TỔNG NHIẾP THIÊN TÝ THỦ NHÃN

 

Tổng Nhiếp Thiên Tý Thủ:

Câu thứ 74 trong Chú Đại Bi là “Ma Bà Lỵ Thắng Yết Ra Dạ” dịch nghĩa là thành tựu tất cả Công Đức tức Tổng Nhiếp Thiên Tý Thủ Nhãn trong tướng tay Đại Bi.

Đại Bi xuất tướng câu 74: Ma Bà Lỵ Thắng Yết Ra Dạ

42) Tổng-Nhiếp-Thiên-Tý Thủ Nhãn Ấn Pháp

Kinh nói rằng: “Nếu muốn hàng phục ma oán trong cõi Đại-thiên, nên cầu nơi Tay Tổng-Nhiếp-Thiên-Tý-Thủ.”

Thần-chú rằng: Ma Bà Lợi Thắng Yết Ra Dạ [74]

𑖦𑖯 𑖪𑖨𑖰 𑖫𑖒𑖿𑖎𑖨𑖯𑖧
MĀ  VARI  ŚAṄKARĀYA

(Đừng buông bỏ) VARI (Tâm nguyện) ŚAṄKARĀYA (Sự câu tỏa)

MĀ  VARI  ŚAṄKARĀYA: Đừng buông bỏ sự câu tỏa của Tâm nguyện tức là bản tính Đại chí đại dũng của hàng Bồ Tát.

Ma Bà Lợi Thắng”: Là tiếng Phạn, dịch ra nghĩa là “đại dũng”, tức là dũng mãnh tinh tấn. Còn có lối dịch khác là “anh hùng đức, đại anh hùng”, đại anh hùng có đức hạnh. Ai có thể xưng là đại anh hùng ? Phật có thể xưng là đại anh hùng, Quán Thế Âm Bồ Tát có thể xưng là đại anh hùng.

Yết Ra Dạ” dịch là “sinh tính”, và dịch là “bổn tính”. Ý nói bổn lai tự tính của tất cả chúng sinh đều có đại anh hùng đức hạnh. Ðại anh hùng đức hạnh tức là “Tổng Nhiếp Thiên Tý Thủ Nhãn”. Thủ Nhãn này hàng phục được tất cả ma oán trong ba ngàn đại thiên thế giới, chẳng những hàng phục được ma oán ở thế giới này của chúng ta mà còn hàng phục được ma oán trong ba ngàn thế giới.

Chúng ta tu 42 Thủ Nhãn, quan trọng nhất là “Tổng Nhiếp Thiên Tý Thủ”, khi bạn tu Tổng Nhiếp Thiên Tý Thủ thì bốn mươi mốt Thủ Nhãn kia cũng đều bao quát ở trong đó. Bạn nói, vậy chúng ta chỉ tu Tổng Nhiếp Thiên Tý Thủ này thôi, có được chăng? Nếu bạn lười biếng thì cũng có thể được. Tại sao? Nếu bạn không lười biếng thì bốn mươi mốt Thủ Nhãn kia cũng nên tu luôn. Nếu bạn lười biếng, nói rằng tôi muốn tu thành một Bồ Tát lười thì chỉ tu Tổng Nhiếp Thiên Tý Thủ này thôi, cũng bao quát hết bốn mươi mốt Thủ Nhãn kia ở trong đó, cũng được, bất quá thành công chậm hơn một chút. Tại sao? Vì bạn lười biếng. Bạn lười nên pháp này cũng không thành tựu sớm được. Nếu bạn không muốn thành một Bồ Tát lười thì đừng sợ phí việc, tu nhiều pháp một chút thì tốt.

Kệ:

Thiên thủ thiên nhãn đại từ bi
Phổ hóa tam giới độ chúng hồi
Chư thiên ma vương giai thụ thủ
Cải ác hướng thiện tốc lai quy

Dịch:

Đại từ đại bi ngàn tay ngàn mắt
Dạy chúng sinh ba cõi sớm quay về
Vua ma cõi trời cùng tiếp nhận đầu tiên
Bỏ ác làm hiền tức thì trở bước.

Chơn-ngôn rằng: Đát nể dã thá, phạ lồ chỉ đế, thấp phạ ra dã, tát bà đốt sắc, tra ô hạ di dả, Sá-phạ hạ.

𑖝𑖟𑖿𑖧𑖞𑖯: 𑖀𑖪𑖩𑖺𑖎𑖰𑖝𑖸𑖫𑖿𑖪𑖨𑖯𑖧 𑖭𑖨𑖿𑖪 𑖟𑗜𑖬𑖿𑖘 𑖄𑖮 𑖦𑖰𑖧 𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯
TADYATHĀ: AVALOKITEŚVARĀYA SARVA DUṢṬA UHA MIYA (?ŪHA-MĪYA) SVĀHĀ

Có bản Việt-văn thiếu 4 chữ “tát bà đốt sắc, còn bản Anh-văn thì có thêm chữ Án– (Nan.

TADYATHĀ (Liền nói Chú là) AVALOKITEŚVARĀYA (Quán Tự Tại) SARVA DUṢṬA UHA MIYA (phá hủy giết chết tất cả ác) SVĀHĀ (quyết định thành tựu).

Kệ tụng:

Thủ nhãn biến thân diệu vô biên
Hàng phục chúng ma trấn tam thiên
Khảo tà quy chánh tu thiện pháp
Ma ha bát nhã nan ngôn tuyên.

[TAY MẮT hóa THÂN diệu khó lường
Hàng phục chúng ma, hộ TAM THIÊN
Cải tà qui chánh tu thiện pháp
Ma Ha Bát Nhã, THỂ VÔ NGÔN.]

THỂ của tất cả pháp đều tương đồng, đều là BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA, không thể dùng ngôn ngữ lời nói SUY NGHĨ luận bàn mà biết được, chỉ khi chứng được VIÊN THÔNG thì tự nhận biết, thì tự thành tựu tất cả pháp. Còn TƯỚNG DỤNG của các pháp thì khác nhau.

Cho nên, mỗi môn đều có tông chỉ riêng. Các bậc hoằng-dương tùy theo chỗ lập-pháp của mình, bao nhiêu phương tiện thuyết-giáo đều đi về những tông-chỉ ấy.

Như bên Thiền lấy: “Chỉ thẳng lòng người, thấy tánh thành Phật” làm tông-chỉ.

Tịnh Độ môn lấy: “Một đời vãng sanh, được Bất Thối chuyển” làm tông.

Bên Hoa Nghiêm lấy: “Lìa thế gian nhập pháp giới” làm tông.

Thiên Thai giáo lấy: “Mở, bày, ngộ vào tri kiến Phật” làm tông.

Bên Tam Luận lấy: “Lìa hai bên, vào Trung Ðạo” làm tông.

Pháp Tướng môn lấy: “Nhiếp muôn pháp về Chân Duy Thức” làm tông.

Mật giáo lấy: “Tam mật tương ưng, tức thân thành Phật” làm tông.

Luật môn lấy: “Nhiếp thân ngữ ý vào Thi La Tánh” làm tông.

(Niệm Phật Thập Yếu – Hòa Thượng Thích Thiền Tâm)

Vì vậy, nếu  quí vị muốn ở nơi 1 THÂN TÂM, mà hiện ra ngàn tay ngàn mắt, soi thấy khắp pháp giới, hàng phục tất cả chúng ma,  bảo hộ chúng sanh trong cõi TAM THIÊN, thì quí vị phải y theo bồ tát QUÁN-THẾ-ÂM mà phát thệ nguyện:

KINH VĂN:

Nếu trong đời vị lai, tôi có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh với thần chú này, thì xin khiến cho THÂN tôi liền sanh ra ngàn tay ngàn mắt.

Khi tôi phát thệ rồi, thì ngàn tay ngàn mắt đều hiện đủ nơi thân, lúc ấy, cõi đất mười phương rung động sáu cách, ngàn đức Phật trong mười phương đều phóng ánh quang minh soi đến thân tôi, và chiếu sáng mười phương vô biên thế giới. Từ đó về sau, tôi ở trong vô lượng pháp hội của vô lượng chư Phật, lại được nghe và thọ trì môn đà ra ni này.

Mỗi lần nghe xong, tôi khôn xiết vui mừng, liền được vượt qua sự sanh tử vi tế trong vô số ức kiếp. Và từ ấy đến nay, tôi (bồ tát QUÁN-THẾ-ÂM) vẫn hằng trì tụng chú này, chưa từng quên bỏ. Do sức trì tụng ấy, tùy theo chỗ sanh, tôi không còn chịu thân bào thai, được hóa sanh nơi hoa sen, thường gặp Phật nghe pháp.

Nếu có vị Tỳ khưu, Tỳ khưu Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di hay đồng nam, đồng nữ nào muốn tụng trì chú này, trước tiên phải phát tâm từ bi đối với chúng sanh, và sau đây y theo tôi mà phát nguyện:

1. Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau biết tất cả pháp.

2. Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được mắt trí huệ.

3. Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau độ các chúng sanh.

4. Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được phương tiện khéo.

5. Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau lên thuyền Bát nhã.

6. Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được qua biển khổ.

7. Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau được giới định đạo.

8. Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm lên non Niết Bàn.

9. Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau về nhà vô vi.

10. Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm, 
Nguyện con sớm đồng thân pháp tánh.

Nếu con hướng về nơi non đao,
Non đao tức thời liền sụp đổ.

Nếu con hướng về lửa, nước sôi,
Nước sôi, lửa cháy tự khô tắt.

Nếu con hướng về cõi địa ngục,
Ðịa ngục liền mau tự tiêu tan.

Nếu con hướng về loài ngạ quỷ,
Ngạ quỷ liền được tự no đủ.

Nếu con hướng về chúng Tu La,
Tu la tâm ác tự điều phục.

Nếu con hướng về các súc sanh,
Súc sanh tự được trí huệ lớn.

Khi phát lời nguyện ấy xong, chí tâm xưng danh hiệu của tôi, lại chuyên niệm danh hiệu bổn sư tôi là đức A Di Đà Như Lai, kế đó tiếp tụng đà ra ni thần chú này. Nếu chúng sanh nào, trong một ngày đêm tụng năm biến chú, sẽ diệt trừ được tội nặng trong ngàn muôn ức kiếp sanh tử”.

Ta thấy đoạn KINH trên bồ tát QUÁN THẾ ÂM dạy chúng ta tu theo 4 đều:

 1. PHÁT NGUYỆN

2. Niệm “NAM MÔ ĐẠI-BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT” ít nhứt 3 lần trở lên, để y theo hạnh ĐẠI-BI của ngài mà tu hành theo.

3. Tụng mỗi ngày ít nhất là 5 LẦN CHÚ ĐẠI-BI, 5 LẦN THỦ NHÃN như Tổng-Nhiếp-Thiên-Tý Thủ Nhãn Ấn Pháp” chẳng hạn.

4. Lại CHUYÊN NIỆM “ Nam Mô A-Di-Đà Phật”. Nghĩa là ngoài thời khóa kể trên, trong một ngày đêm, khi nào có thể liền nhiếp THÂN TÂM vào danh hiệu “NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT”, lâu ngày sẽ được NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT, mới biết diệu dụng của câu niệm Phật “BẤT KHẢ TƯ NGHỊ”, không thể dùng văn tự ngôn ngữ SUY NGHĨ mà bàn luận biết được. Cho nên, quí vị phải hành trì cho thiết thật.

Lặng ngồi chốn tĩnh lâu
Trăng sáng, gió canh thâu!
Bát-Nhã hương lòng nhẹ.
Lăng-Già niệm ý sâu

Phật, Tâm chung một vẻ
Thiền, Tịnh chẳng hai mầu
Ngưng chuỗi, thầm riêng hỏi
Hoa đêm điểm điểm đầu…

(Niệm Phật Phải Hành Trì Cho Thiết Thật- HT.Thích Thiền Tâm)

 

KINH NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT

Đời Tấn, ngài Tam-tạng Pháp-sư Cưu-Ma-La-Thập dịch từ Phạn ra Hán.
Hòa-Thuợng Thích-Thiền-Tâm dịch từ Hán-văn ra Việt-văn.

 

PHẨM THỨ NĂM
QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT NIỆM PHẬT VIÊN THÔNG

 Lúc bấy giờ, Quốc mẫu Vi-Đề-Hy hoàng thái hậu hớn hở vui mừng được nghe pháp yếu của Như-Lai qua lời dạy của ngài Phổ-Hiền Đại Bồ-Tát, bèn tiếp tục thưa thỉnh:

– “Kính bạch đấng Thiên Nhân Sư tối tôn, tối thắng ! Kính bạch Đại-sĩ đại từ, đại bi ! Con cũng thường nghe chư vị trưởng lão trong tăng già luôn luôn nhắc nhở rằng chỉ có Tứ-niệm-xứ là con đường độc nhất giúp chúng sanh diệt trừ ưu bi khổ não, chứng ngộ Niết-bàn. Nay được Thế-Tôn mở bày pháp Niệm Phật, khiến hằng ưu-bà-tắc, và ưu-bà-di đều phân vân, do dự. Ý nghĩa ấy như thế nào ? Đâu mới là pháp chân thật, rốt ráo ? Đâu là pháp phương tiện, quyền biến ? Đâu là pháp tối hậu mà Như-Lai thường ban cho các chúng sanh ở vào thời kỳ Chánh pháp cuối cùng ?”

Đức Phật mỉm cười lặng yên. Ngài Phổ-Hiền an nhiên nhập vào Niệm Phật Tam-muội. Thân tâm bất động.

Khi ấy, ngài Quán-Thế-Âm Đại Bồ-Tát liền từ bảo tòa đứng dậy, trịch áo phơi bày vai bên hữu, cung kính nhiễu quanh đức Phật ba vòng. Rồi Ngài hướng về bà Vi-Đề-Hy mà bảo rằng:

– “Nay tôi nương uy thần vô hạn của đức Thích-Ca Mâu-Ni Thế-Tôn, và tùy thuận Bản-nguyện-lực vô biên vô lượng của đức Phật A-Di-Đà, mà tuyên dương năng lực vô cùng tận của danh hiệu Phật, tức là Pháp Môn Niệm Phật Tam Muội.

– Nầy Vi-Đề-Hy, hãy nhận rõ như thế nầy, đừng rơi vào nghi lầm nữa.

Đúng như ngươi vừa mới trình bày, Tứ-niệm-xứ là pháp diệt khổ, là pháp đối trị tham dục, ưu bi khổ não, là pháp đắc Niết-bàn vắng lặng. Còn pháp Niệm Phật Tam-muội lại là pháp thành Phật, là pháp chứng Vô-thượng-giác, là pháp thâm nhập cảnh giới bất tư nghị của chư Phật, là pháp mở bày tỏ ngộ Tri Kiến Như-Lai, là pháp cứu độ tất cả mọi chúng sanh, là pháp siêu việt trên hết thảy hí luận cùng thiên kiến của nhị thừa. Tại sao vậy ?

Trước đây, đức Thế-Tôn vì những người ghê sợ hiểm nạn sanh tử, mà nói pháp Tứ-niệm-xứ, chánh niệm tinh tấn nhiếp phục tham sân si, để thoát khổ và đắc A-la-hán.

Nay vì những người tín ngưỡng, khát khao quả vị Bồ-đề chí hướng mong cầu Phật đạo, phát khởi đại bi tâm mà thực hành hạnh nguyện Bồ-Tát thì đức Thế-Tôn chỉ dạy pháp môn Niệm Phật Tam-muội.

Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, vì một niệm bất giác nổi lên, che mờ Bản-thể Thường-trụ, nhận vật bên ngoài làm TÂM. Luôn luôn bỏ mất TÂM chân thật, nên bị cảnh vật xoay chuyển. Do đó khởi tâm phân biệt, thấy có lớn nhỏ, rộng hẹp, cao hạ… Nếu xoay được cảnh vật bên ngoài thì thân tâm sẽ sáng suốt, trạm nhiên, trọn đầy, tức thời đồng với Như-Lai không khác.

Muốn xoay chuyển ngoại vật, thì không chi bằng sử dụng diệu lực vô úy của danh hiệu Phật. Thật vậy, nhờ xưng niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật mà hành giả nhìn thấy cảnh vật bên ngoài đúng như bản chất thật sự của chúng. Do đó không còn bị ngoại cảnh chi phối, điều phục thân tâm. Và chẳng còn mống khởi tâm phân biệt. Lúc ấy, tuy không rời pháp hội mà biến hiện khắp mười phương quốc độ; trong một lỗ chân lông vẫn chứa đựng cả Hoa-tạng Thế-giới-hải.

Khi xưng niệm danh hiệu Phật, hành giả không để tâm dong ruổi theo thanh trần, mà xoay cái nghe trở vào Chơn-tánh, đó là danh hiệu Phật đang tuôn chảy liên miên bất tận thành một dòng Tâm, mà mỗi mỗi sát-na đều hiển hiện Chơn-như-tánh. Chính nó thật là Tánh Nghe của mình, chẳng còn hai tướng động và tịnh, toàn là thể vắng lặng, soi chiếu khắp mười phương.

Tiếp tục hành trì niệm Phật như thế, chẳng bao lâu thì Tánh Nghe cũng không còn. Khi ấy, Phật Trí tự nhiên tỏa rạng, danh hiệu Phật vẫn tương tục, không gián đoạn.

Nầy Vi-Đề-Hy, trong pháp hội Thủ-Lăng-Nghiêm, tôi đã trình bày nhân địa tu hành Nhĩ Căn Viên Thông cho đại chúng. Nhưng, thời Mạt pháp các kinh điển dần dần ẩn mất, mà nên biết kinh Thủ-Lăng-Nghiêm, sẽ bị diệt trước nhất, tiếp sau là kinh Lăng-Già, kinh Kim-Cương, kinh Ma-Ha Bát-Nhã, kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa … Nếu không nương nhờ pháp niệm Phật thì rất khó chứng đắc Nhĩ Căn Viên Thông. Bởi vì sao ? Bởi vì Niệm Phật Tam-muội chính là món Viên-thông đệ nhất.

Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, vì lăn lộn trong đêm tối vô minh, nhận giặc làm cha, lấy vọng kiến làm chỗn nương về, lấy tà kiến làm bạn lữ, lấy biên kiến làm lương dược. Nhận ngã chấp, ngã kiến làm Tâm. Rời xa Tri-kiến Giải-thoát Vô-thượng. Do đó, khởi tâm phân biệt, thấy đúng sai, tà chánh, thiện ác, chân ngụy … nếu lọc sạch ngã kiến, ngã chấp thì thân tâm sẽ quang minh, thường tại, chiếu suốt mười phương pháp giới. Tức đồng đẳng với Tri Kiến giác ngộ của chư Như-Lai.

Nếu muốn gạn lọc ngã kiến, ngã chấp, thì không chi hơn là phát huy năng lực vô biên của danh hiệu Phật. Thật vậy, nhờ chuyên tâm xưng niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật mà hành giả tuần tự chuyển Thức thành Trí. Ngã chấp tự nhiên rơi rụng, ngã kiến tự nhiên tan mất như bong bóng nước dưới ánh mặt trời. Lúc bấy giờ, tuy không lìa cung Đâu-Suất mà vẫn phân thân khắp vi trần quốc độ để chuyển pháp luân vô thượng, và khai thị tuệ giác cho vô lượng chúng sanh, giúp hết thảy tứ sanh, cửu hữu cùng ngộ nhập Phật Tri Kiến.

Khi xưng niệm danh hiệu Phật, hành giả không để Thức nương theo nhân duyên mà dấy động, nên chẳng thành tựu pháp Y-tha-khởi. Vì không có sự tham dự của ngã và ngã sở nên Biến-kế Sở-chấp cũng chẳng tồn tại. Chỉ có danh hiệu Phật vẫn tuôn chảy liên miên bất tận thành một dòng tâm, mà mỗi mỗi sát-na đều biểu hiện Vô-thượng Diệu-viên Thức-tâm Tam-Muội, tức là Chân Duy Thức Tánh.

Tiếp tục hành trì niệm Phật như thế chẳng bao lâu, thì chẳng còn nhìn thấy huyễn tướng của vạn pháp ở bên ngoài và cũng chẳng còn bắt gặp Tám thức ở bên trong. Trong hay ngoài đều giả dối, không thật. Ngay cả tướng Duy-thức cũng chẳng có nữa. Vì ba đời mười phương Như-Lai, vi trần sát quốc độ, hư không, sắc pháp, tâm vương, tâm sở… đều không một thứ nào ra ngoài Chân Duy Thức Tánh mà tự hữu, tự sanh, tự diệt, danh hiệu Phật vẫn tương tục, không gián đoạn, như có, như không, cho đến khi Chân Duy Thức biến mất, Đại Viên Cảnh Trí tự nhiên phơi bày, danh hiệu Phật sẽ dẫn dắt hành giả đi vào tánh Viên Thành Thật, chứng Vô-sanh Pháp-Nhẫn.

Do đó, phải nói rằng Niệm Phật là pháp môn đệ nhất dùng để chuyển thức thành trí, mà chúng sanh thời Mạt pháp phải siêng năng thọ trì.

Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, bị vô số tư tưởng điên đảo làm khuất lấp tánh Viên-giác. Như kẻ ngủ mê chợt thức giấc giữa ngã tư đường cái, chẳng rõ phương hướng, lẫn lộn chánh tà, thấy cong nhìn ngược, bất phân thiện ác. Tư tưởng điên đảo ấy nẩy sanh thân và tâm, rồi nhận thân tứ đại giả hợp làm thân, chấp cái tư tưởng vô minh điên đảo kia làm tâm. Cứ thế mà sanh tử, tử sanh nối nhau không dứt, tạo vòng lẩn quẩn luân hồi.

Nhưng cái vô minh điên đảo ấy cũng chẳng thật. Như hoa đốm, như bóng nước, như ảo tưởng nơi sa mạc, như người ngủ chiêm bao, thấy những sự việc, cảnh vật rõ ràng, nhưng khi thức dậy, thời không còn gì hết. Nếu chuyển hóa vô minh điên đảo thời thân và tâm sẽ thành Giác-ngộ. Hoặc không phát tâm tu trì thời vẫn ở mãi trong sanh tử huyễn mộng ấy mà tự vui. Chỉ có danh hiệu Phật là đầy đủ năng lực nhiệm mầu để chuyển hóa sanh tử trở nên Niết-bàn, chuyển hóa giả huyễn trở nên chân thật.

Vì sao vậy?

Khi xưng niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật, hành giả dần dần thành tựu chánh định Như-Lai, tự nhiên phát sanh Tuệ-giác Không-tánh, vì danh hiệu Phật là Hư-không-tạng, là Viên-giác-tánh, là Vô-cấu-tạng, là Tịch-tịnh-tạng… Nhờ vậy, hành giả biết các pháp đều như huyễn, thời tự nhiên lìa xa các huyễn hóa, sanh diệt. Ngay lúc ấy, bèn thâm nhập Viên-giác-tánh. Đó gọi là tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác.

Dùng pháp nào để Tri ? Nếu không phải là diệu dụng của danh hiệu Phật ?

Không cần phải hủy diệt các thứ huyễn, mới cho chúng nó là huyễn. Không cần thay đổi bản chất huyễn của nó mới gọi là Không. Mà chính cái biết “nhứt thiết pháp là Không” khiến đương thể của huyễn pháp tức là Không.

Tiếp tục xưng niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật như thế, hành giả không phóng tâm theo huyễn cảnh, huyễn sự, mà hướng cái biết trở vào Viên-giác-tánh. Đó là danh hiệu Phật đang tuôn chảy liên miên bất tận thành một khối lưu ly sáng rực, vằng vặc. Mà mỗi mỗi sát-na đều hiển lộ Như-Lai Tạng, và cái biết cũng không còn nữa. Danh hiệu Phật vẫn tương tục không gián đoạn, hòa tan căn, trần, thức đều nhập vào Viên-giác-tánh, bình đẳng bất động, thường trụ như hư không và tròn đầy chiếu suốt mười phương.

Bởi vậy, phải nói rằng niệm Phật là pháp môn đệ nhất, sử dụng danh hiệu Như-Lai mà thâm nhập Như-Lai-Tạng, mà chuyển biến huyễn hóa, hư dối trở nên Viên-giác-tánh. Các hạng chúng sanh thời Mạt pháp phải siêng năng thọ trì.

Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, bị phiền não chi phối ngày đêm không tạm dừng, nên nhận vọng tưởng làm Tâm, bỏ quên Thắng-giải-trí, Vô-thượng-trí. Rồi lại bị tham, sân, si, mạn, nghi lôi cuốn, và thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến chồng chất lấp vùi. Do đó khởi tâm phân biệt, thấy có mừng có giận, yêu ghét, vui buồn, vinh hoa, hủy nhục… nếu tận trừ phiền não thì thân tâm vắng lặng, an nhiên, tự tại, tức đồng với chư Phật không hai không khác.

Muốn tận trừ phiền não, thì không chi hơn là phát huy năng lực Trí giả siêu việt của danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật. Thật vậy nhờ cần mẫn xưng niệm Phật hiệu mà hành giả hiện bày Tự Tâm Quang Minh Hiện Lượng, chuyển phiền não dữ dội ấy trở thành Bồ-đề thật tướng, đưa hành giả thẳng vào cảnh giới Thánh Tri Tự Chứng. Lúc bấy giờ, có khả năng bấm ngón chân xuống mặt đất, sử dụng ấn Địa Xúc để cải biến Ta-bà thành Tịnh-độ trang nghiêm, niệm niệm tương ứng với Thập-địa Bồ-Tát, niệm niệm du hành, giáo hóa xã hội chúng sanh khắp mười phương vi trần bằng hà sa thế giới.

Tóm lại, nếu quí vị “CHUYÊN TRÌ” Tổng-Nhiếp-Thiên-Tý Thủ Nhãn Ấn Pháp, tức cũng như người “CHUYÊN NIỆM” PHẬT A-DI-ĐÀ ĐƯỢC VIÊN THÔNG vậy,  thì có khả năng chuyển THỨC PHÂN BIỆT thành TRÍ KIM CANG (CHƠN TÂM THƯỜNG TRỤ), cho nên thành tựu được tất cả các THỦ NHÃN.

Và ngược lại, nếu quí vị tu bất cứ thủ nhãn nào được VIÊN THÔNG, thì thành tựu được TỔNG NHIẾP THIÊN TÝ THỦ NHÃN ẤN PHÁP.

Lúc nầy, thì ở nơi 1 THÂN TÂM của qúi vị có khả năng hiện ra vô lượng TAY MẮT, để hàng phục tất cả loài yêu ma, cứu độ vô lượng vô biên chúng sanh trong cõi TAM THIÊN, làm cho họ cải TÀ quy CHÁNH tu theo thiện pháp. Sau cùng, thành tựu  NHỨT THIẾT CHỦNG TRÍ như chư PHẬT vậy.

Kệ tụng Việt dịch:

Biến hình tay mắt chẳng tận cùng
Cõi nước ba ngàn an chúng ma
Khảo nghiệm chánh tà tu thiện pháp
Dùng lời há nói được ma ha.

Tổng-Nhiếp-Thiên Tý Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Bốn Mươi Hai

Ma Bà Lỵ Thắng Yết Ra Dạ [74]
𑖦𑖯 𑖪𑖨𑖰 𑖫𑖒𑖿𑖎𑖨𑖯𑖧
MĀ  VARI  ŚAṄKARĀYA

Đát nể dã thá, phạ lồ chỉ đế, thấp phạ ra dã, tát bà đốt sắc, tra ô hạ di dả, Sá-phạ hạ.
𑖝𑖟𑖿𑖧𑖞𑖯: 𑖀𑖪𑖩𑖺𑖎𑖰𑖝𑖸𑖫𑖿𑖪𑖨𑖯𑖧 𑖭𑖨𑖿𑖪 𑖟𑗜𑖬𑖿𑖘 𑖄𑖮 𑖦𑖰𑖧 𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯
TADYATHĀ: AVALOKITEŚVARĀYA SARVA DUṢṬA UHA MIYA (?ŪHA-MĪYA) SVĀHĀ

 


Đời Đường Trí Thông Pháp Sư đã dịch Tổng Nhiếp Thiên Tý Ấn trong Kinh Thiên Thủ Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Đà La Ni Thần Chú và được ghi trong Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 20 , No.1057 theo văn là:

“Đứng thẳng, hai chân song song nhau. Ngửa lòng bàn tay phải, năm ngón đều phụ nhau. Lại ngửa lòng bàn tay trái đè trên lòng bàn tay phải rồi để chạm dính trái tim. Đây gọi là: Tổng Nhiếp Thiên Tý Ấn.

Ấn này hay giáng phục Ma Oán của ba ngàn Đại Thiên Thế Giới.

Chú là:

Đát điệt tha (1)  Bà lô chỉ đế (2) nhiếp phạt la gia (3)  Tát bà đốt sắt tra (4) ô ha, gia di (5) toa ha (6)

𑖝𑖟𑖿𑖧𑖞𑖯:   𑖀𑖪𑖩𑖺𑖎𑖰𑖝𑖸𑖫𑖿𑖪𑖨𑖯𑖧   𑖭𑖨𑖿𑖪   𑖟𑗜𑖬𑖿𑖘   𑖄𑖮   𑖦𑖰𑖧   𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯

TADYATHĀ:   AVALOKITEŚVARĀYA   SARVA   DUṢṬA   UHA   MIYA   SVĀHĀ