LUẬN THẬP TRỤ TỲ BÀ SA
Tác giả: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Đời Hậu Tần, Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 15

Phẩm 29: PHÂN BIỆT THANH VĂN VÀ PHẬT BÍCH CHI, phần 2

Hỏi: Mười đạo thiện khiến những người nào đạt tới địa Thanh văn, Phật-bích-chi?

Đáp:

Nẻo hành của Thanh văn

Mười đạo thiện chuyển thắng

Thiền sâu không theo người

Thường vui nơi xa lìa.

Luôn thích khéo tu tập

Pháp nhân duyên thâm diệu

Lực phương tiện xa lìa

Cùng dùng tâm đại bi.

Ít muốn và ít việc

Ghét bỏ lời ồn tạp

Hằng vui xứ xa lìa

Người oai đức sâu diệu.

Vui vì đất phước điền

Thường quán tánh xuất ly

Thành tựu có lý sự

Cung kính nơi các chủ.

Thâu giữ tâm thành tựu

Biết tâm nơi các duyên

Luôn vui với thiền định

Uy lực nhất trong người.

Vui nơi pháp xuất gia

Tâm thiện không ẩn mất

Được ánh sáng trí tuệ

Hoặc từ hai thắng xứ.

Hoặc ba thắng xứ đến

Là mười đạo nghiệp thiện

Có thể khiến người ấy

Đến nơi địa Duyên giác.

Nẻo hành của Thanh văn,

Mười đạo thiện chuyển thắng: Nghĩa là mười đạo thiện vượt quá nẻo hành của người Thanh văn, nhưng không bằng đối tượng hành của Bồ-tát.

Bồ-tát suy nghĩ như vầy: Người Thanh văn cần nghe người khác giảng nói mà hành đạo, sau đó mới tự chứng trí tuệ. Ta thì không như vậy, không thích theo người khác, vì thế nên khiến cho mười đạo thiện càng thù thắng. Do nhân duyên ấy ta thích không tùy thuộc vào mười đạo thiện của người khác, chỉ khiến Ta đạt tới địa Phật-bích-chi. Tư duy như vậy rồi, Bồ-tát thường thích xa lìa và suy nghĩ: Nếu ta ưa thích nơi ồn náo thì chỉ tích tập các pháp ác, bất thiện, vì sự gần gũi ấy có thể bị cấu nhiễm, có thể khiến giận dữ, có thể làm cho ngu si, nên trong hạnh xa lìa, ta nên tu tập pháp nhân duyên thâm diệu.

Rồi Bồ-tát lại nghĩ: Nếu không cố gắng tu tập pháp nhân duyên sâu xa thì ta không chứng đắc trí tuệ không tùy thuộc vào người khác. Ta nay vì sao không thường tu tập pháp nhân duyên thâm diệu, sau đó mới có thể chứng đắc trí tuệ không tùy thuộc người khác.

Thâm diệu: Là khó đạt tới ngọn nguồn, không thể thông suốt. Tất cả hàng phàm phu từ vô thỉ sinh tử đến nay đều có thể học tới chỗ tận cùng của các thứ kinh sách, kỹ thuật hiện có, duy pháp nhân duyên thâm diệu là không thể thấu tới nẻo tận cùng, như loài vật nhỏ như thỏ v.v…, thì không thể lặn tới đáy biển được. Nếu người có phương tiện, tâm đại bi và tu tập pháp nhân duyên thâm diệu thì có thể chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Nếu lìa bỏ hai sự ấy, trí tu tập pháp nhân duyên sâu xa thì chỉ thành tựu đạo quả Phật-bích-chi.

Phương tiện: Là chỉ cho vô số những suy nghĩ không lầm lẫn trong công việc giáo hóa chúng sinh thành tựu. Cũng đối với pháp sâu xa không chấp giữ nơi tướng.

Đại bi: Là hết lòng thương xót chúng sinh. Như thế là vượt hơn hàng Thanh văn, Phật-bích-chi, huống chi là hàng phàm phu.

Ít muốn và ít việc, Ghét bỏ lời ồn tạp: Như vậy thì đạt được địa Phật-bích-chi. Trái lại, nếu có mong muốn lớn, tạo sự việc lớn, ưa tập hợp nhiều người, khéo dùng phương tiện đại bi hộ trì, thì quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng có thể dễ chứng đắc. Vì sao? Vì người cầu quả vị Phật-bích-chi là người thiểu dục, nghĩ như vầy: Chỉ tự độ thân, ít việc, là chỉ lo thành tựu căn thiện của mình, không cùng hành với người khác.

Người này lìa bỏ công việc giáo hóa chúng sinh, nên không gần gũi đám đông, nơi chốn ồn ào. Bồ-tát có mong muốn lớn, hành tác nhiều sự việc lớn, nghĩ như vầy: Ta nên độ hết thảy chúng sinh. Từ nhân duyên mong muốn lớn này nên hành trì việc giáo hóa chúng sinh tức là đại sự. Giáo hóa chúng sinh không phải là sự việc nhỏ, nếu ghét bỏ lời nói ồn ào thì không thể thành tựu sự nghiệp. Thế nên Bồ-tát đi vào nơi chốn ồn ào, cũng dùng ngôn ngữ ồn ào, nhưng tâm không vướng mắc.

Lại nữa, vì che giấu công đức chân thật nên gọi là thiểu dục, không lo chuyện gì nên gọi là ít việc. Ghét bỏ sự ồn ào gọi là thiểu dục, thích ở riêng một mình nên gọi là ít việc. Người thiểu dục, ít việc như thế là không ưa thích chỗ đông đảo, ngôn ngữ ồn tạp, chỉ vui thích, gần gũi nơi chốn hoàn toàn vắng vẻ, xa lìa những thứ đáng sợ hãi, tâm họ cho là sâu lớn.

Người đó nghĩ như vầy: Nếu ta trụ ở nơi chốn hoàn toàn vắng vẻ, xa lìa các thứ đáng sợ hãi thì không còn ai tìm đến. Do trụ nơi chốn xa lìa nên tâm cũng hoàn toàn xa lìa. Nếu tự mình không xa lìa hẳn sự vui thích cười đùa ồn tạp, thì người ngoài lui tới không khó. Như vậy, ta không cùng với chúng sinh hòa hợp. Tuy xả bỏ chúng sinh nhưng cũng muốn khiến họ gieo trồng các căn thiện để được lợi ích lớn, nên người này suy nghĩ: Vì sao ta không hòa hợp với chúng sinh và cũng có thể tạo lợi ích cho họ? Suy nghĩ như vậy rồi, nên nhận biết: Ta phải vì chúng sinh làm ruộng phước lợi ích, mới thọ nhận sự cúng dường của họ. Như vậy, tuy không cùng với chúng sinh hòa hợp, nhưng có thể tạo được lợi ích lớn.

Người này lại suy nghĩ: Ta làm sao để trở thành ruộng phước? Tức tự thấy biết: Nếu ta hết sức vui thích làm ruộng phước thì phải thường quán tánh xuất ly, sau đấy pháp phước điền tự nhiên tới, cho đến pháp của tánh xuất ly cũng tới một cách tự nhiên. Đó là trì giới, thiền định, trí tuệ.

Người này lại suy nghĩ: Ta nên làm thế nào để mau đạt đến phước điền và pháp của tánh xuất ly? Ta phải thực hiện chánh quán, đối với các thứ nghĩa lý nơi sự việc hiện có đều phải làm xong việc cung kính cúng dường các chủ. Như vậy, ruộng phước và pháp của tánh xuất ly không mấy chốc sẽ đạt được. Vì sao? Vì ta đã hành tác xong sự việc có lý, là chánh quán các pháp nên có thể đạt được trí tuệ không tùy thuộc vào người khác. Lại cung kính cúng dường các chủ, nên khiến căn thiện thêm sây dày. Căn thiện càng sâu dày thì trí tuệ sâu bền. Trí tuệ càng sâu bền nên có thể thông đạt được sự thật. Có thể thông đạt sự thật nên có thể sinh nhàm chán. Từ nhàm chán sinh xa lìa, từ xa lìa nên được giải thoát. Đã giải thoát rồi thì đem các căn thiện tích tập từ trước tới giờ làm ruộng phước, sau đó, chứng được pháp của tánh xuất ly. Các chủ là chư Phật, Thế Tôn. Khi gieo trồng được căn thiện này đó là nhân duyên hết sức lớn.

Người này lại suy nghĩ: Ta nên làm sao để có thể thành tựu nhanh chóng sự việc có lý sâu xa? Người này liền tự thấy biết: Nếu ta gồm thâu tâm vào một xứ, biết rõ đối tượng duyên ấy thì thường vui nơi thiền định. Vì có thể giữ tâm vào một xứ nên người này được Tam-muội. Do được Tam-muội nên sự việc hữu lý đều có thể làm xong. Như trong kinh nói: “Được thiền định thì có khả năng biết như thật, thấy như thật”. Nếu người đã hành việc thâu giữ tâm, thì mau chóng vào Tam-muội, nên gọi người thiền định là người thường định. Nếu có thể tu tập các pháp như vậy tức là cung kính cúng dường chư Phật. Nếu người đem hương hoa, bốn sự cúng dường Phật, không gọi là cúng dường Phật. Nếu người khéo nhất tâm không phóng dật, gần gũi, tu tập Thánh đạo, thì đó gọi là cung kính cúng dường chư Phật. Như kinh nói: “Khi sắp vào Niết-bàn, Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: Dù có tuôn mưa hoa trời Mạn-đà-la, hương bột Chiên-đàn, trổi nhạc trời, cũng không gọi là cung kính cúng dường Như Lai. Này A-nan! Nếu các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di một lòng không phóng dật, gần gũi, tu tập pháp Thánh, đó mới gọi là cúng dường Phật một cách đích thực. Do đó, này Tôn giả A-nan! Ông nên tu học pháp cúng dường Phật chân thật. Các công đức như vậy đều là người có uy lực bậc trung vui thích đời sống xuất gia”.

Tâm thiện không ẩn mất: Là uy lực tối thượng, tức có khả năng thành Phật. Uy lực bậc thấp là thành Thanh văn. Do đó người có uy lực bậc trung thì thành Phật-bích-chi. Vui thích xuất gia nên có khả năng thành tựu các công đức. Vì sao? Vì Cư sĩ tại gia thì không thể ít dục, ít việc, nên thân tâm không thể xa lìa, cũng không thể thường định. Nếu tâm ẩn mất, không thanh tịnh, là không thể thành tựu các sự việc, không thể nhận biết pháp nhân duyên sâu xa, không thể chứng đắc tánh xuất ly, không thể như pháp cung kính cúng dường chư Phật một cách chân thật. Chúng sinh có uy lực bậc trung như thế, tư duy như vầy: Ta là người có uy lực bậc trung, thường ưa thích đời sống xuất gia, tâm không ẩn mất, thì các công đức của sở nguyện đều tự nhiên đến.

Lại khởi suy nghĩ: Thế mạnh bậc trung này ưa thích được quả gì? Liền biết mình sẽ được quả trí tuệ. Vì sao? Vì trí tuệ có khả năng chiếu sáng. Như trong kinh nói: “Này các Tỳ-kheo! Trong tất cả ánh sáng, thì ánh sáng của trí tuệ là hơn hẳn”.

Lại khởi suy nghĩ: Ánh sáng của trí tuệ là điều ta vui muốn, vậy làm sao đến được? Liền biết: Hoặc từ hai thắng xứ đến, hoặc từ ba thắng xứ đến. Hai thắng xứ như trước đã nói. Ba thắng xứ là đế, xả, tịch diệt. Hoặc đế, xả, tuệ. Hoặc đế, tịch diệt, tuệ. Do đấy ta sẽ tu tập các thắng xứ như vậy. Tu tập như thế rồi sẽ được ánh sáng của trí tuệ. Sở nguyện là trí tuệ tự nhiên tới. Tướng như thế, tu tập pháp trợ đạo như thế, là mười đạo thiện này có thể khiến người ấy đạt đến địa Phật-bích-chi.

***

Phẩm 30: ĐẠI THỪA

Hỏi: Như ông đã nói: Mười đạo thiện có thể khiến nhiều người đạt đến địa Thanh văn, địa Phật-bích-chi. Vậy mười đạo thiện này còn khiến cho những chúng sinh nào đạt đến Phật địa?

Đáp:

Hành tập mười đạo thiện

Hơn nơi hai loại người

Tu vô lượng hy hữu

Hơn hết thảy thế gian.

Phát hai nguyện bền, thiện

Hành đại bi vô ngại

Khéo thọ hành phương tiện

Nhẫn chịu các khổ não.

Không bỏ các chúng sinh

Yêu sâu tuệ chư Phật

Tự tại nơi Phật lực

Hành giả ưa hành khắp.

Hay phá trừ ý ác

Nhận giữ chánh pháp Phật

Dũng mãnh nhận tinh tấn

Tâm vững độ chúng sinh.

Không tham đắm tự lạc

Cùng vô lượng thân mạng

Hơn hết trong mọi việc

Hành tác không lỗi lầm.

Hết thảy thứ thanh tịnh

Tất cả thắng xứ đến

Đạo thiện khiến người này

Đến mười lực Thế Tôn.

Hành tập mười đạo thiện, Hơn nơi hai loại người (kệ): Là Bồtát tu mười đạo thiện, đối với người cầu Thanh văn, Phật-bích-chi là hơn hẳn.

Chuyển thắng: Là một lòng tu hành và thường tu hành. Vì tự lợi nên tu hành. Vì lợi tha nên tu hành. Tu hành thanh tịnh.

Một lòng tu hành: Là tâm ý dốc sức tu tập. Thường tu hành: Là tu tập không dừng nghỉ giữa chừng.

Vì tự lợi nên tu hành: Là nhân duyên để được sinh vào cõi trời, người, là nhân duyên chứng đắc Niết-bàn. Vì lợi tha nên tu hành: Là Bồ-tát tu mười đạo thiện, hồi hướng về an vui lợi lạc cho tất cả chúng sinh. Do nhân duyên này nên có khả năng hóa độ vô số chúng sinh.

Tu hành thanh tịnh: Là hành không hoại, hành không xen tạp, hành không uế trược, hành tự tại, hành đầy đủ, hành không tham vướng, hành được người trí khen ngợi.

Hoại: Là có lúc hành có lúc không hành. Trái ngược với đây, gọi là hành không hoại. Xen tạp: Là mình không làm nhưng bảo người khác làm. Trái ngược với đây gọi là hành không xen tạp. Uế trược: Là hành hợp với phiền não, nghiệp tội. Trái ngược với đây gọi là hành không uế trược.

Tự tại: Là người phá giới bị hệ thuộc nơi vợ con, gia nghiệp, tiền của, không được tự tại. Người trì giới thì không vướng vào những chuyện đó, tùy ý tự tại, không hệ thuộc vào đâu. Đầy đủ: Là hành đủ tất cả giới lớn, nhỏ, ngăn cản các phiền não, thường nhớ nghĩ giữ gìn, làm nhân duyên cho thiền định, hồi hướng về Phật đạo, có thể khiến mọi người cùng đạt tới chân đế pháp tánh, đó gọi là đầy đủ.

Không tham vướng: Là không nhắm tới thế gian, không chấp giữ nơi giới tướng, tự cao khinh người. Người trí khen ngợi: Là trong pháp Thanh văn, không thuận theo sinh tử, chỉ vì Niết-bàn, nên gọi là người trí khen ngợi. Trong pháp Đại thừa này hãy còn không hồi hướng về thừa Thanh văn, thừa Phật-bích-chi, huống chi là sinh tử, chỉ hướng tới đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Đó gọi là người trí khen ngợi về mười đạo thiện.

Hỏi: Tu có tướng mạo gì mà gọi là khéo tu?

Đáp: Dùng vô lượng sự việc hy hữu tu tập mười đạo thiện, vượt hơn hết thảy thế gian, đó gọi là khéo tu.

Hỏi: Thế nào là Bồ-tát hành lối tu tập này vượt hơn hết thảy thế gian?

Đáp: Vì các Bồ-tát dùng 5 sự để tu tập vượt hơn hết thảy thế gian, đó là:

  1. Nguyện.
  2. Tâm kiên cố.
  3. Tâm sâu xa.
  4. Khéo thanh tịnh.
  5. Phương tiện.

Nguyện: Là nguyện được hành trì của Bồ-tát, hết thảy người phàm phu, hàng Thanh văn, Phật-bích-chi đều không có nguyện như vậy. Vì thế, nguyện của Bồ-tát hành trì là vượt hơn hết thảy thế gian. Như trong Kinh Đại Trí phần Tỳ Ma La Đạt Đa Nữ Vấn, Phật nhân nơi Tôn giả Mục-kiền-liên nói: “Bồ-tát từ khi mới phát nguyện, cho đến lúc an tọa nơi đạo tràng có khả năng làm phước điền cho hết thảy hàng trời, người của thế gian, lại vượt hơn tất cả hàng Thanh văn, Phật-bích-chi”.

Lại, như trong Tịnh Tỳ Ni, Tôn giả Ma-ha Ca-diếp ở trước Đức Phật nói: “Đức Thế Tôn đã khéo giảng nói sự việc hy hữu, đó là Bồtát mới một lần phát nguyện đã vượt hơn hết thảy hàng Thanh văn, Phật-bích-chi”.

Lại, như trong kệ nói:

Bồ-tát mới phát tâm

Cùng đại từ bi hợp

Vì nơi đạo vô thượng

Tức tâm này là hơn

Thế nên do nguyện ấy

Trụ trên nơi thế gian.

Tâm kiên cố: Là Bồ-tát đối với các thứ khổ não. Đó là sống nơi địa ngục Hoạt, địa ngục Hắc thằng, địa ngục Hợp hội, địa ngục Tiểu khiếu hoán, địa ngục Đại khiếu hoán, địa ngục Tiểu chích, địa ngục Đại chích, địa ngục A-tỳ, Phân sôi, Rừng gươm, Sông tro, A-phù-đà, Ni-laphù-đà, A-ba, A-la-la, Hưu-hưu, Uất-bát-la, Câu-vật-đà, Tu-mạn-na, Phân-đà-lợi, Bát-đầu-ma, với các thứ tra khảo ở địa ngục nóng, lạnh, khổ sở như vậy. Súc sinh, ngạ quỷ, A-tu-la, người, trời, cùng sát hại lẫn nhau, tạo sợ hãi, đói khát, mất mùa. Từ cõi trời thoái lui. Ganh ghét, giận dữ, não hại, ân ái biệt ly, ghét bỏ mà phải đối mặt, sinh già bệnh chết, ưu bi khổ não v.v… Các khổ hiện có trong sáu đường, hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc nhận lãnh, nhưng người tu mười đạo nghiệp thiện này, vì cầu đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, tâm không hề biến hoại. Do đấy Bồ-tát này dùng tâm kiên cố tu mười đạo nghiệp thiện, vượt hơn hết thảy thế gian. Như kệ nói:

Địa ngục và súc sinh

Ngạ quỷ, A-tu-la

Trời, người, sáu nẻo khổ

Không thể động tâm ấy.

Thế nên các Bồ-tát

Dùng tâm kiên cố này

Tu tập mười đạo thiện

Hơn tất cả thế gian.

Thâm tâm (Tâm sâu xa): Là tâm lớn, tâm dụng, tâm ái, tâm niệm. Các Bồ-tát dùng những tâm như vậy tu tập mười đạo thiện, nên vượt hơn hết thảy thế gian, trừ chư Phật, Thế Tôn và Bồ-tát hành trì lâu. Như kệ nói:

Thâm tâm và tâm dụng

Tâm lợi ích thế gian

Bồ-tát do tâm này

Hơn hết thảy thế gian.

Khéo thanh tịnh: Là Bồ-tát tu mười đạo nghiệp thiện, đủ ba thứ thanh tịnh, còn những người khác thì không có, nên vượt hơn tất cả thế gian. Như kệ nói:

Bồ-tát báu trong người

Đủ thâm tâm, tâm tịnh

Do sức pháp thiện ấy

Thế gian không gì sánh.

Phương tiện: Là Bồ-tát dùng sức của phương tiện tu tập pháp thiện, người khác thì không có, nên Bồ-tát vượt hơn hết thảy thế gian.

Tu vô lượng (kệ): Là Bồ-tát dùng năm nhân duyên vô lượng để tu tập, nên gọi là tu vô lượng:

1. Thời gian vô lượng. 2. Căn thiện vô lượng.

  1. Duyên vô lượng.
  2. Cứu cánh vô lượng.
  3. Hồi hướng vô lượng.

Thời gian vô lượng: Là các Bồ-tát tu tập đạo nghiệp thiện, vượt quá thời lượng. Thời lượng vượt quá nên đối tượng tu là mười đạo nghiệp thiện của Bồ-tát cũng vô lượng, do đấy vượt hơn tất cả thế gian. Như kệ nói:

Các Bồ-tát Sư tử

Đã tu nghiệp đạo thiện

Thời lượng vượt toán số

Nên tu thiện tối thắng.

Căn thiện vô lượng: Là các Bồ-tát tu vô lượng vô biên căn thiện, từ căn thiện ấy nên việc tu nghiệp đạo thiện cũng vô lượng, vì thế gọi là vượt hơn tất cả thế gian. Như Kinh Tịnh Tỳ Ni trong pháp Đại thừa, Phật bảo Tôn giả Ca-diếp: “Ví như sinh tô đầy nơi bốn biển, tư lương thuộc căn thiện hữu vi của Bồ-tát cũng như vậy”. Đem phước đức này hồi hướng nơi trí vô vi, là tạo được lợi ích lớn cho các chúng sinh. Vì vậy, Bồ-tát tuy ở trong hữu vi nhưng có thể vượt hơn tất cả thế gian. Như kệ nói:

Vì tất cả chúng sinh

Và cầu đạt Phật đạo

Căn thiện tức vô lượng

Nên vượt hơn thế gian.

Duyên vô lượng: Là Bồ-tát không duyên nơi chúng sinh có hạn lượng để tu tập căn thiện. Đối tượng tu căn thiện của Bồ-tát không nói là tạo lợi ích cho từng ấy chúng sinh. Bồ-tát chỉ duyên vào hết thảy chúng sinh để tu tập căn thiện, thế nên đối tượng tu nghiệp đạo thiện của Bồ-tát cũng vô lượng, vượt hơn tất cả thế gian. Như trong Kinh Tịnh Tỳ Ni, Phật bảo các Thiên tử: “Như Đại Bồ-tát có tâm từ bi mỏng, ít cầu tạo lợi ích cho người khác, thì tâm đó có thể khiến cho vô lượng chúng sinh được lợi lạc. Bồ-tát phát tâm sâu xa siêng hành tinh tấn cũng như vậy, có khả năng giáo hóa vô lượng A-tăng-kỳ chúng sinh, khiến họ đều đạt được an vui của Niết-bàn”. Như kệ nói:

Bồ-tát vô lượng thiện

Công đức tự trang nghiêm

Đều vì độ chúng sinh

Vượt vô lượng khổ lớn.

Cứu cánh vô lượng: Phần phát nguyện trong Địa thứ nhất đã nói về mười cứu cánh, cứu cánh này vô lượng, nên nghiệp đạo thiện do Bồ-tát tu tập cũng vô lượng, vượt hơn tất cả thế gian. Như kệ nói:

Bồ-tát tu đạo thiện

Từ mười cứu cánh sinh

Thế nên hơn hết thảy

Không ai hủy hoại được.

Hồi hướng vô lượng: Là như trong Địa thứ nhất đã nói: Bồ-tát hồi hướng đạt vô lượng quả báo, vì quả báo của hồi hướng này là vô lượng nên đối tượng tu nghiệp thiện cũng vô lượng, vượt hơn tất cả thế gian. Như kệ nói:

Dùng vô lượng nhân duyên

Tu nơi đạo nghiệp thiện

Vì hồi hướng Phật thừa

Do đó thành tối thượng.

Hy hữu (kệ): Là các Bồ-tát tu đạo thiện dùng năm nhân duyên nên gọi là hy hữu:

  1. Có thể thọ nhận.
  2. Tinh tấn.
  3. Tâm kiên cố.
  4. Tuệ.
  5. Quả.

Có thể thọ nhận: Ta sẽ làm bậc Nhất thiết trí tuệ đáng tôn kính trong hàng trời, người. Có khả năng thọ nhận như vậy, đó là hy hữu. Nếu người dùng ngón tay nâng bổng Tam thiên đại thiên thế giới lên hư không, khiến trụ trong trăm ngàn vạn kiếp, việc đó nếu có thể làm nổi, không đủ cho là khó. Nếu người phát nguyện: Ta sẽ thành tựu quả vị Phật, đó là sự hy hữu hết sức khó. Như kệ nói:

Vì vô lượng pháp Phật

Lập nguyện sẽ thành Phật

Người này không gì sánh

Huống là có người hơn.

Tinh tấn: Là có nhiều người có thể thọ nhận việc phát tâm cầu đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, nhưng lại không thể tinh tấn hành sáu Ba-la-mật. Nếu người do thọ nhận việc phát tâm cầu đạt Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, có thể tinh tấn hành sáu Ba-lamật, đó gọi là thật sự có thể thọ nhận vô lượng công đức. Do tinh tấn hy hữu, nên chỗ tu nghiệp thiện cũng hy hữu. Như kệ nói:

Đại tinh tấn hy hữu

Người phàm nghĩ đã sợ

Bồ-tát đã thực hành

Há không là hy hữu?

Tâm kiên cố: Là có người phát tâm tinh tấn tu tập Phật đạo, nhưng nếu có chướng ngại, thì tâm không kiên cố tức không thể thành tựu. Thế nên, phát khởi tinh tấn, an trụ nơi hy hữu ở trong tâm kiên cố thì sự việc mới thành tựu, hủy hoại các chướng ngại. Đó là Bồ-tát tu nghiệp đạo thiện hy hữu bậc nhất. Như kệ nói:

Nếu người tâm không vững

Việc nhỏ còn không thành

Huống thành tựu Phật đạo

Bậc vô thượng nơi đời.

Tuệ: Là tâm kiên cố tinh tấn, có thể thọ nhận đều lấy tuệ làm gốc, nên trí tuệ của Bồ-tát là hy hữu bậc nhất, vì có khả năng sinh khởi tâm kiên cố, có thể thọ nhận tinh tấn như thế, nên cho tuệ là hy hữu. Do tuệ là hy hữu nên sự tu tập nghiệp thiện cũng hy hữu. Như kệ nói:

Như có người thọ nhận

Muốn đạt được pháp Phật

Tinh tấn được tâm vững

Đều lấy tuệ làm gốc.

Quả: Là do tu nghiệp thiện nên được vô lượng vô biên pháp của chư Phật, thế nên là hy hữu. Như kệ nói:

Hành thiện ấy được đạo

Vô lượng sức công đức

Làm thầy các chúng sinh

Ai nghe mà không hành?

Nguyện bền (kệ): Là Bồ-tát dùng năm nhân duyên nên gọi là nguyện bền: 1. Tâm không chuyển nơi thừa Thanh văn. 2. Tâm không chuyển nơi thừa Phật-bích-chi. 3. Tâm không chuyển vì những sự của ngoại đạo. 4. Tâm không chuyển vì các sự của ma. 5. Tâm không chuyển vì không có nhân duyên. Như kệ nói:

Nghe giải thoát hai Thừa

Sao không vì đạo này

Nếu chưa nhập nơi vị

Tức mất đạo Bồ-tát.

Lại tham chuyện ngoại đạo

Hoặc bị ma phá hoại

Hoặc lại không nhân duyên

Tự bỏ đạo Bồ-tát.

Nguyện thiện (kệ): Là Bồ-tát dùng năm nhân duyên nên gọi là nguyện thiện: 1. Lường xét việc được mất. 2. Nhận biết đạo. 3. Nhận biết quả của đạo. 4. Không tham tiếc tự lạc. 5. Muốn diệt trừ khổ lớn của chúng sinh. Tạo nghiệp như thế gọi là nguyện thiện. Như kệ nói:

Trước thấy đời lỗi lầm

Phật đạo lợi ích lớn

Biết hành đạo vô thượng

Và vô lượng quả ấy.

Bỏ tự vui tịch diệt

Nhằm trừ khổ chúng sinh

Phát nguyện không gì sánh

Được chư Phật khen ngợi.

Hành đại bi vô ngại (kệ): Là do năm nhân duyên nên biết Bồ-tát có tâm đại bi: 1. Đem lợi ích, an lạc cho vô lượng chúng sinh, không tham tiếc đối với của cải, vật dụng. 2. Không tiếc thân. 3. Không tiếc thọ mạng. 4. Không nghĩ đến thời gian dài lâu. 5. Tâm bình đẳng đối với người thân, kẻ oán, vì đều tạo lợi ích. Như kệ nói:

Vật trong ngoài yêu mến

Ở đấy không tham đắm

Vì lợi ích chúng sinh

Xả bỏ nơi thân mạng.

Vô lượng kiếp sinh tử

Như trong khoảng chớp mắt

Bình đẳng với thân oán

Là Bồ-tát đại bi.

Vô ngại: Là Bồ-tát do năm nhân duyên nên tâm bi có trở ngại: 1. Cho địa ngục là khổ. 2. Cho súc sinh là khổ. 3. Xem ngạ quỷ là khổ. 4. Cho kẻ ác là không thay đổi. 5. Cho sinh tử là lỗi, ác. Nếu đối với năm nhân duyên này không gây chướng ngại cho tâm Bồ-tát thì gọi là Đại bi vô ngại. Như kệ nói:

Thứ nhất địa ngục khổ

Ngạ quỷ, súc sinh khổ

Người ác và sinh tử

Không chướng, gọi đại bi.

Bồ-tát hành như vậy

Phật nói bi vô ngại.

Khéo thọ hành phương tiện (kệ): Là Bồ-tát dùng năm nhân duyên nên gọi là khéo thọ nhận hành phương tiện:

  1. Biết phương hướng thời gian.
  2. Biết tâm kẻ khác ưa thích.
  3. Biết chuyển biến nhập đạo.
  4. Biết thứ lớp của sự việc.
  5. Biết dẫn dắt chúng sinh.

Biết phương hướng thời gian: Là biết nơi chốn này, nên giảng nói pháp như vậy. Biết trong thời gian ấy nên giảng nói pháp như thế. Biết nơi chốn này nên dùng những nhân duyên như vậy để hóa độ chúng sinh. Bồ-tát nhận biết trước những sự việc như vậy rồi, thì tùy thuận hành hóa. Như kệ nói:

Nếu dùng ý Thế Tôn

Vì người khác giảng nói

Trước nên biết hai việc

Sau theo phương, thời nói.

Nếu không biết phương, thời

Mà muốn nói ý Phật

Thì không được ích lợi

Lại còn có lỗi lầm.

Biết tâm kẻ khác ưa thích: Là Bồ-tát biết thâm tâm của kẻ khác đang ở nơi sự việc gì, có những sở thích gì. Biết trước như vậy rồi, Bồ-tát đi vào những điều được chúng sinh nhận biết, ưa thích, thuận theo đó phát khởi phương tiện độ thoát, như vậy mới có thể thành tựu. Như kệ nói:

Bồ-tát biết chúng sinh

Thâm tâm, ý khó lường

Trước biết ý ấy rồi

Dần khiến trụ ý Phật.

Biết khắp việc thế gian

Lợi mình cũng lợi người

Nếu hay làm như thế

Gọi là phương tiện khéo.

Biết chuyển biến nhập đạo: Là có khả năng chuyển đổi ý của phàm phu, ngoại đạo, khiến nhập Phật đạo. Cũng chuyển sự việc ác của chúng sinh khiến trụ trong sự việc thiện. Cũng biết chuyển đạo Thanh văn, Phật-bích-chi, khiến vào nơi Đại thừa. Những người đã ở trong pháp Phật, thì khiến không vào ngoại đạo. Nhận biết trước như vậy, thì tùy thuận tu tập, hành trì. Như kệ nói:

Nếu người khiến chúng sinh

Xa lìa pháp ngoại đạo

Cùng các thứ bất thiện

Vào tịch diệt của Phật.

Khéo biết các chúng sinh

Tâm có thượng trung hạ

Biết rồi dẫn dắt họ

Đó là phương tiện khéo.

Biết thứ lớp của sự việc: Như trong thừa Thanh văn, trước là nói về bố thí, rồi đến trì giới, tiếp nói sinh thiên, tiếp nói lỗi lầm của năm dục, tiếp nói khổ não của người tại gia, tiếp nói lợi lạc của người xuất gia, tiếp nói khổ đế, tiếp nói tập đế, tiếp nói diệt đế, tiếp nói đạo đế, tiếp nói quả Tu-đà-hoàn, tiếp nói quả Tư-đà-hàm, tiếp nói quả A-na-hàm, tiếp nói quả A-la-hán, tiếp nói giải thoát không hoại, tiếp nói các thứ vô ngại.

Trong thừa Phật-bích-chi cũng nói: Vật của ngã và ngã sở có nhiều tai họa, bỏ vật tai họa đó thì được lợi ích lớn. Tại gia bị nhiều lỗi xấu, xuất gia thì được lợi ích. Tiếp đến là nói về lỗi lầm của những lời nói ồn ào, độc hành là thiện lợi. Xóm làng là có nhiều lỗi lầm, A-lan-nhã là thiện lợi. Chán lìa nơi đa dục, đa sự, vui với thiểu dục, ít việc, giữ gìn các căn, ăn uống chừng mực, theo lúc tỉnh thức nơi đầu, giữa, cuối đêm. Quán duyên giữ lấy tướng, thích trụ nơi nhà không, quý trọng trì giới, thiền định, trí tuệ. Không hiện bày chuyện kỳ dị khiến kẻ khác hoan hỷ, chỉ lo lợi ích của mình, vui nơi pháp sâu, không theo trí của người khác.

Biết thứ lớp trong Đại thừa: Trước nói bố thí Ba-la-mật, kế nói trì giới Ba-la-mật, nhẫn nhục Ba-la-mật, tinh tấn Ba-la-mật, thiền định Ba-la-mật, trí tuệ Ba-la-mật. Trước nói thắng xứ đế, kế nói thắng xứ xả, thắng xứ diệt, thắng xứ tuệ. Lại nữa, trước khen ngợi phát tâm Bồ-đề, kế nói mười thứ nguyện, kế nói mười cứu cánh, kế đến khen ngợi việc xa lìa sự thoái mất pháp tâm Bồ-đề, kế nói tu tập pháp không thoái mất tâm Bồ-đề, kế nói tâm kiên cố tinh tấn, kế nói có thể thọ nhận kiên cố, kế nói thệ nguyện kiên cố. Lại nữa, trước nói có thể được pháp của các địa, kế nói khéo trụ nơi pháp của các địa, kế nói có thể được pháp gốc của các địa, kế nói xa lìa pháp cấu uế của các địa, kế nói pháp có thể làm thanh tịnh các địa, kế nói pháp trụ lâu ở các địa, kế nói pháp có thể đến biên của các địa, kế nói pháp có thể khiến không lui mất các địa, kế nói quả của các địa, kế nói uy lực nơi quả của các địa. Lại nữa, hoặc trước nói Địa Hoan Hỷ, kế nói Địa Ly Cấu, kế nói Địa Minh, kế nói Địa Diệm, kế nói Địa Nan Thắng, kế nói Địa Hiện Tiền, kế nói Địa Bất Động, kế nói Địa Thiện Tuệ, kế nói Địa Pháp Vân. Như kệ nói:

Trước thí, tiếp trì giới

Quả báo được sinh thiên

Lỗi tại gia vô thường

Xuất gia là lợi lớn.

Kế, bốn đế vô thượng

Đoạn kiết, chứng bốn quả

Là thứ lớp phương tiện

Khiến người trụ Thừa đầu.

Trước nói lỗi sinh tử

Kế nói lợi Niết-bàn

Giữ gìn nơi các căn

Trì giới và thiền định.

Không theo trí tuệ khác

Công đức vui một mình

Tự dựa, không dựa người

Thích cầu vui tự lợi.

Cũng không bỏ người khác

Hành sâu pháp Đầu-đà

Người cầu Trung thừa ấy

Tướng giáo pháp như vậy.

Dùng bốn mươi bất cộng

Nói Phật đức vô lượng

Cũng nói lúc Bồ-tát

Tất cả pháp hành trì.

Vì lợi ích chúng sinh

Lần lượt nói pháp ấy

Tự lợi và lợi tha

Nói vô số công đức.

Cũng nói các Phật tử

Vui thích mười thứ địa

Người cầu pháp Đại thừa

Thứ lớp độ như thế.

Biết dẫn dắt chúng sinh: Là tùy theo nẻo vui thích của chúng sinh để dẫn dắt họ, tùy theo sở thích, nhân lấy sức mạnh của sở thích ấy khiến họ được hóa độ. Như kệ nói:

Hoặc có các chúng sinh

Dùng kinh sách thâm diệu

Việc khó và nghề khéo

Chú thuật và ái ngữ.

Khéo nói và của cải

Bố thí, giới, định, tuệ

Lường tính như vậy rồi

Dẫn đến vào Đại thừa.

Hoặc hiện làm thân nữ

Dẫn dắt các nam tử

Lại hiện thân nam tử

Dẫn dắt các nữ nhân.

Thị hiện năm dục lạc

Sau đấy nói lỗi dục

Khiến tất cả mọi người

Được lìa nơi năm dục.

Khéo hành năm sự việc này, gọi là Bồ-tát khéo thọ hành phương tiện.

Nhẫn chịu các khổ não (kệ): Là nếu có người có thể nhẫn chịu các khổ não trong sinh tử trải qua số kiếp không thể tính đếm, thì mười đạo nghiệp thiện có khả năng khiến người ấy trụ nơi đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.

Hỏi: Tất cả người đều ưa thích vui, ghét khổ, vì sao người này lại có thể nhẫn chịu khổ não?

Đáp: Do 5 nhân duyên: 1. Ưa thích vô ngã. 2. Tin vui nơi không. 3. Lường tính pháp thế gian. 4. Quán xét quả báo của nghiệp. 5. Nghĩ mình nơi số kiếp không thể tính đếm, không hề thọ nhận khổ não. Như kệ nói:

Thích pháp không, vô ngã

Lại biết quả báo nghiệp

Tám pháp như lợi, suy v.v…

Ở đời tất nên nhận.

Cũng nghĩ đời quá khứ

Không nhận vô lượng khổ

Huống chi vì Phật đạo

Mà không thọ nhận sao?

Không bỏ các chúng sinh (kệ): Là hoặc có chúng sinh xấu ác vào bậc nhất, không có chút công đức, không thể tạo lợi ích, nhưng Bồ-tát hoàn toàn không sinh tâm từ bỏ họ.

Hỏi: Nếu người ác đó không thể hóa độ, thì vì sao không bỏ họ?

Đáp: Do năm nhân duyên: 1. Xem thường pháp của hàng tiểu nhân. 2. Quý trọng pháp của bậc Đại nhân. 3. Sợ lừa dối chư Phật. 4. Do biết ơn. 5. Do sự việc này nên là xuất thế gian. Như kệ nói:

Muốn hóa độ chúng sinh

Tâm sinh giữ gánh nặng

Ở trong giặc oán, ác

Tâm thường không nên bỏ.

Khinh tiểu, quý Đại nhân

Tiểu, Đại ấy sai khác

Trong chúng sinh không nên

Tâm xót thương lại dứt.

Ở trong các cấp nạn

Không việc tạo lợi ích

Khi gánh vác gánh nặng

Không biếng trễ giữa đường.

Nếu phát tâm vô thượng

Hoặc có bỏ chúng sinh

Nếu tự tâm khổ nhọc

Cùng người ác não hại.

Như vậy tức dối gạt

Mười phương ba đời Phật

Chư Phật quý trong đời

Vì lợi ích chúng sinh.

Hành vô số hạnh khổ

Tu tập nơi Phật đạo

Phật nơi Hằng sa kiếp

Bỏ vui, tạo nghiệp phước.

Nếu bỏ một người ác

Tức là bội ơn Phật

Cho nên chúng sinh ác

Không nên từ bỏ họ.

Nếu người nơi vô lượng

Trong A-tăng-kỳ kiếp

Đã tu tập Phật đạo

Lấy đại bi làm gốc.

Nếu do tâm tham dục

Tâm giận dữ, sợ hãi

Bỏ một người đáng độ

Là đoạn gốc Phật đạo.

Cho nên mười đạo thiện

Khiến không nên xả bỏ

Đến A-nậu-đa-la

Tam-miệu-tam-bồ-đề.

Yêu sâu tuệ chư Phật (kệ): Là nếu người vô cùng ưa thích trí tuệ của Phật, thì mau chóng đạt được quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Do năm nhân duyên nên hết sức ưa thích trí tuệ của Phật: 1. Tuệ của Phật là không ai sánh bằng. 2. Trí của Phật có thể khiến con người trở thành bậc tôn quý trong đời. 3. Phật dùng trí mình để tự độ thân mình. 4. Trí Phật cũng hóa độ người khác. 5. Trí Phật là trụ xứ của hết thảy công đức. Như kệ nói:

Trí tuệ của chư Phật

Trên trời cùng thế gian

Hết thảy không gì sánh

Huống chi có vượt hơn.

Chư Phật dùng trí này

Vì trời, A-tu-la

Tất cả người thế gian

Cung kính mà lễ bái.

Phật dùng trí tự độ

Cũng độ cho người khác

Nếu được trí Phật ấy

Là kho chứa công đức.

Tự tại nơi Phật lực, Hành giả ưa hành khắp: Đối với oai lực của chư Phật và trong pháp tự tại vui hành cùng khắp. Hành khắp là hành tập lâu dài, tất cả sức hành gọi là mười thứ trí lực. Tự tại là tùy ý hành tác. Nếu người này ưa thích sâu xa mười lực của Phật cùng trong pháp tự tại hành dụng khắp, tức không bao lâu người ấy chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.

Do năm nhân duyên nên ưa thích hành trọn khắp: 1. Tôn trọng lời chư Phật dạy bảo. 2. Chư Phật có đại đệ tử. 3. Thân chứng hết thảy pháp. 4. Thâu giữ những người đọa lạc. 5. Những người đã bị đọa lạc có thể cứu độ họ. Như kệ nói:

Tôn Phật dạy vô thượng

Con Phật có bốn, tám

Cùng dùng sáu ba loại

Đủ làm thầy chư Thiên.

Dùng mắt trí tuệ Phật

Thấy các pháp hiện tiền

Nghịch ác, đoạn căn thiện

Và những người phá giới.

Người đọa lạc như thế

Thâu giữ mà cứu độ

Nếu người nơi Phật lực

Hành khắp trong tự tại.

Niết-bàn và phước trời

Luôn trong tay người ấy.

Ở trong đó, chư Phật dùng oai lực của mình có thể làm năm việc: 1. Khiến chúng sinh học thừa Thanh văn. 2. Khiến chúng sinh học thừa Phật-bích-chi. 3. Khiến chúng sinh học pháp Đại thừa. 4. Người có năng lực đầy đủ khiến được giải thoát. 5. Những người yếu kém khiến trụ nơi an lạc của thế gian. Như kệ nói:

Chư Phật dùng thần lực

Khiến chúng sinh chán lìa

Hoặc khiến học Tiểu thừa

Trung thừa và Đại thừa.

Người có đủ năng lực

Khiến họ được giải thoát

Người chưa đủ năng lực

Sinh thiên, vui đời này.

Tự tại: Là chư Phật ở trong năm sự việc luôn tự tại: 1. Các thần thông tự tại. 2. Trong tự tâm được tự tại. 3. Trong diệt tận được tự tại.

4. Trong Thánh như ý được tự tại. 5. Thọ mạng tự tại. Như kệ nói:

Bay đi được tự tại

Tự tâm được tự tại

Ở trong thiền định diệt

Như vào ra nhà mình.

Hết thảy tịnh, bất tịnh

Tùy tâm mà chuyển đổi

Mạng sống không bị hại

Tự duyên cũng vô tận.

Luôn tự tại như thế

Hết thảy pháp cũng vậy

Cho nên nhân sư tử

Gọi là bậc Tự tại.

Hay phá trừ ý ác (kệ): Đó là hàng phàm phu xa lìa chánh đạo, chín mươi sáu thứ ngoại đạo. Lược nói về ý ác: Nói năm ấm là ngã. Hoặc nói ngã có năm ấm. Hoặc nói trong năm ấm có ngã. Hoặc nói trong ngã có năm ấm. Hoặc nói lìa năm ấm có ngã. Như kệ nói:

Nếu năm ấm là ngã

Là rơi vào đoạn diệt

Tức mất nhân duyên nghiệp

Không công mà giải thoát.

Có bốn loại ác khác:

Dị, ấm, không có tướng

Không tướng, không có pháp

Đều nên phá như vậy.

Lại nữa, năm tà kiến gọi là ý ác. Đó là tà kiến, thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới thủ. Như kệ nói:

Tà kiến phá nhân quả

Hai mươi thứ thân kiến

Hữu kiến và vô kiến

Sự thấp cho là cao.

Chỉ do sức của giới

Mà đạt được giải thoát

Như trước phá Nhất, Dị

Kiến này phá như vậy

Chánh ý tám đạo phá

Gọi là được giải thoát.

Nhận giữ chánh pháp Phật (kệ): Là nếu người có khả năng giữ gìn giáo pháp của chư Phật, đó là mười hai bộ kinh, đem tâm ấy để có thể tin, nhận, thì mười đạo nghiệp thiện này có thể khiến người ấy đạt đến đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.

Do năm nhân duyên nên phải giữ gìn chánh pháp: 1. Biết báo ơn chư Phật. 2. Khiến pháp trụ lâu. 3. Dùng sự cúng dường tối thượng để cúng dường chư Phật. 4. Đem lợi ích cho vô lượng chúng sinh. 5. Chánh pháp là khó đạt được bậc nhất. Như kệ nói:

Nếu người muốn hành tác

Việc chư Phật quý mến

Cũng khiến pháp trụ lâu

Cúng dường Phật hơn hết.

Vì muốn chữa trị dứt

Bệnh nặng của chúng sinh

Cũng biết các Thế Tôn

Từ khổ được pháp này.

Do những nhân duyên ấy

Biết pháp là khó được

Thế nên người có trí

Phải yêu mến hộ pháp.

Ở trong đó, do năm nhân duyên nên gọi là yêu mến hộ trì chánh pháp: 1. Hành đúng như pháp được giảng nói. 2. Khiến người khác làm đúng như pháp. 3. Phá trừ kẻ bài báng pháp Phật. 4. Lìa bốn ấn đen. 5. Hành bốn ấn lớn. Như kệ nói:

Tự ở trong pháp Phật

Như Phật dạy an trụ

Tâm bi không lận pháp

Cũng khiến người an trụ.

Lại phá trừ chúng ma

Các Luận sư ngoại đạo

Hoặc người ghét pháp Phật

Dùng tâm không giận phá.

Xa lìa bốn ấn đen

Thọ hành bốn ấn lớn

Như thế tức gọi là

Yêu mến hộ chánh pháp.

Dũng mãnh (kệ): Bồ-tát do năm nhân duyên nên gọi là dũng mãnh: 1. Phá trừ giặc ma. 2. Phá bỏ ngoại đạo. 3. Phá trừ giặc phiền não. 4. Phá trừ giặc các căn. 5. Phá trừ giặc năm ấm. Như kệ nói:

Ma ác khởi binh chúng

Đạo thọ muốn hại Phật

Thường tìm cầu khiếm khuyết

Nhiễu loạn tâm người nghe.

Mặt trời Phật xuất hiện

Ma thỉnh khiến Niết-bàn

Thường loạn người thọ học

Phá hoại đạo giải thoát.

Cho đến nơi hôm nay

Tâm ấy vẫn chưa ngừng

Ghét bỏ nẻo Niết-bàn

Giặc lớn của người thiện.

Nên lấy giới, định, tuệ

Phá trừ sức ma oán

Tự cho có trí tuệ

Thường khinh mạn nơi Phật.

Dùng vô số nhân duyên

Diệt pháp Phật nên hiện

Thường ghét đệ tử Phật

Tự mất, dạy người mất.

Các đám ngoại đạo ấy

Giặc lớn của thế gian

Nên dùng tâm không giận

Nên dùng tuệ đa văn.

Cùng đem sức tâm lớn

Phá trừ oán ngoại đạo

Sức phiền não khởi nghiệp

Luân chuyển đọa đường ác.

Sức phiền não chướng ngại

Không thể hành đạo lớn

Do sức của phiền não

Rơi vô số tà kiến.

Do sức của phiền não

Không hành đạo cam lồ

Vì nhân duyên như thế

Phiền não là giặc lớn.

Dùng chánh niệm, định, tuệ

Phá giặc phiền não đó

Nếu bị giặc căn dẫn

Khiến người đọa đường ác.

Lại rơi trong trời, người

Không đến được Niết-bàn

Nay giặc các căn này

Sao không dùng hổ thẹn

Chánh niệm và trí tuệ

Phá trừ giặc các căn

Ví như người thế gian

Đem lời ngọt dối gạt.

Của cải và đao kiếm

Dùng bốn thứ trừ giặc

Do nơi năm ấm này

Thọ sinh già bệnh chết.

Rơi vào sợ hãi lớn

Các cấp nạn khổ não

Do nhân duyên năm ấm

Buồn thương và khóc lóc.

Do nhân duyên năm ấm

Nhận vô số các khổ

Vì vậy ông nên biết

Nên dùng pháp tri kiến

Phá trừ năm ấm ấy

Như phá tan giặc oán.

Có thể thọ nhận (kệ): Là sức của tâm chí mạnh mẽ, có tướng bậc Đại nhân, thấy sự việc tới chỗ sâu xa. Do năm nhân duyên nên gọi là có thể thọ nhận: 1. Nguyện đã thành, nhưng tâm không tự cao. 2. Nguyện bất thành, nhưng tâm không sút kém. 3. Tuy bị khổ não bức bách, nhưng tâm không lay động. 4. Tuy sự vui tăng lên, nhưng thân tâm cũng không đổi khác. 5. Tâm sâu xa, hoặc giận hoặc vui, khó có thể nhận biết. Như kệ nói:

Thân, tâm cay đắng đến

Ý ấy cũng không động

Tùy ý việc vui đến

Tâm đại trí không đổi.

Như giận, mừng, lo sợ

Người khác không thể lường

Tướng thâm tâm như vậy

Là nói người thọ nhận.

Siêng năng tinh tấn (kệ): Là siêng hành tác 5 việc này: 1. Siêng hành tinh tấn để khiến pháp ác chưa sinh, không sinh. 2. Siêng hành tinh tấn để diệt trừ pháp ác đã sinh. 3. Siêng hành tinh tấn để khiến pháp thiện chưa sinh, nên sinh. 4. Siêng hành tinh tấn để khiến pháp thiện đã sinh thêm tăng trưởng. 5. Siêng hành tinh tấn để sự tạo tác trong thế gian không gì có thể gây chướng ngại. Như kệ nói:

Đoạn pháp ác đã sinh

Cũng như trừ rắn độc

Đoạn pháp ác chưa sinh

Như phòng chận dòng nước.

Tăng trưởng nơi pháp thiện

Tưới cây ra trái ngọt

Thiện chưa sinh khiến sinh

Như cọ cây phát lửa.

Trong sự thiện thế gian

Tinh tấn không chướng ngại

Chư Phật gọi người ấy

Là siêng năng tinh tấn.

Tâm vững độ chúng sinh (kệ): Nghĩa là tâm kiên cố giáo hóa chúng sinh. Nếu khi Bồ-tát giáo hóa chúng sinh ở trong năm thừa, đối với các sự việc như cúng dường, khinh mạn, thương ghét, sợ hãi, khổ vui, mệt mỏi v.v…, tâm Bồ-tát vẫn không chuyển. Những gì là năm thừa? 1. Phật thừa. 2. Phật-bích-chi thừa. 3. Thanh văn thừa. 4. Thiên thừa. 5. Nhân thừa. Như kệ nói:

Ông nên dùng nhất tâm

Tất cả các năng lực

Dựa vô số phương tiện

Lìa nơi tâm thương ghét.

Giáo hóa các chúng sinh

Tâm lìa cấu, thanh tịnh

Khiến được Thừa vô thượng

Vô lượng đời khó được.

Nếu người không năng lực

Không thể trụ Đại thừa

Chỉ ở Phật-bích-chi

Thanh văn, Thiên, Nhân thừa.

Không tham đắm tự lạc (kệ): Đó là không vướng vào hết thảy các thứ vui. Bồ-tát do năm nhân duyên nên không tham đắm tự lạc:

1. Ưa thích quán vô thường, như bọt nước chóng tan. 2. Đời vui rồi biến thành khổ. 3. Từ các duyên sinh khổ. 4. Từ khát ái khởi lên. 5. Sự vui ít ỏi như giọt mật. Như kệ nói:

Vui ít trụ như bọt

Biến khổ như ăn độc

Ba hợp từ xúc có

Tham, dục, si nên sinh.

Nếu lìa nơi tham ái

Lại không có vui riêng

Như giọt mật, giếng khô

Vui ít mà khổ nhiều.

Tạo lợi ích chúng sinh

Không nên có tham đắm.

Cùng vô lượng thân mạng (kệ): Là Bồ-tát do năm nhân duyên nên không tiếc thân mạng: 1. Thân không từ đời trước đến. 2. Không đi đến đời sau. 3. Không bền chắc. 4. Thân này là vô ngã. 5. Không có ngã sở. Như kệ nói:

Thân ngươi chứa các uế

Hết thảy đều bất tịnh

Không từ đời trước tới

Không giữ đến đời sau.

Tuy cung cấp lâu, tốt

Mà phá phần ơn lớn

Thân này không bền chắc

Như bọt nước liền tan.

Duyên sinh tánh không định

Không tánh, không tự tại

Cho nên phải biết rõ

Phi ngã, phi ngã sở.

Thân này vô lượng lỗi

Không nên có tham tiếc.

Bồ-tát do năm nhân duyên nên không tham tiếc thọ mạng: 1. Vui thích đời sống trí tuệ. 2. Lo sợ tội. 3. Nghĩ đến vô lượng lần chết từ vô thỉ sinh tử đến nay. 4. Cùng với hết thảy chúng sinh cùng thọ nhận. 5. Không thể tránh khỏi chết. Như kệ nói:

Từ đa văn, luận đúng

Sinh tham nơi tuệ mạng

Lúc lo sợ mất mạng

Nên sinh khởi tội ác.

Lại thấy tất cả người

Không thoát khỏi sinh tử

Không thể đem của, trí

Sức phương tiện trốn khỏi

Tu tập các pháp thiện

Sao tiếc thọ mạng này?

Hơn hết trong mọi việc (kệ): Là nếu người có tạo tác sự việc, tất có thể đạt đến cứu cánh. Đó gọi là Thượng nhân. Bồ-tát dùng 5 việc phát khởi tất có thể đạt đến cứu cánh: 1. Tiền của. 2. Bố thí. 3. Trì giới. 4. Tu định. 5. Đạo đức. Như kệ nói:

Siêng cầu chứa của cải

Ân cần hành bố thí

Thứ lớp trì tịnh giới

Tinh tấn cầu thiền định.

Hành vô số phương tiện

Sinh tám đạo giải thoát

Đó là trong các việc

Gọi đó là Thượng nhân.

Hành tác không lỗi lầm (kệ): Là sự việc do Bồ-tát này làm người trí không quở trách. Do năm nhân duyên nên mọi việc làm không lỗi lầm, không bị người trí quở trách: 1. Làm những việc có thể làm. 2. Được lợi lớn của quả. 3. Không hủy hoại pháp. 4. Tiếp sau không lỗi lầm. 5. Tiếng tốt vang khắp. Như kệ nói:

Trước lường tính những chuyện

Tự làm việc dễ làm

Từ việc này đạt được

Vô lượng lợi quả lớn.

Không ngăn ngại pháp thiện

Làm xong, lỗi không theo

Người thiện đã khen ngợi

Tiếng tốt lan truyền khắp.

Người trí phát khởi nghiệp

Gọi là không lỗi lầm

Chuyện đáng làm, dễ làm

Tự thuộc nơi thân mình.

Vô lượng công đức lớn

Mau được quả lợi ích

Người trí biết như vậy

Sau không có lỗi lầm

Nên tăng siêng tinh tấn

Làm những việc như thế.

Hết thảy thứ thanh tịnh, Tất cả thắng xứ đến (kệ): Do năm nhân duyên nên các thắng xứ, hết thảy thứ thanh tịnh: 1. Tâm sâu xa thanh tịnh. 2. Hồi hướng thanh tịnh. 3. Tự hành nơi thắng xứ như lời nói. 4. Khiến người khác hành. 5. Xa lìa pháp trái ngược với thắng xứ là vọng ngữ, tham lam, keo kiệt, đùa cợt, ngu si. Như kệ nói:

Bồ-tát thâm tâm tịnh

Lìa dua nịnh, quanh co

Đều đem bốn thắng xứ

Hồi hướng nơi Phật đạo.

Trước tự tu pháp thiện

Sau khiến dạy người khác

Bồ-tát hành như thế

Bốn thắng xứ thanh tịnh.

Đạo thiện khiến người này, Đến mười lực Thế Tôn (kệ): Là tu tập mười đạo nghiệp thiện như vậy thì có thể khiến người đạt đến mười lực. Mười lực gọi là Chánh biến tri, Chánh biến tri tức là Phật. Do năm nhân duyên nên gọi là Thế Tôn: 1. Đoạn trừ nghi của đời quá khứ. 2. Đoạn trừ nghi của đời vị lai. 3. Đoạn trừ nghi của đời hiện tại. 4. Đoạn trừ pháp nghi vượt quá ba đời. 5. Đoạn trừ pháp nghi không thể nói. Như kệ nói:

Vô thỉ đời quá khứ

Thông đạt không có nghi

Vô biên đời vị lai

Biết thông đạt không nghi.

Mười phương không biên vực

Hết thảy đời hiện tại

Hiện quá nơi ba đời

Pháp vô vi, vi diệu.

Mười bốn không thể nói

Cũng thông, không chút nghi

Thế nên kho công đức

Chư Phật gọi Thế Tôn.

Thành tựu công đức như thế: Là mười đạo nghiệp thiện có khả năng khiến Bồ-tát đạt được đạo quả Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng. Do đó người cầu Phật đạo nên tu mười đạo nghiệp thiện như vậy.

HẾT – QUYỂN 15