để khí giận phát
Sau được vị Bất hoàn
Phật biết khá trừ sân
Kẻ khác đánh chửi ta
Lấn đoạt tài sản ta
Ôm hận chiêu tranh cãi
Bỏ giận ngủ an vui
Như đất đá trong nước
Tâm người đồng kia hết
Trước khởi phiền não mạnh
Sau là pháp yêu thương
Phật dạy ba loại ngữ
Người nói tốt, thật, dối
Giống như mật, hoa, phẩn
Bỏ sau nên theo trước
Nay sáng, sau cũng sáng
Nay tối, sau lại tối
Hoặc nay sáng sau tối
Hoặc nay tối sau sáng
Bốn loại người như thế
Vua nên theo loại nhất
Tự có sống như chín
Cũng có chín như sống
Cũng có chín như chín
Hoặc lại sống như sống
Trong quả Am-một-la
Có sai biệt như thế
Người cũng đồng bốn kia
Khó nhận vua nên biết
Chớ nhìn thê thiếp người
Nếu thấy, như mẹ, con
Theo tuổi, nghĩ chị, em
Khởi tham nghĩ bất tịnh
Như che chở con mình
Phòng giữ tâm nóng nảy
Thú, thuốc, đao, oán, lửa
Không cho dục lạc xâm
Do dục tạo không lợi
Thí như quả Kiêm bác
Phật nói kia nên trừ
Xiềng xích ngục sanh tử
Cảnh dối trá thường động
Hay phục sáu Thức ấy
Điều phục quét các oán
Cái trước là mạnh nhất
Nhà dơ uế, chín cửa hôi thúi
Da mỏng bọc khó đầy thân thể
Xin nhìn thiếu nữ không nghiêm sức
Phân tích hình hài thật xấu xa
Trùng cùi cắn rúc đau
Cầu an đến bên lửa
Tam dứt, không sao khỏi
Đắm dục cũng như thế
Vì biết lý chánh chơn
Tác ý quán các việc
Chỉ đức nầy nên tập
Không pháp nào gần
Nếu người dòng họ quý
Xinh đẹp lại đa văn
Vô trí phá Thi la.
Người nầy đâu đủ quý!
Nếu người không vọng tộc
Xấu xí ít hiểu biết
Có trí giữ Thi la
Người đều nên cúng dường
Lợi, không lợi, khổ, vui
Khen, không khen, chê bai
Rõ tám pháp thế gian
Bình tâm lìa cảnh ấy
Tái sinh, Trời, Khất sĩ
Cha mẹ, vợ con, người
Chớ do đây tạo tội
Địa ngục họ không chia
Nếu tạo các nghiệp tội
Không như đao chém hại
Đợi đến lúc lâm chung
Quả nghiệp ác rõ ràng
Tín, Giới, Thí, Tịnh, Văn
Tàm quý và Chánh tuệ
Bảy tài, Mâu ni nói
Cùng có vật thật hư
Bài bạc, cảnh lạc quan huyên náo
Lười biếng, chí thân với bạn xấu
Uống rượu, phi thời, hành sáu lỗi
Đây cướp tiếng thơm, vậy nên bỏ
Cầu tài, thiểu dục nhất
Thầy Trời người nói đủ
Nếu hay tu thiểu dục
Tuy nghèo nhưng lại giàu
Nếu người rộng cầu các sự vật
Chắc chắn lại bị khổ tăng thêm
Người trí nếu không tu thiểu dục
Thọ khổ lại như rắn nhiều đầu
Bẩm tánh ôm oán như sát nhân
Khinh khi chồng mình như đứa ngu
Dẫu một vật nhỏ cũng trộm cắp
Nên bỏ ba loại vợ, giặc nầy
Thuận như chị em, hiền như mẹ
Phục tùng như tớ, bạn như thân (bà con).
Bốn loại vợ nầy nên chung ở
Phải biết nhà nầy gọi người trời
Thọ thực như uống thuốc
Biết lượng bỏ tham sân
Không vì mập kiêu ngạo
Chỉ muốn duy trì thân
Siêng năng qua ngày dài
Từ đầu hôm đến sáng
Ngủ nghỉ lòng vẫn nhớ
Chớ để mạng chết suông
Từ, Bi, Hỷ, Chánh, Xả
Tu tập, thường nghiền ngẫm
Tuy chưa vào Thượng lưu
Cũng sanh cõi Trời Phạm
Bỏ khổ tạp dục, tìm hỷ lạc
Theo nghiệp sẽ sanh trong bốn nơi
Đại Phạm, Quang Âm và Biến Tịnh
Sanh trời Quảng Quả cùng kia đồng
Nếu hằng tu đối trị
Đức tốt thương chúng sanh
Năm hành này là thiện
Không hành là ác lớn
Ít nước mưa muối mặn
Há bằng sông hồ chảy
Nếu khiến tội nghiệp nhỏ
Thiện lớn càng nên biết
Sân; trạo cử, ố tác
Hôn thuỳ, dục tham, nghi
Giặc năm cái như thế
Thường trộm các lợi thiện
Có năm pháp tối thắng
Tín, Dũng, Niệm, Định, Tuệ
Nơi đây nên siêng tập
Hay chiêu Căn, Lực, Đảnh
Bệnh khổ, chết, ái biệt
Đây đều nghiệp tự làm
Chưa qua, khá siêng tu
Đối phẩm không phóng túng
Dù mong Thiên giải thoát
Vua nên tu Chánh kiến
Nếu khiến người hành thiện
Tà kiến chiêu quả ác
Vô Lạc, Vô thường, Vô ngã
Bất tịnh, người xét biết
Vọng niệm, Bốn đảo kiến
Khổ nạn tại thân nầy
Nói sắc chẳng là Ngã
Ngã chẳng có nơi sắc
Sắc, Ngã chẳng tồn tại
Bốn uẩn khác cũng không
Không theo thời tiết sanh
Không bản tánh tự nhiên
Chẳng không nhân, tự tại
Theo ngu, nghiệp Ái sanh.
Giới cấm, kiến, thân kiến
Và Tỳ chức kiết sa
Nên biết ba kiết nầy
Hay cột cửa Mộc xoa
Giải thoát quyết nương mình
Không do bạn hữu thành
Siêng tu Văn Giới Định
Bốn Chơn đế liền sanh
Giới, Tâm, Tuệ tăng thượng
Ba học nên thường tu
Trăm năm mươi giới hơn
Đều quy nhiếp ba học
Nơi thân trụ, thân niệm
Đường nầy thường khéo tu
Như kia thiếu chánh niệm
Các pháp đều chìm, mất
Thọ mạng nhiều tai ách
Như gió thổi bọt nước
Nếu thoạt bỗng ngừng dứt
Nằm, đứng thành việc khó.
Rốt thành tro, thối rửa
Phẩn uế khó giữ lâu
Quán thân, pháp chẳng thật
Diệt, hoại, rơi, phân tán
Đại địa lầm biển đen
Bảy mặt trời thiêu đốt
Huống thân nhỏ nhoi nầy
Sao không thành tro tàn!
Như thế vô thường cũng chẳng lâu
Không về, không cứu, không nhà cửa
Sanh tử, người trí phải chán lìa
Đều như cây chuối thể không thật
Rùa biển chui bọng cây
Cơ hội rất khó gặp
Bỏ Súc sanh thành người
Lại nhận quả ác hạnh
Dùng mâm báu hốt phân
Đây thật là đại si
Nếu sanh người, tạo tội
Thì thành trẻ cực ngốc
Trong đời nương bạn lành
Và phát khởi chánh nguyện
Thân trước tạo nghiệp phước
Bốn đại luân được cả
Phật dạy gần bạn lành
Phạm hạnh đủ thì thân
Vì Thiện sĩ nương Phật
Nhiều người chứng viên tịch
Tà kiến sanh Quỷ, Súc
Địa ngục, chẳng nghe Pháp
Biên địa, Miệt lệ xa
Sanh tánh si, câm, hèn
Hoặc sanh Trời Trường Thọ
Trừ tám lỗi không nhàn
Nhàn hạ đã được rồi
Vua sẽ sanh việc tốt
Ái biệt, Già, Bệnh, chết
Đây đều là pháp khổ
Người trí nên sanh chán
Nói lỗi ít nên nghe
Mẹ hoặc đổi làm vợ
Cha lại chuyển thành con
Oan gia trở làm bạn
Dời đổi không quy định
Đời đời uống sữa mẹ
Nhiều hơn nước bốn biển
Chuyển thọ thân đời khác
Càng uống nhiều hơn kia
Xương thân trong nhiều đời quá khứ
Lần lượt chất bằng núi Diệu Cao
Vò đất thành viên như hạt táo
Đếm số thân mình há hết sao
Vua Phạm đời đều kính
Nghiệp lực hết, trầm luân
Ví nối Chuyển Luân Vương
Chuyển thân hoá nô bộc
Tam Thập Tam Thiên , vui kỷ nữ
Nhiều thời đã thọ chốn Nê lê
Mau chóng trầm luân qua các khổ
Tan thân nát thể hết kêu la
Núi Diệu Cao hưởng lạc
Đất mềm theo bước chân
Chuyển thọ khổ tro nóng
Đi qua ngục phẩn tiểu
Vui trong vườn cỏ thơm
Thiên nữ theo vui chơi
Đoạ lạc rừng đao kiếm
Cắt tay chân, tai mũi
Hoặc tắm trong ao mầu Mạn đà
Thiên nữ rực rỡ như hoa vàng
Bỏ thân, lại thọ khổ Nê lê
Suối tro nóng cháy khó đương nổi
Trời Dục thọ pháp lạc
Đại Phạm Thiên trừ tham
Lại đoạ ngục A Tỳ
Lửa cháy khổ nối luôn
Hoặc sanh ở Nhật Nguyệt
Thân sáng chiếu bốn châu
Một sớm về tối tăm
Xoè tay không thấy gì
Ba loại phước đèn sáng
Chết rồi khá giữ lấy
Riêng vào tối vô biên
Nhật Nguyệt không soi đến
Có mạng Nhiệt, Hắc Thằng,
Cùng Khiếu dưới Vô Gián
Những ngục nầy, khổ vậy
Thiêu đốt kẻ tạo ác
Hoặc giường gai rút thịt
Hoặc nát như vụn nhỏ
Như búa bén chặt cây
Giống như cưa, mỗ, cắt
Lửa hừng luôn đun nấu
Khiến uống nước đồng sôi
Thân nằm trên kiếm nhọn
Hoặc trên giường sắt nóng
Hoặc lúc tay giơ cao
Chó dữ răng sắt ăn
Chim ưng mõ mỏng bén
Mổ tim gan của kia
Ruồi nhặng và giòi trùng
Số có hơn ngàn ức
Mỏ bén cắn rút thân
Đáp nhanh cùng ăn nhấm
Nếu người tạo đủ các tội nghiệp
Nghe khổ, thân tự không can dự
Tánh cứng rắn, ngang ngạnh như thế
Mạng chung, địa ngục gặp lửa dữ
Thời quán kỹ, đổi nghe, nên nghĩ
Tụng đọc kinh luận, thường tìm hỏi
Địa ngục nghe tiếng đã kinh sợ
Làm sao khiến dị thục như nay,
Trong các lạc, lạc nào hơn hết?
Ái Tận, Vô sanh, lạc tối thắng
Trong các khổ, khổ nào cùng cực?
Vô Gián địa ngục, khổ vô cùng
Nhân gian trong một ngày
Ba trăm giáo thường đâm
So Địa ngục khổ nhẹ
Hào phân vẫn cùng đâm
Chốn nầy thọ khổ nặng
Trải qua trăm ức năm
Như ác kia chưa hết
Mạng xả định không đâu
Các quả ác như thế
Thảy do thân, ngữ, ý
Vua chăm, theo sức giữ
Chớ để ác nhỏ xâm
Hoặc vào đường Bàng sanh
Giết trói, khổ luôn kề
Xa lìa nơi Thiện tịch
Thêm cùng bị gian khổ
Hoặc bị khổ giết, trói
Cầu ngọc, đuôi, sừng, da
Chày, roi, móc chặt đầu
Đạp, tát, chịu người cõi
Thọ Quỷ mong không thỏa
Khổ cùng cực thường đến
Đói khát và lạnh nóng
Khốn, khổ sợ luôn kề
Miệng nhỏ như lỗ kim
Bụng to như hòn núi
Đói vây, ví phân mình
Được chút cũng không từ
Thân hình như cây khô
Da dùng làm y phục
Miệng đuốc cháy suốt đêm
Bướm rơi mà no bụng
Máu mủ, đồ bất tịnh
Phước kém được không theo
Miệng lại bức bách bỏ
Chỉ ăn ung bướu, nhọt
Đêm xuống lại nóng bức
Ngày lên thân lạnh run
Đợi quả, cây chỉ trống
Nhìn sông, nước bèn cạn
Thọ các khổ như thế
Trải vạn năm ngàn năm
Buộc thân mạng lâu dài
Bởi do khổ khí bền
Nếu sanh vào quỷ đói
Chỉ gặp thuần khổ vị
Chẳng phải người hiền thích
Phật nói do keo bẩn
Sanh Thiên tuy thọ lạc
Phước hết, khổ nạn lo
Chung quy phải đoạ lạc
Chớ vui khá nên biết
Chán ngồi, áo dính bụi
Ánh sáng thân biến suy
Dưới nách xuất mồ hôi
Trên đầu hoa cũ héo
Năm tướng như thế hiện
Chúng Trời chết không nghi
Người cõi thế sắp chết
Buồn bực tánh khác thường
Nếu từ cõi Trời xuống
Các thiện hết không còn
Chịu đoạ Quỷ, Bàng sanh
Địa ngục, đọa một đời
Bản tánh A-tu-la
Ví khiến toàn giác tuệ
Trời giận sanh tâm khổ
Ngăn đến nơi kiến đế
Phiêu lưu chốn sanh tử như thế
Trời, Người, Súc sanh, A-tu-la
Nghiệp hạ tiện sanh các thân khổ
Loài quỷ thú đều sa vào địa ngục
Ví khiến lửa dữ đốt trên đầu
Khắp thân, y phục lửa đều cháy
Khổ nầy không rỗi để trừ bỏ
Không sanh tưởng trụ trong
Niết bàn Vua cầu Thi-la và Định, Tuệ
Tịch tịnh, điều nhu lìa tai ương
Niết-bàn vô tận, không già chết
Bốn đại, ngày tháng thảy đều quên
Niệm, Trạch pháp, dũng tiến
Định, Tuệ, Hỷ, Khinh an
Bảy phần Bồ đề này
Hay chiêu Niết-bàn mầu
Không Định, Tuệ chẳng có
Thiếu Định, Tuệ suy yếu
Nếu cả hai vận chuyển
Biển Hữu như chân trâu
Mười bốn pháp không nhớ
Sở thuyết của Nhật Thân
Nơi đây chớ nên nghĩ
Không thể khiến Giác diệt
Từ vô tri khởi nghiệp
Do nghiệp lại sanh thức
Thức duyên nơi Danh sắc
Danh sắc sanh lục xứ
Lục xứ duyên nơi Xúc
Xúc sanh duyên nơi Thọ
Thọ đã duyên nơi Ái
Do Ái duyên lấy Thủ
Thủ lại duyên nơi Hữu
Hữu lại duyên nơi Sanh
Sanh duyên nơi Lão Tử
Buồn, bệnh, cầu không được
Luân hồi, uẩn khổ lớn
Đây nên mau đoạn trừ
Như sanh kia nếu diệt
Các khổ dứt không còn
Tạng ngôn giáo tối thắng
Môn Duyên khởi thâm diệu
Như hay chánh kiến đây
Bèn quán đấng Vô Thượng
Chánh Kiến, Mạng, Chánh Niệm
Chánh Định, Ngữ, Nghiệp, Tư
Đây gọi Tám Thánh đạo
Tịch tịnh khá tu trị
Không đâu Tập, Ái khởi
Mượn thân các khổ sanh
Dứt đây chứng giải thoát
Tám Thánh đạo nên tu
Tức nghiệp Du Già nầy
Bốn loại nhân Thánh đế
Dầu ở nhà, nghiêm sức
Trí ngăn phiền não thấm
Chẳng từ chốn “Không”, đoạ
Như lúa nhân đất tạo
Các bậc chứng pháp trước
Đều phàm, đủ phiền não
Cần gì trần thuật nhiều
Trừ não, lược trình lời
Sự do tâm chế phục
Thánh bảo Tâm là nguồn
Như pháp trình bày trên
Bí Sô khó hành hết
Tuỳ sức tu một sự
Chớ uổng đời ngắn ngủi.
Các thiện đều tuỳ hỷ
Ba diệu hạnh tự tu
Hồi hướng thành Phật đạo
Nhóm phước khiến hằng thu
Đời sau thọ vô cùng
Rộng độ chúng Trời Người
Cũng như Quán Tự tại
Thật khó oán thân đồng
Sanh, lão, bệnh, tử Ba độc trừ
Nước Phật thác sanh làm cha đời
Thọ mạng dài lâu không thể biết
Đồng đấng Di Đà đại giác kia
Khai hiển Thi-la và huệ thí
Trời đất, hư không, danh sáng khắp
Chúng Trời và Người ở đại địa
Chớ khiến người nữ đẹp yêu thương
Phiền não trói buộc chúng hữu tình
Tuyệt dòng sanh tử lên bờ giác
Siêu độ thế gian, chỉ có tên
Do được vô sanh, lìa trần cấu.

A-ly-dã Na-già, Hạt-thọ-na Bồ-đề tát đỏa, Tô-hiệt-lý, Ly-khư. Aly-dã là Thánh; Na-già là rồng, là voi, Hạt-thọ na nghĩa phiên là mạnh, Bồ-đề tát đỏa là Giác Tình; Tô-hiệt-lý tức là thân mật; Ly khư là sách.

Trước nói Long Thọ là lầm.