LUẬN THẬP TRỤ TỲ BÀ SA
Tác giả: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Đời Hậu Tần, Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 12

Phẩm 24: KỆ TÁN THÁN PHẬT

Như thế là đã giải thích xong bốn mươi pháp bất cộng, nên lấy tướng của bốn mươi pháp bất cộng này để niệm Phật. Lại nên dùng các kệ để tán thán Phật, như đang đối diện và nói năng với Ngài. Như vậy là thành tựu Tam-muội niệm Phật. Như kệ nói:

Thánh chủ đại tinh tấn

Bốn mươi pháp riêng có

Con nay đối trước Phật

Tâm kính để xưng tán.

Như ý và phi hành

Lực ấy không giới hạn

Ở trong như ý Thánh

Không ai cùng sánh bằng.

Tự tại nơi Thanh văn

Tha tâm trí vô lượng

Khéo hay điều phục tâm

Tùy ý mà thích ứng.

Niệm ấy như biển lớn

Trong lặng nơi an ổn

Thế gian không pháp nào

Có thể nhiễu loạn được.

Chư Phật đã khen ngợi

Tam-muội Kim cang báu

Chứng đắc, tâm gắn liền

Như trực tâm Hiền Thánh.

Khéo biết pháp bất định

Việc bốn định vô sắc

Vi tế khó phân biệt

Đều biết hết, không sót.

Chúng sinh nếu đã diệt

Đang diệt và sẽ diệt

Chỉ riêng có Thế Tôn

Trí tuệ thông đạt hết.

Biết tâm bất tương ưng

Sự trong phi sắc pháp

Hết thảy các thế gian

Thảy đều không biết được.

Thế Tôn oai lực lớn

Công đức không thể lường

Trí tuệ không biên vực

Đều không người cùng sánh.

Trong bốn lối hỏi đáp

Siêu tuyệt không ai hơn

Chúng sinh có vấn nạn

Tất cả đều đáp dễ.

Nếu trong các thế gian

Có người muốn hại Phật

Việc ấy đều không thành

Do thành pháp bất sát.

Như ở trong ba thời

Các pháp đã giảng nói

Đều là lời không dối

Thường có quả báo lớn.

Phàm pháp được nêu giảng

Đều là pháp hy hữu

Nghĩa lý đã không lầm

Huống nữa là ngôn từ.

Ba hạng đệ tử Thánh

Thượng, trung, hạ có khác

Bốn Hướng và bốn Quả

Đại Đạo sư bậc nhất.

Mạng nghiệp thân, miệng ý

Rốt cùng đều thanh tịnh

Thế nên thọ mạng ấy

Không cần phải phòng hộ.

Tự bảo: Nhất thiết trí

Tâm không có nghi, sợ

Nếu người đến hỏi Ta

Sợ có chỗ không biết.

Tự nói tướng lậu hết

Tận đến biên vô lậu

Tâm không có nghi, sợ

Lậu khác có bất tận.

Tự nêu pháp chướng ngại

Trong ấy không nghi ngờ

Tuy có dùng pháp này

Không hề bị chướng ngại.

Tám Thánh đạo đã nói

Tâm không có nghi, sợ

Có người bảo tám đạo

Không đưa đến giải thoát.

Biết như thật nhân đó

Quả báo có hay không

Nên hiệu: Nhất thiết trí

Tiếng tốt truyền vô lượng.

Nghiệp hiện có ba đời

Là các nghiệp định báo

Nghiệp nào không định báo

Mỗi thứ đều biết hết.

Nơi các thiền, Tam-muội

Việc lớn, nhỏ, sâu, cạn

Có khả năng biết rõ

Trong thiền không ai bằng.

Trước biết căn chúng sinh

Cao, vừa, thấp sai biệt

Tánh, vô số ưa thích

Tùy nghi mà nói pháp.

Hành đạo được các lợi

Gồm để dẫn dắt người

Do đấy chúng đệ tử

Được thiện lợi như thật.

Biết vô lượng đời trước

Thiên nhãn thấy vô biên

Trong hết thảy trời, người

Không ai biết hạn lượng.

Trụ Tam-muội Kim cang

Diệt phiền não tập khí

Lại biết người lậu tận

Nên gọi lực lậu tận.

Phiền não, ngăn các thiền

Chướng ngại tất cả pháp

Giải thoát ba ngại ấy

Hiệu: Giải thoát vô ngại.

Bốn mươi pháp bất cộng

Công đức không thể lường

Không thể nói cho hết

Tôi đã lược nêu xong.

Thế Tôn hoặc một kiếp

Khen ngợi pháp Phật này

Cũng còn không thể tận

Huống con không trí đó.

Tiếng đại từ Thế Tôn

Chứa vô lượng nghiệp thiện

Bốn xứ các công đức

Đắc vô lượng pháp Phật.

Điều Thế Tôn giảng nói

Bốn công đức thắng xứ

Con nay lại dùng đấy

Để xưng tán Như Lai.

Đủ ba mươi hai tướng

Tướng có trăm phước đức

Cùng tám mươi vẻ đẹp

Ba cõi nào ai được?

Tam thiên đại thiên giới

Chúng sinh phước hiện có

Quả báo gấp trăm lần

Tướng có đức như thế.

Các phước đức như vậy

Cùng những quả báo ấy

Lại còn gấp trăm lần

Thành một tướng bạch hào.

Mỗi mỗi ba mươi tướng

Phước đức và quả báo

Lại được gấp ngàn lần

Thành một tướng nhục kế.

Công đức của Thế Tôn

Không thể lường tính được

Như người dùng thước tấc

Sao đo hết hư không?

Từ lúc phát tâm lớn

Nhằm hóa độ chúng sinh

Tâm vững vô lượng kiếp

Cho nên thành Phật đạo.

Tinh tấn nhằm thành đủ

Đại nguyện như thế đó

Trong vô lượng số kiếp

Hành các hạnh khó làm.

Như các Phật thuở xưa

Nói xứ bốn công đức

Vô lượng kiếp mới thành

Nay an trụ trong ấy.

Vốn hộ trì thật đế

Xả bỏ mạng, người thân

Bỏ giàu sang, của cải

Thế nên được đầy đủ.

Trong vô lượng số kiếp

Pháp thấy, nghe, hiểu, biết

Trước đều khéo suy nghĩ

Sau mới vì người nói.

Nếu như không thấy gì

Trong đó lại có nghi

Cứ như thật giảng nêu

Lợi ích vô cùng tận.

Không nêu chuyện của người

Hoặc giận trách, chống đối

Niệm luôn trụ trong tuệ

Thuận hóa khiến an ổn.

Chân diệu đế bậc nhất

Là Niết-bàn tối thượng

Các thứ đều hư vọng

Thế Tôn đức đầy đủ.

Những ăn uống, giường nằm

Nhà gác, vườn cảnh đẹp

Nào voi, ngựa xe tốt

Nào thể nữ đoan chánh.

Những vàng bạc, châu báu

Thành ấp và xóm làng

Đất nước và ngôi cao

Gồm bốn châu thiện hạ.

Con quý, vợ thân yêu

Cả tay chân đầu mắt

Đến đập xương lấy tủy

Toàn thân đều thí hết.

Xót thương các chúng sinh

Luôn thí không luyến tiếc

Vì cầu khỏi sinh tử

Chẳng phải cầu tự vui.

Ngàn sao nơi trời cao

Cát hiện có mặt đất

Thế Tôn khi Bồ-tát

Bố thí số vượt hơn.

Trọn không theo phi pháp

Cầu tài mà bố thí

Biết rõ mới bố thí

Thí không gây tổn não.

Không tham tiếc vật đẹp

Mà cho người vật xấu

Thí, tâm không dua nịnh

Không tiếc, gượng mà thí.

Tâm không giận, không nghi

Không tà, không khinh thị

Không chán, tâm luôn tin

Thí cả cổ và mặt.

Không có tâm phân biệt

Cho đây, không cho kia

Chỉ do nơi tâm bi

Bình đẳng mà hành thí.

Không xem nhẹ chúng sinh

Chẳng phải là ruộng phước

Thấy Thánh, tâm cung kính

Thương cả người phá giới.

Không tự đề cao mình

Mà coi khinh người khác

Cũng không vì được khen

Bố thí không cầu báo.

Không hối, không lo sầu

Thí, tâm không ghét, khinh

Tâm không hận, gấp, chậm

Người không pháp, cũng thí.

Thí với tâm cung kính

Thí không quăng ném vật

Thí không làm phiền người

Thí không vì thắng thua.

Không đùa cợt người xin

Thí do chính tay mình

Không khinh người ít vật

Mình nhiều thí tự cao.

Không đem thừa Thanh văn

Phật-bích-chi mà thí

Thí không hạn một đời

Không bố thí phi thời.

Thế Tôn vô số kiếp

Hành những thí hy hữu

Đều vì đạo vô thượng

Không vì cầu tự vui.

Trong pháp của chư Phật

Xuất gia hành xa lìa

Tu tập các pháp Phật

Vì trời, người giảng nói.

Nêu pháp thí như vậy

Trong các thí là hơn

Như mặt trời tỏa sáng

Trăng sáng vượt các sao.

Xứ Xả thắng như vậy

Vượt hơn hẳn trời, người

Thế Tôn cũng như thế

Tối thượng nơi thế gian.

Thế nên khéo trọn đủ

Xứ thắng Xả như thế

Tiếng tốt vô lượng kiếp

Lưu truyền mãi không cùng.

Thế Tôn vô lượng kiếp

Hộ trì giới thanh tịnh

Mở cửa các thiền định

Vì đạt xứ vắng lặng.

Trước, lìa nơi năm tướng

Sau, hành tám giải thoát

Nhân ba Tam-muội tịnh

Cũng trụ ba giải thoát.

Thế Tôn khéo phân biệt

Sáu mươi lăm thứ thiền

Không một thiền định nào

Trước sau không phát sinh.

Ở trong những định ấy

Cũng không thọ nhận vị

Thế Tôn nhân các định

Được ba thứ thần thông.

Dụng đấy độ chúng sinh

Thế nên hơn hết thảy

Thế Tôn vô lượng kiếp

Tâm bình đẳng độ khắp.

A-tăng-kỳ chúng sinh

Khiến trụ ở Phạm thế

Hay dùng phương tiện khéo

Giảng nói về thiền định.

Thế Tôn khi Bồ-tát

Luôn nơi vô lượng đời

Tham, phiền não, không vướng

Mà qua lại thế gian.

Quá khứ được gặp Phật

Vô lượng đời sinh thiên

Chư Bồ-tát quá khứ

Đã hành trì tịch diệt.

Thế Tôn khi Bồ-tát

Cũng như thế không khác

Vậy nên nơi tịch diệt

Thắng xứ đều sung mãn.

Thế Tôn khi Bồ-tát

Có bao nhiêu trí tuệ

Dùng tuệ cầu Bồ-đề

Nay thành tựu báo tuệ.

Của cải và ăn uống

Như người nương đất sống

Thế Tôn trải nhiều đời

Bỏ mười đường ác tối.

Thường hành mười đường thiện

Đều do sức trí tuệ

Bỏ năm dục, năm cái

Được các thứ thiền định.

Vô lượng số kiếp đời

Không từ người khác nhận

Lành thay! Đại Thánh Tôn!

Đều từ uy lực tuệ.

Chúng sinh nhờ Thế Tôn

Vô lượng sinh sáu trời

Cũng khiến đến Phạm thế

Đó đều do sức tuệ.

Thế Tôn nơi sinh tử

Khổ vui khiến mê muội

Không mất tâm Bồ-đề

Đó đều do sức tuệ.

Thế Tôn nơi sinh tử

Không thích mà luôn ở

Không chấp vui Niết-bàn

Đó đều do sức tuệ.

Lúc an tọa đạo tràng

Xua tan hết quân ma

Cứu độ các chúng sinh

Đó đều do sức tuệ.

Khi xưa cầu Bồ-đề

Chứa vô lượng trợ pháp

Người nghe luôn mê muội

Làm sao thọ trì được.

Thế Tôn khéo nhẫn chịu

Đó đều do sức tuệ

Kinh sách, các kỹ thuật

Đời đời sinh tự biết.

Cũng khéo gôm dạy người

Đó đều do sức tuệ

Gần gũi vô lượng Phật

Đều uống pháp cam lồ.

Từng thỉnh hỏi nhiều thứ

Cũng theo đó phân biệt

Trong kinh, pháp, trí tuệ

Chưa từng có tiếc giấu.

Đến người ăn kẻ ở

Cũng hỏi nhận lời hay

Do vậy mà Thế Tôn

Tuệ thắng xứ hành khắp.

Thế Tôn nơi đời trước

Khi cầu Bồ-đề này

Đối tất cả chúng sinh

Hành tâm đại từ bi.

Dùng trí tuệ bậc nhất

Thường phát uy lực lớn

Hành tác vô lượng thứ

Các sự khó, hy hữu.

Tất cả các thế gian

Tận cùng vô lượng kiếp

Nói không bao giờ hết

Cũng không tính toán nổi.

Các sự việc như vậy

Vượt hơn cả trời, người

Trong tất cả thế gian

Kỳ diệu không gì sánh.

Quả được từ nghiệp lớn

Đầy đủ Nhất thiết trí

Vua phá trừ sinh tử

An trụ xứ Pháp vương.

***

Phẩm 25: TAM MUỘI TRỢ NIỆM PHẬT

Bồ-tát nên dùng đấy

Bốn mươi pháp bất cộng

Niệm pháp thân chư Phật

Phật chẳng phải sắc thân.

Kệ này tuần tự lược giải nghĩa trong sáu phẩm của bốn mươi pháp bất cộng. Thế nên người tu hành trước niệm sắc thân Phật, sau đó niệm pháp thân Phật. Vì sao? Vì Bồ-tát mới phát tâm nên dùng ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp để niệm Phật. Như trước đã nói, muốn chuyển hội nhập sâu đạt được uy lực bậc trung, nên dùng pháp thân để niệm Phật. Tâm chuyển hội nhập sâu đạt được uy lực bậc thượng, nên dùng thật tướng niệm Phật, nhưng không tham chấp.

Chớ nhiễm vướng sắc thân

Pháp thân cũng không chấp

Khéo biết hết thảy pháp

Vĩnh tịch như hư không.

Bố-tát này được uy lực bậc thượng, không do sắc thân, pháp thân khiến tham vướng nơi Phật. Vì sao? Vì tin hiểu, ưa thích pháp không.

Biết các pháp như hư không. Hư không là không có chướng ngại.

Nhân duyên của chướng ngại là các núi Tu-di, mười núi báu như núi Do-càn-đà v.v…, núi Thiết-vi, núi Đen, núi Đá v.v… Có vô lượng nhân duyên chướng ngại như thế. Vì sao? Vì người này chưa được thiên nhãn, nên khi tưởng nhớ (niệm) đến chư Phật nơi thế giới phương khác, thì có các núi gây chướng ngại. Do đấy, Bồ-tát mới phát tâm nên dùng mười hiệu tướng diệu để niệm Phật. Như kệ nói:

Bồ-tát mới phát tâm

Dùng mười hiệu tướng diệu

Niệm Phật, không hủy mất

Như hình tượng trong gương.

Mười hiệu tướng diệu: Là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Không hủy mất: Là sự việc của đối tượng quán là không, như hư không, nên đối với pháp không có gì để mất. Vì sao? Vì các pháp xưa nay là không sinh, là vắng lặng. Hết thảy các pháp đều như vậy. Người này, nhờ duyên nơi danh hiệu Phật nên pháp thiền tăng trưởng, tức có thể duyên tướng. Bấy giờ, đối với pháp thiền, người này được tướng. Đó là thân được an lạc kỳ diệu. Nên biết là đã thành tựu được Tam-muội Ban chu. Tam-muội thành tựu nên được thấy chư Phật.

Như hình tượng trong gương: Là nếu Bồ-tát thành tựu Tammuội này, thì như gương sáng sạch, tự thấy hình tướng mình trong đó. Như nơi nước lặng trong thì thấy thân tướng mình trong ấy. Lúc đầu, theo chỗ niệm Phật trước, được thấy hình sắc Phật, thấy hình tượng đó rồi, về sau, nếu muốn thấy chư Phật ở phương khác, thì tùy chỗ niệm về phương mà được thấy chư Phật, không có chướng ngại gì. Do vậy, người này:

Tuy chưa có thần thông

Phi hành đến khắp nơi

Nhưng được thấy chư Phật

Nghe pháp không chướng ngại.

Bồ-tát mới phát tâm này đối với các núi như núi Tu-di v.v… không thể vượt qua chướng ngại, cũng chưa được thần thông, thiên nhãn, thiên nhĩ, chưa có thể phi hành từ nước này đến nước kia, nhưng do diệu lực của Tam-muội ấy, nên trụ ở cõi nước này mà thấy được chư Phật – Thế Tôn ở phương khác, được nghe các Ngài giảng nói pháp. Do thường tu tập Tam-muội này nên được thấy chư Phật chân thật ở mười phương.

Hỏi: Định ấy do pháp gì khiến có thể phát sinh? Làm sao có thể đạt được?

Đáp:

Gần gũi tri thức thiện

Tinh tấn không lười, thoái

Trí tuệ càng vững chắc

Tín lực không thể động.

Do bốn pháp này có thể sinh ra Tam-muội ấy.

Gần gũi tri thức thiện: Là người có thể đem Tam-muội này chỉ dạy cho người khác, đó là tri thức thiện.

Tinh tấn không lười, thoái: Là nên tăng thêm tâm cung kính siêng năng gần gũi, chớ có biếng trễ, phế bỏ, thoái chuyển. Lìa bỏ chúng thì được nghe nghĩa lý sâu xa của Tam muội ấy.

Trí tuệ càng vững chắc: Là trí nhanh nhẹn, trí thông đạt, trí không mất, gọi là tín căn bền vững, sâu chắc.

Nếu Sa-môn, Bà-la-môn, hoặc Thiên, Ma, Phạm, cùng những người nơi thế gian, đều không thể khuynh động, gọi là Tín lực không thể động.

Bốn pháp như thế có khả năng sinh Tam-muội.

Lại nữa:

Hổ thẹn, mến, cung kính

Cúng dường người thuyết pháp

Cũng như các Thế Tôn

Hay sinh Tam-muội này.

Hổ thẹn, mến, cung kính: Là đối với người thuyết pháp, sinh tâm hổ thẹn sâu xa, tỏ bày tâm yêu mến, cung kính, vui thích cúng dường chư Phật. Bốn pháp như thế có khả năng sinh Tam-muội này.

Lại nữa, bốn pháp thứ nhất là:

  1. Trong ba tháng chưa từng ngủ nghỉ để tu tập, trừ các thì giờ ăn uống, tiện lợi, nằm ngồi.
  2. Nơi ba tháng, cho đến chỉ trong khoảnh khắc, không hề sinh tâm về ngã.
  3. Nơi ba tháng kinh hành không ngừng nghỉ.
  4. Trong ba tháng hành thí pháp không cầu lợi dưỡng.

Lại có bốn pháp:

  1. Có thể thấy Phật.
  2. An ủi, khuyên người nghe Tam-muội này.
  3. Thường không tham lam, không ganh ghét, thực hành tâm Bồ-đề.
  4. Hay tích tập những đạo pháp của Bồ-tát đã hành trì để tu tập.

Lại có bốn pháp:

  1. Tạo dựng tượng Phật, cho đến tượng vẽ.
  2. Nên khéo biên chép kinh Tam-muội này, khiến người tin vui được đọc tụng.
  3. Giáo hóa người tăng thượng mạn khiến lìa bỏ pháp ấy, tu tập đạt được Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.
  4. Nên hộ trì chánh pháp của chư Phật.

Lại có bốn pháp:

  1. Ít nói năng.
  2. Xuất gia và tại gia nên ở riêng.
  3. Thường thâu giữ tâm, giữ lấy tướng của đối tượng duyên.
  4. Vui thích hạnh xa lìa, nơi chốn tịch tĩnh, thanh vắng.

Năm pháp thứ nhất là:

1. Đạt pháp nhẫn vô sinh. Chán lìa hết thảy các pháp hữu vi. Không vui thích đối với tất cả xứ sinh đến. Không thọ nhận bất cứ pháp nào của ngoại đạo. Chán ghét tất cả các dục của thế gian, cho đến không muốn nhớ nghĩ, huống chi là đến gần.

2. Tâm thường tu tập vô lượng các pháp, định tại một xứ. Không giận, không gây trở ngại đối với tất cả chúng sinh. Tâm luôn tùy thuận hành bốn Nhiếp pháp.

3. Có khả năng thành tựu từ bi hỷ xả, không nêu dẫn lỗi người khác.

4. Có thể tích tập nhiều pháp Phật đã thuyết giảng theo đó hành trì.

5. Nghiệp và kiến nơi thân, miệng, ý luôn được thanh tịnh.

Lại có năm pháp:

1. Vui thích như kinh đã tán thán hành bố thí, tâm không keo kiệt. Vui thích giảng nói pháp sâu cho mọi người, không bỏn sẻn, tiếc rẻ, cũng có thể tự trụ.

2. Nhẫn nhục, nhu hòa, cùng trụ nơi hoan hỷ. Đối với các thứ lời nói thô ác, mắng nhiếc, đánh đập, trói cột, chỉ nên suy xét về nghiệp duyên, không giận dữ với người khác.

3. Luôn vui thích nghe Tam-muội này, đọc tụng thông suốt, đem giảng nói cho người khác khiến được lưu hành rộng khắp, siêng năng tu tập.

4. Tâm không ganh ghét, không tự đề cao, hạ thấp người khác, trừ bỏ sự ngăn che của ngủ nghỉ.

5. Luôn có tâm tin tưởng thanh tịnh đối với Phật, Pháp, Tăng. Tâm cung kính phụng sự sâu xa đối với những vị thượng, trung, hạ tọa. Người khác có ơn, dù nhỏ, luôn nhớ không quên. Thường trụ trong lời nói chân thật.

Lại nữa:

Các Bồ-tát xuất gia

Đã học pháp Tam-muội

Người Bồ-tát tại gia

Pháp ấy phải nên biết.

Nếu muốn tu tập Tam-muội này,

Bồ-tát tại gia phải:

  1. Nên đem tâm tin sâu xa.
  2. Không cầu quả báo của nghiệp.
  3. Thí hết thảy các vật trong, ngoài.
  4. Quy mạng nơi ba ngôi báu.
  5. Giữ thanh tịnh năm giới không thiếu sót.
  6. Hành đầy đủ mười đạo thiện, cũng khiến người khác trụ trong pháp ấy.
  7. Đoạn trừ dâm dục.
  8. Chê trách năm dục.
  9. Không ganh ghét.
  10. Không tham đắm đối với vợ con.
  11. Tâm thường xuyên xuất gia.
  12. Thường thọ trai giới.
  13. Tâm vui thích trụ nơi chùa, tháp.
  14. Đầy đủ hổ thẹn.
  15. Khởi tâm cung kính đối với Tỳ-kheo tịnh giới.
  16. Không bỏn sẻn đối với pháp.
  17. Sinh tâm cung kính sâu xa đối với người thuyết pháp.
  18. Đối với người giảng nói pháp khởi tưởng như cha mẹ, như bậc Đại sư.
  19. Đem các thứ tạo an lạc cung kính cúng dường cho người giảng nói pháp.
  20. Biết ơn và biết báo ơn.

Như vậy, Bồ-tát tại gia trụ vào những công đức đó, tức có thể tu học Tam-muội này.

Bồ-tát xuất gia tu tập pháp Tam-muội này, thì:

  1. Không có tỳ vết đối với giới.
  2. Trì giới không có ô nhiễm xen tạp.
  3. Trì giới không cặn đục.
  4. Giới luôn thanh tịnh.
  5. Giới không tổn hại.
  6. Giới không chấp giữ.
  7. Giới không nhờ dựa.
  8. Giới không thủ đắc.
  9. Giới không thoái lui.
  10. Trì giới được bậc Thánh khen.
  11. Trì giới được người trí khen.
  12. Giới theo Ba-la-đề-mộc-xoa.
  13. Hành xử oai nghi đầy đủ.
  14. Cho đến một tội rất nhỏ, tâm cũng khởi sợ hãi lớn.
  15. Nghiệp thân, miệng ý luôn trong sạch.
  16. Thọ mạng thanh tịnh.
  17. Thọ trì hết giới hiện có.
  18. Tin, ưa pháp sâu xa.
  19. Đối với pháp vô sở đắc, tâm có thể nhận chịu. Đối với pháp không, vô tướng, vô nguyện, tâm không kinh hãi.
  20. Phát khởi tinh tấn.
  21. Niệm thường ở trước mặt.
  22. Tâm tin kiên cố.
  23. Đầy đủ hổ thẹn.
  24. Không tham lợi dưỡng.
  25. Không đố kỵ.
  26. Trụ nơi công đức Đầu-đà.
  27. Trụ trong pháp hành vi tế.
  28. Không ưa nói lời tục thế gian.
  29. Xa lìa lời nói tụ hội.
  30. Biết báo ơn.
  31. Biết tạo ơn, trả ơn.
  32. Ở chỗ các Hòa thượng, A-xà-lê, luôn khởi tâm cung kính, nể sợ.
  33. Trừ bỏ kiêu mạn.
  34. Hàng phục tâm về ngã.
  35. Tri thức thiện khó gặp, tâm phải siêng cung cấp vật dụng.
  36. Ở nơi chốn được nghe người giảng nói pháp, cho kinh quyển hoặc miệng đọc tụng, đối với những người ấy sinh tưởng như cha mẹ, như tri thức thiện, như bậc Đại sư, như sự hổ thẹn lớn nên kính yêu.
  37. Thường ưa thích chốn A-luyện-nhã.
  38. Không ưa thích trụ nơi thành ấp, xóm làng.
  39. Không tham đắm nơi nhà của đàn-việt, của tri thức thiện.
  40. Không tiếc thân mạng.
  41. Tâm thường nhớ nghĩ đến sự chết.
  42. Không giữ lấy lợi dưỡng.
  43. Đối với các vật tâm không chấp trước.
  44. Dứt hết những khát ái.
  45. Hộ trì chánh pháp.
  46. Không tham chấp y, bát.
  47. Không chứa nhóm vật nhặt nhạnh.
  48. Chỉ muốn hành khất thực.
  49. Khất thực theo thứ lớp.
  50. Thường biết hổ thẹn, tâm luôn có hối.
  51. Không chứa cất vàng bạc, châu báu, tiền tài. Lìa những hối tiếc bất thiện.
  52. Tâm không có các thứ cấu uế vây buộc.
  53. Thường hành tâm từ.
  54. Trừ bỏ giận dữ.
  55. Thường hành tâm bi.
  56. Đoạn trừ ái chấp.
  57. Thường cầu lợi ích an ổn cho tất cả thế gian.
  58. Thường thương xót hết thảy chúng sinh.
  59. Thường vui thích kinh hành.
  60. Trừ bỏ ham mê ngủ nghỉ.

Bồ-tát xuất gia an trụ trong những pháp như vậy, nên tu tập Tam-muội này.

Lại nữa:

Tu pháp Tam-muội khác

Cũng nên học như thế.

Có thể phát sinh Tam-muội Ban chu này. Những pháp trợ đạo khác cũng nên tu tập. Những pháp đó là:

  1. Duyên vào ơn Phật, luôn niệm ở ngay trước mặt.
  2. Không khiến tâm tán loạn.
  3. Thâu giữ tâm ngay trước mặt.
  4. Giữ gìn các căn.
  5. Ăn uống biết đủ, biết ngừng.
  6. Đầu đêm, cuối đêm luôn tu Tam muội.
  7. Lìa chướng ngại của các phiền não.
  8. Sinh các thiền định.
  9. Trong thiền, không thọ nhận vị.
  10. Xua tan tướng sắc.
  11. Được tướng bất tịnh.
  12. Không tham nơi năm ấm.
  13. Không vướng mắc nơi mười tám giới.
  14. Không nhiễm mười hai nhập.
  15. Không cậy nơi tộc họ.
  16. Phá trừ kiêu mạn.
  17. Đối với tất cả pháp, tâm thường rỗng lặng.
  18. Đối với các chúng sinh khởi tưởng thân tộc.
  19. Không chấp giữ nơi giới.
  20. Không phân biệt định.
  21. Nên siêng năng học nhiều.
  22. Không do học nhiều mà kiêu mạn.
  23. Không nghi ngờ đối với các pháp.
  24. Không trái với chư Phật.
  25. Không hành nghịch với pháp.
  26. Không phá hoại Tăng.
  27. Thường đi tới chỗ các Hiền Thánh.
  28. Xa lìa hàng phàm phu.
  29. Vui thích luận bàn pháp xuất thế gian.
  30. Tu sáu pháp hòa kính.
  31. Thường tu tập năm xứ giải thoát.
  32. Trừ chín sự giận dữ, não hại.
  33. Đoạn dứt tám pháp biếng trễ.
  34. Tu tám pháp tinh tấn.
  35. Thường quán chín tướng.
  36. Được tám thứ giác ngộ của bậc Đại nhân.
  37. Đầy đủ các thiền định Tam-muội.
  38. Đối với thiền định ấy không thủ đắc, không tham vướng.
  39. Chuyên tâm nghe pháp.
  40. Hủy hoại tướng năm ấm.
  41. Không trụ vào tướng của sự.
  42. Sợ hãi sinh tử.
  43. Đối với năm ấm sinh tưởng là giặc oán.
  44. Ở trong các nhập sinh tưởng là xóm làng trống vắng.
  45. Đối với bốn đại sinh tưởng là rắn độc.
  46. Đối với Niết-bàn sinh tưởng vắng lặng, tưởng an ổn, vui thích.
  47. Đối với năm dục sinh tưởng là đàm dãi, tâm vui thích lìa khỏi.
  48. Không trái lời Phật dạy.
  49. Không tranh tụng với tất cả chúng sinh.
  50. Giáo hóa chúng sinh khiến họ an trụ trong hết thảy công đức.

Lại nữa:

Báo Tam-muội như thế Bồ-tát cần phải biết.

Bồ-tát hành trì Tam-muội Ban chu này, đạt được quả báo cũng nên nhận biết.

Hỏi: Tu tập Tam-muội này thì được quả báo gì?

Đáp: Đối với đạo vô thượng đạt được quả báo là không thoái chuyển.

Lại nữa, như kinh đã nói về quả báo: Phật bảo Bồ-tát Bạt-đàbà-la: Ví như có người có thể nghiền nát hết đất trong Tam thiên đại thiên thế giới đều như vi trần. Lại, trong Tam thiên đại thiên thế giới hiện có cỏ cây hoa lá, tất cả các vật đều bị nghiền nát thành vi trần.

Này Bạt-đà-bà-la! Dùng một vi trần ấy làm một thế giới Phật. Có từng ấy thế giới Phật như vậy, trong đó đều đầy châu báu thượng diệu, rồi đem hết châu báu ấy bố thí. Này Bạt-đà-bà-la! Ý của Bồtát thế nào? Do nhân duyên bố thí ấy, người đó có được nhiều phước chăng?

Bồ-tát Bạt-đà-bà-la thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Rất nhiều!

Phật bảo: Này Bạt-đà-bà-la! Ta nay nói thật cho ông biết: Nếu có thiện nam, thiện nữ được nghe Tam-muội Chư Phật Hiện Tiền, không kinh, không sợ, thì phước ấy là vô lượng, huống chi còn tin nhận, thọ trì, đọc tụng, giảng nói cho người khác, huống chi còn định tâm tu tập. Công đức bố thí kia chỉ như giọt sữa nhỏ trong khối sữa lớn. Này Bạt-đà-bà-la! Ta nói người này chỉ nghe v.v… mà phước đức hãy còn vô lượng, huống gì là có thể thành tựu Tam-muội này.

Phật lại bảo: Này Bạt-đà-bà-la! Nếu có các thiện nam, thiện nữ thọ trì, đọc tụng, giảng nói cho người khác Tam-muội này, thì nếu lúc kiếp tận, giả như bị rơi vào lửa, lửa cũng liền tắt. Này Bạt-đà-bàla! Người hành trì Tam-muội này, nếu gặp việc quan, hoặc gặp oán tặc, sư tử, chó sói, thú dữ, rồng dữ, các thứ trùng độc v.v… hoặc gặp Dạ-xoa, La-sát, Cưu-bàn-trà, Tỳ-xá-xà v.v… hoặc gặp hàng nhân, phi nhân v.v… mà bị hại thân, hại mạng, bị hủy giới, thì không có chuyện ấy. Khi đọc tụng Tam muội này vì người khác giảng nói cũng không suy não. Chỉ trừ đó là báo của nghiệp tất phải thọ nhận.

Lại nữa, này Bạt-đà-bà-la! Khi Bồ-tát thọ trì, đọc tụng Tammuội này, mà lại bị các thứ bệnh về mắt, tai, mũi, lưỡi, miệng, răng, bệnh phong, bệnh lạnh v.v… thì không có chuyện đó. Hoặc bị các bệnh ấy mà qua đời thì cũng không có chuyện đó. Chỉ trừ là báo của nghiệp tất phải thọ nhận.

Lại nữa, này Bạt-đà-bà-la! Nếu người thọ trì, đọc tụng Tammuội này, thì được chư Thiên hộ trì, đều được các chúng Rồng, Dạxoa, Ma-hầu-la-già, nhân, phi nhân, được Tứ Thiên vương, Đế thích, Phạm Thiên vương, chư Phật, Thế Tôn hộ niệm.

Lại nữa, người ấy còn được chư Thiên cùng ái niệm, cho đến chư Phật đều cùng ái niệm, được chư Thiên cùng tán thán, cho đến chư Phật cùng khen ngợi.

Lại nữa, chư Thiên đều muốn gặp Bồ-tát ấy, đều muốn đi đến trụ xứ của Bồ-tát ấy. Cho đến chư Phật đều muốn thấy Bồ-tát ấy và đi tới chỗ Bồ-tát ấy.

Lại nữa, Bồ-tát ấy thọ trì Tam-muội này, thì đối với những kinh chưa được nghe, tự nhiên được nghe.

Lại nữa, Bồ-tát ấy đạt được Tam-muội này, thì cho đến trong chiêm bao, cũng đều được những sự việc lợi ích như thế.

Này Bạt-đà-bà-la! Bồ-tát thọ trì, đọc tụng Tam-muội này, nếu Ta trải qua một kiếp hay ít hơn một kiếp, cũng không thể nói hết về công đức, huống chi là người thành tựu được Tam muội đó.

Này Bạt-đà-bà-la! Như người ở trong trăm năm, thân lực nhẹ nhàng, khỏe khoắn, đi mau như gió, người ấy trong trăm năm đi luôn không ngừng nghỉ, đến các phương Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn hướng, trên dưới, ý của ông nghĩ sao? Mười phương người này đã đi qua, có người nào có thể nhận biết số dặm đường chăng?

Bồ-tát Bạt-đà-bà-la thưa: Không thể tính đếm được. Chỉ trừ Như Lai, Tôn giả Xá-lợi-phất, các vị A duy việt trí, thì không ai có thể nhận biết.

Này Bạt-đà-bà-la! Nếu có các thiện nam, thiện nữ đem vàng ròng đầy khắp nơi chốn người kia đã đi qua, để bố thí. Hoặc có người chỉ nghe Tam-muội này, đem bốn thứ tùy hỷ hồi hướng về đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, thường cầu hiểu biết rộng. Như chư Phật quá khứ lúc hành đạo Bồ-tát đã tùy hỷ Tam-muội này, Ta cũng như vậy. Như hôm nay, các Bồ-tát hiện tại đều tùy hỷ Tammuội này, Ta cũng như vậy. Như chư Phật vị lai lúc hành đạo Bồ-tát, sẽ tùy hỷ Tam-muội này, Ta cũng như vậy. Như các Bồ-tát quá khứ, hiện tại, vị lai, hành trì Tam muội đều vì đạt được hiểu biết rộng, Ta cũng tùy hỷ, cũng đều vì đạt được hiểu biết rộng, như thế nên tùy hỷ Tam-muội này.

Này Bạt-đà-bà-la! Phước đức của sự tùy hỷ này so với phước đức đã nói trên, thì phước đức trước không bằng một phần trăm, một phần trăm ngàn, vạn, ức, cho đến tính toán, thí dụ cũng không nói hết được phước đức của sự tùy hỷ ấy. Tam-muội này đạt được vô lượng vô biên quả báo như vậy.

Lại nữa:

Trú xứ Tam-muội này

Ít, vừa, nhiều, sai biệt

Các thứ tướng như vậy

Đều cần phải luận bàn.

Trú xứ của Tam-muội này có tướng ít, tướng vừa, tướng nhiều. Như thế v.v…, nên phân biệt. Để nhận biết về sự việc ấy cần phải giải thích: Trú xứ: Nghĩa là Tam-muội này, hoặc có thể đạt được ở thiền thứ nhất. Hoặc có thể đạt được ở thiền thứ hai, thứ ba, thứ tư. Hoặc trung gian của thiền thứ nhất đạt được uy lực có thể phát sinh Tam-muội này. Hoặc ít: Là người có uy lực ít, nên gọi là ít. Lại vì ít thời gian trụ, nên gọi là ít. Lại nữa, thấy ít thế giới Phật nên gọi là ít. Về nhiều thì cũng như vậy.

Nói về Tam-muội này thì hoặc nói có giác có quán, hoặc không giác có quán, hoặc không giác không quán. Hoặc tương ưng với khổ, hoặc tương ưng với vui, hoặc tương ưng với không khổ không vui. Hoặc có hơi thở ra vào, hoặc không có hơi thở ra vào. Hoặc định là tánh thiện. Hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu. Hoặc hệ thuộc vào cõi Dục, hoặc hệ thuộc vào cõi Sắc, hoặc hệ thuộc vào cõi Vô sắc. Hoặc chẳng phải hệ thuộc cõi Dục, hoặc chẳng phải hệ thuộc cõi Sắc, hoặc chẳng phải hệ thuộc cõi Vô sắc. Tam-muội này là tâm số pháp, tâm tương ưng, hành pháp tùy tâm, pháp sinh cùng với tâm.

Chẳng phải sắc. Chẳng phải hiện. Có thể duyên. Chẳng phải nghiệp. Nghiệp tương ưng. Hành theo nghiệp. Chẳng phải là quả báo của nghiệp đời trước. Trừ quả báo của nhân. Có thể tu. Có thể nhận biết. Có thể chứng. Cũng dùng thân chứng. Cũng dùng tuệ chứng. Hoặc có thể đoạn dứt. Hoặc không thể đoạn dứt. Hữu lậu nên đoạn. Vô lậu thì không thể đoạn. Tri kiến cũng như vậy. Không hòa hợp với bảy giác. Hết thảy những phân biệt về nghĩa của Tam-muội như thế, tất cả đều đã nói ở đây.

Lại nữa, tu tập Tam-muội này được thấy chư Phật. Như kệ nói:

Được thấy chư Phật rồi

Siêng tâm hành cúng dường

Căn thiện được tăng trưởng

Mau hóa độ chúng sinh.

Cúng dường gọi là tâm ý thanh tịnh. Cung kính, hoan hỷ, niệm Phật có vô lượng công đức. Dùng vô số sự tán thán gọi là miệng cúng dường. Kính lễ với hương hoa v.v… gọi là thân cúng dường. Do vậy phước đức càng thêm tăng trưởng. Như hạt giống gieo trong đất, mưa thấm ướt khiến mầm mọc lên.

Mau giáo hóa là khiến chúng sinh trụ trong ba Thừa. Bồ-tát như thế là căn thiện tăng trưởng.

Dùng hai nhiếp pháp đầu

Gồm thâu các chúng sinh

Dùng hai nhiếp pháp sau

Chưa, đều khiến tin, nhận.

Hai nhiếp pháp đầu là bố thí, ái ngữ. Hai nhiếp pháp sau là lợi ích, đồng sự. Bồ-tát này ở Địa thứ nhất chưa hiểu đầy đủ, nên chỉ có thể tin, nhận.

Bấy giờ đem căn thiện

Hồi hướng nơi Phật đạo

Như người luyện vàng ròng

Điều hòa lửa nên thành.

Được tôi luyện từ lửa trí tuệ, căn thiện của Bồ-tát thành thục, nên ở trong sự việc hành trì đều có thể gánh vác.

***

Phẩm 26: THÍ DỤ, phần 1

Bồ-tát này nên hỏi

Tướng địa quả tu đắc

Vì được phần các địa

Nên siêng hành tinh tấn.

Tướng: Là tướng mạo, nhân đó nên biết được các địa. Được: Là thành tựu, do pháp này, nên gọi là thành tựu pháp ấy. Tu: Là tu đắc và tu hành.

Thường nhớ nghĩ đến quả: Là từ nhân nên thành tựu sự việc, gọi là quả. Bồ-tát này muốn được hành mười Địa, nên đã khéo hỏi về tướng mạo và quả tu đắc.

Nghe: Là từ chư Phật, Bồ-tát và những vị hơn mình nên được nghe.

Vì được phần các địa: Là đạt được phần địa ấy nên siêng hành tinh tấn. Ở đây tướng của Địa thứ nhất như trước đã nói:

Bồ-tát tại Sơ địa

Phần nhiều hay gắng nhận

Không ưa nơi tranh tụng

Tâm được nhiều vui thích.

Thường vui nơi thanh tịnh

Tâm bi thương chúng sinh

Không có tâm giận dữ

Hành nhiều bảy việc ấy.

Tướng của Địa thứ nhất gồm bảy pháp: Gắng nhận, không tranh, mừng, vui, thanh tịnh, tâm bi, không giận dữ. Thành tựu bảy pháp này gọi là đạt được. Lại nữa, tướng của bảy pháp như gắng nhận v.v… tức là đạt được Địa thứ nhất. Như kệ nói:

Trồng căn thiện sâu dày

Khéo hành nơi các hạnh

Khéo giữ vật cần dùng

Khéo cúng dường chư Phật.

Tri thức thiện che chở

Đầy đủ tâm sâu xa

Tâm bi nhớ chúng sinh

Tin hiểu pháp vô thượng.

Gồm đủ tám pháp ấy

Nên tự phát lời nguyện:

Con đã được tự độ

Nên lại độ chúng sinh.

Vì đạt được mười lực

Nhập nơi tụ tất định

Sinh vào nhà Như Lai

Không có các lỗi lầm.

Liền chuyển đạo thế gian

Nhập đạo thượng xuất thế

Do được Sơ địa này

Địa này gọi Hoan hỷ.

Do đó nên biết: Vì cầu Bồ-đề nên có được tâm quyết định, gọi là tu đắc của Địa thứ nhất. Từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành tựu Tam-muội Chư Phật Hiện Tiền, trong khoảng thời gian đó, đã nói đủ công đức của các địa, để có thể phát sinh các công đức ấy. Công đức sinh rồi, thì tu tập tăng trưởng, gọi là Địa thứ nhất.

Quả tu: Trước đã nói ở nhiều chỗ, là có được từng ấy phước đức thì không hồi hướng về địa Thanh văn, địa Phật-bích-chi. Nay lại nói thêm Bồ-tát được quả của Địa thứ nhất, từ đó có thể thành tựu được hàng trăm định của Bồ-tát.

Phần của Địa thứ nhất: Là các pháp hiện có hợp thành Địa thứ nhất, gọi là các phần. Như gạo, men rượu v.v… hợp lại có thể nấu thành rượu, gọi là nhân duyên của rượu. Các pháp hiện có, có thể thành tựu Địa thứ nhất, gọi là phần của Địa thứ nhất. Đó là:

Tín lực chuyển tăng thượng

Thành tựu tâm đại bi

Thương xót các chúng sinh

Tu tâm thiện không mỏi.

Mừng vui với pháp diệu

Thường gần tri thức thiện

Hổ thẹn và cung kính

Nhu hòa nơi tâm ý.

Vui quán pháp không chấp

Nhất tâm cầu hiểu rộng

Không tham nơi lợi dưỡng

Lìa gian dối dua nịnh.

Không làm nhơ nhà Phật

Không phá giới dối Phật

Vui sâu Nhất thiết trí

Bất động như núi lớn.

Thường vui hành tu tập

Chuyển pháp diệu vô thượng

Ưa pháp xuất thế gian

Không ưa pháp thế gian.

Tức trị Địa Hoan Hỷ

Khó trị mà trị được

Thế nên thường nhất tâm

Siêng hành các pháp ấy.

Bồ-tát hay thành tựu

Pháp thượng diệu như thế

Đó gọi là an trụ

Trong Sơ địa Bồ-tát.

Hỏi: Bồ-tát đâu cần hỏi tướng của Địa thứ nhất làm gì?

Đáp: Các pháp như tướng nơi Địa thứ nhất, Bồ-tát này nên khéo nhận biết đến phương tiện, do đó phải hỏi.

Hỏi: Bồ-tát chỉ nên ở trong pháp này khéo nhận biết phương tiện hay còn khéo nhận biết phương tiện trong các pháp khác?

Đáp: Trong các pháp này nên khéo nhận biết phương tiện và cũng khéo nhận biết phương tiện nơi các pháp khác.

Hỏi: Nếu vậy nên có thể lược nói.

Đáp:

Có pháp hỗ trợ địa

Có pháp trái với địa

Có pháp sinh khởi địa

Có pháp phá hủy địa.

Có tướng quả các địa

Có đắc trong các địa

Phần thanh tịnh các địa

Từ Địa đến một Địa.

Trụ địa càng tăng trưởng

Không gì khiến thoái chuyển

Từ địa Bồ-tát tịnh

Đến vô lượng Phật địa.

Ở trong các việc này

Nên khéo biết phương tiện

Thưa hỏi các người thiện

Trừ bỏ hết kiêu mạn.

Có pháp hỗ trợ địa: Là tín, giới, văn, xả, tinh tấn, niệm, tuệ v.v… Những pháp như thế và các pháp khác tùy thuận nơi Địa thứ nhất, đó gọi là pháp hỗ trợ.

Có pháp trái với địa: Là không tin, phá giới, ít hiểu biết, tham lam, bỏn sẻn, biếng trễ, niệm loạn, không có tuệ v.v… cùng những pháp khác không tùy thuận, là không thể hỗ trợ Địa thứ nhất.

Pháp phá hủy địa: Là pháp có thể khiến cho Địa này thoái lui, bị chướng ngại nên không hiện. Như khi kiếp tận thì muôn vật đều diệt hết, thì đâu còn gì gọi là pháp có thể thâu đoạt mất tâm Bồ-đề. Việc này như trước đã nói.

Pháp sinh khởi địa: Là pháp có khả năng phát sinh, có thể thành tựu Địa thứ nhất, đó là pháp không thâu đoạt tâm Bồ-đề, như trước đã nói. Phần tướng của địa và được quả địa, ở trên đã nói.

Pháp thanh tịnh: Là dùng pháp này có thể làm tịnh Địa thứ nhất, đó là những pháp đã nói ở trước. Bảy pháp trong Địa thứ nhất là:

Bồ-tát tại Sơ địa

Phần nhiều hay gắng nhận

Không ưa nơi tranh tụng

Tâm được nhiều vui thích.

Thường vui nơi thanh tịnh

Tâm bi thương chúng sinh

Không có tâm giận dữ

Hành nhiều bảy việc ấy.

Bảy pháp như thế có thể tịnh trị Địa thứ nhất.

Từ một Địa đến một Địa: Là như từ Địa thứ nhất đến Địa thứ hai. Từ Địa thứ hai đến Địa thứ ba. Từ Địa thứ ba đến Địa thứ tư

v.v… Các Địa khác cũng như vậy. Từ Địa thứ nhất đến Địa thứ hai được mười tâm, như không dua nịnh, quanh co v.v… Từ Địa thứ hai đến Địa thứ ba được mười tâm, như tâm tin tưởng, vui thích v.v… Được nhiều thứ tâm, nhiều thứ pháp như vậy, nên có thể từ một Địa đến một Địa.

Trụ địa càng tăng trưởng: Là như trong Địa thứ nhất hành nhiều bố thí Ba-la-mật. Ở Địa thứ hai hành trì giới Ba-la-mật. Các pháp như tín v.v… sẽ chuyển đổi thành thế mạnh. Trong Địa thứ ba hành nhiều về hiểu biết rộng. Lại, ở đó việc bố thí, trì giới, tin v.v… càng thêm thế mạnh. Các Địa còn lại cũng như vậy.

Không gì khiến thoái chuyển: Là trụ ở Địa này thì hoặc Samôn, Bà-la-môn, hoặc Thiên, Ma, Phạm, cùng những người khác ở thế gian, không ai có thể khiến thoái chuyển. Vì sao? Vì đã được diệu lực của công đức vĩ đại. Do đã vào sâu tận cùng của pháp tánh, nên có được sự tin hiểu lớn.

Từ địa Bồ-tát tịnh, Đến vô lượng Phật địa: Là nếu Bồ-tát đạt được thanh tịnh đầy đủ nơi tất cả địa rồi tức đạt đến Phật địa. Các sự việc trong ấy, đều phải khéo nhận biết phương tiện.

Thưa hỏi các người thiện: Do thành tựu chánh pháp nên gọi là người thiện. Chánh pháp, lược nói thì gồm: Tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ, luật nghi của thân khẩu ý, không tham, không giận, không si.

Trừ bỏ hết kiêu mạn: Tự cho mình, ở trong những người hơn, là hơn hết, gọi là đại mạn. Đối với những người ngang bằng mình, tâm tự cao cho là hơn, gọi là kiêu mạn. Lớn không như người khác, nói là nhỏ không bằng, gọi là tiểu mạn.

Hỏi: Ông nói ở trong các pháp này, nên khéo nhận biết phương tiện, nhưng đã được phương tiện ấy thì đâu cần dùng làm gì?

Đáp:

Bồ-tát nếu khéo biết

Tướng đắc trong các địa

Không thành tựu Phật đạo

Trọn không chuyển Sơ địa.

Tướng gọi là bảy pháp hỗ trợ các địa. Đắc: gọi là pháp trái ngược. Có tám thứ diệt cùng tám pháp không nên hành. Nếu Bồ-tát khéo nhận biết pháp này không đạt được Phật đạo, thì rốt cùng không thoái chuyển.

HẾT – QUYỂN 12