LUẬN THẬP TRỤ TỲ BÀ SA
Tác giả: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Đời Hậu Tần, Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 17

Phẩm 32: GIẢI THÍCH VỀ ĐẦU ĐÀ, phần 2

Như nói năm thanh vắng

Công đức khác cũng thế Tự đọc tụng, dạy người Được bỏ xứ thanh vắng.

Tỳ-kheo A-lan-nhã có năm thứ phân biệt:

  1. Dùng ý xấu để mong cầu lợi dưỡng.
  2. Ngu tối độn căn nên hành nơi A-lan-nhã.
  3. Người cuồng si mất ý nên hành nơi A-lan-nhã.
  4. Vì hành hạnh Đầu-đà nên hành nơi A-lan-nhã.
  5. Vì được chư Phật, Bồ-tát, các Hiền Thánh khen ngợi nên hành nơi A-lan-nhã.

Trong năm thứ A-lan-nhã ấy thì hai hành bốn và năm là hai hành thiện, còn ba thứ trước là đáng quở trách.

Như năm thứ phân biệt về pháp A-lan-nhã, mười một hạnh Đầu-đà còn lại cũng nên phân biệt, nhận biết như vậy.

Hỏi: Phật nói: Nếu đã thọ nhận pháp A-lan-nhã thì chung cuộc không nên bỏ, nhưng nếu có nhân duyên gì đó có thể bỏ chăng?

Đáp:

Nhân duyên đọc tụng kinh

Được bỏ A-lan-nhã.

Nếu Tỳ-kheo muốn theo người khác đọc tụng, thọ trì kinh pháp, hoặc muốn dạy người khác đọc tụng kinh pháp thì Tỳ-kheo nên từ nơi A-lan-nhã đi đến chùa tháp. Do nhân duyên ấy nên có thể rời khỏi A-lan-nhã.

Khi dạy người đọc tụng

Không nên mong cúng dường

Tức thì nên niệm Phật

Phật luôn có việc làm.

Từ nơi A-lan-nhã thanh vắng đi giáo hóa người đọc tụng kinh pháp, không nên cầu mong tâm cung kính cúng dường, phải nên niệm Phật. Phật hãy còn có những việc làm huống gì là ta.

Niệm Phật: Phật là Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài được chư Thiên, Long, Thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Thích đề hoàn nhân, Tứ Thiên vương, Nhân, Phi nhân cúng dường. Ngài là phước điền vô thượng của hết thảy chúng sinh, hãy còn không cầu người khác cúng dường, thân tự làm việc: Ta nay chưa có được những sự nhận biết, chỉ là người mới cầu học, thì sao lại thọ nhận người khác cúng dường? Lại nên suy nghĩ như vầy:

Ta nên khéo cúng dường

Tất cả các chúng sinh

Không mong họ cúng dường

Vì tự lợi, lợi tha.

Thế nào là tự lợi? Nếu ta chuộng việc được cúng dường thì mất công đức của pháp thí. Nếu không chuộng việc được cúng dường thì được công đức của pháp thí. Đó gọi là tự lợi.

Thế nào là lợi tha? Nếu khi chỉ dạy người khác đọc tụng kinh pháp mà trông mong được cúng dường thì người kia tức sinh niệm: Ông thầy này chỉ dạy ta, không phải vì pháp mà là vì những lợi lạc ở đời. Người kia do tâm ý đó cúng dường cho thầy tức không được lợi ích lớn. Nhưng nếu người ấy cúng dường với tâm cung kính pháp, tôn kính thầy, tức được lợi ích lớn. Đó gọi là lợi tha.

Theo người cầu trí tuệ

Không nên tiếc thân mạng.

Nếu hành giả muốn theo người để cầu trí tuệ thì nên xả bỏ thân mạng. Xả bỏ là do muốn được trí tuệ, nên tâm siêng năng tinh tấn cung kính nơi thầy, không tiếc thân mạng.

Hỏi: Tại sao vì trí tuệ nên cung kính thầy, không tiếc đến thân mạng?

Đáp:

Học một chữ một tâm

Lấy đó làm số kiếp

Ở bên thầy cung kính

Luận này có thể nói.

Lìa bỏ tâm dua nịnh

Thâm ái kính cúng dường

Đêm ngày không dừng nghỉ

Từng ấy kiếp cũng vậy.

Theo chỗ chỉ dạy luận bàn của thầy, đệ tử cùng với từng ấy tâm niệm để ghi nhớ cả về số chữ. Người lãnh nhận pháp, tâm không dua nịnh, quanh co, không tiếc thân mạng, ngày đêm cung kính, trước sau không khác. Tuy khéo làm như thế, cũng còn chưa báo hết ơn về những luận bàn, trí tuệ mà thầy đã trao cho. Do vậy, đệ tử phải lìa bỏ tâm dua nịnh, quanh co, không tham tiếc thân mạng, phá bỏ kiêu mạn. Nếu bị thầy khinh thường vẫn giữ tâm ái kính không đổi. Nên sinh tâm kính mến sâu xa, sinh tâm cung kính bậc nhất. Nên sinh tâm như cha mẹ. Nên sinh tâm là bậc Đại sư. Nên sinh tưởng là bậc tri thức thiện. Nên sinh tưởng có thể làm được việc khó. Nên sinh tâm khó báo đáp. Thầy chỉ dạy những gì thì nhận lãnh và thường làm theo. Có những việc thầy không bảo, nhưng cũng phải biết ý để làm theo. Những gì thầy trân trọng, yêu mến, cũng phải theo đó để yêu mến, kính trọng. Không nên lợi dụng thầy để mong cầu lợi lạc ở đời. Chớ mong cầu thầy khen ngợi, chớ mong tiếng tốt lan xa, chỉ cầu pháp báu trí tuệ. Thầy có những sai sót thường nên ẩn giấu. Nếu lỗi thầy lộ rõ nên tìm phương tiện để che giấu. Thầy có công đức nên khen ngợi và lưu truyền, thâm tâm kính mến, lắng nghe, vâng giữ, lãnh hội. Suy nghĩ về nghĩa lý sâu xa, hành trì như lời thầy. Cầu lợi mình, lợi người: Chớ làm hạng đệ tử lỗi lầm, chớ làm hạng đệ tử bị nạn, chớ làm hạng đệ tử cấu uế, chớ làm hạng đệ tử suy tổn, chớ làm hạng đệ tử vô ích. Không có những lỗi lầm như thế, chỉ trụ trong pháp đệ tử thiện cúng dường nơi thầy.

Như trong Kinh Ban Chu nói: “Phật bảo Bạt-đà-bà-la: Nếu Bồtát muốn được Tam-muội này, tức phải siêng năng tinh tấn, ở tại trụ xứ của thầy nên sinh tâm tôn trọng, sinh tâm khó gặp. Được nghe pháp từ miệng thầy giảng nói, hoặc được trao kinh sách học, tụng, đối với bậc thầy này, thâm tâm hết sức cung kính, sinh tâm như cha mẹ, sinh tâm tri thức thiện, sinh tâm là bậc Đại sư, do có khả năng giảng nói pháp trợ Bồ-đề như vậy. Này Bạt-đà-bà-la! Nếu người cầu đạo Bồ-tát, hoặc cầu quả Thanh văn, theo thầy đọc tụng kinh pháp này mà không sinh tâm cung kính sâu xa, xem thầy như bậc cha mẹ, bậc tri thức thiện, bậc Đại sư, lại có thể thông đạt được pháp ấy khiến không quên mất, trụ lâu không dứt, thì không hề có điều ấy. Vì sao? Này Bạt-đà-bà-la! Do nhân duyên không cung kính nên pháp Phật sẽ bị diệt. Thế nên, này Bạt-đà-bà-la! Nếu người cầu đạo Bồ-tát, cầu quả Thanh văn, đối với nơi chốn được nghe, đọc tụng, biên chép pháp ấy sinh tâm cung kính, tâm xem như cha mẹ, tâm xem như bậc tri thức thiện, tâm xem như bậc Đại sư, thì đối với những pháp được đọc tụng biên chép ấy, cái gì chưa được, khiến được, được rồi thì tồn tại lâu dài, tức có điều ấy. Vì sao? Vì do tâm cung kính nên pháp Phật không diệt. Cho nên, này Bạt-đà-bà-la! Nay Ta bảo cho ông biết: Đối với thầy phải nên sinh tâm cung kính sâu xa, xem như cha mẹ, như bậc tri thức thiện, là bậc Đại sư. Đó là ông đã nghe theo lời Ta dạy”.

***

Phẩm 33: HỖ TRỢ QUẢ THI LA

Bồ-tát như vậy là vì cầu đa văn, nhận biết nghĩa lý của đa văn rồi, nên tùy theo pháp đã thuyết giảng mà hành trì thì có thể khiến cho Thi-la thanh tịnh. Pháp Thi-la thanh tịnh phải nên tu hành.

Hỏi: Những pháp nào có thể khiến cho Thi-la thanh tịnh?

Đáp:

Giữ nghiệp thân, miệng, ý

Cũng không đắc pháp hộ

Trọn không khiến ngã kiến

Cùng các kiến tạp khác

Hồi hướng Nhất thiết trí

Bốn ấy tịnh Thi-la.

Hành giả tu bốn pháp này, Thi-la tự nhiên được thanh tịnh.

Giữ nghiệp thân, miệng, ý v.v…: Là thường nên chánh niệm đối với nghiệp thân, miệng, ý, cho đến một tội nhỏ cũng không khiến sai lầm, ví như rùa, ba ba thường giữ đầu và chân trong mai. Người này vui thích sâu xa nơi lý không nên ở trong đệ nhất nghĩa nhưng cũng không được pháp hộ trì ba nghiệp. Có người tuy thấy pháp không, cho là nhận biết cái không luôn hiện hữu, thế nên nói không có xen tạp với kiến ngã, kiến chúng sinh, kiến nhân, kiến thọ giả, kiến tri giả.

Hồi hướng Nhất thiết trí: Là người trì giới được quả báo, không mong cầu phước nào khác, vì nhằm hóa độ tất cả chúng sinh nên chỉ mong cầu Phật đạo.

Đó là bốn pháp có thể làm Thi-la thanh tịnh.

Lại có 4 pháp có thể khiến Thi-la thanh tịnh:

Không tâm ngã, ngã sở

Không thường kiến, đoạn kiến

Vào nơi pháp các duyên

Có thể tịnh Thi-la.

Không tâm ngã, ngã sở: Là không có tâm tham đắm vào ta, vào những thứ của ta, chỉ biết tâm này điên đảo hư vọng chứ không có gì là ngã là pháp.

Không thường kiến, đoạn kiến: Là do đoạn kiến, thường kiến nên có nhiều lỗi lầm.

Vào nơi pháp các duyên: Là nhận biết các pháp từ các duyên sinh, nên chúng không có tánh định, hành dụng nơi trung đạo.

Đó là bốn pháp có thể làm Thi-la thanh tịnh.

Lại có 4 pháp có khả năng làm Thi-la thanh tịnh:

Hành bốn pháp Thánh chủng

Cùng mười hai Đầu-đà

Không ưa nơi ồn ào

Niệm do đâu xuất gia.

Bốn Thánh chủng: Là chỉ mong được y phục vừa đủ, chỉ mong được thức ăn uống vừa đủ, chỉ mong được đồ nằm ngồi vừa đủ, vui thích đoạn trừ phiền não, vui thích tu tập.

Mười hai đầu-đà: Là thọ pháp A-lan-nhã, thọ pháp khất thực, mang y phấn tảo, ngồi ăn một lần, thường ngồi, sau bữa ngọ không nhận thức ăn uống phi thời, chỉ có ba y, y bằng lông thú thô, tùy nơi trải tọa cụ, ở bên gốc cây, ở nơi đất trống, ở nơi bãi tha ma.

Không ưa nơi ồn ào: Là không ở chung với người xuất gia hay tại gia. Có người tuy hành pháp A-lan-nhã, do hiểu nhiều biết nhiều, có nhiều người lui tới, thế nên nói không ưa nơi ồn ào. Hoặc đến xứ khác, tâm cũng không cùng hòa hợp.

Niệm do đâu xuất gia: Người hành Thi-la nên nghĩ như vầy: Ta do đâu mà xuất gia? Nghĩ vậy rồi, tùy theo việc xuất gia, đều muốn thành tựu, nên như lời dạy mà hành.

Đó là bốn pháp có thể làm Thi-la thanh tịnh.

Lại có 4 pháp có khả năng làm Thi-la thanh tịnh:

Năm ấm không sinh diệt

Sáu tánh như pháp tánh

Thấy sáu tình cũng không

Không vướng lời thế tục

Bốn pháp là như thế

Cũng hay tịnh Thi-la.

Năm ấm không sinh diệt v.v…: Là tư duy về gốc ngọn của năm ấm, thấy chúng không sinh diệt. Thấy sáu tánh như đất v.v… như pháp tánh. Như pháp tánh không thể thủ đắc, sáu tánh cũng không thể thủ đắc. Nhận biết sáu tình tuy là khổ, vui v.v… nhưng chúng là nhân duyên của tâm, tâm số pháp, nếu dùng chánh trí suy xét thì cũng nhận biết chúng là không. Thấu đạt ba thứ đều biết rõ là không. Có hành giả tham chấp nơi không tức trở lại làm chướng ngại đạo. Cho nên nói: Chớ tham chấp nơi không. Tùy nơi thế tục mà nói về danh tự của không. Pháp như vậy có khả năng làm Thi-la thanh tịnh.

Hỏi: Nếu như vậy vì sao nói các pháp như năm ấm?

Đáp: Do không, nên các pháp như năm ấm là không. Lời nói tối hậu là chớ vướng mắc nơi không, không này cũng nên xả bỏ. Như thế thì không có pháp nghi tà làm trở ngại Thi-la.

Hỏi: Các pháp như năm ấm, do có tướng có thể hiển bày tướng nên quyết định có. Như nói sắc là tướng khổ não, biết khổ vui là tướng của thọ. Hiện có các tướng như vậy, vì sao nói: Không phải không, không phải là chẳng không?

Đáp:

Não hoại là tướng sắc

Những gì gọi là sắc?

Nếu não là tướng sắc

Lìa tướng không hiện tướng.

Tướng này ở xứ nào?

Vô tướng không hiện tướng

Thế giới trọn không có

Vô tướng có hiện tướng.

Tướng cùng với hiện tướng

Phi hợp, phi chẳng hợp

Chúng không từ đâu đến

Cũng không đi về đâu.

Nếu có hợp phi hợp

Thành nơi tướng, hiện tướng

Như vậy tức là mất

Tướng và tướng hiện bày.

Do tướng thành hiện tướng

Tướng cũng không tự thành

Tướng tự không thể thành

Làm sao thành hiện tướng?

Thế giới thật đáng thương

Phân biệt tướng, hiện tướng

Mê hoặc các nẻo tà

Do sư tà lừa dối.

Tướng hiện tướng tức là

Không tướng không hiện tướng

Mắt thấy sự như thế

Vì sao không thể biết?

Theo chấp tướng, hiện tướng

Có hý luận như thế

Theo lúc khởi hý luận

Tức rơi xứ phiền não.

Lại nữa, hành giả dùng môn không đến, không đi để quán xét tánh của các ấm, nhập không. Như kệ nói:

Pháp sinh lão bệnh tử

Khi sinh không đâu tới

Pháp sinh lão bệnh tử

Lúc diệt không về đâu.

Tánh các ấm, giới, nhập

Lúc sinh không đâu tới

Khi diệt không về đâu

Nghĩa pháp Phật như vậy.

Như lửa không sức người

Cũng không do xát gỗ

Trong hòa hợp cũng không

Mà nhân hòa hợp có.

Củi hết thì lửa tắt

Tắt rồi không đi đâu

Các duyên hợp nên có

Duyên tan tức đều không.

Nhãn thức cũng như vậy

Nó không ở trong mắt

Cũng không ở trong sắc

Cũng không ở khoảng giữa.

Không ở trong hòa hợp

Cũng không lìa hòa hợp

Không đến từ nơi khác

Mà nhân hòa hợp có.

Hòa hợp tan tức không

Các pháp cũng như vậy

Lúc sinh không đâu tới

Khi diệt không về đâu.

Như sức tâm rồng kia

Mà có lớp mây hiện

Không từ thân rồng xuất

Cũng không nơi khác tới.

Mà lớp mây dày ấy

Mưa tuôn khắp thế giới

Sau đó đều tan hết

Cũng không có chốn đến.

Như mây không đến đi

Các pháp cũng như vậy

Khi sinh không đâu tới

Lúc diệt không về đâu.

Như người vẽ trên vách

Không do ở đường nét

Cũng không do hòa hợp

Trong vách cũng lại không.

Nơi tay thợ cũng không

Trong nét bút cũng không

Không từ xứ khác đến

Mà nhân hòa hợp có.

Hòa hợp tan tức không

Các pháp cũng như thế

Khi có không đâu đến

Lúc không không về đâu.

Đèn cháy không do dầu

Cũng không từ tim xuất

Cũng không xứ khác đến

Mà nhân dầu, tim có.

Nhân duyên hết thì tắt

Lúc tắt không về đâu

Tướng đến, đi các pháp

Đều cũng lại như thế.

Lại có 4 pháp có khả năng làm Thi-la thanh tịnh:

Hay tự suy xét thân

Không tự cao, khinh người

Hai việc không sở đắc

Tâm khinh an không kiêu

Quán các pháp bình đẳng

Là bốn tịnh Thi-la.

Hay tự suy xét thân: Là hành giả nên nghĩ như vầy: Thân ta là bất thiện, với tướng chết, tướng vô thường, thì có giá trị gì. Suy niệm như vậy rồi, tức Không tự cao, khinh người. Tin hiểu thân mình và người là không có ngã, ngã sở, thế nên không sở đắc.

Tâm khinh an (ỷ) không kiêu: Là đạt được pháp như thế nên tâm nhẹ nhàng, mềm dịu, có khả năng nhận lãnh pháp. Do tâm khinh an vui thích này nên không tự cao.

Quán các pháp bình đẳng: Là dùng pháp không quán xét hết thảy pháp hữu vi, vô vi, đều không có thượng, trung, hạ sai khác.

Như kệ nói:

Nếu phải nhân nơi dưới

Mà có hạng giữa, trên

Dưới không tạo giữa, trên

Vì sao nhân dưới có.

Dưới tự tạo cho dưới

Giữa, trên trước định có

Nếu phải nhân nơi giữa

Mà có bậc trên, dưới.

Giữa không tạo dưới, trên

Vì sao nhân giữa có?

Giữa tự tạo cho giữa

Dưới, trên trước định có.

Nếu phải nhân nơi trên

Mà có bậc giữa, dưới

Trên không tạo giữa, dưới

Vì sao nhân trên có?

Trên tự tạo cho trên

Giữa, dưới trước định có

Nhân dưới không được tạo

Không nhân cũng không được.

Nếu trước đã định có

Không cần nhân nơi dưới

Nếu trước định là không

Làm sao thành trên, giữa?

Nhân giữa không được tạo

Không nhân cũng không được

Nếu trước đã định có

Không cần nhân nơi giữa.

Nếu trước định là không

Làm sao thành dưới, trên

Nhân trên không được tạo

Không nhân cũng không được.

Nếu trước định là có

Không cần nhân nơi trên

Nếu trước định là không

Làm sao thành giữa, dưới?

Lại nữa, do một tướng không, nên quán các pháp đều bình đẳng. Chúng sinh cũng như vậy. Như kệ nói:

Người trí nơi pháp không

Không nói tướng phân biệt

Không một mà không khác

Hay thấy không như thế.

Đó tức là thấy Phật

Phật không khác với không

Nói chư Phật là một

Tất cả chúng sinh một.

Hết thảy pháp một pháp

Trên, giữa, dưới không khác

Hết thảy Phật, Thế Tôn

Lìa tự tánh, tha tánh.

Tất cả các chúng sinh

Cũng lìa tánh tự, tha

Tất cả pháp cũng thế

Lìa tự tánh, tha tánh.

Là do nhân duyên ấy

Thế nên gọi một tướng

Có chư Phật tức phi

Không chư Phật cũng phi.

Có các chúng sinh phi

Không các chúng sinh phi

Có các pháp tức phi

Không các pháp cũng phi.

Lìa khỏi nơi có không

Gọi đó là bình đẳng

Hết thảy Phật, Thế Tôn

Chúng sinh và các pháp.

Tất cả không thể giữ

Gọi các pháp bình đẳng

Hết thảy Phật, chúng sinh

Và pháp không sai biệt.

Do không thể phân biệt

Gọi đó là bình đẳng

Chư Phật và chúng sinh

Cùng với tất cả pháp.

Nhập trong sinh trụ diệt

Tịch diệt không chỗ có

Cũng không từ đâu tới

Cũng chẳng đi về đâu.

Do không có tới, lui

Gọi đó là bình đẳng

Chư Phật và chúng sinh

Cùng với tất cả pháp.

Thảy đều không chỗ có

Vượt hết thảy nẻo hữu

Ba ấy phi là đẳng

Cũng lại phi phi đẳng.

Phi đẳng phi phi đẳng

Phi phi đẳng, không đẳng

Nói các pháp như thế

Đều cùng không sai biệt.

Lại có 4 pháp có khả năng làm Thi-la thanh tịnh:

Khéo tin hiểu lý không

Không sợ pháp vô tướng

Đại bi nơi chúng sinh

Hay nhẫn pháp vô ngã

Bốn pháp là như vậy

Có thể tịnh Thi-la.

Khéo tin hiểu lý không: Là hành giả thấu đạt các pháp là không tự tánh, không tha tánh, gọi là tin hiểu về không. Như kệ nói:

Hết thảy pháp hiện có

Trong không tự tánh sinh

Hoặc từ các duyên sinh

Tức nên từ khác có.

Không từ tự tánh sinh

Làm sao từ khác sinh?

Tự tánh đã không thành

Tha tánh cũng lại không.

Nếu lìa tự tánh sinh

Tức không có tự tánh

Nếu lìa nơi tự tánh

Thì không có tự tướng.

Tự tánh, tướng tự tánh

Không do hợp nên có

Không do tan nên không

Hai định có tức không.

Tha không thể sinh pháp

Tự cũng không thể sinh

Tự, tha cũng không thể

Lìa hai cũng không sinh.

Nếu không có nơi tự

Làm sao từ tha sinh?

Lìa nơi pháp thế tục

Tức không có tự, tha.

Nếu tha từ tha sinh

Tha tức không tự thể

Không thể tức không có

Do vật gì sinh tha?

Do không có tự thể

Tha sinh cũng lại không

Bốn thứ này đều không

Không pháp định sinh diệt.

Không sợ pháp vô tướng: Là tin vui, xa lìa các tướng, nên không hề kinh hãi. Như kệ nói:

Tất cả nếu không tướng

Tất cả tức có tướng

Tịch diệt là không tướng

Tức là có pháp này.

Nếu quán pháp vô tướng

Vô tướng tức là tướng

Nếu nói tu vô tướng

Tức phi tu vô tướng.

Nếu bỏ các chấp trước

Gọi đó là vô tướng

Lấy là bỏ chấp tướng

Tức là không giải thoát.

Phàm là do có lấy

Nhân lấy mà có bỏ

Lìa lấy, lấy sự gì?

Gọi đó do là bỏ.

Người lấy chỗ dùng lấy

Cùng pháp có thể lấy

Cùng lìa đều không có

Đó đều gọi tịch diệt.

Nếu tướng pháp nhân thành

Đây tức là không tánh

Nếu đã không có tánh

Đây tức không có tướng.

Nếu pháp không có tánh

Đây tức không sự tướng

Vì sao nói vô tánh?

Tức gọi là vô tướng.

Nếu dùng có và không

Cũng ngăn, cũng nên nghe

Tuy nói tâm không chấp

Tức là không có lỗi.

Xứ nào trước có pháp

Mà sau đó không diệt

Nơi nào trước có cháy

Mà sau có tắt mất.

Có tướng tịch diệt ấy

Đồng vô tướng tịch diệt

Thế nên lời tịch diệt

Cùng người nói tịch diệt.

Trước giờ không tịch diệt

Cũng phi không tịch diệt

Cũng phi tịch, chẳng tịch

Phi phi tịch, chẳng tịch.

Đại bi nơi chúng sinh: Là chúng sinh vô lượng vô biên nên tâm bi cũng rộng lớn. Lại nữa, pháp của chư Phật vô lượng vô biên, vô tận như hư không, tâm bi là cội gốc nơi pháp của chư Phật. Người có khả năng đạt được pháp lớn nên gọi là đại bi. Bậc tối đại trong tất cả chúng sinh gọi là Phật. Nẻo hành hóa của Phật gọi là đại bi.

Hay nhẫn pháp vô ngã: Là tin ưa pháp thật. Chư Phật đều có một đường Niết-bàn nên gọi là pháp vô ngã. Nếu vào trong pháp này, tâm không nhẫn thì như chút cỏ ném vào lửa liền bị cháy hết. Nếu là vàng thật đưa vào lửa, do có thể chịu được nên không mất như thế. Hàng phàm phu nếu không tu tập căn thiện mà nhập nơi pháp vô ngã thì không thể kham nhẫn nên sinh những nghi ngờ tà vạy. Bồ-tát này tu tập căn thiện từ vô lượng đời đến nay được trí tuệ sắc bén, được chư Phật hộ niệm, tuy chưa đoạn trừ hết kiết sử, nhưng nhập trong pháp vô ngã, tâm có thể nhẫn thọ được.

Pháp vô ngã là các pháp như ấm, giới, nhập, mười hai nhân duyên v.v… Nhân duyên phá trừ ngã như trước đã nói.

Do vậy muốn làm Thi-la thanh tịnh phải hành trì bốn pháp này.

Lại nữa:

Có bốn phá Thi-la

Mà giống trì Thi-la

Hành giả nên tinh tấn

Tự chế ngự, chớ làm.

Phẩm Ca-diếp trong Kinh Bảo Đảnh nói: Đức Phật nói với Tôn giả Ca-diếp: Có bốn loại Tỳ-kheo phá giới nhưng giống như Tỳ-kheo giữ giới. Những gì là bốn?

1. Này Ca-diếp! Có Tỳ-kheo có khả năng hành trì đầy đủ kinh giới, nhưng lại nói có ngã. Đó gọi là phá giới mà giống như giữ giới.

2. Lại nữa, này Ca-diếp! Có Tỳ-kheo trì tụng kinh luật, giữ gìn giới hạnh nhưng đối với thân kiến không động không lìa. Đó gọi là phá giới mà giống như trì giới

3. Lại nữa, này Ca-diếp! Có Tỳ-kheo hành đủ mười hai hạnh đầu-đà, nhưng thấy các pháp quyết định là có. Đó gọi là phá giới mà giống như giữ giới.

4. Lại nữa, này Ca-diếp! Có Tỳ-kheo hành tâm từ duyên nơi chúng sinh, nghe nói các hành đều không có tướng sinh thì tâm kinh sợ. Đó gọi là phá giới mà giống như giữ giới.

Này Ca-diếp! Đó là bốn hạng người phá giới mà giống như giữ giới.

Lại nữa:

Thế Tôn đã từng dạy

Sa-môn có bốn phẩm

Nên theo loại thứ tư

Xa lìa ba loại trước.

Trong phẩm Ca-diếp nói: Về bốn loại Tỳ-kheo, hành giả nên học loại Sa-môn thứ tư, không nên học theo ba hạng kia. Những gì là bốn? Phật bảo Tôn giả Ca-diếp: Có bốn loại Sa-môn:

  1. Sa-môn hình sắc tướng.
  2. Sa-môn có oai nghi khác lạ.
  3. Sa-môn tham cầu danh lợi.
  4. Sa-môn hành chân thật.

Thế nào là Sa-môn hình sắc tướng? Là có hình Sa-môn, có sắc tướng Sa-môn. Đó là những người mặc y Tăng-già-lê, cạo bỏ râu tóc, bưng bình bát đen, nhưng hành thân nghiệp bất tịnh, khẩu nghiệp bất tịnh, ý nghiệp bất tịnh, không cầu vắng lặng, không cầu pháp thiện, lại tham lam, bỏn sẻn, biếng nhác, hành các pháp ác, phá giới, không vui thích tu tập. Đó gọi là Sa-môn hình sắc tướng.

Thế nào là Sa-môn có oai nghi khác lạ? Là Sa-môn có đủ bốn thứ oai nghi, suy xét pháp tường tận chỉ nhằm có được y phục, thức ăn uống, hành hạnh Thánh chủng, nhưng không hòa hợp với người xuất gia, tại gia, ít nói năng. Do chỗ hành trì này là muốn thâu phục lòng người, nên tâm không thanh tịnh. Oai nghi như vậy không vì điều thiện, không vì pháp tịch diệt, mà thấy các pháp là quyết định có. Đối với pháp không, pháp không sở hữu thì sợ hãi như rơi xuống hầm sâu. Thấy ai giảng nói pháp không thì sinh tưởng như kẻ oán. Đó gọi là Sa-môn có oai nghi khác lạ.

Thế nào là Sa-môn tham cầu danh lợi? Là có Sa-môn có thể giữ giới miễn cưỡng, nghĩ như vầy: Làm thế nào để khiến người khác biết mình trì giới? Là gắng gượng cầu học rộng. Làm thế nào để khiến người khác biết mình học rộng? Là miễn cưỡng hành pháp A-lan-nhã. Làm thế nào để khiến người khác biết mình hành pháp A-lan-nhã? Là miễn cưỡng cầu hành thiểu dục, tri túc, xa lìa. Làm thế nào để khiến người khác biết mình đang hành hạnh thiểu dục, tri túc, xa lìa? Những sự hành trì ấy không phải do tâm chán lìa, không phải vì diệt trừ phiền não, không phải để cầu tám Thánh đạo, không phải vì cầu Niết-bàn, không phải vì để hóa độ tất cả chúng sinh. Đó gọi là Sa-môn cầu danh lợi.

Thế nào là Sa-môn hành chân thật? Là có Sa-môn, thân mạng hãy còn không tham tiếc huống nữa là danh lợi. Nghe giảng nói về các pháp không, không sở hữu, tâm rất vui mừng theo lời dạy mà hành. Hãy còn không tham tiếc Niết-bàn mà hành phạm hạnh, huống chi là tham tiếc ba cõi. Hãy còn không vướng mắc nơi không kiến, huống nữa là chấp nơi các kiến: ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, mạng giả, tri giả, kiến giả. Ở trong các phiền não mà cầu giải thoát, không cầu nơi bên ngoài. Quán tất cả pháp xưa nay thanh tịnh không cấu uế. Người này chỉ nương dựa vào thân, không nương dựa vào cái gì khác. Do thấy rõ thật tướng của các pháp nên hãy còn không tham nơi pháp thân huống nữa là nơi sắc thân. Thấy pháp lìa tướng, không do ngôn thuyết, Thánh chúng vô vi hãy còn không phân biệt huống nữa là mọi người. Không vì sự đoạn trừ phiền não, không vì tu tập, nên không ghét bỏ sinh tử, không ưa thích Niết-bàn, không buộc, không mở. Biết pháp của chư Phật là không có tướng cố định. Biết rồi nên không qua lại nơi sinh tử, cũng không chứng diệt. Này Cadiếp! Đó gọi là Sa-môn hành chân thật.

Này Ca-diếp! Các ông nên siêng hành hạnh Sa-môn chân thật, chớ để danh tự làm hại mình.

Lại nữa:

Không vì pháp của vua

Mà vâng giữ Thi-la

Cũng không nương vào sinh v.v…

Mà thọ trì Thi-la.

Hành giả muốn cho Thi-la thanh tịnh, không nên vì pháp của vua mà giữ giới: Pháp của vua là như Phật nói với Lực sĩ Tịnh Đức: Này Thiện nam! Bồ-tát giữ Thi-la cho dù mất mạng vẫn không phá giới. Không vì mong làm quốc vương nên giữ giới. Không vì mong được sinh lên cõi trời nên giữ giới. Không vì mong làm Đế thích, Phạm Thiên vương, không vì mong giàu vui, có sức tự tại nên giữ giới. Giữ giới không vì tiếng tăm, được khen ngợi. Giữ giới không vì lợi dưỡng, giữ giới không vì sự sống lâu. Giữ giới không vì các thứ ăn uống, y phục, ngọa cụ, thuốc men, đồ cần dùng cho đời sống.

Không nương dựa vào các pháp như sinh v.v…: Là không phải giữ giới để được sinh vào cõi trời, người. Không nương vào mình nên trì giới, không nương vào người khác nên trì giới. Không nương vào đời nay nên trì giới, không nương vào đời sau nên trì giới. Không nương vào sắc, không nương vào thọ tưởng hành thức, không nương vào nhãn, không nương vào nhập, không nương vào nhĩ tỷ thiệt thân ý nên trì giới. Không nương vào cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc nên trì giới. Không vì được thoát khỏi các nẻo ác như địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, A-tu-la, nên trì giới. Không vì sợ sự nghèo trong cõi trời nên trì giới. Không vì sợ sự nghèo trong cõi người nên trì giới. Không vì sợ sự nghèo trong Dạ-xoa nên trì giới.

Hỏi: Nếu không vì những pháp như thế thì do pháp gì nên trì giới?

Đáp:

Vì muốn khiến Tam bảo

Trụ lâu nên trì giới

Vì muốn được vô số

Lợi ích nên trì giới.

Tam bảo trụ lâu là vì không để cho Phật chủng bị đoạn dứt nên trì giới. Vì để chuyển pháp luân nên trì giới. Vì gồm thâu Thánh chúng nên trì giới. Vì nhằm thoát khỏi sinh già bệnh chết ưu bi khổ não nên trì giới. Vì nhằm độ thoát tất cả chúng sinh nên trì giới. Vì nhằm khiến cho các chúng sinh được an lạc nên trì giới. Vì nhằm khiến chúng sinh đến nơi chốn an lạc nên trì giới. Vì tu thiền định nên trì giới. Vì trí tuệ giải thoát, giải thoát tri kiến nên trì giới. Những sự việc này, trong Kinh Tịnh Đức đã nói rộng.

Bồ-tát hành như vậy

Là thành tựu Thi-la

Không mất nơi mười lợi

Cùng vô số ích khác.

Cũng lại không rơi vào

Bốn xứ nạn, đường tà

Được bốn pháp không mất

Không gặp bốn pháp hoại.

Lại được không lừa dối

Bốn pháp của chư Phật

Không bị đọa địa ngục

Vượt mười việc sợ hãi.

Không mất mười điều lợi:

  1. Không mất thường làm Chuyển luân Thánh vương.
  2. Thường ở trong đó, không mất tâm không phóng dật.
  3. Không mất thường làm Thích-đề-hoàn-nhân.
  4. Thường ở trong đó, không mất tâm không phóng dật.
  5. Thường không mất hành cầu đạo chư Phật.
  6. Thường không mất sự việc được giáo hóa của chư Bồ-tát.
  7. Thường không mất lạc thuyết biện tài.
  8. Thường không mất việc gieo trồng các căn thiện, phước đức, sở nguyện đầy đủ.
  9. Thường không mất sự việc được chư Phật, Bồ-tát, Hiền Thánh khen ngợi.
  10. Thường không mất việc có thể mau chóng đạt đầy đủ tất cả trí tuệ.

Vô số lợi: Là đối với vô số công đức, tâm không hề thoái chuyển. Như trong kinh nói: “Bồ-tát khéo giữ gìn giới, thường được chư Thiên khen ngợi, các Long vương hộ trì, mọi người cúng dường, thường được chư Phật hộ niệm, thường vì thế gian làm bậc Đại sư, thường thương xót nghĩ đến các chúng sinh”.

Không rơi vào đường tà, bốn xứ nạn: Là Bồ-tát có thể thành tựu giới như vậy, thì không rơi vào bốn xứ nạn:

  1. Không sinh vào chốn không có Phật.
  2. Không sinh vào nhà tà kiến.
  3. Không sinh vào cõi trời Trường Thọ.
  4. Không bị đọa vào tất cả đường ác.

Được bốn pháp không mất:

  1. Không mất tâm Bồ-đề.
  2. Không mất niệm Phật.
  3. Không mất tâm thường cầu đa văn.
  4. Không mất việc nhớ nghĩ về vô lượng thế sự.

Không gặp bốn pháp hoại:

  1. Không gặp pháp suy hoại.
  2. Không gặp đao binh.
  3. Không gặp sự ác độc.
  4. Không gặp sự đói khát.

Được bốn pháp không lừa dối:

  1. Không lừa dối chư Phật trong mười phương.
  2. Không lừa dối các thiên thần.
  3. Không lừa dối chúng sinh.
  4. Không tự lừa dối bản thân.

Vượt qua mười sự sợ hãi: Là Bồ-tát trì giới thanh tịnh như vậy, thì có thể vượt qua mười sự sợ hãi như bị đọa vào địa ngục v.v… Những gì là mười?

  1. Có thể vượt qua sự sợ hãi về địa ngục.
  2. Có thể vượt qua sự sợ hãi về súc sinh.
  3. Có thể vượt qua sự sợ hãi về ngạ quỷ.
  4. Có thể vượt qua sự sợ hãi về nghèo khổ.
  5. Có thể vượt qua sự sợ hãi về hủy báng, trách mắng, tiếng xấu.
  6. Có thể vượt qua sự sợ hãi bị phiền não che lấp.
  7. Có thể vượt qua sự sợ hãi về chánh vị của Thanh văn, Phậtbích-chi.
  8. Có thể vượt qua sự sợ hãi về các chúng Trời, Người, Rồng, Thần, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầula-già.
  9. Có thể vượt qua sự sợ hãi về binh đao, ác độc, lụt lội, lửa cháy, sư tử, chó sói, kẻ khác gây hại.
  10. Có thể vượt qua sự sợ hãi về tà kiến.

Bồ-tát trì giới thanh tịnh như vậy tức có năng lực trụ nơi pháp của chư Phật. Đó là bốn mươi pháp bất cộng, có thể trở thành bậc pháp khí.

***

Phẩm 34: KHEN NGỢI GIỚI

Bồ-tát trì Thi-la thanh tịnh như vậy, có thể gồm thâu các lợi ích của vô số công đức, như Bồ-tát Vô Tận Ý đã nói.

Lại nữa, lược tán thán đôi phần về Thi-la: Thi-la là nơi chốn mừng vui bậc nhất của người xuất gia, như tuổi trẻ giàu sang hết sức vui sướng. Thi-la có khả năng tăng trưởng pháp thiện, như mẹ hiền nuôi con. Thi-la có khả năng phòng hộ các thứ lo lắng suy tổn, như người cha che chở con. Thi-la có khả năng thành tựu hết thảy lợi ích lớn của người xuất gia, như người bạch y nhiều của cải. Thi-la có khả năng cứu vớt khổ não, như hành chánh thuận lý. Thi-la có khả năng được người thiện cung kính, như pháp báo ơn. Thi-la được mọi người mến trọng, cũng như mạng sống. Thi-la được người trí quý chuộng, như trí tuệ. Người cầu giải thoát khéo giữ gìn Thi-la, như sự việc bí mật của vua do đại thần cất giữ. Người vui thích lợi ích của đạo, mến trọng Thi-la như vui thích Niết-bàn, mến trọng pháp Phật. Người trí tuệ khéo giữ gìn Thi-la, như người tiếc tuổi thọ nên họ bảo hộ pháp an thân, cứu nạn chết khẩn cấp. Thi-la là tối thượng như khi gặp phải cấp nạn mà được tri thức thiện.

Thi-la là hiền nhân thanh tịnh trang nghiêm, như người nữ nhà quý tộc biết hổ thẹn, không cấu uế. Thi-la là cửa ngõ đầu của công đức, như không dua nịnh, quanh co, mở ra những điều thiện lợi. Thila là gốc của phạm hạnh tối thượng, như trực tâm là gốc của chánh kiến. Pháp của các Đại nhân lấy Thi-la làm gốc, như cầu ngôi vị trọng yếu lấy trực tâm làm gốc.

Thi-la là kho báu công đức, như sự không phóng dật, cũng như chánh niệm có khả năng phát sinh nhiều lợi ích, như bạn hiền đối xử với mình trước, giữa, sau đều thiện. Người học chánh pháp không được vượt qua, như biển luôn có hạn lượng. Thi-la tức là trụ xứ của công đức, cũng như đại địa là chỗ nương dựa của muôn vật. Thi-la thấm nhuần các công đức thiện, như mưa tuôn thấm nhuần hạt giống, có thể thành tựu năm căn, như lửa nấu chín thức ăn, có thể sinh ra nhiều lợi, như gió thành tựu thân. Thi-la có khả năng nhận lãnh tất cả đạo quả, như hư không bao hàm vạn vật, như chiếc bình an lành, theo nguyện ước đều được, cũng như thức ăn ngon tạo lợi ích cho các căn. Thi-la khéo có thể thông tỏ các nẻo, khiến các căn thanh tịnh vô ngại. Thọ mạng của trí tuệ lấy Thi-la làm gốc, như thân mạng lấy sự hít thở khí trời làm gốc. Thi-la tức là nơi chốn nương dựa tối thượng, như người dân nương dựa vào vua.

Thi-la tức là chủ của các công đức, như vị đại tướng của muôn quân. Thi-la được nhiều diệu lạc, như người vợ theo ý có thể làm vừa lòng chồng. Thi-la tức là của cải cần dùng cho người học đạo cầu Niết-bàn hay sinh lên cõi trời, như người đi xa tất phải mang theo y phục, lương thực. Thi-la đưa người khiến đến xứ thiện, như đi qua đoạn đường hiểm, có được người dẫn đường khéo léo.

Thi-la đưa người vượt qua dòng sinh tử, cũng như con thuyền vững chắc đưa người qua biển cả. Thi-la có thể diệt trừ tai họa của phiền não, cũng như loại thuốc hay có thể trị dứt chứng bệnh. Thi-la là khí giới có khả năng công phá giặc ma, cũng như binh khí tốt dùng để đối địch nơi chiến trận. Thi-la luôn cứu giúp người trong những trường hợp suy não, như đối với người thân ái gặp phải hoạn nạn, không hề lìa bỏ.

Thi-la chiếu sáng vùng u tối của đời sau, như ngọn đèn sáng lớn có thể xua tan hắc ám. Thi-la đưa người ra khỏi các nẻo ác, như vượt qua vực nước sâu có được chiếc cầu tốt. Thi-la có khả năng trừ bỏ phiền não nóng bức, như ngôi nhà mát mẻ có thể ngăn trừ nắng gió độc hại. Thi-la có thể cứu vớt người sắp rơi vào vào đường ác, như dũng sĩ cầm gươm cứu người đang bị sợ hãi.

Hàng phàm phu phải ái kính sâu xa Thi-la, như các Bồ-tát học thắng xứ Đế. Hành giả khéo hành Thi-la, như Bồ-tát khéo hành thắng xứ Xả. Người đạt được quả vị do khéo tu tập Thi-la, cũng như Bồ-tát tu trì thắng xứ Diệt. Người hộ trì Thi-la khiến đạt được quả vị, cũng như Bồ-tát tu thắng xứ Tuệ.

Pháp không suy hoại có thể làm Thi-la thanh tịnh, như các Bồtát luôn thanh tịnh không cấu uế. Các người xấu ác lìa bỏ Thi-la, như người dua nịnh, quanh co kia từ bỏ tâm ngay thẳng của mình. Người phóng dật không hành Thi-la, như người tham lam bỏn sẻn không hành tuệ thí. Người phóng dật lìa bỏ Thi-la, như người tham hý luận lìa bỏ pháp tịch diệt. Người ngu si không có Thi-la, cũng như người mù không nhìn thấy năm màu sắc.

Người không tư duy xa cách Thi-la, như lìa tám Thánh đạo thì xa cách Niết-bàn. Người khéo quý trọng thân mạng ưa thích sâu xa Thila, như A-la-hán yêu mến sâu xa pháp lạc. Thi-la có thể khiến cho pháp thiện không não hại luôn được nối tiếp không dứt, như Phật xuất hiện ở đời, việc thiện không bao giờ đoạn mất. Thi-la có thể làm cho các đạo quả an trụ, như thần lực của Phật khiến chánh pháp trụ lâu.

Thi-la như Phật luôn lợi mình, lợi người. Thi-la khéo hộ trì các công đức thiện, như vị vua biết thời có thể bảo vệ cõi nước. Thi-la khiến hành giả an tâm, như quả vị Tu-đà-hoàn, như đúng lúc khởi sự, về sau không hối tiếc. Thi-la rốt ráo tất đạt Niết-bàn, như Bồ-tát nguyện rốt ráo tức thành Phật. Thi-la cũng như ruộng tốt đất mềm, nên giống gieo xuống là mọc mầm tăng trưởng. Thi-la là nhân của hành chánh, như nhận biết thời gian, nơi chốn, là nhân thành tựu của các sự việc, như người đoan nghiêm có phước đức, trí tuệ, được muôn người tôn quý.

Thi-la được mình và người đều tôn kính như vậy, như khi phước đức thành thục thì tâm được an ổn. Thi-la có thể khiến tâm được an ổn, thọ nhận các quả báo lợi lạc. Thi-la có khả năng khiến hành giả hoan hỷ, cũng như con trẻ tươi vui khiến cha mẹ hài lòng. Thi-la tức là pháp không lỗi lầm, không sợ hãi, như người không mắc lỗi lầm, tâm không lo sợ. Thi-la khiến người đời này đời sau không có sợ hãi, không mắc các thứ tội ác. Người cúng dường khen ngợi người hộ trì Thi-la, thì người khác cũng hoan hỷ, do tự biết mình có phần lợi ích. Thi-la thương yêu chúng sinh như tu tập định từ. Thi-la diệt trừ khổ như tu định bi. Thi-la ban đem đến niềm vui như tu định hỷ. Thi-la không yêu không ghét như tu định xả. Thi-la được nhiều người tin nhận, như bốn loại thiện ngữ có thể khiến người tin tưởng. Thi-la được ưa thích hành trì, như trong pháp thế gian, tâm luôn hoan hỷ, như học rộng là nhân của ưa thích thuyết giảng. Thi-la tức là nhân của ngôn hành tương ưng. Thi-la là nhân của sự không sợ hãi, như biện tài vô úy.

Thi-la là nhân của tiếng tốt vang xa, như sự thông suốt kinh điển luôn có tiếng khen tốt. Thi-la là pháp có khả năng cứu độ, như lời nói chuyển giúp vì người cứu giúp. Thi-la là pháp có thể thành tựu sự giải thoát sáng tỏ, như theo những gì đã giảng mà hành. Thi-la là tướng của chư Phật, như Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Thila là pháp hỗ trợ việc tu đạo, như định hỗ trợ tuệ.

Thi-la khiến người không có nạn sợ hãi, như người có tâm lớn gánh vác sự việc không hề lo sợ. Thi-la là nơi chốn tích tụ các công đức, cũng như vật báu ở núi Tuyết, tích tụ các công đức như tín v.v… làm chỗ nương dựa cho các sự việc hy hữu. Thi-la cũng như đại đương có nhiều thứ kỳ lạ, cũng như trái ngon ngọt nương dựa nơi cây. Thi-la cho con người những thứ quả theo chỗ ưa thích, như người hành theo trí tuệ chân chánh tức đạt quả. Thi-la gọi là không có nước mà vẫn sạch trong.

Thi-la tức là hương diệu tối thượng, không phải từ nơi rễ cộng cành lá hoa quả phát ra. Thi-la là sự trang nghiêm vượt hẳn những thứ trang sức, luôn gắn liền nơi thân, không ai có thể xóa bỏ được. Thi-la là nguồn vui lớn, không từ năm dục sinh, nơi đời sau cũng có các báo diệu lạc. Thi-la được hết thảy các hàng Thiên, Nhân, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn của thế gian khen ngợi.

Thi-la là niềm an lạc tự tại trong thân, không từ nơi người khác được, là phương tiện tốt của việc sinh lên cõi trời, Niết-bàn. Thi-la tức là dòng sông của niềm tin đang cứu độ, không có bùn sâu, cùng các thứ ngói đá, gai gốc, tùy ý có thể vào đó, khéo vượt qua không chút ngăn ngại. Thi-la là của cải quý giá không có các thứ suy não.

Thi-la là đường đi thanh tịnh, không ai có thể phá hoại được, như đường bằng phẳng, người đi không hề khó khăn. Thi-la là ruộng tốt không gieo không gặt, nhưng tự nhiên được hạt. Thi-la là quả cam lồ, không từ cây, cỏ sinh, nhưng hương mỹ là không gì sánh. Thi-la là cành hoa tốt tươi, không từ nơi nước hay đất liền sinh, nhưng không hề khô héo.

Thi-la dứt trừ phiền não nóng bức, như dùng nước mát lạnh tắm gội. Thi-la khéo phòng hộ hơn hẳn các thứ đao gậy. Người hành Thi-la, không khiến người sợ hãi mà được người cung kính. Thi-la là nơi chốn tự tại, không có tranh chấp. Thi-la là vật báu tốt đẹp không từ nơi núi sinh, không từ biển xuất, nhưng giá trị là vô lượng. Thi-la có khả năng vượt qua các thứ sợ hãi: là sợ không sống nổi, sợ đi vào đám đông, sợ tra khảo, sợ rơi vào nẻo ác. Thi-la luôn gắn bó với con người, từ đời này đến đời sau như bóng theo hình.

***

Phẩm 35: QUẢ BÁO CỦA GIỚI

Bồ-tát Địa Ly Cấu

Thanh tịnh đã nói đủ

Bồ-tát trụ Địa này

Thường làm Chuyển luân vương.

Địa thứ hai trong mười Địa gọi là Ly Cấu, vì đã vĩnh viễn dứt sạch tham lam, keo kiệt là căn bản của mười ác nên gọi là Ly Cấu. Trong Địa này, Bồ-tát hành Thi la Ba-la-mật.

Bồ-tát này nếu chưa lìa dục, do nhân duyên quả báo của Địa này nên được làm Chuyển luân Thánh vương thống lĩnh bốn châu thiên hạ, được tướng Thiên bức kim luân, với vô số châu báu trang nghiêm. Phần bầu của bánh xe làm bằng chân lưu ly, chu vi mười lăm dặm. Hằng trăm loại thần Dạ-xoa hộ vệ, có thể bay đi trên hư không dẫn đường cho bốn thứ binh, di chuyển nhẹ nhàng nhanh chóng như chim Kim-sí chúa, như gió, như ý nghĩ là đến nơi, diệt trừ hết các thứ suy tổn, lo lắng, hàng phục các giặc oán, tất cả Tiểu vương đều đến quy phục, thân tộc và muôn dân đều ái kính, uy danh vang dội. Thánh vương cùng tộc họ luôn trang sức bằng vô số tràng hoa, anh lạc đan xen nhau, năm thứ kỹ nhạc thường đi theo. Nhiều thứ lọng báu kỳ diệu hiện bày che khắp bên trên. Khi vua đi có đủ loại hương hoa, hương bột, hương chiên-đàn tung rải như mưa để cúng dường. Đốt trầm thủy chân hắc, chiên-đàn ngưu-đầu, chiên-đàn vàng để xoa lên thân. Hai bên xe có thiên nữ cầm phất trắng đứng hầu, vô số châu báu dùng làm lọng. Xe báu có đủ thứ đủ loại sự hy hữu để trang nghiêm.

Đó gọi là Kim luân báu đầy đủ.

Hết thảy voi, thân lớn màu trắng như bạc ròng lấy từ núi chúa, núi thần. Cả đám voi lớn này đều có thể bay đi nơi hư không. Các Đại Tượng vương như voi Y-la-bà-na, An-xà-na-vương, Ma-na v.v… đều có thể bị đẩy lùi. Đó gọi là Voi trắng báu đầy đủ.

Ngựa màu như cổ chim khổng tước, thân chúng nhẹ, lanh như chim Kim-sí chúa, bay trên trời không gì có thể ngăn ngại. Đó gọi là Ngựa báu.

Người xuất thân trong gia đình cao sang, thân không bệnh tật, có thế mạnh lớn, hình thể tinh khiết, nhớ nghĩ sâu xa, trực tâm nhu hòa, trì giới kiên cố, hết lòng ái kính vua, có thể thông hiểu vô số kinh sách, kỹ thuật. Đó gọi là Quan chủ binh báu.

Như Tài chủ Thiên vương, tướng giàu sang đầy đủ, cất giữ hàng ngàn vạn ức thứ vật báu, luôn đi theo vua, có hàng ngàn vạn ức các quyến thuộc của thần Dạ-xoa đi theo, đều là do phước báo của hành nghiệp từ đời trước. Khéo phân biệt về các thứ vật báu như: vàng, bạc, đế thanh, đại thanh, kim cương, Ma-la-kiệt, xa cừ, mã não, san hô, pha lê, ma-ni, chân châu, lưu ly v.v…, đều khéo nhận biết xuất nhập ít nhiều, tùy nghi sử dụng, đều có thể làm mãn nguyện vua. Đó gọi là Cư sĩ báu.

Ánh sáng như mặt trời mặt trăng, tỏa chiếu đến mười sáu dotuần, hình như trống lớn, có khả năng diệt trừ hết trùng độc, khí xấu, bệnh tật thống khổ, hàng trời, người thấy thảy đều kính trọng. Hoa đẹp chuỗi báu dùng để trang nghiêm, ngự ở tràng cao, uy quang thù thắng, có thể khiến chúng sinh phát tâm hy hữu, khởi niềm hoan hỷ lớn. Đó gọi là Ngọc báu.

Móng tay màu đỏ hồng và mỏng, thân dài thẳng, cao, lại đầy đặn, tươi nhuận, không mập không ốm, thớ thịt trên thân theo thứ lớp đầy đặn, da dẻ mịn màng, tươi mỏng, không kham nổi việc khổ. Thân vững chắc như cây Đa-la, mỗi mỗi chỗ trên thân đều hiện lên chữ Cát sáng rõ. Nét vẽ cây Cát tường trang nghiêm nơi thân. Các voi chúa, bò chúa, ngựa chúa đều được vẽ trên cờ phướn, lọng báu, các hoa văn hình vườn rừng, chim cá đều hiện rõ nơi thân. Mắt cá chân bằng phẳng không nhô, mu bàn chân gò lên như lưng rùa, mép bàn chân ửng đỏ, gót chân tròn rộng, bắp chân mềm mại, đầu gối tròn không lồi, đùi vế như cột vàng, như thân cây chuối, như vòi voi chúa mềm nhuận, sáng láng. Bụng tròn thẳng, có ba nếp ngang không lộ rõ. Rốn tròn sâu. Xương sống bằng phẳng, ngay ngắn, vú như trái Tần-bà, như đôi chim uyên ương, tròn trịa, nhô lên, không xệ xuống, cân đối tươi sạch. Cánh tay hơi nhỏ, thon dài, các lóng tay ẩn không lộ ra, mũi ngay ngắn, không lệch, hiện bày không to không nhỏ, che kín, không nhô ra. Hai gò má không lõm sâu mà đầy, phẳng, không nhô cao. Trán bằng, dài, có nét chữ Cát. Tai mềm, thùy tai thòng xuống, đeo vòng Vô giá. Răng như chuỗi ngọc chân châu, trắng như trăng mới mọc, sáng như tuyết, như ngọc kha. Môi đỏ như màu ráng tươi, như trái Tần-bà. Hai hàm răng trên dưới tương đương, không to, không nhỏ, giống như chuỗi chân châu đỏ. Hai tròng đen trắng của mắt phân minh, tươi sáng, dài rộng, trang nghiêm, thanh tịnh. Lông nheo xanh khít, dài mà không rối, lông mày không dày không mỏng, không cao, không ngắn, như trăng mới mọc, cao, cong, hai bên đều như nhau. Tóc mềm mịn không rối. Thân thường tỏa mùi hương thơm, như cùng lúc mở ra vô số hộp hương thơm thượng diệu. Mỗi lỗ chân lông trên thân thường tỏa mùi danh hương chiên-đàn có thể làm vui lòng người. Miệng thường tỏa ra mùi thơm của hoa sen xanh, thân thể mềm mại như Già-lăng-già, có thiên y láng mịn, hết thảy đều đầy đủ. Tâm không quanh co, trực tín, biết hổ thẹn, ái kính vua hết mực. Biết đúng lúc, đúng nơi, có những phương tiện khéo thâu giữ tâm vua. Đi đứng, nói năng đều vừa lòng vua, làm theo ý vua, thường nói lời êm ái, như nữ nhân đức hạnh trên thế gian, mọi vẻ đẹp đầy đủ, sắc như thiên nữ Đề-lô-đa-ma thanh tịnh phân minh. Đẹp như bức họa sáng rỡ dưới ánh trăng rằm, đẹp như phu nhân Xá-chi của trời Đế-thích. Mặc áo trời, mang tràng hoa trời, hương trời, cùng dùng nhiều ngọc ma-ni vàng tỏa ánh sáng trời để trang sức nơi thân. Khéo biết các thứ ca múa, kỹ nhạc, vui chơi. Khéo có phương cách tùy ý để làm vua vui lòng, là người nữ tối thắng trong hết thảy người nữ. Đó gọi là Ngọc nữ báu.

Lại nữa, Chuyển luân Thánh vương có bốn đức như ý:

  1. Sắc mạo đoan nghiêm, trong bốn châu thiên hạ là bậc nhất, không ai có thể sánh.
  2. Không bị đau ốm bệnh tật.
  3. Muôn dân ái kính sâu xa.
  4. Thọ mạng lâu dài.

Giáo hóa chúng sinh bằng mười nghiệp thiện, có thể khiến cho cung điện của chư Thiên đầy đủ, dồi dào. Có thể giảm bớt chúng A-tu-la, có thể khiến cho các đường ác giảm bớt, tăng thêm đường thiện, thường khéo hành tạo nhiều sự việc lợi ích cho chúng sinh. Các thứ hành tác đều không dùng binh khí, chỉ dùng pháp giáo hóa, sửa trị, khiến Thiên tử an vui, không lo sợ nước thù địch bên ngoài, không sợ âm mưu loạn động bên trong.

Lại nữa, trong nước không xảy ra các thứ như bệnh dịch, đói khát, tai họa suy não. Hết thảy các lãnh chúa ở biên giới đều quy phục. Có nhiều quyến thuộc, có thể mau chóng thâu phục nhân tâm, lại không ai có thể xâm hại cõi nước. Bốn binh chủng đầy đủ dũng lực, các Bà-la-môn, Cư sĩ, thứ dân đều ái kính, thức ăn thơm ngon tự nhiên có được.

Trong nước ngày càng phát triển, không có suy giảm. Vua thông thạo kinh sách, kỹ thuật, toán số, chú thuật đều thọ trì. Vua khéo biện luận, phân biệt những nghĩa lý sâu xa. Quần thần đầy đủ, đều có oai đức, thường hành tài thí, không ai sánh kịp. Vua có ngàn người con đoan nghiêm như các Thiên tử, đủ uy đức dũng mãnh, có thể phá tan giặc dữ.

Trụ xứ là những cung điện lầu gác đẹp đẽ như thắng điện của Tứ Thiên vương, Đế-thích. Những gì vua ban dạy không ai có thể hủy hoại. Trong bốn châu thiên hạ, chỉ vua này là có uy tướng đầy đủ, nên không ai sánh kịp. Tiếng nói vua phát ra vang xa sâu rộng, dễ nghe dễ hiểu, không tán loạn, như tiếng chim Ca-la-tần-già, giọng mềm mại êm nhẹ người nghe đều vui tai. Quyến thuộc đều đồng tâm không gì có thể chướng ngại. Nơi vua ở trên đất, dưới nước, cho đến hư không, không có gì ngăn trở. Uy lực sung mãn có thể gánh vác việc lớn. Nghĩ, hỏi các bậc kỳ lão không hề lừa dối người. Tâm không đố kỵ, không thừa nhận việc phi pháp, không có tâm sân hận, uy nghi thư thái không hề khinh suất, lời nói đều thành thật, không hề có hai lời. Hành bố thí, trì giới hằng tu tâm thiện. Tới lui biết thời, không làm mất phương tiện. Thần sắc vui hòa, luôn có nụ cười khi nói năng, chưa từng chau mày, hung dữ nhìn ai. Người mất lợi thì vì họ tạo lợi, người có lợi rồi thì khiến biết rõ chỗ báo đền luôn giữ tâm hổ thẹn, có trí tuệ lớn, uy đức tôn nghiêm nhưng luôn khéo nhẫn nhục.

Tướng đại trượng phu có tánh cứng rắn quyết đoán các thứ hành tác đều mau thành tựu, trước suy lường chín chắn, sau đó mới làm. Vua có pháp nhãn nên hành nghiệp đều thù thắng. Những người khéo tư duy mới cùng làm việc với vua. Nếu không thể gánh vác nổi thì cầu bậc Hiền minh. Khéo tích tập của cải, phước đức, luôn thanh tịnh nên có thể tự phòng hộ, không phá bỏ giới cấm. Vua có nhiều của báu như Thiên vương Tỳ-sa-môn, có uy lực lớn như trời Đế-thích, đoan nghiêm đáng yêu thích như trăng rằm, có thể chiếu sáng như mặt trời, hay nhẫn như đất, tâm sâu như biển, những khổ vui không làm cho nghiêng động, như núi chúa Tu-di gió bão không thể lay động. Là trụ xứ của các sự việc quý báu vi diệu. Là nơi chốn nương dựa của các phước đức thiện. Là thân tộc của hết thảy thế gian, là xứ sở quy hướng của tất cả những người khổ não. Người không nơi quay về thì vì họ làm nơi quay về, người không có nhà thì vì họ làm nhà, người có lo sợ thì có thể dứt trừ lo sợ cho họ.

Chuyển luân Thánh vương có những tướng như vậy.

Chuyển hóa người phá giới

Khiến trụ nơi pháp thiện

Còn nhiều việc làm khác

Như trong Sơ địa nói.

Chuyển hóa người phá giới: Là có thể khiến chúng sinh bỏ hành ác, khéo đạt được sự an lạc.

Khiến trụ nơi pháp thiện: Là có thể chuyển nghiệp ác nơi thân khẩu ý của chúng sinh thành ba nghiệp thiện. Việc này đã nói trong Địa thứ nhất, đó là thấy chư Phật, chứng đắc các Tam-muội, chỉ có khác là ở Địa kia thấy một trăm, Địa này thấy tới số ngàn.

HẾT – QUYỂN 17