LUẬN THẬP TRỤ TỲ BÀ SA
Tác giả: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Đời Hậu Tần, Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 4

Phẩm 7: ĐIỀU PHỤC TÂM

Hỏi: Như phẩm trên đã nói về ba thứ phát tâm chắc chắn thành tựu, còn bốn thứ phát tâm còn lại thì không chắc thành tựu. Vậy thế nào là thành tựu và không thành tựu?

Đáp: Nếu Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, khi hành đạo, lại làm mất pháp của tâm Bồ-đề tức là không thành tựu. Còn nếu Bồ-tát hành đạo không làm mất pháp của tâm Bồ-đề đó là thành tựu. Cho nên kệ nói:

Bồ-tát nên xa lìa

Pháp mất tâm Bồ-đề

Nên một lòng tu tập

Không mất pháp Bồ-đề.

Xa lìa là diệt trừ pháp ác, không cho chúng nhập vào tâm. Nếu chúng đã vào thì mau chóng trừ diệt. Mất là quên hẳn tâm Bồ-đề ngay nơi đời này hoặc nơi đời sau. Không còn tùy thuận việc tu tập nên phải xa lìa những pháp như vậy. Nếu không mất pháp Bồ-đề, không quên tâm Bồ-đề, thì nên luôn nhất tâm siêng năng hành trì.

Hỏi: Những pháp gì làm mất tâm Bồ-đề?

Đáp:

Một: Không kính trọng pháp

Hai: Có tâm kiêu mạn

Ba: Nói dối, không thật

Bốn: Không kính tri thức.

Có bốn pháp ấy thì khi bỏ thân mạng nơi đời này, hoặc nơi đời tiếp sau tức quên mất tâm Bồ-đề, không thể tự biết mình là Bồ-tát, không còn phát nguyện vì pháp hành của Bồ-tát không còn hiện tiền.

Không kính trọng pháp: Pháp là những gì chư Phật đã giảng nói trong ba Thừa thượng, trung, hạ. Nói tóm gọn là pháp được chư Phật, Như Lai đã dùng để giáo hóa. Đối với pháp này nếu không cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, không sinh khởi tưởng hy hữu, tưởng khó được, tưởng vật báu, tưởng nguyện mãn, đó là pháp có thể làm mất tâm Bồ-đề.

Có tâm kiêu mạn: Là tâm tự cao, chưa chứng cho là chứng, chưa đắc cho là đắc. Đối với các pháp không, vô tướng, vô nguyện, hay như pháp nhẫn vô sinh, hoặc sáu pháp Ba-la-mật, Bồ-tát mười Địa v.v…, cùng các pháp khác từ tu tập sinh khởi, chưa chứng đắc mà cho là đã chứng đắc.

Nói dối, không thật: Có thứ thuộc tội Đột-kiết-la, có thứ thuộc tội Ba-dạ-đề, có thứ thuộc tội Thâu-lan-giá, có thứ thuộc tội Tănggià-bà-thi-sa, có thứ thuộc tội Ba-la-di. Hoặc có người nói: Còn có loại nói dối thứ sáu, là nói dối tâm sinh sám hối. Năm loại nói dối trên, loại đầu thì nhẹ, loại sau thì nặng, loại thứ sáu thì nhẹ nhất.

Thuộc Ba-la-di: Là tự mình không có pháp hơn người, nhưng hoặc miệng nói, hoặc thân bày tỏ, chính là dùng phương tiện để biểu hiện mình có đức ấy. Thuộc Tăng-già-bà-thi-sa: Là hoặc dùng lời nói, hoặc dùng thân chỉ bày, ở trong bốn sự của Tỳ-kheo kia, dùng mỗi mỗi sự có căn cứ, hoặc không có căn cứ để hủy báng.

Thuộc Thâu-lan-giá: Là muốn dùng sự việc có căn cứ, không căn cứ để hủy báng, nhưng nói không thành. Thuộc Ba-dạ-đề: Là đem các sự thuộc Tăng-già-bà-thi-sa không có căn cứ để hủy báng.

Thuộc Đột-kiết-la: Là trừ các thứ thuộc tội trên, là những thứ nói dối còn lại. Tự tâm trừ diệt: Là nếu khi thuyết giới, tự biết có tội nhỏ không được hướng tới người khác nói, tức tự tâm sám hối.

Hỏi: Tội nói dối này chỉ ở nơi các Tỳ-kheo, không ở nơi hàng bạch y. Nhưng Luận này là chung cho cả tại gia, xuất gia?

Đáp: Phàm nhận biết sự thật như vậy nhưng nói là nhận biết khác, trong Luận này nói là nói tướng chung của nói dối. Do có chúng sinh phân biệt, sự việc phân biệt, thời gian phân biệt, năm chúng tội phân biệt, trụ xứ phân biệt, tức tội có nặng, nhẹ. Dù nói dối là tội nhẹ, nhưng quen nói dối lâu ngày thì thành tội nặng, có thể làm mất tâm Bồ-đề.

Chúng sinh phân biệt: Là người đoạn căn thiện, theo tà kiến, cùng những phiền não sâu dày khác, đó là tội nặng. Sự việc phân biệt: Là nếu nói về pháp hơn người là phá hòa hợp Tăng. Thời gian phân biệt: Người xuất gia nói dối là tội nặng. Năm chúng tội phân biệt: Là như tội thuộc Ba-la-di, Tăng-già-bà-thi-sa thì nặng. Trụ xứ phân biệt: Là trong Tăng chúng nói dối về lúc chứng ngộ là nặng.

Không cung kính tri thức thiện: Là không sinh tâm cung kính, do có tưởng sợ khó.

Người hành nhiều bốn pháp này tức mất tâm Bồ-đề.

Hỏi: Chỉ bốn pháp này làm mất tâm Bồ-đề hay còn có pháp nào khác nữa?

Đáp:

Keo kiệt nơi pháp yếu

Tham thích nơi Tiểu thừa

Hủy báng các Bồ-tát

Khinh thường người tọa thiền.

Keo kiệt nơi pháp yếu: Là thầy nhận biết nhiều nghĩa sâu xa khó đạt được, nhưng vì ham lợi, tham đắm lợi dưỡng, sợ đệ tử sẽ bằng mình, nên giữ kín, tiếc rẻ những kiến thức kia, không giảng nói.

Tham thích nơi Tiểu thừa: Là do chưa đạt được pháp vị của Đại thừa, nên ham thích nơi Nhị thừa.

Hủy báng các Bồ-tát: Không tội mà nói có tội gọi là hủy báng. Nghĩa của Bồ-tát đã nói ở trước. Người này không có lỗi mà dối gán tội cho họ. Nếu thực sự có tội mà bàn nói về tội đó. Ở đây tuy có tội nhưng so với trước là nhẹ. Vì sao? Vì như kinh nói: “Các Bồ-tát hoặc thật sự có tội, hoặc không có tội, đều không nên nói”.

Khinh thường người tọa thiền: Là người xuất gia hay tại gia hành tọa thiền là đã siêng năng tinh tấn tu tập để dứt trừ phiền não, để ngăn chận các phiền não, tích tập pháp trợ Phật đạo. Người này hoặc không khéo luận bàn, hoặc không có biện tài, hoặc không có nhiều uy đức. Người không hiểu biết mà khinh thường người tọa thiền thì phạm tội nặng.

Lại nữa, nếu đối với bậc tri thức thiện, tâm mang oán hận, tức cũng có tâm dua nịnh, quanh co cùng tham các thứ lợi dưỡng v.v…

Về nghĩa của tri thức thiện như trước đã nói. Ở đây là nói đối với người đem pháp giáo hóa mà có tâm giận trách, như giận trách cha mẹ thì mắc tội nặng.

Dua nịnh: Là có tâm nịnh bợ, xu phụ. Quanh co: Là nghiệp của thân miệng hiện có tạo tác. Tham các thứ lợi dưỡng: Là tham đắm vào những lợi lạc và tiếng khen. Do các thứ ấy làm hư tâm chánh trực, nên không thể từ thâm tâm phát sinh căn thiện. Như áo nhuộm đã bạc màu, lại không nhận lấy màu sắc đẹp nữa.

Lại nữa:

Không biết các việc ma

Tâm Bồ-đề suy kém

Nghiệp chướng và pháp chướng

Cũng mất tâm Bồ-đề.

Không biết các việc ma: Là nếu không nhận biết các việc của ma thì không thể chế phục chúng. Nếu không chế phục được thì mất tâm Bồ-đề.

Hỏi: Những gì là các việc của ma?

Đáp: Là lúc giảng nói nên hành sáu Ba-la-mật như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, và khi giảng nói những nghĩa thâm diệu thuộc về Đại thừa nhưng không giảng nói một cách vui vẻ, sốt sắng. Hoặc vui vẻ giảng nói, trong đó lại xen vào những chuyện tán loạn khác. Hoặc khi biên chép, đọc tụng, giải thích, giảng nói, luận bàn, nghe nhận, lại hiện bày kiêu mạn, tự đại, tâm tán loạn, nghĩ tưởng về chuyện khác, vọng niệm, đùa cợt, chê trách nhau, khiến hai bên bất hòa, không thể thông đạt được nghĩa thật, rời tòa ngồi bỏ đi, suy nghĩ như vầy: Ở đây ta không ghi nhớ gì, do tâm không thanh tịnh. Cũng không thấy nói đến thành ấp, xóm làng, nhà cửa, nơi ta sinh, nên ta không muốn nghe pháp, không có pháp vị, nên phải bỏ đi. Bỏ những pháp Ba-la-mật đã giảng nói của Đại thừa, tự điều chỉnh kinh để hàng Thanh văn, Phật-bích-chi cầu Nhất thiết trí.

Hoặc khi biên chép, đọc tụng, giảng nói, nghe nhận, lại vui thích nói đến vô số chuyện khác, phá bỏ Bát-nhã Ba-la-mật. Đó là nói đến các sự việc về nhà nước, xóm làng, thành ấp, vườn cây, chuyện dùng binh, giặc giã, quân đội, khí giới, chuyện thương ghét, vui buồn, chuyện xảy ra giữa cha mẹ, anh em, nam nữ, vợ con, chuyện y phục, thức ăn uống, dụng cụ nằm ngồi, những thứ thuốc men, là những vật cần dùng cho đời sống. Do đấy tâm tán loạn, mất Bát-nhã Ba-la-mật.

Lại nói những chuyện về tham sân si, oán thù, thân thuộc khi tốt, khi xấu, ca hát, âm nhạc, buồn sầu, vui đùa, nói đến những thứ kinh sách, văn tụng, chuyện cổ đời trước, nói đến chuyện đất nước các triều vua chúa, việc đất, nước, gió, lửa, năm dục, giàu sang, chuyện lợi lộc trong đời, khiến tâm vui thích.

Hoặc ma hóa ra hình tướng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni rồi đem nhân duyên trong kinh của Thanh văn, Phật-bích-chi để chỉ dạy, nói: “Ông nên hành tập kinh này, bỏ hẳn những gì ông đã học từ trước”. Người nghe pháp không ưa thích nghe, người giảng nói pháp thì tâm biếng trễ, đều có duyên khác. Người nghe cần đến pháp, nhưng người giảng nói thì tâm trí để vào nơi khác. Người giảng nói thì vui thích giảng nói, nhưng người nghe thì tâm trí để vào đâu đâu. Người giảng nói thì phần nhiều tham cầu lợi dưỡng, người nghe thì không có tâm dâng thí. Người nghe thì tâm tin tưởng vui muốn nghe pháp, nhưng người giảng nói thì không thích giảng nói cho họ. Có khi người giảng nói thì vui thích giảng nói, nhưng người nghe thì không ưa thích nghe. Hoặc có khi nói đến những cảnh khổ ở địa ngục, không như thân này hết khổ sớm thủ chứng Niết-bàn, là lợi ích tối thượng. Hoặc nói đến vô lượng khổ não của hàng súc sinh, cùng những lỗi lầm xấu ác của loài ngạ quỷ, A-tu-la. Hoặc nói nhiều đến những tai họa lo buồn trong sinh tử, nên thân ông sớm thủ chứng Niết-bàn, là lợi ích hơn hết. Lại khen ngợi sự giàu sang phú quý ở thế gian, ngợi khen công đức thiện, lạc ở cõi Sắc, Vô sắc, người sinh nơi cõi ấy sẽ đạt lợi lớn. Hoặc khen ngợi những lợi ích nơi công đức của quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-la-hán, thân ông nên chứng những quả này thì được lợi lớn.

Lại nữa, người giảng nói pháp vui thích nơi quyến thuộc, người nghe thì không muốn thuận theo. Người giảng nói pháp muốn đi đến các nơi chốn đói khổ, không an ổn, bảo người nghe: Hôm nay, các ông đâu cần theo tôi đi tới những nơi chốn ấy. Người nghe như thế là sinh tâm chán ngán, biếng trễ nên không đi theo. Người giảng nói pháp có lòng quý trọng đàn-việt, nên thường đến nhà họ thăm hỏi, khiến người nghe không được nghe nhận, nên đối với pháp thâm diệu sinh tâm nghi hoặc, cho đó không phải là kinh pháp của chư Phật đã giảng nói. Người giảng nói pháp thì cho những điều mình giảng nói đều là pháp của kinh Phật. Nếu Bồ-tát có thể hành trì những pháp ấy thì chứng được Thật tế.

Do vô số nhân duyên như thế, nên giữa đôi bên không hòa hợp. Phải biết hết thảy các điều như thế đều là sự việc của ma. Tóm lại, hết thảy pháp thiện mà có những chướng ngại ấy đều là sự việc của ma.

Tâm Bồ-đề suy kém: Là nếu các phiền não có sức mạnh, thì tâm đạo yếu kém không có uy lực, nên đối với đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, các chí nguyện mất hết.

Nghiệp chướng: Tuy có rất nhiều thứ, ở đây nói là những gì có thể khiến người cầu Đại thừa thoái chuyển.

Pháp chướng: Là vui thích hành pháp bất thiện, ghét bỏ các pháp thâm diệu như: không, vô tướng, vô nguyện cùng các Ba-la-mật.

Bốn pháp như thế (không biết các sự việc của ma, tâm Bồ-đề suy kém, nghiệp chướng, pháp chướng) có thể làm mất tâm Bồ-đề.

Lại nữa:

Hứa thí thầy lại dối

Tội ấy rất sâu nặng

Người không có nghi, hối

Ép khiến sinh nghi, hối.

Người tin, ưa Đại thừa

Gán giận dữ thêm nặng

Trách mắng cho là ác

Nêu bày khắp các chốn.

Trong các việc cùng làm

Tâm dua nịnh, quanh co

Bốn “Pháp đen”thế ấy

Làm mất tâm Bồ-đề.

Thí cho thầy, lại không cho: Là nên bố thí cho thầy những vật đã hứa hay chưa hứa, nhưng sau lại không cho. Hoặc cho không đúng lúc, không đúng nơi, không đúng pháp, thì đấy là pháp của thế gian, ngoại đạo. Trong pháp Phật, từ theo thầy nên biết được kinh pháp. Nếu có của cải vật dụng thuộc pháp cúng dường thì nên cho thầy, nếu không cho cũng không lỗi, không có nghi hối.

Khiến sinh nghi, hối: Là người này thật không có phá giới, chỉ có một chút tội tướng nhưng nói đó là tội lớn, hoặc phá oai nghi của chánh mạng, hoặc phá chánh kiến, đều khiến sinh nghi, hối.

Giận dữ người Đại thừa: Có người hành trì theo Đại thừa, Vô thượng thừa, Như Lai thừa, Đại nhân thừa, Nhất thiết trí nhân thừa, cho đến người mới phát tâm, đối với người ấy sinh tâm giận dữ sâu, hoặc trách mắng, nói lời hủy báng, bêu xấu tên tuổi họ khắp nơi.

Việc cùng làm, Tâm dua nịnh, quanh co: Là đối với các vị Hòa thượng, A-xà-lê, các bậc tri thức thiện, không đem tâm ngay thẳng để gần gũi, học hỏi, mà quen hành quanh co. Cho đến những người chưa từng quen biết, cũng hành dua nịnh, quanh co.

Bốn pháp đen: Đen gọi là cấu uế, bất tịnh, có thể làm mất tâm Bồ-đề. Như kệ nói:

Chuyển năm, bốn pháp này

Đời đời tu hạnh thiện

Như thế thì không mất

Tâm Bồ-đề vô thượng.

Năm, bốn hợp là hai mươi pháp. Hai mươi pháp này làm mất tâm Bồ-đề. Nếu biết chuyển đổi chúng để tu tập thì đời đời không quên mất tâm Bồ-đề nơi đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.

Chuyển đổi: Là chuyển đổi hai mươi pháp trên. Đó là cung kính pháp, phá trừ tâm kiêu mạn, xa lìa nói dối, tôn trọng sâu xa các bậc tri thức thiện. Những pháp còn lại: Nên biết như vậy.

Hỏi: Do những pháp nào nguyện Bồ-đề đời đời tăng trưởng để nơi đời sau lại có thể phát đại nguyện nữa? Đáp:

Cho đến mất thân mạng

Ngôi Chuyển luân Thánh vương

Ở đây vẫn không nên

Nói dối, nịnh, quanh co.

Có thể khiến thế gian

Hết thảy loài chúng sinh

Đối các chúng Bồ-tát

Phải sinh tâm cung kính.

Nếu người có thể hành

Những pháp thiện như thế

Đời đời được tăng trưởng

Nguyện Bồ-đề vô thượng.

Bồ-tát dùng những pháp này, đời đời tăng trưởng nguyện Bồ-đề của mình, lại có thể phát sinh đại nguyện thanh tịnh. Nếu do nói thật mà chết, mất ngôi Chuyển luân Thánh vương, mất ngôi Thiên vương, cũng nên nói thật, không nên nói dối, huống chi chỉ là một nhân duyên nhỏ mà không nói thật. Lại, đối với quyến thuộc và những người ngoài, cũng đều lìa bỏ tâm dua nịnh, quanh co.

Lại nữa, từ lúc mới phát tâm trở đi, phải sinh tâm cung kính hết thảy Bồ-tát, tôn trọng xưng tán các vị ấy như Phật không khác.

Lại nữa, nên tùy sức khiến trụ nơi Đại thừa.

***

Phẩm 8: TƯỚNG KHÔNG THOÁI CHUYỂN

Hỏi: Các Bồ-tát này có 2 hạng:

  1. Có thoái chuyển.
  2. Không có thoái chuyển.

Ông nên nói rõ về hai thứ tướng ấy.

Đáp:

Đẳng tâm nơi chúng sinh

Không ganh lợi dưỡng khác

Cho đến mất thân mạng

Không nói lỗi Pháp sư.

Tin, ưa pháp thâm diệu

Không tham nơi cung kính

Đầy đủ năm pháp này

Là không có thoái chuyển.

Đẳng tâm nơi chúng sinh: Chúng sinh là chúng sinh trong sáu nẻo. Đối với hạng cao, vừa, thấp, tâm đều không sai biệt. Đó gọi là không thoái chuyển.

Hỏi: Như nói: Đối với chư Phật, Bồ-tát phải sinh tâm cung kính bậc nhất. Ngoài ra thì không như vậy. Lại nói là phải thân cận chư Phật, Bồ-tát, cung kính cúng dường, ngoài ra thì cũng không như vậy. Vì sao lại nói đối với hết thảy chúng sinh, tâm bình đẳng không hai?

Đáp: Mỗi câu nói đều có nghĩa khác nhau, chớ nên nghi, nêu vấn nạn.

Tâm bình đẳng đối với chúng sinh: Nghĩa là hoặc có chúng sinh xem Bồ-tát như kẻ oán, có chúng sinh xem Bồ-tát như cha mẹ, có chúng sinh xem Bồ-tát là hạng giữa. Đối với ba loại chúng sinh này, tâm Bồ-tát luôn bình đẳng, tạo lợi ích nhằm cứu độ, giải thoát cho hết thảy nên không có sai khác. Do vậy, ông không nên nêu vấn nạn.

Không ganh lợi dưỡng khác: Là nếu người khác được thọ nhận các thứ như: y phục, ngọa cụ, thuốc men, thức ăn uống, phòng nhà, sản nghiệp, vàng bạc, châu báu, xóm làng, quốc gia, thành ấp, nam nữ v.v… thì đối với người được bố thí như vậy, không nên sinh tâm ganh ghét, cũng không mang tâm oán hận, mà phải vui mừng tùy hỷ.

Không nói lỗi Pháp sư: Là nếu có người nói: Nên tu theo các pháp Đại thừa như không, vô tướng, vô tác, hoặc sáu pháp Ba-lamật, hoặc bốn xứ công đức, hoặc mười Địa của Bồ-tát, thì cho đến trường hợp phải bỏ thân mạng hãy còn không được nói xấu các vị ấy, huống chi là gán thêm các việc ác cho họ.

Tin, ưa pháp thâm diệu: Pháp thâm diệu như là không, vô tướng, vô nguyện và những kinh sâu xa như Bát-nhã Ba-la-mật nơi Bồ Tát Tạng v.v… Đối với những pháp ấy, nên nhất tâm tin, ưa, không có nghi hoặc. Đối với những việc khác thì không như vậy. Do ở trong kinh sâu xa mới đạt được pháp vị.

Không tham nơi cung kính: Là do đã thông tỏ tướng thật của các pháp nên đối với các sự việc tiếng khen, chê bai, lợi hay không lợi, không thấy có gì khác nhau.

Đầy đủ năm pháp này: Là như trên đã nói. Không thoái chuyển nơi đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, không biếng nhác, bỏ phế gọi là A duy việt trí (Không thoái chuyển). Trái với điều này gọi là Duy việt trí (Có thoái chuyển). Bồ-tát Duy việt trí có hai loại: Hoặc là hạng suy hoại, hoặc là hạng dần dần chuyển biến để tiến đến đạt được A duy việt trí.

Hỏi: Vừa nói hạng suy hoại, vậy tướng ấy là thế nào?

Đáp:

Nếu không chí gốc vững

Ưa thích pháp thấp kém

Đắm sâu danh lợi dưỡng

Tâm ý không chánh trực.

Tiếc giữ nơi nhà khác

Không tin ưa pháp Không

Chỉ chuộng theo ngôn thuyết

Đó là tướng suy hoại.

Nếu không chí gốc vững: Là diện mạo không thần sắc, oai đức mỏng kém.

Hỏi: Không phải cho oai đức của thân tướng là tướng của A duy việt trí, sao lại nói lời này, là nghĩa gì?

Đáp: Ở đây nói có, nghĩa là không nên nêu nghi vấn. Tôi nói do bên trong có công đức, nên thân có oai đức, chứ không phải chỉ nói thân sắc, dung mạo đoan nghiêm mà thôi.

Chí gốc vững: Là thế mạnh của oai đức. Người có thể tu tập pháp thiện, diệt trừ pháp ác, trong việc làm ấy có sức mạnh gọi là chí gốc vững. Dù là thân như Thiên vương, hào quang tỏa sáng như mặt trời, mặt trăng, nếu không thể tu pháp thiện, diệt trừ pháp ác, thì vẫn gọi là người không có chí gốc vững. Dù có thân hình xấu xí như quỷ đói, nhưng có thể tu tập pháp thiện, trừ diệt pháp ác, thì kẻ ấy vẫn được gọi là người có chí gốc vững. Do vậy, vấn nạn của ông là không đúng.

Ưa thích pháp thấp kém: Là ngoại trừ Phật thừa, các Thừa khác so với Phật thừa là nhỏ, kém, không bằng, nên gọi là thấp, chứ không phải do xấu ác gọi là thấp kém. Ngoài ra, các sự việc ác khác cũng gọi là thấp kém. Những gì hai Thừa đạt được đối với Phật là thấp. Song hai Thừa đều là đạo xuất thế gian, chứng nhập Niết-bàn vô dư nên không gọi là ác. Thế nên nếu người xa lìa Phật thừa, tin ưa theo hai Thừa, đó là ưa thích pháp thấp. Người này tuy chuộng điều cao xa, nhưng do tin ưa hai Thừa, xa lìa Đại thừa, nên cũng gọi là ưa pháp thấp. Lại nữa, thấp còn gọi là sự việc xấu ác, đó là năm dục, hoặc tin theo sáu mươi hai thứ kiến chấp như chấp thường, chấp đoạn mà tất cả ngoại đạo đều luận bàn. Hết thảy những thứ ấy chỉ khiến tăng thêm sinh tử, đó gọi là pháp thấp kém. Hành trì theo những pháp ấy nên gọi là ưa thích pháp thấp kém.

Đắm sâu danh lợi dưỡng: Là đối với các thứ của cải được bố thí, được cúng dường, hoặc được nhiều người khen ngợi, thâm tâm càng đắm vướng, cho đó là khéo dùng phương tiện nên có được. Do không đạt pháp vị thanh tịnh, nên cứ tham ưa nơi sự việc đó.

Tâm ý không chánh trực: Là tánh tình dua nịnh, quanh co, thích hành lừa dối.

Tiếc giữ nơi nhà khác: Là người này vào các nhà đàn-việt, thấy có người khác được lợi dưỡng, cung kính cúng dường khen ngợi, liền sinh tâm ganh ghét, buồn bực không vui. Tâm không thanh tịnh do chấp ngã sâu nặng. Vì tham đắm lợi dưỡng nên sinh tâm ganh ghét, giận trách đàn-việt.

Không tin ưa pháp Không: Chư Phật đã giảng nói về ba thứ pháp không, đó là ba môn giải thoát (Không, vô tướng, vô tác). Đối với pháp Không ấy không tin, không ưa thích, không cho là quý, tâm không thông đạt.

Chỉ chuộng nơi ngôn thuyết: Là chỉ ưa thích nơi ngôn từ, không thể theo như lời Phật dạy để tu tập, chỉ có miệng nói, không thể tin hiểu các pháp, không đạt được ý vị sâu xa.

Đó là tướng suy hoại: Là nếu người phát tâm Bồ-đề mà có những tướng như vậy nên biết đó là hạng Bồ-tát suy hoại. Suy hoại ở đây nghĩa là không điều phục, tùy thuận. Ví như ngựa hung dữ hết mực gọi là suy hoại, do nó chỉ có tên ngựa, không có công dụng của ngựa. Bồ-tát suy hoại cũng như vậy, do chỉ có danh trống không, không có hành thật. Vì vậy, nếu người không muốn trở thành Bồ-tát suy hoại thì phải diệt trừ pháp ác, theo pháp thọ nhận tên.

Hỏi: Ông đã nói ở trong vị Duy việt trí có hai hạng Bồ-tát: Một là Bồ-tát suy hoại. Hai là Bồ-tát dần dần tinh tấn, sau đạt được vị A duy việt trí. Hạng Bồ-tát suy hoại đã giải nói rồi, còn hạng Bồ-tát dần dần tinh tấn, sau đạt được A duy việt trí, nay nên giải nói?

Đáp:

Bồ-tát không đắc ngã

Cũng không đắc chúng sinh

Nói pháp không phân biệt

Cũng không đắc Bồ-đề.

Không dùng tướng thấy Phật

Do năm công đức này

Được gọi Đại Bồ-tát

Thành A duy việt trí.

Bồ-tát hành trì năm công đức này, đến thẳng phần vị A duy việt trí.

Không đắc về ngã: Là lìa ngã chấp. Bồ-tát này ở trong năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới nội ngoại, cầu tìm ngã đều không thể đạt được. Khởi niệm:

Nếu năm ấm là ngã

Ngã tức tướng sinh diệt

Vì sao phải do thọ

Để làm người thọ nhận.

Nếu lìa ấm có ngã

Ngoài ấm nên đạt được

Vì sao phải do thọ

Khác với người thọ nhận?

Nếu ngã có năm ấm

Ngã tức lìa năm ấm

Như thế gian thường nói

Bò khác với chủ bò.

Các vật khác cùng họp

Sự này gọi là có

Thế nên ngã có ấm

Ngã tức khác với ấm.

Nếu trong ấm có ngã

Như trong phòng có người

Như trên giường người nghe

Ngã phải khác với ấm.

Nếu trong ngã có ấm

Như trong bát có quả

Như trong sữa có nhặng

Ấm tức khác với ngã.

Như đáng cháy, không cháy

Không lìa đáng cháy, cháy

Cháy không có đáng cháy

Trong cháy đáng cháy không.

Ngã phi ấm, lìa ấm

Ngã cũng không có ấm

Trong năm ấm không ngã

Trong ngã không năm ấm.

Như vậy, nhiễm, người nhiễm

Phiền não, người phiền não

Tất cả bình và áo v.v…

Đều nên biết như thế.

Nếu nói ngã có định

Cùng tướng khác các pháp

Nên biết người như vậy

Không được vị pháp Phật.

Suy nghĩ như vậy, Bồ-tát tức lìa khỏi ngã kiến. Xa lìa ngã kiến, nên tức không đắc về ngã.

Không đắc về chúng sinh: Chúng sinh gọi là khác với Bồ-tát. Xa lìa tham nơi ngã kiến nên Bồ-tát suy nghĩ như vầy: “Nếu người khác thật có ngã, thì người kia có thể làm nhân cho người khác, vì có ngã nên người kia làm người khác. Nhưng thật sự cầu tìm ngã, không thể được, người kia cũng không thể đạt được, nên không có người kia, cũng không có ngã”. Thế nên Bồ-tát cũng không tìm được người kia.

Nói pháp không phân biệt: Là Bồ-tát này tin hiểu hết thảy các pháp là không hai, nên không sai biệt, nên chỉ một tướng. Bồ-tát nghĩ như vầy: Hết thảy pháp đều từ sự nhớ tưởng phân biệt sai lạc sinh ra, đều là hư vọng giả dối. Bồ-tát này diệt trừ các thứ phân biệt không còn những suy não, tức là bước vào pháp nhân duyên đệ nhất nghĩa vô thượng, không theo trí tuệ của người khác.

Thật tánh tất chẳng có

Cũng lại chẳng phải không

Chẳng cũng có, cũng không

Chẳng chẳng có, chẳng không.

Cũng chẳng có văn tự

Cũng không lìa văn tự

Nghĩa thật là như vậy

Rốt cùng không nói được.

Người nói, có thể nói

Đều là tướng tịch diệt

Nếu tánh là tịch diệt

Chẳng có, cũng chẳng không.

Vì muốn nói điều gì

Là dùng gì để nói

Vì sao người có trí?

Cùng với người nói, nói.

Nếu tánh các pháp không

Các pháp tức không tánh

Theo do đâu pháp không?

Pháp ấy không thể nói.

Không được nói không có

Mượn lời để nói không

Nghĩa thật cũng chẳng không

Cũng lại phi chẳng không.

Cũng phi không chẳng không

Phi phi không, chẳng không

Chẳng hư, cũng chẳng thật

Chẳng nói, chẳng không nói.

Thật ra, không có gì

Cũng chẳng không thật có

Ấy là đều lìa bỏ

Các phân biệt hiện có.

Nhân cùng từ nhân sinh

Hết thảy pháp như vậy

Đều là tướng tịch diệt

Không lấy cũng không bỏ.

Không tro, áo không sạch

Tro cũng lại bẩn áo

Không nói không nói thật

Ngôn thuyết tất có lỗi.

Bồ-tát quán xét, tin hiểu và thông tỏ như thế, nên ở trong việc giảng nói pháp không còn có sự phân biệt.

Không đắc về Bồ-đề: Là Bồ-tát này đã tin hiểu về pháp không nên không như hàng phàm phu thủ đắc Bồ-đề. Bồ-tát suy nghĩ như vầy:

Phật không đắc Bồ-đề

Phi Phật cũng không đắc

Các quả và pháp khác

Đều cũng lại như thế.

Có Phật, có Bồ-đề

Phật đắc tức là thường

Không Phật, không Bồ-đề

Không đắc tức đoạn diệt.

Lìa Phật không Bồ-đề

Lìa Bồ-đề không Phật

Nếu một khác, không thành

Làm sao có hòa hợp?

Phàm hết thảy các pháp

Do khác nên có hợp

Bồ-đề không khác Phật

Thế nên hai không hợp.

Phật cùng với Bồ-đề

Khác, chung đều không thành

Lìa hai, lại không ba

Làm sao mà thành được?

Cho nên Phật tịch diệt

Bồ-đề cũng tịch diệt

Hai ấy đều tịch diệt

Tất cả đều tịch diệt.

Không dùng tướng thấy Phật: Là vì Bồ-tát này đã tin hiểu và thông đạt pháp vô tướng, nên Bồ-tát suy nghĩ:

Tất cả nếu không tướng

Tất cả tức có tướng

Tịch diệt là không tướng

Tức nó có tướng ấy.

Nếu quán pháp vô tướng

Vô tướng tức là tướng

Nếu nói tu vô tướng

Tức phi tu vô tướng.

Nếu bỏ các tham chấp

Gọi đó là vô tướng

Lấy, bỏ tướng tham này

Tức là không giải thoát.

Phàm do có chấp giữ

Nhân lấy mà có bỏ

Ai lấy, lấy sự gì?

Gọi đó cho là bỏ.

Người lấy, chỗ dùng lấy

Cùng do gì lấy pháp

Cùng lìa đều không có

Đấy đều gọi tịch diệt.

Nếu tướng pháp, nhân thành

Đó tức là vô tánh

Nếu như không có tánh

Đấy tức không có tướng.

Nếu pháp không có tánh

Pháp ấy tức không tướng

Vì sao nói không tánh

Tức thị là không tướng.

Nếu dùng có và không

Cũng ngăn, cũng nên thuận

Tuy nói tâm không vướng

Thế thì không có lỗi.

Nơi nào trước có pháp

Mà sau không người diệt

Nơi nào trước có cháy

Mà sau có người diệt

Là có tướng tịch diệt

Đồng không tướng tịch diệt

Cho nên nói tịch diệt

Và người nói tịch diệt.

Trước cũng chẳng tịch diệt

Cũng chẳng không tịch diệt

Cũng chẳng tịch không tịch

Phi chẳng tịch, không tịch.

Bồ-tát này thông tỏ được tuệ vô tướng như vậy nên không có nghi, hối, không dùng tướng sắc để thấy Phật, không dùng tướng thọ, tưởng, hành, thức để thấy Phật.

Hỏi: Sao gọi là không dùng tướng sắc để thấy Phật? Không dùng tướng thọ, tưởng, hành, thức để thấy Phật?

Đáp: Không phải sắc là Phật, không phải thọ tưởng hành thức là Phật. Không phải lìa sắc là có Phật, không phải lìa thọ tưởng hành thức là có Phật. Không phải Phật có sắc, không phải Phật có thọ tưởng hành thức. Không phải trong sắc có Phật, không phải trong thọ tưởng hành thức có Phật. Không phải trong Phật có sắc, không phải trong Phật có thọ tưởng hành thức.

Bồ-tát ở trong năm thứ này không chấp giữ nơi tướng nên đạt tới bậc A duy việt trí.

Hỏi: Đã biết đạt được pháp này là A duy việt trí. Vậy A duy việt trí có tướng mạo gì?

Đáp:

Bát-nhã đã nói rộng

Tướng A duy việt trí.

Nếu Bồ-tát quán xét về địa phàm phu, địa Thanh văn, địa Phật-bích-chi, địa Phật là không hai, không phân biệt, không có nghi hối, nên biết đó là bậc A duy việt trí. Hết thảy sự nói năng của bậc A duy việt trí đều có lợi ích. A duy việt trí không quán xét người khác sống lâu hay chết yểu, tốt hay xấu, không mong cầu vào những ngôn thuyết đã có của ngoại đạo, Sa-môn. Cái gì bậc A duy việt trí nên nhận biết là nhận biết ngay, nên thấy là liền thấy. Không lễ bái các trời khác, không đem hương hoa, cờ phướn, lọng báu cúng dường. Không có tông môn, không thờ thầy nào khác. Không bị đọa vào đường ác, không sinh làm thân nữ. Thường tự tu mười đạo nghiệp thiện, cũng giáo hóa kẻ khác khiến tu, thường đem pháp thiện chỉ dạy cho muôn người đạt lợi ích, vui mừng, cả đến trong chiêm bao vẫn không bỏ mười đạo thiện. Không hành mười đạo bất thiện. Gieo trồng căn thiện nơi nghiệp thân, miệng, ý, tất cả đều nhằm tạo an lạc và độ thoát chúng sinh. Những quả báo mình có được đều ban cho chúng sinh cùng có. Khi nghe pháp thâm diệu không nghi hối. Ít nói, chỉ nói lời lợi ích an lạc, nói lời ôn hòa vui vẻ, nói lời dịu dàng dễ nghe. Ít ngủ nghỉ, đi tới lui dừng tâm không tán loạn. Oai nghi đĩnh đạc, nhớ nghĩ chắc chắn. Thân không bệnh tật, y phục, ngọa cụ đều sạch sẽ tinh khiết. Thân tâm thanh tịnh, ở nơi thanh vắng, ít lo nghĩ. Tâm không dua nịnh, quanh co, không keo kiệt, ganh ghét, không tham cầu lợi dưỡng, các thứ vật dụng cần cho đời sống như thức ăn uống, y phục, đồ ngồi nằm, thuốc men v.v… đều biết đủ. Đối với pháp thâm diệu, không tranh cãi. Một lòng nghe pháp, luôn muốn được nghe. Do phước đức này mà hành đầy đủ các Ba-la-mật. Đối với những nghề nghiệp, kỹ thuật ở đời đều thông thạo. Quán xét hết thảy pháp đều thuận theo pháp tánh. Cả đến ma ác có biến hiện tám đại địa ngục hay biến làm Bồ-tát và nói: “Nếu ông không bỏ tâm Bồ-đề thì sẽ bị sinh vào địa ngục này”. Cho dù mắt đã thấy cảnh đáng sợ ấy, nhưng vẫn không bỏ tâm Bồ-đề.

Nếu ma ác lại nói: “Kinh Ma Ha Diễn không phải do Phật giảng nói”. Dẫu nghe lời ấy, nhưng tâm không hề đổi khác. Bồ-tát thường dựa vào pháp tướng, không thuận theo người khác, ở trong sinh tử khổ não nhưng không hề sợ hãi.

Hoặc nghe: Có Bồ-tát đã tu tập căn thiện trong A-tăng-kỳ kiếp vẫn còn thoái chuyển, tâm của Bồ-tát này vẫn không dao động. Lại nghe, có Bồ-tát thoái chuyển làm A-la-hán đạt được các thiền định, nói pháp độ người, thì tâm của vị này cũng không thoái chuyển. Luôn có thể nhận biết những sự việc của ma.

Nếu nghe Nhất thiết trí không, mười Địa của Đại thừa cũng không, chúng sinh có thể độ thoát cũng không, các pháp không thật có cũng như hư không v.v…

Nếu nghe những lời mê hoặc làm loạn tâm như vậy, có thể khiến thoái chuyển, mỏi mệt, biếng trễ, bỏ phế, nhưng Bồ-tát này lại tinh tấn gấp bội, càng hành sâu xa hành từ bi. Có khi ý muốn nhập thiền thứ nhất, thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư, nhưng không thuận theo thiền sinh khởi trở lại pháp cõi Dục. Luôn trừ bỏ kiêu mạn, không ham chuộng lời khen tặng, tâm không giận dữ, si ám. Nếu sống tại gia, vẫn không bị nhiễm vướng năm dục. Do có tâm chán lìa nên xem các thứ thọ nhận như bệnh phải uống thuốc. Không tự sống theo tà mạng. Không đem cuộc sống của mình làm não loạn kẻ khác, chỉ vì đem lại lợi ích an lạc cho chúng sinh, nên sống đời tại gia. Chư thần Kim Cang Mật Tích luôn tùy tùng hộ vệ. Người và phi nhân đều không thể phá hoại. Các căn đầy đủ không thiếu, kém. Không dùng thuốc độc, chú thuật để chế phục người, hại vật.

Không ưa việc tranh chấp, không tự đề cao mình, không xem thường người khác, không hành việc bói toán tốt xấu, không thích luận bàn những chuyện như là: Vua quan, dân chúng, đất nước, bờ cõi, chiến tranh, binh khí, y phục, vật dụng, thức ăn, đồ uống. Không ưa bàn chuyện về người nữ, chuyện đời xưa, chuyện trong biển lớn v.v… Không tới xem nghe ca vũ kỹ nhạc. Chỉ vui thích nói đến những gì tương ưng với nghĩa Ba-la-mật, tương ưng với pháp Ba-lamật, khiến càng tăng trưởng. Luôn xa lìa việc tranh tụng, Bồ-tát này nguyện được thấy Phật. Nghe nơi cõi khác hiện có Phật thì mong cầu được sinh về đó. Thường sinh vào vùng giữa nước. Không chút tự nghi: “Ta có phải là A duy việt trí hay không phải là A duy việt trí?”. Luôn nhận biết chắc chắn mình là A duy việt trí. Biết rõ vô số sự việc của ma nhưng không thuận theo. Cho đến chuyển đổi thân cũng không sinh tâm Thanh văn, Phật-bích-chi. Cả đến ma ác hiện làm thân Phật, bảo: “Ông nên chứng A-la-hán, Ta nay vì ông giảng nói pháp, tức ngay đây ông sẽ chứng quả A-la-hán”, Bồ-tát này không hề tin những điều đó. Vì hộ trì chánh pháp, nên Bồ-tát A duy việt trí này không tiếc thân mạng, luôn tu hành tinh tấn. Hoặc khi giảng nói pháp, không hề có nghi hoặc, vấn nạn, không có thiếu sót, lỗi lầm. Những sự việc như thế, gọi là tướng mạo của bậc A duy việt trí. Người có thể thành tựu tướng này nên biết đó là bậc A duy việt trí. Hoặc có vị chưa đầy đủ các sự việc nói trên, thì bao lâu mới nhập bậc A duy việt trí? Điều này tùy theo sự tu tập căn thiện ở các Địa sau, tùy theo căn thiện chuyển đổi thêm sâu vững nên đạt được tướng A duy việt trí..

HẾT – QUYỂN 4