THANH LIÊN HOA THỦ NHÃN

 

Thanh Liên Hoa Thủ (Tay cầm hoa sen xanh):

Tay thứ năm trong tám tay thuộc Ma Ni Bộ của Mật Pháp, là Pháp Tăng Ích.

Câu thứ 26 trong Chú Đại Bi là:”Rị Ðà Dựng” dịch nghĩa là Tâm hoa sen (Liên Hoa Tâm) tức Thanh Liên Hoa Thủ Nhãn trong tướng tay Đại Bi.

Đại Bi xuất tướng câu 26: Rị Ðà Dựng

– Thiên Thủ Thiên  Nhãn Đại Bi Tâm Đà La Ni: Bản dịch của Tam Tạng BẤT KHÔNG Pháp Sư ở Đời Đường, là tướng tay thứ 20 trong Kinh Văn:

“Nếu vì muốn được sinh về 10 phương Tĩnh Thổ thì nên cầu nơi tay Thanh Liên Hoa (Hoa Sen xanh)”.

Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh: Bản dịch của Tây Thiên Trúc GIÀ PHẠM ĐẠT MA Pháp Sư ở Đời Đường, là tướng tay thứ 19:

“Nếu người nào vì muốn được sinh về Tịnh Độ ở mười phương thì nên cầu nơi bàn tay cầm hoa sen xanh”.

Thiên Quang Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Bí Mật Pháp Kinh: Tướng tay Ấn thứ 19 là:

Nếu muốn vãng sinh về Tịnh Thổ ở 10 phương nên tu pháp Hoa Sen Xanh, tượng KIẾN PHẬT QUÁN TỰ TẠI…? xong tay phải cầm hoa sen xanh, tay trái đặt trên vú trái hiển chưởng, vẽ tượng xong.

Tướng Ấn là  tác Liên Hoa Hợp Chưởng, bung như thế hoa nở.

Kiến Phật Quán Tự Tại Bồ Tát.

19) Thanh-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp

Kinh nói rằng: “Nếu muốn được sanh về mười phương tịnh-độ, nên cầu nơi Tay cầm Hoa-Sen-Xanh.”

Thần-chú rằng: Rị Ðà Dựng [26]

𑖮𑖴𑖟𑖧𑖽
HṚDAYAṂ

HṚDAYAṂ (Tâm  Đẳng)

Rị Ðà Dựng” là “Thanh Liên Hoa Thủ”, dịch ra là “liên hoa tâm”. Nếu bạn tu Liên Hoa Thủ này thành công thì sẽ có hương thơm thanh liên hoa (hoa sen xanh), hay đến khen ngợi mười phương chư Phật, cũng rất vi diệu, không thể nghĩ bàn; thật có thể nói là: “Diệu pháp thâm sâu vô thượng, trăm ngàn ức kiếp khó gặp được”.

Kệ:

Ứng cơ thị hiện vô lượng thân
Đại tiểu quyền thật hiển uy thần
Kim cương bất hoại thường tự tại
Thiên nhãn diêu quán thiên nhĩ văn

Dịch:

Do cảm ứng thân thân cùng thị hiện
Đạo biến, thường, lớn, nhỏ, lộ uy nghiêm
Như kim cang kiên cố thuận theo duyên
Mắt trời rộng, tai trời nghe thấu suốt.

Chơn-ngôn rằng: Án– chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt-ra, bộ ra bạn đà, hồng phấn tra.

𑖌𑖼_ 𑖎𑖰𑖩𑖰 𑖎𑖰𑖩𑖰, 𑖪𑖕𑖿𑖨 𑖥𑖳𑖨𑖿 𑖤𑖡𑖿𑖠 𑖮𑖳𑖽 𑖣𑖘𑖿

OṂ_ KILI  KILI, VAJRA  BHŪR  BANDHA  HŪṂ  PHAṬ

OṂ (Cảnh giác ) KILI KILI (cấm phạt ) VAJRA (Kim Cương) BHŪR BANDHA (cột trói kiên cố ) HŪṂ PHAṬ (phẫn nộ giáng phục ) 

[Bản khác ghi là: OṂ KILI  VAJRA  BHŪR   BANDHA  HŪṂ PHAṬ]

Hoa sen xanh (Nìlapadma) là loài hoa không lá nên rất nhẹ, nếu bị ném xuống có thể bay mau.

Khi màu đen bị nhiễm bởi màu vàng thì thành màu xanh. Điều này biểu thị Hắc Nghiệp (nghiệp đen) của chúng sanh khi được hào quang màu vàng của chư Phật tế độ khiến thành một thể thì được vãng sanh về Tịnh Thổ của chư Phật.

Lại nữa, hoa sen biểu thị cho sự bất nhiễm, màu xanh là màu của biển lớn. Như vậy hoa sen xanh biểu thị cho sự vượt biển khổ mà sanh vào Phật Quốc. Thuở xa xưa, Đức Thích Ca dùng 7 cành hoa sen xanh cúng dường Đức Phật Nhiên Đăng (Dìpam kara) nên được Vô Sanh Nhẫn và thường gặp chư Phật ở 10 phương. Do đó hoa sen xanh là vật bậc nhất cúng dường chư Phật.

Bồ Tát Quán Thế Âm dùng Bản Nguyện Từ Bi xông ướp Tam Muội “Liên Hoa”nên cầm hoa sen xanh biểu thị cho nghĩa“Tất cả chúng sanh cúng dường Phật thì được vãng sanh về 10 phương Phật Thổ”.

Hành Giả muốn trừ nghiệp nặng để được vãng sanh thì làm hình hoa sen xanh đặt trước Bản Tôn tụng chú. Do dùng hoa màu xanh nước biển dâng lên Bản Tôn cho nên vượt được biển khổ.

Kệ tụng:

Niệm Phật niệm pháp niệm thánh tăng
Thập phương tịnh độ bảo liên đăng
Hoa khai Phật hiện viên giác quả
Nhậm vận lai vãng sát na trung.

[Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm thánh Tăng.
Mười  phương tịnh độ được vãng sanh.
Hoa khai thấy Phật chứng “VÔ-SANH”.
TỰ-TẠI” QUA LẠI MƯỜI PHƯƠNG TỊNH ĐỘ TRONG KHOẢNG MỘT SÁT-NA.]

Ý nói là nếu Quý-vị Niệm Phật (NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT…), hoặc Niệm Pháp (Tụng-Kinh,Tham-Thiền, Trì Chú…) hoặc Niệm Tăng (Nam-mô Ðại-bi Quán Thế Âm Bồ-tát… ) thì tùy theo ý nguyện được  vãng sanh về Tịnh-độ ở mười phương. Như là : Đức “Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai” ở phương Đông , Đức “A-Di Đà Như Lai” ở phương Tây

Hay là:

Nếu Quý-vị “TRÌ TỤNG” THANH LIÊN HOA THỦ NHÃN ẤN PHÁP thì cũng được vãng sanh ở mười phương tịnh độ tùy theo ý nguyện của mình. Được hóa sanh trong hoa sen ở mười phương tịnh độ, khi hoa khai thì thấy Phật chứng Vô-sanh, rồi dùng “THẦN TÚC THÔNG” TỰ TẠI ĐẾN ĐI TRONG MƯỜI PHƯƠNG TỊNH ĐỘ, CHỈ KHOẢNG MỘT SÁT-NA. ( Trong 1 niệm có 90 sát-na sanh diệt)

Cho nên, ta thấy cho dù “CÁC NHÀ BÁC HỌC, KHOA HỌC, THIÊN VĂN, VẬT LÝ, NGUYÊN TỬ…” Ở CÙNG TẬN ĐỜI VỊ LAI, CŨNG KHÔNG THỂ HIỂU ĐƯỢC LOẠI “THẦN TÚC THÔNG” NÀY, NẾU HỌ KHÔNG HỌC “KINH HOA NGHIÊN”, “LĂNG NGHIÊM” VÀ “PHÁP HOA.”

Tại sao? Vì Phật, Bồ-tát và người ở Tịnh-độ, thì “TỰ-TẠI” với thời gian không gian, có thể đêm 16 tiểu kiếp ở trong khoảng thời gian “một bửa ăn”. Như đức Phật Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh chẳng hạn.

24.- Bấy giờ, đức Phật Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh từ trong chánh-định mà dậy, vì Diệu-Quang Bồ-tát nói kinh đại-thừa tên ‘Diệu-Pháp-Liên-Hoa Giáo-Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ-Niệm’, trải qua sáu mươi tiểu kiếp chẳng rời chỗ ngồi.

25.- Lúc ấy trong hội, người nghe pháp cũng ngồi một chỗ đến sáu mươi tiểu kiếp thân tâm đều không lay động, nghe đức Phật nói pháp cho là như trong khoảng bữa ăn. Bấy giờ trong chúng không có một người nào hoặc là thân hoặc là tâm mà sanh lười mỏi.

(Kinh Diệu Pháp Liên HoaPhẩm ‘Tựa’ Thứ Nhất)

Hoặc có thể đêm “3 a-tăng-kỳ kiếp” ở trong khoảng thời gian hiến châu. Như Long-Nữ thành Phật chẳng hạn. Long-Nữ làm được việc nầy, chứng tỏ đây là một vị Bồ-tát nhất sanh bổ xứ thị hiện.

7.— Bấy giờ, ngài Xá-Lợi-Phất nói với Long-nữ rằng: “Ngươi nói không bao lâu chứng được đạo vô-thượng, việc đó khó tin. Vì sao? Vì thân gái nhơ-uế chẳng phải là pháp-khí, thế nào có thể được thành vô-thượng chính-giác? Ðạo Phật xa rộng phải trải qua vô-lượng kiếp cần khổ chứa nhóm công-hạnh, tu đủ các độ, vậy sau mới thành được.

Lại thân gái còn có năm điều chướng: một, chẳng được làm Phạm-Thiên-Vương; hai, chẳng được làm Ðế-Thích; ba, chẳng được làm Ma-vương; bốn, chẳng được làm Chuyển-luân Thánh-vương; năm, chẳng được làm Phật. Thế nào thân gái được mau thành Phật?”.

Lúc đó, Long-nữ có một hột châu báu, giá-trị bằng cõi tam-thiên đại-thiên đem dâng đức Phật. Phật liền nhận lấy. Long-nữ nói với Trí-Tích Bồ-Tát cùng tôn-giả Xá-Lợi-Phất rằng: “Tôi hiến châu báu, đức Thế-Tôn nạp thọ, việc đó có mau chăng?”.

—Ðáp: “Rất mau”.

—Long-nữ nói: “Lấy sức thần của các ông xem tôi thành Phật lại mau hơn việc đó”.

Ðang lúc đó cả chúng-hội đều thấy Long-nữ thoạt nhiên biến thành nam-tử, đủ hạnh Bồ-tát, liền qua cõi Vô-Cấu ở phương Nam, ngồi tòa sen báu thành bậc Ðẳng-chánh-giác, đủ ba mươi hai tướng, tám mươi vẽ đẹp, khắp vì tất cả chúng-sanh trong mười-phương mà diễn nói pháp mầu.

(Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm ‘Ðề-Bà-Ðạt-Ða’ Thứ Mười Hai)

Lại nữa, Ta thấy rằng Pháp Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tăng của “ĐẠI-THỪA” LÀ CẦU VÃNG SANH TỊNH ĐỘ ĐỂ CHỨNG ĐƯỢC “VÔ-SANH” TỨC LÀ CHỨNG ĐƯỢC “VIÊN GIÁC QỦA”,  VÀ SẼ THÀNH PHẬT Ở VỊ LAI.

Chứ không phải “ Niệm-Phật, Niệm-Pháp, Niệm-Tăng” để được “HIỆN TẠI LẠC TRÚ”,  hay “Pháp Quyền Giáo” để dứt trừ vọng tưởng, hoặc “Pháp Tiệm Giáo” để giao lần thiện căn…

Kệ tụng:

Một câu A Di Đà
Chứng ba ngôi Bất thối
Chỉ trong một đời này
Được bổ lên Phật vị

(100 Bài Kệ Niệm Phật
Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm dịch)

Lại nữa, từ xưa đến nay người tu “TỊNH ĐỘ” PHẦN ĐÔNG ĐỀU CẦU VÃNG SANH VỀ  cõi CỰC-LỰC CỦA PHẬT A-DI ĐÀ Ở PHƯƠNG TÂY.  TẠI VÌ SAO ?

Hỏi:- Mười phương đều có chư Phật và Tịnh Độ. Nếu vì lẽ chúng sanh ở cõi nầy tâm tánh trược loạn, niệm nhiều vị Phật e Tam Muội khó thành, tại sao người tu không tùy ý niệm một đức Phật, tùy nguyện cầu sanh về một Tịnh Độ nào khác, hà tất phải riêng niệm Đức A Di Đà cầu sanh về Cực Lạc? 

Đáp:- Phàm phu vô trí phải theo lời Phật dạy, chẳng nên tự chuyên, vì thế xưa nay những người tu Tịnh Độ đều chuyên niệm Phật A Di Đà. Theo lời Phật dạy là thế nào?

Đức Thích Ca Thế Tôn một đời thuyết pháp, hằng khuyên chúng sanh niệm Phật A Di Đà cầu sanh về thế giới Cực Lạc. Như trong các kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, Phật Thuyết A Di Đà,  Pháp Hoa, Hoa Nghiêm … có đến mấy mươi bộ, Phật đều ân cần khuyên sanh về Tây Phương.

Chẳng những riêng các kinh, mà trong các luận, chư Bồ Tát, Tổ Sư đều bảo nên cầu sanh về Cực Lạc

Lại nữa, đức Phật A Di Đà có bốn mươi tám điều đại bi nguyện lực để tiếp độ chúng sanh.

Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: ‘Phật A Di Đà có tám mươi bốn ngàn tướng, mỗi tướng có tám mươi bốn ngàn vẻ đẹp tùy hình, mỗi vẻ đẹp phóng ra tám mươi bốn ngàn tia sáng soi khắp pháp giới nhiếp lấy chúng sanh niệm Phật không rời bỏ.

Nếu có chúng sanh nào niệm danh hiệu ngài, thì cơ cảm tương ưng, quyết định sẽ được vãng sanh.

Các kinh Phật Thuyết A Di Đà, Vô Lượng Thọ, Cổ Âm Vương Đà La Ni đều nói: ‘Khi Đức Thích Ca thuyết kinh, hằng hà sa chư Phật ở mười phương đều hiện tướng lưỡi rộng dài che khắp cõi đại thiên để chứng thật rằng nếu chúng sanh nào niệm Phật A Di Đà, tất sẽ nương nhờ đại bi nguyện lực của ngài, quyết định được sanh về thế giới Cực Lạc.’ 

[Còn về “KHÔNG GIAN” thì có thể đêm “KHẮP CÕI ĐẠI THÊN” để ở trong “ MỘT TƯỚNG LƯỠI ” của Chư Phật. Xin xem, “THẬP HUYỀN-MÔN “  của KINH HOA NGHIÊM sẽ rõ “SỰ RỘNG VÀ HẸP TỰ-TẠI KHÔNG NGẠI.”]

Nên biết Phật A Di Đà đối với cõi nầy có nhân duyên lớn. Như kinh Vô Lượng Thọ nói: ‘Trong thời mạt, khi các kinh khác đã diệt hết, chỉ còn kinh nầy lưu trú ở đời một trăm năm để tiếp độ loài hữu tình vãng sanh về cõi kia.’ Đây là điểm chứng minh Phật A Di Đà đối với chúng sanh ở cõi trược nầy có đại nhân duyên. 

Về các Tịnh Độ khác, tuy một, hai bộ kinh có lược khuyên vãng sanh, song chẳng bằng cõi Cực Lạc là tiêu điểm mà các kinh, luận đều ân cần khuyến hướng. 

Tịnh Độ Thập Nghi Luận (của Trí Giả Đại Sư )

Việt Dịch: HT Thiền Tâm

Tuy nhiên, sở thích và nhân duyên của chúng-sanh với chư Phật khác nhau, cho nên nếu Qúy-vị ưa thích vị Phật nào, thì nguyện sanh về cõi  Đức Phật đó.

Kệ tụng:

Chuyên tụng một phẩm Kinh
Một Chân-Ngôn, hiệu Phật
Thì thành tựu các nguyện
Thỏa mãn các mong cầu

Chỉ sợ người không tin
Hoặc tin mà không sâu
Lại ngại không thực hành
Hoặc hành không bền lâu
Hoặc tuy hành bền lâu
Không chí tâm khẩn cầu

Chí tâm là không vọng
Trì niệm quên thân tâm
Lặng lẽ dứt phân biệt
Không trong, ngoài, người, cảnh

Khi đi, đứng, thức, ngủ
Chẳng bỏ câu trì niệm
Lúc hưỡn, gấp, an, nguy
Cũng vững vàng trì niệm
Cho đến khi sắp chết
Vẫn như thế trì niệm
Ðắc, thất đều do đây
Cần chi hỏi tri thức

Không hành như trên đây
Phật cũng khó cứu vớt
Huống nữa là phàm Tăng
Giúp ích được gì đâu
 
Nhớ lời Cổ Ðức dạy:
“Ta có một bí quyết
Khẩn thiết khuyên bảo nhau
Là hết lòng THÀNH KÍNH
Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”
Hãy ghi nhớ lời nầy
Lắng lòng suy gẫm sâu]

THÀNH KÍNH là “NHẤT TÂM” tu “MỘT PHÁP” như chỉ trì 1 thủ nhãn…, trong vòng 7, 21, 49…để khắc kỳ cầu chứng nghiệm.Tuy nhiên, nếu thấy không làm được thì có thể kiêm tu hoặc “Niệm Phật và Trì Chú” , hoặc “Trì Chú và Tụng Kinh”…  như dù “CHUYÊN TU” hay “KIÊM TU” , đều tối trọng yếu là dùng “TÍN, NGUYỆN”  để đem công hạnh tu trì trong một đời hướng về cõi Tịnh-độ mà Qúy-vị ưa thích ĐƯỢC VÃNG SANH.]

PHÁP-YẾU-TU-HÀNH

H.T Thích-Thiền-Tâm.

Tóm lại, nếu Quý-vị “TRÌ” THANH LIÊN HOA THỦ NHÃN ẤN PHÁP  thì tùy ý vãng-sanh ở 10 phương “TỊNH ĐỘ”, được hóa sanh trong hoa sen xanh, khi hoa nở thấy Phật “CHỨNG VÔ-SANH”, rồi trong khoảng 1 “SÁT-NA TỰ-TẠI” qua lại trong 10 phương Tịnh-độ.

Cũng như trong KINH LĂNG GÌA nói về “Ý SANH THÂN , KHÔNG CẦN TÁC Ý MÀ HIỆN VÔ-LƯỢNG-THÂN CÙNG MỘT LÚC KHẮP MƯỜI PHƯƠNG”

 (CHỦNG LOẠI CÂU SANH VÔ-HÀNH TÁC-Ý SANH THÂN)

Kệ tụng Việt dịch:

Niệm Phật niệm pháp niệm thánh tăng
Sen như đèn báu tịnh mười phương
Trên hoa Phật hiện viên thành đạo
Đến đi niệm niệm ứng thời cơ.

 

Thanh-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Chín 

Rị Ðà Dựng [26]
𑖮𑖴𑖟𑖧𑖽
HṚDAYAṂ

Án– chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt-ra,
bộ ra bạn đà, hồng phấn tra.
𑖌𑖼_ 𑖎𑖰𑖩𑖰 𑖎𑖰𑖩𑖰, 𑖪𑖕𑖿𑖨 𑖥𑖳𑖨𑖿 𑖤𑖡𑖿𑖠 𑖮𑖳𑖽 𑖣𑖘𑖿
OṂ_ KILI  KILI, VAJRA  BHŪR  BANDHA  HŪṂ  PHAṬ

PHÁP-YẾU-TU-HÀNH
H.T Thích-Thiền-Tâm.

Yếu điểm của đường tu
Gồm hai phần Sự, Lý
Lý tu là sửa tâm
Cho hợp với chân lý
Sự tu chỉnh ba nghiệp
Giúp chứng cảnh chân như
Sửa tâm là dứt trừ
Nghiệp tham, ái, nóng, giận
Si mê cùng tật đố
Ngã mạn với kiêu căng
Chớ chạy theo hình thức
Say đắm nẻo lợi danh
Chuộng địa vị, quyền hành
Khoe thông minh, tài giỏi
Phải sanh lòng giác ngộ
Niệm thanh tịnh từ bi
Dõng tiến mà kiên trì
Sáng suốt mà khiêm hạ
Tự nghĩ mình xưa nay
Ðã tạo nhiều tội chướng
Chịu nhẫn nhục, sám hối
Biết an phận, tùy duyên
Duyên tốt chẳng kiêu khoe
Duyên xấu không thối não
Bình tỉnh mãi tiến tu
Như bơi thuyền ngược nước
Về biển Tát Bà Nhã
Ðến Bảo Sở an vui
Ðó là phần tu tâm
Hợp với lý giải thoát
Sự tu là thân nghiệp
Lễ kính Phật sám hối
Khẩu nghiệp trì chú kinh
Hoặc niệm Phật khen ngợi
Ý nghiệp giữ thanh tịnh
Mật tu môn Lục Niệm
Nguyện đền đáp bốn ân
Nguyện mình cùng chúng sanh
Sanh cõi vui thành Phật

Ðời đời gặp chánh Pháp
Tu sáu độ muôn hạnh
Tâm Bồ Ðề độ sanh
Trần kiếp không thối chuyển
Tu Sự mà bỏ Lý
Làm sao mở chân tâm?
Tu Lý mà phế Sự
Cũng không thể thành Phật !
Tu Sự chẳng chấp TƯỚNG
Thì tức SẮC là KHÔNG
Tu Lý không bỏ Sự
Ðó tức KHÔNG là SẮC
Lý chính thật Chân-Không
Sự là phần Diệu-Hữu
Chân-Không tức Diệu-Hữu
Diệu-Hữu tức Chân-Không
Nếu chưa đạt lẽ nầy
Thà tu hành chấp CÓ
Ðừng cầu cao bác tướng
Mà lạc vào Ngoan-Không
Ðây chính hầm khổ đọa
Kẻ thông minh đời nay
Ða số mắc lỗi nầy
Xưa có sư Tông-Thắng
Tài huệ biện cao siêu
Vì ỷ giỏi kiêu căng
Nên bị nhục chiết phục
Hỗ thẹn muốn tự tận
Thọ thần hiện thân khuyên
“ Sư nay đã trăm tuổi
Tám mươi năm lầm lạc
May nhờ gặp Thánh nhân
Huân tu mà học đạo
Tuy có chút công đức
Mà lòng hay bỉ ngã
Ỷ thông minh biện bác
Lấn người không khiêm hạ
Lời cao hạnh chưa cao
Nên phải bị quả báo
Từ đây nên tự kiểm
Ít lâu thành trí lạ
Các THÁNH đều tồn tâm
NHƯ LAI cũng như vậy ”

Lại có kẻ đua tướng
Tranh Thượng Tọa ,Ni Sư
Mượn thuyết pháp, tụng kinh
Ðể mưu cầu lợi dưỡng
Dành đệ tử, chùa chiền
Lập bè đảng, quyến thuộc
Thấy có ai hơn mình
Liền thị phi tật đố
Hại Thầy Bạn, phản Ðạo
Lừa dối hàng tín tâm
Lời nói thật rất cao
Việc làm thật rất thấp
Lý Sự đều sai trái
Hạng ấy hiện rất nhiều
Tạo biển khổ thêm sâu
Khiến đau lòng tri-thức
Lý, Sự đại lược thế
Công đức làm sao được?
Phật là ÐẠI-Y-VƯƠNG
Pháp là DIỆU-TIÊN-DƯỢC
Là phương-thuật rất mầu
Là như-ý bảo châu
Hay trừ nạn nghèo khổ
Khiến cho được giàu vui
Hay trừ tất cả bệnh
Khiến mau được bình phục
Hay trừ nạn yểu số
Khiến thọ-mạng dài lâu
Hay khỏi các tai ách
Như bão lụt, binh lửa
Giặc cướp cùng tà ngoại
Ác thú với độc xà
Các yêu ma , quỷ mị
Nạn động đất, xe, thuyền
Những phù-chú ếm-đối
Ðều phá tiêu tan hết
Cho đến trừ tội chướng
Sanh trưởng phước huệ to
Cứu chúng đọa Tam Ðồ
Siêu lên bờ giải thoát
Chuyên tụng một phẩm Kinh
Một Chân-Ngôn, hiệu Phật
Thì thành tựu các nguyện
Thỏa mãn các mong cầu

Chỉ sợ người không tin
Hoặc tin mà không sâu
Lại ngại không thực hành
Hoặc hành không bền lâu
Hoặc tuy hành bền lâu
Không chí tâm khẩn cầu
Chí tâm là không vọng
Trì niệm quên thân tâm

Lặng lẽ dứt phân biệt
Không trong, ngoài, người, cảnh
Khi đi, đứng, thức, ngủ
Chẳng bỏ câu trì niệm
Lúc hưỡn, gấp, an, nguy
Cũng vững vàng trì niệm
Cho đến khi sắp chết
Vẫn như thế trì niệm
Ðắc, thất đều do đây
Cần chi hỏi tri thức
Không hành như trên đây
Phật cũng khó cứu vớt
Huống nữa là phàm Tăng
Giúp ích được gì đâu
Nhớ lời Cổ Ðức dạy:
“Ta có một bí quyết
Khẩn thiết khuyên bảo nhau
Là hết lòng thành kính
Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”
Hãy ghi nhớ lời nầy
Lắng lòng suy gẫm sâu
Trời xanh tươi biếc một mầu
Ánh trăng vẫn sáng một mầu xưa nay
Mà sao đời đạo đổi thay
Cỏ hoa đượm nét u-hoài thờ-ơ
“Thuyết pháp bất đậu cơ
Chúng sanh một khổ hải ”
Ðời mạt suy thế đạo lại thêm thương
Sóng dồn bọt biển tà dương
Con thuyền cứu độ khuất đường vân yên
Bụi hồng tung gió đảo điên
Vô tình mai nở diệu hiền cành xuân.

Nam-mô Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như-Lai.