LUẬN THẬP TRỤ TỲ BÀ SA
Tác giả: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Đời Hậu Tần, Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 11

Phẩm 22: VẤN NẠN VỀ NGƯỜI NHẤT THIẾT TRÍ TRONG BỐN MƯƠI PHÁP BẤT CỘNG, phần 2

Ông nói: Người già trên sáu mươi tuổi, thuộc dòng dõi quý tộc xuất gia v.v… nên làm Thượng tọa. Nay tôi giải đáp: Trong đạo pháp thì những người già cả thuộc hàng quý tộc xuất gia v.v… không có ích cho đạo. Vì sao? Vì sinh ra trong pháp Phật mới gọi là quý tộc, tức là sinh trong ngôi nhà tốt đẹp. Từ khi thọ đại giới, đếm tuổi từ ấy, theo số năm, gọi là già. Ông bảo nên cúng dường cho người tuổi già, thì xuất gia, thọ đại giới trước không phải là lớn sao? Từ khi thọ giới trở về sau, không còn phân biệt về tộc họ sai khác. Các Tỳ-kheo thọ đại giới gọi là sinh trong nhà Phật. Thế là mất cái tên nhà nhỏ, nhà lớn trước kia, mà đều là một nhà.

Ông nói: Người trì giới là xuất gia trước, ngày đêm gìn giữ giới lâu dài, cho đến nhiều năm tháng, nên được làm Thượng tọa, như trong kiết giới nói. Ông bảo: Người giữ giới không nên lễ bái người phá giới. Nay tôi giải đáp: Người phá giới hãy còn không cho ở chung với Tăng chúng, huống gì là được lễ bái cúng dường. Do người đó tự xưng mình là Tỳ-kheo, nên tùy người đó lớn hay nhỏ mà làm lễ, lễ ấy như lễ bái đất, cây, hiện tượng trên trời, do nghĩ đó là chân thiên. Vì Phật dạy người tuổi trẻ nên kính lễ bậc Thượng tọa, theo lời Phật dạy thì được phước.

Ông nói: Do hành hạnh Đầu-đà nên phải kính lễ. Nay tôi giải đáp: Nếu là người hành hạnh Đầu-đà thì có năm loại nên khó phân biệt: Một là ngu si không biết gì nên tham nhận pháp khó. Hai là người độn căn mong cầu được lợi. Ba là có ý xấu nhằm lừa dối mọi người. Bốn là người cuồng loạn. Năm là người khởi niệm cho là pháp Đầu-đà được chư Phật và Hiền Thánh khen ngợi. Họ đều tùy thuận đạo Niết-bàn nên năm loại Đầu-đà ấy khó phân biệt đâu là thật, là giả.

Về việc học, hiểu biết rộng. Người học rộng cũng giống như Đầu-đà, khó phân biệt. Vì sao? Vì có người ưa thích đạo mà học rộng, có người cầu lợi dưỡng mà học rộng. Hạng loại nhiều như vậy nên cũng khó phân biệt.

Lại nữa, pháp Phật quý ở chỗ hành trì như pháp đã nêu, không quý ở chỗ đọc nhiều, tụng nhiều. Lại như Phật thường dạy: Hành một câu pháp mà tự đạt được lợi ích, gọi là học rộng. Trí tuệ cũng như vậy. Nếu không có khả năng hành trì như pháp đã nói, thì trí tuệ dùng làm gì? Thế nên không do trí tuệ mà gọi là Thượng tọa. Ví như sự việc hiện có của thế gian, người em tuy học rộng, nhiều trí, nhưng người anh không kính lễ. Do vậy, không xem trí tuệ là ưu tiên để được lễ bái cúng dường. Như thế, tuy học rộng, trí tuệ, cũng nên kính lễ người thọ giới trước. Nếu trước cúng dường người học rộng, trí tuệ, thì khó tránh khỏi việc tranh cãi rối loạn. Ngoài ra, chứng đắc quả Sa-môn, đoạn trừ kiết sử, được thần thông, là rất khó phân biệt là ai đã chứng đắc, ai chưa chứng đắc. Người này đoạn dứt kiết sử là nhiều hay ít? Người này được thần thông hay chưa được thần thông? Do vậy, không thể đưa những người ấy lên hàng Thượng tọa. Còn như cùng lúc chứng quả, đắc thần thông, cũng như đoạn trừ kiết sử như nhau thì ai làm Thượng tọa? Do vậy, chỉ vâng theo lời Phật dạy là tốt hơn hết.

Ông cũng nói: Phật đối với việc giảng nói pháp sinh nghi. Nay tôi giải đáp: Đối với các pháp sâu xa, Phật hãy còn không có nghi ngờ, huống gì là có nghi ngờ trong việc nên giảng nói hay không nên giảng nói. Phật không nói: Ta hoàn toàn không thuyết pháp, chỉ nói là: Tâm ưa thích nơi chốn thanh vắng, không lo toan nhiều công việc, nên sau đó ở trong việc thuyết pháp không mắc lỗi lầm.

Lại nữa, các hàng ngoại đạo nói: Phật là bậc Đại Thánh vắng lặng, không hý luận, thì cần gì nuôi chúng để giáo hóa? Giả sử có giáo hóa thì cũng không hết. Tợ như sự phân biệt đâu cần phải nuôi đệ tử, thuyết pháp, vì đó là tướng tham chấp. Thế nên, Phật tự suy nghĩ: “Pháp của Ta là sâu xa, trí tuệ, phương tiện là vô lượng, vô biên, nhưng người đáng được hóa độ thì ít”. Do vậy Ngài tự bảo: “Tốt hơn là nên im lặng”.

Lại nữa, để đề phòng ngoại đạo chê trách, nên Ngài khiến Phạm Thiên vương đến thỉnh thuyết pháp. Liền khi ấy, Phạm Thiên vương bạch Phật: Chúng sinh thật đáng thương xót, trong đó có người lợi căn, kiết sử mỏng, có thể dễ hóa độ. Vì vậy, Phật nhận lời thỉnh của Phạm Thiên vương, như người bắt được kho báu lớn rồi nên chỉ cho kẻ khác biết. Như vậy, các bậc Thánh tự được pháp lợi và đem lợi cho người

Còn như ông nói: Phật không biết ông A-lan-ca-lan trước đã mạng chung rồi, mà còn muốn vì ông ấy giảng nói pháp. Nay tôi giải đáp: Phật không nghĩ là ông ấy đã chết hay chưa chết, mà chỉ nghĩ, ông ấy là người kiết sử mỏng, có thể nhận lãnh được sự giáo hóa. Tùy nơi chốn được suy nghĩ tức phát sinh trí hụê. Thế nên, trước Phật tự nói, sau đó thiên thần trình lý do, là điều thích hợp.

Lại nữa, trước đây, khi mới xuất gia, Phật đã đến trụ xứ của hai vị này, từng tá túc nơi đó. Đã có lúc chư Thiên và mọi người đều nghi Phật nhận lãnh pháp diệu của hai vị này rồi mới đến nơi khác đắc đạo. Để dứt trừ điều nghi ngờ đó, nên ngay lúc ấy, Phật đã nói rõ: Hai vị đó già suy như vậy, mà pháp diệu vì sao không được nghe? Suy xét ý nghĩa ấy, thì việc năm Tỳ-kheo cũng lại có thể nhận biết. Phật chỉ nghĩ tới nhân duyên có thể hóa độ, chứ không nghĩ là họ đang ở nơi đâu, sau nhớ nghĩ về nơi ở của những người ấy, Phật liền biết. Do vậy, ông không nên phá bỏ người Nhất thiết trí.

Còn việc ông bảo: Phật tạo nghi ngờ về sự sụp đổ của thành Ba-liên-phất. Nay tôi giải thích: Nhân duyên khiến thành này sụp đổ là không định rõ. Nhân duyên không xác định mà nói quyết chắc là có lỗi. Hơn nữa, tôi đã nói ở trước, trong bốn mươi pháp bất cộng, chư Phật khéo nhận biết về việc bất định. Trả lời tức là không chấp nhận cái khó ấy.

Còn việc ông bảo: Phật hỏi các Tỳ-kheo: Các vị tụ họp nơi đây, đang nói những chuyện gì? Nay tôi giải đáp: Vì sắp sửa giảng nói pháp môn nên Phật mới hỏi như vậy. Hoặc muốn kiết giới mới bảo các vị ấy trình lại là đang nói những pháp gì. Hỏi như vậy thì không có lỗi. Ở thế gian cũng có những chuyện biết rồi mà vẫn hỏi lại. Như thấy người đang ăn mà vẫn hỏi: Ăn đó chăng? Hay khi trời lạnh mà vẫn hỏi: Trời lạnh đấy chứ? Phật cũng như vậy, biết mà vẫn hỏi, đó là theo thói quen, không có lỗi.

Ông lại bảo: Vì tự khen mình, chê người, nên Phật không phải là người Nhất thiết trí. Nay tôi giải đáp: Phật không tham thân mình, không tham cúng dường, không giận kẻ khác, không tăng thượng. Sở dĩ Ngài tự bảo: “Nơi thế gian Ta là bậc nhất” là muốn cho các chúng sinh có lòng tin, căn trí mạnh mẽ nhạy bén, có khả năng từ bỏ tri thức ác, tôn Ta làm thầy, người ấy trong đời sống luôn được an ổn, nên Phật mới tự khen mình.

Lại nữa, có người cầu đạo an lạc bậc nhất, nhưng lại biếng trễ, không thể tinh tấn, nên Phật nói về điều lợi hơn hết, không nên biếng trễ nữa. Ta đối với thế gian là vị Đạo sư bậc nhất, khéo giảng nói chánh pháp, phải nên siêng năng tinh tấn mới có thể đạt được đạo quả.

Những nhân duyên như thế để tự khen không phải là tự xem mình cao quý để khinh rẻ kẻ khác. Phật quở trách người ác là muốn khiến họ trừ diệt các pháp ác, chứ không phải do giận ghét chúng sinh. Có người cầu lợi đúng như pháp, tâm thanh tịnh ngay thẳng, nhưng lại hòa hợp với tri thức ác, muốn họ lìa bỏ nơi đó, nên Phật mới quở mắng. Khi chưa thành Phật, Ngài đã đem cả tủy não để bố thí cho người, huống gì là nay đã thành Phật mà còn quở trách vì giận ghét hay sao!

Về việc ông bảo: Pháp Phật trước sau cùng trái nhau. Nay tôi giải thích: Trong pháp Phật không có việc trước sau trái ngược nhau. Vì không hiểu biết hết ý nghĩa của pháp Phật nên ông mới cho là trái nhau.

Nơi đạo Niết-bàn này, từ khi Phật Ca-diếp nhập diệt trở đi, không có người thuyết pháp, cũng không có người chứng đắc, thế nên nói: Ta mới đắc đạo. Ở chỗ khác lại nói: Ta chứng đắc đạo xưa. Đạo ấy là đạo mà chư Phật như Phật Định Quang đã chứng đắc. Đó là tám Thánh đạo, có khả năng đưa đến Niết-bàn. Vì chỉ có một đạo, một nhân duyên, nên nói là đạo xưa. Vì vậy nên biết, Đức Phật đã thành tựu Nhất thiết trí.

Hỏi: Gọi là Nhất thiết trí, vậy thế nào là Nhất thiết trí? Có phải là nhận biết hết thảy nên gọi là Nhất thiết trí chăng?

Đáp: Nhất thiết trí là nhận biết và có thể nhận biết. Có thể nhận biết là năm pháp tạng: quá khứ, hiện tại, vị lai, ra khỏi ba đời và không thể nói với đối tượng được dùng của chúng. Nhận biết năm pháp tạng này gọi là nhận biết. Do vậy nhận biết và đối tượng được nhận biết gọi là Nhất thiết (Hết thảy).

Hỏi: Nhận biết, có thể nhận biết gọi là nhất thiết, sự việc đó không phải như thế. Vì sao? Vì pháp này chỉ là một, nên có thể nhận biết và nhận biết, cũng là có thể nhận biết. Như thế gian nói: Người này nhận biết nhanh, người kia nhận biết chậm.

Đáp: Nếu nhất thiết là một, thì nóng lạnh trái nhau lẽ ra cũng là một, sự việc trái nhau như sáng tối, khổ vui, cũng nên là một. Nhưng sự việc ấy không phải như thế. Vì vậy không được nói nhất thiết đều là một.

Hỏi: Điều ông chấp cũng giống như lỗi này. Nếu có thể nhận biết là một, thì khổ, vui v.v… cũng nên là một, nhưng thật ra không phải là một?

Đáp: Tôi không nói: Hết thảy có thể nhận biết là một, còn ông đã chấp: Hết thảy đều là một, do đó tôi không cùng với ông đồng có lỗi. Lại nữa, ông nói đồng có lỗi là trong tự chấp của ông có lỗi. Nếu người nào đã nhận lỗi trong chỗ tự chấp, thì đã rơi vào chỗ thua kém. Ông đã biết điều mình chấp là có lỗi thì không nên nói lỗi của người khác. Vậy nên ông nói là đồng có lỗi, thì sự việc ấy không đúng.

Lại nữa, nếu bảo hai pháp nhận biết và có thể nhận biết là một, thì ông nên dùng pháp có thể nhận biết để nhận biết các vật như bình, áo v.v… nhưng thật ra là đã dùng cái nhận biết để nhận biết hết thảy vật. Nếu ông cho chiếc bình, cái áo v.v… đối với sự nhận biết không khác nhau, thì hiện tại, cái bình, chiếc áo không thể nhận biết được sự vật, tức nên có khác nhau. Nhưng thật ra là dùng sự nhận biết để nhận biết tất cả vật. Do xứ xứ đều có lỗi như vậy, nên ông không được nói Nhất thiết đều là một.

Lại nữa, chủ thể nhận biết và đối tượng được nhận biết là hai, gọi là “Nhất thiết tri”, là hết thảy pháp, gọi là Như Lai, gọi là Nhất thiết trí. Tam-muội Kim cang là nhân của người Nhất thiết trí này, do vậy Tam-muội Kim cang được thành tựu. Ở trước, ông nói: Tammuội Kim cang không thành tựu được nên người Nhất thiết trí không thành tựu. Điều đó không đúng.

***

Phẩm 23: KHÉO NHẬN BIẾT BẤT ĐỊNH TRONG BỐN MƯƠI PHÁP BẤT CỘNG

Khéo nhận biết pháp bất định: Là các pháp chưa phát sinh, chưa xuất hiện, chưa thành lập, chưa xác định, chưa phân biệt, ở đây trí tuệ của Như Lai có được diệu lực nên đều nhận biết.

Như Phật trong Kinh Phân Biệt Nghiệp đã nói: Phật bảo Tôn giả A-nan: Có người thân hành nghiệp thiện, miệng hành nghiệp thiện, ý hành nghiệp thiện, người này sau khi mạng chung bị đọa vào địa ngục. Có người thân hành nghiệp ác, miệng hành nghiệp ác, ý hành nghiệp ác, người này sau khi mạng chung được sinh lên cõi trời. Tôn giả A-nan bạch Phật: Sao lại có chuyện như thế? Phật bảo: Người này hoặc nhân duyên tội phước của đời trước đã chín muồi, còn nhân duyên tội phước của đời nay chưa chín muồi. Hoặc khi lâm chung phát sinh tâm thiện ác của chánh kiến, tà kiến. Người ta khi sắp qua đời, tâm có sức mạnh lớn.

Lại nữa, trong Kinh Thủ Ca nói: Con của Bà-la-môn Thục Ca thưa với Phật: Thưa Cù-đàm! Các Bà-la-môn bạch y, tại gia có thể tu căn thiện của phước đức vượt hơn người xuất xuất gia, sự việc này là thế nào? Phật bảo: Ta trong sự việc này là đáp bất định. Xuất gia, hoặc có người không tu tập pháp thiện thì không bằng tại gia. Tại gia nếu có thể tu pháp thiện thì hơn xuất gia.

Lại nữa, trong Kinh Đại Niết Bàn nói: Thành Ba-liên-phất sẽ sụp đổ do ba sự: Hoặc là ngập lụt, hoặc là hỏa hoạn, hoặc do người bên trong mưu kết với người bên ngoài”.

Lại nữa, do Phạm chí Ba-lê-mạt nói v.v… nên Phật bảo: “Phạm chí Ba-lê-mạt lõa hình ấy, nếu ông ta không bỏ lời nói ấy, hoặc tâm ấy, hoặc tà kiến ấy, mà có thể đến trước mặt Ta, thì không có sự việc ấy. Còn nếu dây da bị chặt đứt, hoặc thân bị chặt đứt, thì hoàn toàn không thể đến trước mặt Phật được.

Lại nữa, trong Kinh Phiệt Dụ nói: Ta, đối với pháp sâu xa này, dùng nhiều phương tiện để giảng nói, khiến nó trở nên dễ hiểu. Nếu người nào có tâm ngay thẳng, theo lời dạy, dốc hành trì, thì được hai thứ lợi ích, là đời này dứt hết lậu, hoặc không dứt hết lậu cũng được đạo Bất hoàn.

Lại nữa, Kinh Xá Ca Lê trong Tăng Nhất A Hàm nói: Phật bảo Tôn giả A-nan: Nếu người cố ý tạo nghiệp thì không có việc không thọ nhận quả báo mà đắc đạo. Quả báo hoặc hiện đang nhận, hoặc sẽ nhận trong đời sau, hoặc đời sau nữa.

Lại nữa, Kinh Phù La trong Tăng Nhất A Hàm nói: Phật bảo các Tỳ-kheo: Những người ác sau khi mạng chung, hoặc làm súc sinh, hoặc đọa vào địa ngục. Còn người thiện thì sinh lên cõi trời, hoặc cõi người.

Lại nữa, trong Kinh Vô Úy Vương Tử nói: Vô Úy thưa với Phật: Những gì Phật đã giảng nói có thể khiến người khác nổi giận chăng? Phật bảo: Này vương tử! Sự việc ấy là bất định. Phật hoặc vì tâm thương xót chúng sinh nên khiến người khác nổi giận, để họ có được nhân duyên trồng căn thiện. Như bà nhũ mẫu dùng ngón tay cong móc vật độc trong miệng đứa bé ra, tuy có bị xây xát nhưng không hại gì.

Lại nữa, trong A-tỳ-đàm nói: Có ba loại chúng sinh, hoặc theo tụ bất định, hoặc rơi vào định tà, hoặc thuộc về định chánh. Những sự việc không định rõ như thế, trong bốn pháp tạng, tính ra có hàng ngàn vạn thứ.

Hỏi: Nếu người có trí tuệ bất định, lại không có tâm quyết định, nên đối với sự việc ấy, lúc như vầy, lúc như khác, tức không gọi là người Nhất thiết trí. Người Nhất thiết trí thì không nói hai lời, mà là nói quyết định, nói sáng rõ. Do vậy, khéo nhận biết bất định không được gọi là pháp bất cộng của Phật?

Đáp: Sự việc bất định, hoặc như vậy, hoặc không như vậy, là tùy thuộc vào các nhân duyên, cho nên ở đây không nên nói xác định. Hơn nữa, đối với sự việc bất định mà trả lời xác định thì không gọi là người Nhất thiết trí. Thế nên, đối với sự việc bất định tất phải dùng trí bất định. Vì vậy có pháp bất cộng của trí bất định.

Lại nữa, nếu người nào ở trong tất cả pháp quyết định nhận biết thì người ấy tức rơi vào tà luận tất định. Nếu hết thảy pháp đã là tất định, thì những việc làm sẽ không cần sức người, phương tiện mà vẫn được. Như kệ nói:

Nếu tốt, xấu đã định

Cộng sức người nên định

Không cần các nhân duyên

Phương tiện mà tu tập.

Lại nữa, hiện thấy người nào không tự phòng giữ thân tức có nhiều khổ. Nếu biết phòng giữ thân thì được lợi lạc an vui. Lại như trong vô số sự việc hành tác, phải thọ nhận các thứ khổ nhọc thì về sau mới được quả báo nhiều an vui, giàu có.

Lại nữa, có người ở đời này không làm gì cả, nhưng lại được quả báo tốt. Do đó mới có sự việc bất định. Do biết là có sự việc bất định như vậy, nên biết là có trí bất định.

Hỏi: Ông có giữ gìn hay không giữ gìn? Có nêu công sức hay không nêu công sức, cũng có việc bất định được thành chăng? Có người khéo tự phòng hộ nhưng gặp toàn khổ não. Có người không tự phòng hộ thì lại không gặp khổ não. Lại có người làm việc siêng năng, vất vả mệt nhọc mà không được kết quả gì. Có người không phải đổ công sức nhưng vẫn được kết quả. Đó là sự bất định.

Đáp: Điều ông nói là để xác nhận nghĩa bất định của tôi. Nếu có sự bất định thì phải có trí bất định. Tôi không nói nếu người không tự phòng hộ đều phải chịu khổ. Lại cũng không nói lìa công sức hành tác mà có quả báo. Vì tội chướng của đời trước, nên có người tuy bỏ nhiều công sức làm việc nhưng không được thọ nhận an vui. Tôi không nói là tất cả đều như vậy. Do đấy, điều ông vấn nạn là sai. Đó gọi là chư Phật ở trong sự việc bất định riêng có trí bất định đầy đủ.

Khéo nhận biết sự việc ở định vô sắc: Hàng Thanh văn, Phậtbích-chi chỉ biết một ít pháp và chúng sinh, sinh về cõi Vô sắc. Còn chư Phật, Thế Tôn đối với xứ Vô sắc thì đều nhận biết đầy đủ về pháp và chúng sinh: Xứ Vô sắc ấy có chúng sinh, sinh về xứ đó. Từng ấy chúng sinh, sinh về xứ kia. Từng ấy chúng sinh, sinh về xứ định vô sắc thứ nhất. Từng ấy chúng sinh, sinh về xứ thứ hai. Từng ấy chúng sinh, sinh về xứ thứ ba. Từng ấy chúng sinh, sinh về xứ thứ tư. Từng ấy chúng sinh, sinh đến cùng lúc đó. Từng ấy chúng sinh trải qua thời gian như thế rồi lụi tàn. Từng ấy chúng sinh cùng lúc đó được sống lâu hết sức. Từng ấy chúng sinh nhất định được sống lâu. Từng ấy chúng sinh không nhất định được sống lâu. Từng ấy chúng sinh, sau khi mạng chung ở cõi Dục, sinh vào nơi đây. Từng ấy chúng sinh, từ cõi Sắc, sau khi mạng chung, sinh vào nơi đây. Từng ấy chúng sinh, từ cõi Vô sắc, sau khi mạng chung, sinh trở lại nơi đây. Từng ấy chúng sinh, trong cõi người, sau khi mạng chung, lại sinh đến đây. Từng ấy chúng sinh, trong cõi trời, sau khi mạng chung, sinh đến đây.

Những chúng sinh ấy, mạng chung ở đây, hoặc sinh vào cõi Dục, hoặc sinh vào cõi Sắc, hoặc sinh vào cõi Vô sắc. Những chúng sinh ấy, ở đây, sau khi mạng chung, hoặc sinh vào nẻo trời, hoặc sinh vào nẻo người, hoặc sinh vào nẻo A-tu-la, hoặc sinh vào nẻo địa ngục, hoặc sinh vào nẻo súc sinh, hoặc sinh vào nẻo ngạ quỷ. Những chúng sinh này ở xứ kia, nhập Niết-bàn.

Từng ấy chúng sinh đều là phàm phu. Từng ấy chúng sinh là đệ tử Hiền Thánh của Phật. Từng ấy chúng sinh là đệ tử của phàm phu. Từng ấy chúng sinh thành tựu thừa Thanh văn. Từng ấy chúng sinh thành tựu thừa Phật-bích-chi. Từng ấy chúng sinh đều thành tựu Đại thừa. Từng ấy chúng sinh không thành tựu thừa Thanh văn. Từng ấy chúng sinh không thành tựu thừa Phật-bích-chi. Từng ấy chúng sinh không thành tựu Đại thừa. Từng ấy chúng sinh là người hành diệt. Từng ấy chúng sinh là người không hành diệt. Từng ấy chúng sinh hành bậc thượng. Từng ấy chúng sinh là đệ tử của Phật kia.

Chư Phật lại nhận biết đó là định thọ vị, là định không thọ vị, là thiện, là vô ký, là định trong đó đoạn trừ từng ấy kiết sử, là định thượng trung hạ. Nói tóm lược các định vô sắc, chỉ có chư Phật dùng Nhất thiết chủng trí mới có thể phân biệt lớn, nhỏ, sâu, cạn, tâm tương ưng hay không tương ưng, quả báo hay không quả báo v.v… Đó gọi là chư Phật đã nhận biết một cách đầy đủ và thông đạt về xứ định vô sắc.

Pháp diệt: Nghĩa là các bậc Phật-bích-chi, các hàng A-la-hán ở quá khứ, hiện tại đã diệt độ.

Chư Phật thông đạt thì như trong kinh nói: Các Tỳ-kheo! Chín mươi mốt kiếp trước Hiền kiếp này, từ Phật Tỳ-bà-thi xuất hiện ở đời, đến ba mươi mốt kiếp có hai vị Phật xuất hiện: Thi-khí và Tỳthức-bà. Trong Hiền kiếp này có các Đức Phật Cưu-lâu-tôn, Ca-nahàm Mâu-ni, và Ca-diếp ra đời.

Chư Phật trong quá khứ có tri kiến lớn lao như thế, trong kinh này nên nói đến. Và các đệ tử Thanh văn diệt độ, nhập Niết-bàn vô dư, cùng các vị Phật-bích-chi tên là: Thành, Hoa Tướng, Kiến Pháp, Pháp Khiếp, Hỷ Kiến, Vô Cấu, Vô Đắc, các vị Phật-bích-chi như thế nhập Niết-bàn vô dư, Đức Phật đều thông đạt cả.

Lại nữa, có những vị chưa diệt độ, còn trụ nơi Niết-bàn hữu dư, do duyên của sinh đã hết, những sự việc như vậy Phật cũng đều thông đạt, cũng gọi là thông đạt nhận biết về diệt. Như kinh nói: “Phật bảo Tôn giả A-nan: Ta biết rõ người này không chút tối tăm, người này nhất định hoàn toàn là pháp nội, sau khi mạng chung, người này sẽ nhập Niết-bàn, cũng gọi là nhận biết về diệt”.

Lại, đối với người khác thông đạt bốn đế, Đức Phật cũng có thể nhận biết rõ việc ấy, cũng gọi là nhận biết về diệt. Như kinh nói: “Đâu phải ta không có phương tiện để khiến người này, tức ở nơi xứ ấy, được diệt hết lậu giải thoát”. Như Phật bảo Tôn giả A-nan: “Ông ưa thích thiền định, ưa thích đoạn hết kiết sử, cũng gọi là thông đạt nhận biết về diệt”. Như Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất: “Ta biết Niếtbàn, biết đường đi tới Niết-bàn, biết chúng sinh đến Niết-bàn”.

Các kinh như vậy v.v…, ở đây nên nói. Đó gọi là chư Phật thông đạt nhận biết về diệt.

Khéo nhận biết về tâm không tương ưng với pháp vô sắc: Là giới, là căn thiện, là sử, là luật nghi thiện, là luật nghi bất thiện v.v… tức là các tâm không tương ưng, chẳng phải pháp sắc. Điều này hàng Thanh văn, Phật-bích-chi không thể thông tỏ. Còn chư Phật khéo có thể thông tỏ, như hiện có trước mắt. Đối với tâm không tương ưng trong các pháp, đã thành tựu diệu lực trí tuệ bậc nhất.

Hỏi: Giới, luật nghi thiện, luật nghi bất thiện là pháp sắc, vì sao nói chúng không phải là pháp sắc?

Đáp: Giới, luật nghi thiện, luật nghi bất thiện có hai thứ: Có tác và vô tác. Tác là sắc, vô tác là không phải sắc. Không tạo tác nên chẳng phải là sắc. Phật dùng lực bất cộng nên có thể nhận biết hiện tiền. Người khác phải dùng trí so sánh để nhận biết.

Hỏi: Chư Phật chỉ khéo nhận biết về tâm không tương ưng, chẳng phải là pháp sắc, nhưng không khéo nhận biết pháp tương ưng chăng?

Đáp: Nếu đã thông đạt pháp không tương ưng thì pháp tương ưng không cần bàn nữa. Như người đã có thể bắn trúng đầu sợi lông thì vật thô không cần bàn.

Lại nữa, trong bảy trăm pháp không tương ưng, thì hàng Thanh văn, Phật-bích-chi dùng thức thứ sáu có thể nhận biết được bảy pháp là: Danh, tướng, nghĩa, vô thường, sinh, không sinh, độ. Phật cũng dùng thức thứ sáu và thảy đều nhận biết tất cả. Đức Phật biết tướng của bốn Đế cùng biết pháp thế gian, cho nên nói chư Phật khéo nhận biết về tâm không tương ưng với pháp vô sắc.

Uy lực Ba-la-mật: Là đối với hết thảy pháp đã được nhận biết trọn vẹn, đạt được uy lực của Nhất thiết chủng trí là mười lực, bốn pháp vô sở úy, bốn xứ công đức hỗ trợ thành tựu. Lại nữa, khéo đạt được mười lực, thế nên Phật có thể thành tựu uy lực Ba-la-mật. Uy lực này được tăng thêm trong tâm thứ mười sáu. Nhất thiết trí thường ở trong thân Phật, cho đến khi nhập Niết-bàn vô dư. Nhân những sự việc này nên chư Phật chứng được trí vô ngại đối với các pháp.

Trí Ba-la-mật vô ngại: Là gồm pháp vô ngại, nghĩa vô ngại, từ vô ngại và lạc thuyết vô ngại. Đối với bốn pháp ấy, trí vô ngại có thế mạnh vô lượng, thông suốt, không có chướng ngại. Như trong kinh nói: Phật bảo các Tỳ-kheo: Bốn chúng đệ tử của Như Lai đã thành tựu lực niệm bậc nhất, lực trí tuệ bậc nhất, lực gắng nhận bậc nhất. Như người thiện xạ bắn rơi chiếc lá trên cành cây một cách dễ dàng. Các đệ tử này luôn hỏi Ta không ngớt về bốn niệm xứ, trừ những khi ăn uống, ngủ nghỉ. Trong trăm năm, Như Lai luôn đáp lại trí tuệ vui thích nêu bày không cùng tận. Nơi pháp này, Phật dùng tướng thiểu dục để tự luận về trí tuệ. Nếu trong Tam thiên đại thiên thế giới với bốn châu thiên hạ hiện có, trong đó tràn đầy vi trần, tùy theo số vi trần từng ấy, tạo ra từng ấy Tam thiên đại thiên thế giới, chúng sinh cũng đầy như số vi trần đó, đều được như Tôn giả Xá-lợi-phất, như Phật-bích-chi, thảy đều thành tựu về trí tuệ lạc thuyết, thọ mạng trải qua đại kiếp nhiều như số vi trần nói trên. Những người này cùng nhân nơi bốn niệm xứ, trong suốt cả đời vấn nạn Như Lai, Như Lai trở lại dùng nghĩa của bốn niệm xứ để đáp. Lời nói, ý nghĩa không quan trọng bằng lạc thuyết không cùng tận.

Trí pháp vô ngại: Là khéo có thể phân biệt danh tự của các pháp thông đạt vô ngại. Nghĩa vô ngại: Là đối với nghĩa của các pháp, thông đạt vô ngại.

Từ vô ngại: Là tùy từng loại chúng sinh, dùng các ngôn từ thích hợp khiến họ hiểu nghĩa, thông đạt vô ngại. Lạc thuyết vô ngại: Là khi hỏi đáp, đều khéo léo giảng nói pháp không có cùng tận.

Các bậc Hiền Thánh khác không thể suy xét hết. Chỉ có chư Phật mới có khả năng hiểu tới chỗ tột cùng của các pháp. Thế nên gọi là Trí Ba-la-mật vô ngại.

Đáp đầy đủ bằng Ba-la-mật: Là trong hết thảy sự vấn nạn, Phật đều khéo có thể trả lời đầy đủ. Vì sao? Vì ở trong bốn thứ hỏi đáp, Phật không hề lẫn lộn, luôn khéo nhận biết nghĩa đầy đủ, không hủy hoại nghĩa Ba-la-mật, nên vui muốn hiểu biết rõ về tánh của tất cả chúng sinh đã hành, đã ưa thích.

Như Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật: Thưa Thế Tôn! Pháp thiện do Ngài giảng nói có nhiều chúng sinh chứng được, nhờ chứng được nên tâm không còn khát ái. Không khát ái nên không còn thọ nhận gì ở đời này, không còn thọ nhận thì nội tâm tức diệt. Phật ở trong pháp thiện là vô thượng, nhận biết các sự việc một cách trọn vẹn, lại không còn ai vượt hơn.

Hỏi: Ông nói bốn thứ hỏi đáp, xin nói về bốn thứ ấy?

Đáp: Một là đáp xác định. Hai là đáp theo sự phân biệt. Ba là đáp bằng cách hỏi ngược lại. Bốn là đáp bằng cách để qua một bên.

Đáp xác định: Là như có một Tỳ-kheo hỏi Phật: Thưa Thế Tôn! Có phải sắc là thường còn, không đổi khác chăng? Thưa Thế Tôn! Thọ, tưởng, hành, thức là thường còn, không đổi khác chăng? Phật đáp: Này Tỳ-kheo! Không có sắc nào là thường còn, là không đổi khác. Không có thọ, tưởng, hành, thức nào là thường còn, là không đổi khác. Đó gọi là đáp xác định.

Đáp phân biệt: Là như Phạm chí Bố-đa-lê-tử hỏi Sa-ma-đề: Có người cố ý tạo nghiệp nơi thân, miệng, ý thì thọ nhận những quả báo gì? Sa-ma-đề trả lời bằng cách xác định: Có người dùng thân miệng ý cố ý tạo nghiệp, thì phải thọ nhận quả báo khổ não. Câu hỏi ấy phải nên trả lời bằng lối phân biệt. Sau đó, Phạm chí này đem câu hỏi ấy đến hỏi Phật. Phật đáp: Này Bố-đa-lê-tử! Có người cố ý tạo nghiệp nơi thân, miệng, ý thì do nghiệp ấy hoặc thọ nhận báo khổ, hoặc thọ nhận báo vui, hoặc thọ nhận báo không khổ không vui. Nghĩa là tạo nghiệp khổ phải nhận báo khổ, tạo nghiệp vui thì nhận báo vui, tạo nghiệp không khổ không vui thì nhận báo không khổ không vui. Các kinh như thế v.v… đều trả lời theo lối phân biệt.

Đáp bằng cách hỏi ngược lại: Như Phạm chí Tiên Ni hỏi Phật. Phật bảo: Ta hỏi trở lại ông, tùy ý mà đáp. Này Tiên Ni! Ý của ông nghĩ sao? Sắc là Như Lai chăng? Thọ, tưởng, hành, thức là Như Lai chăng? Đáp: Không phải, thưa Thế Tôn. Hỏi: Có phải lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức là Như Lai chăng? Đáp: Không phải, thưa Thế Tôn. Các kinh như thế v.v… nên giảng nói rộng. Đó gọi là trả lời bằng cách hỏi ngược lại.

Đáp bằng cách để qua một bên: Là đối với mười bốn thứ tà kiến: Thế gian thường còn, thế gian không thường còn. Thế gian cũng thường, cũng vô thường. Thế gian chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Thế gian có biên vực, thế gian không có biên vực. Thế gian cũng có biên vực, cũng không có biên vực. Thế gian chẳng phải có biên vực, chẳng phải không biên vực. Sau khi nhập diệt, Như Lai là có. Sau khi nhập diệt, Như Lai là không có. Sau khi nhập diệt, Như Lai cũng có, cũng không có. Sau khi nhập diệt, Như Lai chẳng phải có, chẳng phải không có. Thân tức là thần. Thân khác, thần khác? Những câu hỏi ấy đều để qua một bên.

Như trên đã nói, hết thảy chúng sinh, như Đại Phật-bích-chi, trí tuệ lạc thuyết, đã dùng bốn cách hỏi ấy để thưa hỏi Phật. Phật đều tùy thuận đáp lại các câu hỏi ấy, không nhiều, không ít. Vì vậy nói Phật trả lời đầy đủ Ba-la-mật.

Không ai có thể xâm hại Phật: Do Phật đã được pháp không thể giết hại, nên không ai có thể đoạn dứt các chi phần nơi thân Phật, chúng còn mất một cách tự tại. Như kinh nói: “Nếu người nào muốn dùng phương tiện để hại Phật, thì không có điều đó”.

Hỏi: Thọ mạng của Phật là định hay không định?

Đáp: Có người nói: Không định. Nếu thọ mạng của Phật có định, thì đối với thọ mạng có định khác có sai biệt gì? Nhưng thật ra, thọ mạng của Phật là không định. Không ai có thể hại Phật mới là hy hữu. Có người nói: Thọ mạng của Phật có định, còn thọ mạng của người khác, tuy có định, nhưng tay, chân, mũi, tai đều có thể bị cắt đứt. Phật không có sự việc ấy.

Hỏi: Vì sao Phật không thể bị hại là pháp bất cộng?

Đáp: Chư Phật là không thể nghĩ bàn. Giả dụ có thể nhận biết, như khiến tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới đều có thế mạnh. Hoặc giả có một loại ma có từng ấy thế mạnh. Lại khiến mỗi mỗi chúng sinh trong mười phương đều có thế mạnh như của ma ác, muốn đem hết sức mạnh đó để hại Phật, hãy còn không thể làm động được một sợi lông của Phật, huống là có người hại.

Hỏi: Nếu thế thì vì sao Điều-đạt làm Phật bị thương?

Đáp: Sự việc này trước đã trả lời rồi. Phật muốn chỉ rõ tướng ba thứ độc của chúng sinh. Điều-đạt tuy có trì giới, tu thiện, nhưng tham đắm lợi dưỡng nên tạo việc đại ác.

Lại nữa, Phật khiến chúng sinh đều nhận biết Phật đối với hàng trời, người tâm không có khác. Lại đem tâm từ bi xem Điều-đạt, Lahầu-la như hai mắt phải, trái của mình. Phật thường nói pháp với tâm bình đẳng, thì nơi lúc này, Ngài hiện bày tâm bình đẳng ấy. Hàng trời, người thấy vậy đều khởi tâm hy hữu, càng thêm tin, vui.

Lại nữa, trời Trường Thọ đã thấy hành nghiệp ác của Phật ở kiếp trước, nếu nay không thọ nhận quả, tức cho hành ác không có báo chăng? Muốn trừ bỏ tà kiến kia, nên nay Phật nhận quả báo ấy.

Lại nữa, Phật đối với khổ, vui, tâm không có khác. Không có tâm ngã, ngã sở, hoàn toàn là không. Căn căn điều hòa, không thể biến đổi. Không cần tạo phương tiện để lìa khổ nhận vui.

Như trong Tạng Bồ-tát nói: Phật dùng phương tiện nên hiện nhận quả báo này. Phải nên nhận biết rộng. Đó gọi là Phật không thể bị sát hại là pháp bất cộng.

Những gì giảng nói đều chẳng không: Nghĩa là hết thảy những lời đã giảng nói của chư Phật đều có quả báo, cho nên chư Phật giảng nói pháp là chẳng không. Vì sao? Vì lúc chưa giảng nói pháp, chư Phật đều quán xét tâm chúng sinh, xét đến gốc ngọn xứ hiện trú, kiết sử dày hay mỏng. Biết đời trước chúng sinh đã hành theo công đức gì, thấy thế mạnh của căn tánh họ nhiều hay ít, biết nơi chốn, hoàn cảnh cùng những chướng ngại, những ai nên dùng pháp mềm mỏng có thể hóa độ, những ai nên dùng việc khổ có thể hóa độ. Hoặc lại dùng cả pháp mềm mỏng, sự việc khổ để hóa độ. Hoặc lại dùng cách phát tâm nhỏ để hóa độ. Hoặc phân biệt rộng mà hóa độ. Có khi do ấm, nhập, xứ, giới, mười hai nhân duyên mà được hóa độ. Hoặc được ngộ nhập do môn trí, hoặc do nẻo tuệ.

Người này nên theo Phật mà được hóa độ. Người này nên theo Thanh văn mà được hóa độ. Người này nên dùng những duyên khác để được hóa độ.

Người này nên thành tựu thừa Thanh văn. Người này nên thành tựu thừa Phật-bích-chi. Người này nên thành tựu Đại thừa.

Người này lâu đời quen hành tham dục, giận dữ, ngu si. Người này quen hành tham dục, giận dữ. Người này quen hành tham dục, ngu si.

Mỗi mỗi loại người đều phải phân biệt như vậy.

Người này rơi vào đoạn kiến. Người này rơi vào thường kiến. Người này quá tham chấp nơi thân kiến. Người này hành tập nhiều biên kiến. Người này hành tập nhiều theo giới cấm thủ, kiến thủ.

Người này hành tập nhiều kiêu mạn. Người này hành tập nhiều tự ti, dua nịnh, quanh co. Người này tâm nhiều nghi hối. Người này ham thích ngôn từ. Có người chuộng nghĩa lý, có người chuộng nghĩa sâu, có người ưa sự việc thô thiển.

Người này đời trước tích tập pháp trợ đạo. Người này đời nay tích tập pháp trợ đạo. Người này chỉ tích tập phước đức, căn thiện. Người này chỉ tích tập toàn bộ căn thiện. Người này nên mau chứng đạo. Người này lâu dài mới chứng đạo.

Phật trước hết là quan sát, trù tính, tùy người nên hóa độ, giảng nói pháp và độ thoát cho họ. Do vậy, tất cả pháp nói ra thảy đều chẳng không. Như kinh nói: “Trước, thấy biết rồi, Đức Thế Tôn mới giảng nói pháp, chẳng phải không thấy biết mà giảng nói pháp”.

Những gì giảng nói không lẫn lộn, không thiếu mất: Là chư Phật giảng nói pháp không hề lẫn lộn hay thiếu mất.

Không lẫn lộn là lời nói và ý nghĩa không trái nhau. Không thiếu mất là không mất ý nghĩa.

Do không mất nhân duyên của đạo, nên gọi là không mất. Do không lẫn lộn nhân duyên của quả đạo nên gọi là không lẫn lộn.

Không thiếu nên gọi là không mất. Không có lỗi nên gọi là không lẫn lộn.

Do thông đạt bốn trí vô ngại, do niệm và tuệ an ổn thường được điều hòa, nên xa lìa các kiến chấp như đoạn, thường, không có nhân, nhân tà v.v… Pháp do chư Phật giảng nói không khiến cho người bị mê muội lo sầu. Những gì nói ra, đầu, cuối, không có lỗi trái ngược nhau. Thuận theo nghĩa kinh này nên ở đây nói rộng. Như kinh nói: “Này các Tỳ-kheo! Ta giảng nói pháp cho các ông, đầu, giữa, cuối đều thiện, lời thiện, nghĩa thiện, thuần nhất, không xen tạp, nói đủ phạm hạnh”.

Dùng những sự việc hy hữu để giảng nói pháp: Theo chỗ giáo hóa tức được đạo quả, đó gọi là hy hữu. Nếu được Phật trả lời hay được Phật thọ ký, đều là chân thật không khác. Đấy cũng là hy hữu. Phật đã giảng nói về đạo, đạo ấy không xen lẫn với phiền não, có khả năng dứt trừ phiền não. Đó cũng là hy hữu. Những gì Phật nói ra đều có lợi ích, trọn không phải là những lời trống không. Đó cũng là hy hữu. Người nào đối với pháp Phật, tâm siêng năng tinh tấn hành trì, thì có thể đoạn dứt pháp bất thiện, tăng thêm pháp thiện. Đó cũng là hy hữu.

Lại nữa, có ba thứ hy hữu: Một là hiện thần thông hy hữu. Hai là nói ngược lại tâm kẻ khác hy hữu. Ba là giáo hóa hy hữu. Đem cả ba hy hữu này giảng nói pháp, gọi là dùng các sự hy hữu để giảng nói pháp.

Là bậc Đạo sư tối thượng trong các chúng Thánh: Là chư Phật nhận biết tâm của tất cả chúng sinh, với những nẻo hành, nẻo ưa thích. Kiết sử sâu cạn, các căn lợi, độn, ba hạng trí tuệ. Do khéo nhận biết thông suốt, nên ở trong các Thánh, Phật là bậc Đạo sư tối thượng.

Lại nữa, Phật có thể khéo nhận biết tướng của bốn Đế, nhận biết rõ tướng chung, tướng riêng của các pháp.

Lại, do nhân duyên thuyết pháp chẳng không, nói pháp không lẫn lộn, không thiếu mất, vì vậy ở trong các Thánh Phật là bậc Đạo sư tối thượng.

Hỏi: Bốn chúng cũng có khả năng giảng nói pháp, phá trừ ngoại đạo, khiến chúng sinh đi vào pháp Phật, vì sao chỉ nói Phật là bậc Đạo sư tối thượng?

Đáp: Nên dùng giả dụ để nói. Nếu tất cả chúng sinh cùng có thế mạnh của trí tuệ đều như Phật-bích-chi, nhưng các chúng sinh này nếu không vâng theo ý Phật, thì muốn hóa độ một người cũng không thể có được. Hoặc khi các người ấy nói pháp, cho đến không thể đoạn trừ được một phần mảy may kiết sử của cõi Vô sắc. Nếu Phật muốn hóa độ chúng sinh bằng ngôn thuyết, thì cho đến ngoại đạo, tà kiến, các chúng Rồng, Dạ-xoa và các chúng khác không hiểu lời Phật, Phật đều khiến cho họ hiểu được. Những người này cũng có thể chuyển hóa vô lượng chúng sinh, cho đến chúng Thanh văn ngày nay, đều khiến chúng sinh trụ trong bốn quả. Đó đều là tướng Đạo sư tối thượng của Như Lai. Do vậy gọi Phật là bậc Đạo sư tối thượng trong chúng Thánh là pháp bất cộng.

Bốn điều không giữ gìn: Là chư Phật không cần giữ gìn nghiệp của thân, không cần giữ gìn nghiệp của miệng, không cần giữ gìn nghiệp của ý, không cần giữ gìn những vật dụng cần cho đời sống. Vì sao? Vì bốn pháp này của Phật đối với kẻ khác không cần giữ gìn, không khởi niệm: Thân, miệng, ý nơi thọ mạng của Ta sợ có kẻ khác nhận biết. Vì sao? Vì đã từ lâu tu tập vô số nghiệp thanh tịnh, đều đã khéo thấy biết, các thứ phiền não đều đã đoạn trừ, thành tựu hết thảy căn thiện không gì sánh bằng, khéo hành các pháp có thể hành, không ai có thể chê trách, đầy đủ hành xả Ba-la-mật. Xả là mắt thấy sắc thì xả bỏ tâm lo mừng, cho đến ý nhận biết các pháp đều cũng như vậy. Các kinh như Bà Kha Đề Uất Đa La v.v… đã nói nên ở đây đã dẫn.

Bốn pháp không sợ hãi (Bốn pháp vô sở úy):

Hỏi: Một pháp gọi là không sợ hãi, vì sao lại có bốn?

Đáp: Ở trong bốn sự việc nghi sợ, thế nên có bốn:

1. Như Phật nói với các Tỳ-kheo: Ta tự nói lời thành thật: Ta là người Nhất thiết trí. Ở đây, nếu có Sa-môn, Bà-la-môn, các Thiên, Ma, Phạm cùng người trí khác trong thế gian, như pháp nêu vấn nạn: Như Lai không biết pháp này v.v… Ta ở trong trường hợp ấy, cho đến không thấy có chút tướng sợ hãi. Vì không thấy tướng ấy nên được an ổn không sợ. Đây là điều không sợ hãi thứ nhất, vì đã nhận biết như thật về hết thảy các pháp.

2. Ta tự nói lời thành thật: Tất cả các lậu của Ta đã hết. Nếu Sa-môn, Bà-la-môn, các Thiên, Ma, Phạm nói Ta chưa dứt hết lậu, thì Ta ở trong trường hợp này, cho đến không thấy có chút tướng sợ hãi. Vì không thấy tướng ấy, nên an ổn, không sợ. Đó là điều không sợ hãi thứ hai, vì đã khéo đoạn trừ các phiền não, cùng dứt sạch các tập khí của phiền não.

3. Ta giảng nói về pháp chướng ngại đạo. Ở đây, nếu có Samôn, Bà-la-môn, chư Thiên, Ma, Phạm cùng người trí khác trong thế gian, như pháp nêu vấn nạn, nói: Pháp này tuy dùng cũng không thể gây chướng ngại cho đạo. Ta, ở trong trường hợp này, không thấy chút tướng sợ hãi. Do không thấy tướng ấy, nên được an ổn, không có nghi sợ. Đó là điều không sợ hãi thứ ba, do khéo nhận biết pháp gây chướng ngại cho giải thoát.

4. Đạo do Ta giảng nói, nếu dựa theo đó tu hành thì sẽ đạt hoàn toàn dứt hết khổ. Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Ma, Phạm cùng người trí khác trong thế gian, như pháp nêu vấn nạn, nói: Pháp này tuy có hành trì như lời dạy, cũng không thể dứt trừ hết đường khổ, thì Ta trong trường hợp này, vẫn không có chút tướng sợ hãi. Do không có tướng ấy, nên được an ổn, không có nghi sợ. Đó là điều không sợ hãi thứ tư, vì biết rõ con đường diệt trừ hết khổ.

Bốn pháp không sợ hãi này vượt quá các tướng run rẩy, lông thân dựng ngược của tâm sợ hãi, nên gọi là không sợ hãi.

Lại nữa, ở giữa đại chúng, oai đức của Phật luôn thù thắng, nên gọi là không sợ hãi. Lại khéo nhận biết hết thảy sự hỏi đáp, nên gọi là không sợ hãi. Nơi Kinh Chư Thiên Hội, trong ấy đã nói rộng.

Hỏi: Nếu Phật là người Nhất thiết trí, thì không còn sợ hãi đối với tất cả các pháp, sao chỉ nói có bốn thứ?

Đáp: Đó là lược nêu chỗ trọng yếu để mở bày đầu mối của sự việc. Những thứ còn lại cũng như vậy.

Mười lực của Phật: Lực là hỗ trợ, là khí thế không thể cùng tận, không gì có thể hủy hoại được. Tuy có mười tên gọi, nhưng thực ra chỉ là một trí. Vì duyên nơi mười sự việc nên gọi là mười lực.

Trí Phật duyên nơi hết thảy sự việc nên có vô lượng lực. Dùng mười lực này đủ để độ chúng sinh, nên chỉ nói có mười. Chỉ mở bày mười lực này, thì các thứ còn lại đều có thể nhận biết.

Lực thứ nhất: Tất cả các pháp có nhân không nhân, trí quyết định thông đạt. Đó gọi là Lực thứ nhất. Như Phật nói: “Nếu người cuồng đó không bỏ lời ấy, không bỏ tà kiến ấy, không bỏ tâm ấy, mà có thể đến trước Phật, thì không bao giờ có chuyện đó”. Như Phật bảo Tôn giả A-nan: “Hai Phật cùng lúc xuất hiện ở thế gian, không bao giờ có chuyện ấy. Một Phật xuất hiện ở đời, thì có chuyện đó. Sự việc này là nói đến một thế giới Phật. Nhưng thật sự thì trong vô lượng vô biên các thế giới ở mười phương, đã có trăm ngàn vạn ức vô số chư Phật cùng lúc xuất hiện ở đời”. Lại nữa, kinh nói: “Nghiệp của thân, miệng, ý tạo ác mà có quả báo tốt đẹp, thì không có chuyện đó. Nếu nghiệp của thân, miệng, ý tạo thiện mà có quả báo tốt đẹp, điều đó tất xảy ra”. Các kinh trong năm tạng như thế là đã nói rộng về điều ấy.

Lực thứ hai: Đối với các nghiệp, các pháp thọ nhận của chúng sinh ở quá khứ, hiện tại, vị lai, Phật đều phân biệt đúng như thật, nhận biết nơi chốn, nhận biết sự việc, nhận biết quả báo. Nếu Phật muốn nhận biết về các nghiệp cùng nghiệp báo nơi quá khứ của tất cả chúng sinh, tức có thể nhận biết. Hoặc là nghiệp ở quá khứ, báo ở hiện tại. Hoặc là nghiệp ở quá khứ, báo ở vị lai. Hoặc là nghiệp ở quá khứ, báo ở quá khứ. Hoặc nghiệp ở quá khứ, báo ở quá khứ, vị lai. Hoặc nghiệp ở quá khứ, báo ở quá khứ, hiện tại. Hoặc nghiệp ở quá khứ, báo ở vị lai, hiện tại. Hoặc nghiệp ở quá khứ, báo ở quá khứ, hiện tại, vị lai. Hoặc nghiệp ở hiện tại, báo ở hiện tại. Hoặc nghiệp ở hiện tại, báo ở vị lai. Hoặc nghiệp ở hiện tại, báo ở hiện tại, vị lai. Hoặc nghiệp ở vị lai, báo ở vị lai. Có nhiều phân biệt về pháp thọ nhận như vậy.

Bốn pháp thọ nhận là: Đời hiện tại nhận an vui, đời sau chịu khổ não. Đời hiện tại nhận khổ não, đời sau nhận an vui. Đời hiện tại nhận an vui, đời sau nhận an vui. Đời hiện tại nhận khổ, đời sau nhận khổ.

Nơi chốn là theo nơi chốn, thời gian hiện có của nghiệp. Lại còn biết nơi chốn nhận quả báo của nghiệp này. Sự việc là hoặc tùy thuộc vào nhân duyên, hoặc tùy thuộc vào ba căn bất thiện, hoặc phần nhiều tự mình làm, hoặc phần nhiều nhân nơi người khác. Hết thảy nhân duyên của các nghiệp thiện, ác như vậy, Phật điều nhận biết. Báo là nhận biết các nghiệp, mỗi mỗi nghiệp đều có quả báo. Nghiệp thiện thì hoặc sinh vào xứ thiện hoặc được Niết-bàn. Nghiệp ác thì sinh vào xứ ác. Phật đều nhận biết những nhân duyên gốc ngọn của các nghiệp ấy nơi thân mình và thân người khác. Ở đây, trí lực không thoái lui, nên gọi là Lực.

Lực thứ ba: Phật đối với các tướng tịnh, uế của thiền định, giải thoát, Tam-muội, đều nhận biết đúng như thật.

Thiền là bốn thiền. Định là bốn định vô sắc, bốn tâm vô lượng đều gọi là định. Giải thoát là tám giải thoát. Tam-muội là trừ các thiền giải thoát, các định còn lại đều gọi là Tam-muội.

Có người nói: Ba môn giải thoát cùng định có giác có quán, định không giác có quán, định không giác không quán, đều gọi là Tam-muội.

Có người nói: Định là nhỏ, Tam-muội là lớn. Thế nên hết thảy chư Phật, Bồ-tát đạt được định, đều gọi là Tam-muội. Bốn xứ này đều gồm thâu trong tất cả Thiền Ba-la-mật.

Uế là thọ nhận vị. Tịnh là không thọ nhận vị. Lại nữa, uế là định hữu lậu, tịnh là định vô lậu.

Phân biệt được hết thảy Tam-muội, giải thoát: Như phân biệt về thiền. Phân biệt để nhận biết các căn cao, thấp của người khác, của chúng sinh khác. Tất cả đều nhận biết đúng như thật gọi là Lực thứ tư.

Chúng sinh khác là những phàm phu. Người khác là các Hiền Thánh như Tu-đà-hoàn v.v…

Hoặc có người nói: Chúng sinh khác là phàm phu và những người còn tu học chưa dứt hết phiền não. Người khác là A-la-hán đã dứt hết các phiền não.

Hoặc có người nói: Chúng sinh khác và người khác chỉ là một loại, nhưng tên gọi có sai khác.

Các căn là tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ, chẳng phải các căn như nhãn v.v…

Cao là mạnh mẽ, nhanh nhẹn, đủ sức chứng đắc đạo. Thấp là chậm lụt, không thể thọ nhận việc hành đạo. Phật đều nhận biết đúng như thật, không lẫn lộn về hai thứ căn cao thấp này.

Những chúng sinh khác, người khác, tâm đều có những ưa thích, Phật đều nhận biết đúng như thật. Đó gọi là Lực thứ năm.

Những ưa thích gọi là quý, là những sự việc được hướng đến. Như có người quý của cải, vật dụng, các thứ hoan lạc ở đời. Hoặc có người quý trọng phước đức, các pháp thiện. Những việc ấy, Phật đều nhận biết đúng như thật. Thế gian có vô số tánh, vô lượng tánh, Phật đều nhận biết đúng như thật. Đó gọi là Lực thứ sáu.

Vô số tánh: Là vạn mối của tánh xen lẫn. Vô lượng tánh: Là nơi mỗi mỗi tánh có vô lượng thứ phân biệt. Tánh: Là từ đời trước cho đến giờ, tâm thường hành tập sử dụng, luôn vui thích hành tác tu tập nên thành tánh. Hai tánh thiện ác ấy, Phật đều nhận biết đúng như thật, đến tất cả xứ đạo, Phật cũng đều nhận biết đúng như thật. Đó gọi là Lực thứ bảy.

Đến tất cả xứ đạo: Là có thể đạt được hết thảy công đức. Đạo ấy gọi là đến tất cả xứ đạo. Đó là năm phần Tam-muội hoặc năm trí Tam-muội, hoặc là tám phần Thánh đạo. Hoặc Thánh đạo gồm thâu các pháp. Hoặc bốn như ý túc. Như kinh nói: “Tỳ-kheo khéo tu tập bốn như ý túc thì không lợi ích nào là không đạt được”.

Có người nói: Là bốn thiền. Như kinh nói: Tỳ-kheo đạt được bốn thiền, tâm an trụ vào một xứ thanh tịnh, trừ hết các phiền não, diệt hết các chướng ngại, điều hòa gắng dụng, không còn dời động. Nếu chuyển hướng để nhận biết sự việc đời trước, tức có thể nhận biết sự việc đời trước. Đó gọi là Lực thứ tám.

Phật nếu muốn nhớ nghĩ đến thân mình hay nhớ nghĩ đến hết thảy chúng sinh với vô lượng vô biên thọ mạng đời trước, tất cả những việc ấy, Phật đều nhận biết tường tận. Các sự việc đã trải qua Hằng hà sa số kiếp, người này sinh nơi nào, tên họ, dòng dõi sang hèn, việc ăn uống, vật dùng cần thiết, nỗi khổ, niềm vui, các sự nghiệp đã tạo, những quả báo đã thọ nhận, tâm hành như thế nào, vốn từ đâu lại v.v… tất cả những sự việc như vậy, Phật dùng thiên nhãn thanh tịnh, vượt qua mắt người, thấy hết thảy chúng sinh trong sáu nẻo, theo nghiệp thọ nhận. Đó gọi là Lực thứ chín.

Hàng Thanh văn có lực lớn, dùng thiên nhãn thấy các cõi nước trong tiểu thiên thế giới, cũng thấy chúng sinh trong các cõi đó lúc sinh, lúc chết. Hàng Phật-bích-chi có lực ít, thấy ngàn cõi nước trong tiểu thiên thế giới, cũng thấy chúng sinh trong các cõi đó lúc sinh, lúc chết. Hàng Phật-bích-chi có lực trung bình, thấy trăm vạn cõi nước trong tiểu thiên thế giới, cũng thấy chúng sinh trong các cõi đó khi sinh, khi chết. Hàng Phật-bích-chi có lực lớn, thấy cõi nước trong Tam thiên đại thiên thế giới, cũng thấy chúng sinh trong các cõi đó với nơi chốn sinh chết. Chư Phật – Thế Tôn thấy vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn thế gian, cũng thấy chúng sinh trong các cõi đó khi sinh khi chết. Đó gọi là Lực thứ mười. Dục lậu, Hữu lậu, Vô minh lậu, tất cả các lậu đều dứt hết, các phiền não và tập khí đều diệt hết. Đó gọi là Lực thứ mười.

Giải thoát vô ngại: Giải thoát có ba thứ: Giải thoát đối với các chướng ngại của phiền não. Giải thoát đối với các chướng ngại của thiền định. Giải thoát đối với các chướng ngại của tất cả các pháp.

Trong đó, A-la-hán tuệ giải thoát đạt được giải thoát lìa các chướng ngại của phiền não. A-la-hán cộng giải thoát và Phật Bíchchi đạt được giải thoát lìa các chướng ngại của phiền não, đạt được giải thoát lìa chướng ngại của thiền định. Chỉ có chư Phật là gồm đủ ba thứ giải thoát ấy.

Đó là giải thoát các chướng ngại của phiền não. Giải thoát các chướng ngại của thiền định. Giải thoát các chướng ngại của tất cả các pháp, gọi chung là ba thứ giải thoát, nên Phật gọi là giải thoát vô ngại.

Luôn theo tâm cùng sinh cho đến Niết-bàn vô dư thì ngừng. Đó gọi là Bốn mươi pháp bất cộng. Lược mở bày pháp môn của Phật khiến chúng sinh hiểu nên nói. Những điều không nói đến là vô lượng vô biên. Đó là:

  1. Thường không lìa tuệ.
  2. Biết rõ thời, không để mất.
  3. Diệt trừ hết thảy tập khí.
  4. Được định Ba-la-mật.
  5. Hết thảy công đức đều thù thắng.
  6. Theo chỗ thích hợp, hành Ba-la-mật.
  7. Không ai có thể trông thấy đỉnh đầu.
  8. Không ai có thể sánh bằng.
  9. Không ai có thể hơn.
  10. Hơn hết trong thế gian.
  11. Không từ người khác nghe pháp mà đạt được đạo.
  12. Pháp không chuyển đổi.
  13. Tự nói là Phật rốt cùng không ai có thể đến trước Phật.
  14. Pháp không thoái chuyển.
  15. Đắc tâm đại bi.
  16. Đắc tâm đại từ.
  17. Là người đáng tin nhận bậc nhất.
  18. Danh tiếng lợi dưỡng bậc nhất.
  19. Cùng y chỉ như Phật, các sư không ai bằng Phật.
  20. Các sư không có được chúng đệ tử như Phật.
  21. Đoan nghiêm bậc nhất, ai trông thấy cũng vui thích.
  22. Phật là người không ai có thể khiến kẻ khác giết hại được.
  23. Những ai Phật muốn hóa độ thì không người nào giết hại họ được.
  24. Khi mới sinh, tâm đã có khả năng đoạn trừ các kiết của tư duy.
  25. Chúng sinh đáng độ, Phật không bỏ mất thời cơ để độ họ.
  26. Trí thứ mười sáu chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.
  27. Là ruộng phước bậc nhất của thế gian
  28. Phóng ra vô lượng hào quang.
  29. Nẻo hành hóa không giống người khác.
  30. Tướng của trăm phước đức.
  31. Vô lượng vô biên căn thiện.
  32. Lúc vào thai.
  33. Khi sinh ra.
  34. Lúc chứng đắc Phật đạo.
  35. Lúc chuyển pháp luân.
  36. Khi xả bỏ thọ mạng lâu dài.
  37. Lúc nhập Niết-bàn, có thể làm chấn động Tam thiên đại thiên thế giới.
  38. Làm khuynh động vô lượng vô biên cung điện của các ma, khiến chúng kinh hoảng, mất hết oai đức.
  39. Các Thiên vương Hộ thế, Thích-đề-hoàn-nhân, các Thiên vương Dạ-ma, Đâu-suất-đà, Hóa-lạc, Tự tại, Phạm thiên, và chư Thiên Tịnh cư v.v… trong một lúc cùng tụ tập đến thỉnh Phật chuyển pháp luân.
  40. Thân Phật kiên cố như Na-la-diên.
  41. Chưa có kiết giới, là lần đầu kiết giới.
  42. Những việc hành tác uy lực đều hơn người.
  43. Bồ-tát ở trong thai, người mẹ đối với tất cả nam tử, tâm không nhiễm vướng.
  44. Diệu lực có thể cứu độ hết thảy chúng sinh.

Pháp bất cộng của Phật có vô lượng vô số như thế. Để khỏi gây trở ngại cho các sự việc khác, nên không cần nói rộng. Pháp Thanh văn tuy tương tợ pháp Phật, nhưng chỗ hơn kém không đồng, nên có sai biệt.

Lại nữa, nói chung hết thảy các pháp của chư Phật là vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn, hy hữu bậc nhất. Tất cả chúng sinh đều không thể cùng chung. Giả sử các Tam thiên đại thiên thế giới nơi mười phương, không thể tính kể, trong đó, các chúng sinh hiện có đều có trí tuệ như Phạm Thiên vương, đều có trí tuệ như Phật-bíchchi lớn, đều có trí tuệ như Tôn giả Xá-lợi-phất, tập hợp hết thảy trí tuệ ấy khiến một người đạt được, người đó muốn cùng ở trong bốn mươi pháp bất cộng của Phật, dù chỉ một phần rất nhỏ, cũng không hề có điều ấy. Không được một phần trăm, một phần ngàn, một phần vạn, một phần ức của một pháp. Chư Phật có diệu lực của vô lượng vô biên công đức như thế. Vì sao? Vì trong vô số đại kiếp, Phật đã an trụ trong bốn xứ công đức, hành trì sâu xa sáu pháp Ba-la-mật, khéo có thể hành đầy đủ hết thảy pháp hành của Bồ-tát. Do pháp này là bất cộng với hết thảy chúng sinh, nên quả báo cũng bất cộng.

HẾT – QUYỂN 11