LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 65

Phẩm thứ 6: BIỆN VỀ HIỀN THÁNH, phần 9

Dựa nơi quả vị Bất hoàn, trong các Khế kinh đã dùng nhiều thứ môn để kiến lập có sai biệt.

Nay tiếp theo nên biện về tướng sai biệt kia. Tụng nêu:

Trong đây sinh hữu hành

Vô hành bát Niết-bàn

Thượng lưu nếu tạp tu

Hay đến Sắc cứu cánh.

Vượt nửa, vượt khắp mất

Còn đều đến Hữu đảnh

Hành vô sắc có bốn

Trụ đấy bát Niết-bàn.

Luận nói: Người Bất hoàn này, nói chung có bảy. Lại, hành nơi cõi sắc sai biệt có năm: (1) Trung bát Niết-bàn. (2) Sinh bát Niết-bàn. (3) Hữu hành bát Niết-bàn. (4) Vô hành bát Niết-bàn. (5) Thượng lưu.

Hành giả này, ở nơi trung gian bát Niết-bàn, nên nói về hành giả ấy, gọi là Trung Bát Niết-bàn.

Như thế, nên biết hành giả này đối với sinh xong. Ở đây do có hành, ở đây do vô hành bát Niết-bàn, nên gọi là Sinh bát Niết-bàn v.v…

Vì ở đây là thượng lưu, nên gọi là Thượng lưu.

Nói Trung bát: Nghĩa là có một loại Bổ-đặc-già-la, đã đối với kiết sinh đạt được phi trạch diệt, khởi kiết không như thế. Bổ-đặcgià-la kia ở nơi cõi dục, gặp phải duyên bức não, nên đã bị bức não, liền có thể tự cố gắng hành gia hành thù thắng, do tu đạo đoạn trừ kiết còn lại. Gia hạnh chưa viên mãn, gặp duyên xả bỏ mạng, bèn dẫn đến mạng chung. Do sức của kiết khởi nên thọ trung hữu của cõi sắc, nhàm chán nhiều khổ, nên nhân nơi đạo đã khởi trước, tiến tới đoạn trừ kiết còn lại, thành A-la-hán đắc bát Niết-bàn.

Nói Sinh bát: Nghĩa là có một loại Bổ-đặc-già-la, do trước đã tạo đủ, nghiệp thuận khởi sinh cùng, tăng trưởng, nên mất ở cõi dục xong, thọ sinh ở cõi sắc. Do siêng tu đầy đủ, nhanh chóng tiến đến đạo, nên sinh rồi không lâu, chứng thành A-la-hán, hết thọ lượng ấy mới bát Niết-bàn.

Căn cứ theo hữu dư y nói là Sinh bát, không phải vừa sinh xong, liền nhập vô dư, vì trong phần xả thọ lượng kia không có tự tại.

Nói Hữu hành bát, Vô hành bát: Nghĩa là có một Bổ-đặc-già-la, sinh xong, qua nhiều thời gian mới thành tựu quả vị vô học, trong đó có một loại thì dũng mãnh, tinh tấn, có một loại thì bẩm tánh chậm chạp, biếng nhác.

Như thứ lớp gọi là hữu hành, vô hành. Nghĩa là như một loại, trước ở trong cõi dục, dựa vào gia hạnh không dừng nghỉ, do sức của Tam-ma-địa, đoạn trừ năm kiết phần dưới, thành quả Bất hoàn. Sau sinh nơi cõi sắc, trải qua nhiều thời gian trở lại có thể tiến tu chủng loại đạo ở trước, thành A-la-hán, gọi là Hữu hành bát. Vô hành bát so với đây là trái nhau. Hoặc sinh nơi cõi sắc, trải qua nhiều thời gian xong, nương dựa nơi hành khổ, giải thoát các kiết còn lại, gọi là Hữu hành bát. Do người kia tu tập, dựa vào đạo công dụng mà bát Niếtbàn. So với đây là trái nhau, gọi là Vô hành bát.

Há không phải Trung bát, Sinh bát là hiện bát, vì hành của đối tượng nương dựa cũng có pháp này, nên lập ra danh xưng Hữu hành bát, Vô hành bát?

Không có lỗi như thế. Nghĩa này tuy như nhau, nhưng các hành kia đều có phần vị sai biệt. Nghĩa là Trung bát v.v… tuy cũng nhất định dựa vào hành khổ, hành vui, nhằm giải thoát các kiết còn lại, nhưng các hành ấy đều có phần vị không đồng. Đối hợp với bất đồng này, gọi là sai biệt không chung. Ở đây không có phần vị sai biệt như thế. Căn cứ ở nơi đạo không đồng để làm rõ về chỗ sai biệt kia.

Vì sao đem pháp này so sánh với pháp kia khiến đồng, nên ở trong đây đã biện là không lỗi?

Do đấy, có thuyết nói về hai sai biệt. Nghĩa là do duyên nơi Thánh đạo hữu vi, vô vi, như thứ lớp đó được Niết-bàn, nên biết cũng hoàn toàn đồng với lỗi này.

Kinh chủ đã nêu vấn nạn là có lỗi thái quá. Do đã khéo thông tỏ nghĩa này tuy đồng, nhưng các hành kia đều có phần sai biệt. Tuy nhiên, có kinh nêu rõ là vô hành ở trước, cũng có kinh trong ấy trước nói về hữu hành, thời gian đã không khác nên theo đấy nêu bày là không trái. Vì hữu hành đáng tôn trọng, nên tôi nói trước.

Nói Thượng lưu: Nghĩa là có một loại Bổ-đặc-già-la, hành thượng lưu tăng, không phải xứ sinh đầu tiên, tức chứng viên tịch. Nghĩa là ở nơi cõi dục mất, đi đến cõi sắc sinh, tức chưa ở trong ấy có thể chứng viên tịch, chủ yếu là chuyển sinh lên cõi trên mới bát Niết-bàn. Tức thượng lưu này có sai biệt gồm hai: Do nhân và quả có sai biệt.

Nhân sai biệt: Người này đối với tĩnh lự, do có tu xen tạp, không xen tạp.

Quả sai biệt: Trời Sắc cứu cánh và trời Hữu đảnh, là xứ tột cùng. Nghĩa là nếu người ở nơi tĩnh lự có tu xen tạp thì có thể đi đến trời Sắc cứu cánh mới bát Niết-bàn. Vì tu xen tạp đã có thể chiêu cảm quả nơi trời Tịnh cư. Tức quả này lại có ba thứ sai biệt: Siêu việt hoàn toàn, siêu việt phân nửa, mất khắp khác nhau.

Nói siêu việt hoàn toàn: Nghĩa là trong cõi sắc, từ một xứ mất, đi đến trời Sắc cứu cánh. Do người kia trước ở trong thân cõi dục, đã tu xen tạp đủ bốn tĩnh lự, gặp duyên thoái mất ba tĩnh lự trên, dùng ái vị của tĩnh lự thứ nhất làm duyên, khi mạng chung sinh lên xứ Phạm chúng thiên. Do uy lực của tập quán nơi đời trước, lại có thể tu xen tạp tĩnh lự thứ tư, từ xứ ấy mất, sinh lên trời Sắc cứu cánh. Do ở nơi mười sáu xứ sở của cõi sắc, từ xứ sở đầu tiên mất, ở nơi xứ sở sau cùng sinh, tức khắc vượt quá trung gian, là nghĩa siêu việt hoàn toàn.

Nói siêu việt phân nửa: Nghĩa là trong cõi sắc, từ cõi trời v.v… đầu tiên, dần dần mà mất xuống đến trung gian, có thể vượt quá một xứ, mới có khả năng đi đến trời Sắc cứu cánh. Siêu việt nhưng không hoàn toàn là nghĩa siêu việt phân nửa.

Nói mất khắp khác nhau: Nghĩa là ở nơi cõi sắc thì ái vị nhiều, nên tất cả xứ sinh, do ái vị kia hiện bày khắp mười sáu xứ sở thuộc địa của bốn tĩnh lự, mỗi mỗi đều có ái vị của cõi dưới v.v… Vì chiêu cảm duyên sinh nên từ mỗi mỗi xứ sở của Phạm chúng thiên, một lần sinh mất rồi là đến trời Sắc cứu cánh, mới Bát Niết-bàn, nên gọi là mất khắp.

Do nghĩa này, căn cứ trong tĩnh lự thứ nhất, nơi cư trú của Đại phạm không phải là xứ riêng, tức là thuộc về trời Phạm phụ thứ hai. Nếu khác với đây, thì chỗ ở của Đại phạm là xứ tà kiến. Vì là một đạo sư, tất không có Thánh giả nào ở trong ấy thọ sinh.

Mất khắp, siêu việt phân nửa, tức nên không có sai biệt, nên biết đây tức là trong hai thượng lưu, do có tu xen tạp nhân tĩnh lự, nên đi đến trời Sắc cứu cánh thì bát Niết-bàn. Những người khác đối với tĩnh lự, không có tu xen tạp, thì có thể đi đến xứ Hữu đảnh mới bát Niết-bàn. Nghĩa là người kia, trước không có tu xen tạp tĩnh lự, do ái vị nơi các định làm duyên, ở đây mất thì sinh khắp các xứ của cõi sắc, chỉ không thể đi đến trời Ngũ tịnh cư. Nơi cõi sắc mạng chung, đối với ba vô sắc, theo thứ tự sinh xong, về sau sinh nơi xứ Hữu đảnh mới bát Niết-bàn.

Trong hai Thượng lưu, trước là hành quán, sau là hành chỉ, vì vui thích tuệ, vui thích định có sai biệt.

Hai Thượng lưu, ở trong địa dưới được bát Niết-bàn, cũng không trái lý. Nhưng nói Thượng lưu này đi đến trời Sắc cứu cánh và trời Hữu đảnh, là dựa vào xứ tột cùng để nói.

Không có người Bất hoàn, đối với xứ đã sinh thọ sinh lần thứ hai. Do Thượng lưu kia đối với sự sinh cùng cầu đạt thắng tấn, không phải là bằng nhau và thua kém. Chỉ ở nơi cõi dục mất, đi đến cõi sắc sinh, là có trung hữu Trung bát Niết-bàn. Không phải là người mất ở cõi sắc, sinh nơi cõi sắc, vì trong cõi sắc không có tai họa xâm hại. Nếu phần vị của bản hữu, có chướng duyên khác không đạt được Niết-bàn, thì trung hữu cũng như thế, vì trung hữu mỏng kém, không phải là bản hữu. Lại, trung hữu kia nếu có, nên thuộc nơi Thượng lưu thì Trung bát, Thượng lưu nên không có sai biệt, nghĩa là nhất định không có nhân duyên sai biệt. Có thể nói thế này: Chỉ ở nơi cõi dục mất, thọ trung hữu của cõi sắc liền bát Niết-bàn, được Trung bát, gọi là không phải mất ở cõi sắc.

Do đâu hàng hữu học chưa lìa dục tham không có trung hữu Trung bát Niết-bàn?

Vì trung hữu của cõi dục dựa vào thân yếu kém, đối với nhiều sự nghiệp, không có khả năng thực hiện, nên trụ nơi phần vị bản hữu, đối với pháp của cõi dục hãy còn khó vượt qua, huống chi là trong trung hữu mà có thể vượt qua cõi dục, để đến được quả tương ứng.

Nhiều sự nghiệp: Nghĩa là vượt qua ba cõi và vĩnh viễn đoạn trừ hai thứ phiền não cùng chứng được hai, ba quả Sa-môn. Trụ nơi phần vị trung hữu không có khả năng như thế. Lại, ở đây có do trước chưa từng thường hành tập để đối trị chín phẩm phiền não có sai biệt. Lại, các quả như Bất hoàn v.v…, không phải là thân trung hữu đạt được. Vì đoạn trừ Hoặc tăng thượng mới chứng đắc, vì lìa nhiễm của ba cõi rất là khó, nên không có trung hữu của cõi dục có thể bát Niết-bàn.

Vì trung hữu của cõi sắc so với trung hữu của cõi dục này đều khác, nên có người ở trong ấy được Niết-bàn.

Lại, trung hữu của địa này được bát Niết-bàn, chỉ khởi Thánh đạo hiện có trong địa ấy. Trung bát Niết-bàn nơi phần vị trung hữu của địa tĩnh lự thứ nhất, chỉ khởi tĩnh lự căn bản của địa mình. Khi Thánh đạo hiện tiền, không phải vị chí, trung gian, vì khó khiến hiện ở trước. Ở nơi phần vị trung hữu, nương dựa vào thân yếu kém, chủ yếu là người dễ khởi mới có thể hiện tiền.

Năm thứ này gọi là hành nơi cõi sắc. Hành nơi cõi vô sắc, sai biệt có bốn. Nghĩa là ở cõi dục lìa tham của cõi sắc, từ cõi này mạng chung, sinh nơi cõi vô sắc. Trong đây, sai biệt chỉ có bốn thứ. Nghĩa là Sinh bát v.v… có sai biệt. Một thứ này cùng năm thứ trước, thành sáu Bất hoàn. Lại có bất hành nơi cõi sắc, cõi vô sắc, tức trụ nơi này có thể bát Niết-bàn, gọi là Hiện bát Niết-bàn cùng với sáu thứ trước thành bảy.

Hoặc nên lập chung làm chín thứ Bất hoàn. Nghĩa là Hiện bát Niết-bàn phân làm hai thứ: (1) Đối với phần vị trước khéo hoàn thành Thánh chỉ. (2) Khi lâm chung mới có thể khéo hoàn thành.

Ở trong Thượng lưu cũng phân làm hai thứ: (1) Hành nơi cõi sắc. (2) Hành nơi cõi vô sắc.

Cộng với bốn thứ trước thành tám. Chuyển sinh đủ thành chín.

Nói chuyển sinh: Nghĩa là đối với đời trước đã được quả Dự lưu hoặc quả Nhất lai. Ở trong đời hiện nay mới được quả Bất hoàn.

Câu nói Hiện bát trước, chỉ là nói về hiện đời mới được nhập Thánh, đến Niết-bàn. Hoặc người Bất hoàn do căn sai biệt, tùy vào đối tượng ứng hợp kia mà phân thành chín thứ. Hoặc trong năm Bất hoàn hành nơi cõi sắc, lại có môn khác phân thành chín thứ. Tụng nêu:

Hành cõi sắc có chín

Tức ba đều phân ba

Nghiệp, Hoặc, căn có khác

Nên thành ba, chín riêng.

Luận nói: Tức năm thứ Bất hoàn hành nơi cõi sắc lập chung làm ba, đều phân làm ba thứ, nên thành chín thứ.

Những gì là ba? Vì Trung, Sinh, Thượng lưu có sai biệt.

Thế nào là ba thứ đều phân làm ba?

Trung bát Niết-bàn phân làm ba: Nghĩa là đầu tiên khởi, đến xứ xa gần sẽ sinh, được bát Niết-bàn có sai biệt.

Sinh bát Niết-bàn phân làm ba: Là vừa sinh, hữu hành, vô hành có khác nhau. Đây đều là sinh xong, được bát Niết-bàn. Thế nên đều gọi là Sinh bát.

Ở trong Thượng lưu được phân làm ba: Nghĩa là siêu việt hoàn toàn, siêu việt phân nửa, cùng mất khắp là có khác. Nhưng đối với ba thứ, tất cả đều do nhanh chóng, không nhanh chóng, trải qua thời gian lâu, được bát Niết-bàn, nên phân làm chín thứ không cùng tạp loạn.

Ba thứ, chín thứ Bất hoàn như thế, do nghiệp Hoặc, căn có sai biệt. Các trường hợp nhanh chóng, không nhanh chóng, trải qua thời gian lâu có sai biệt. Lại, gồm thành ba, do trước đã tập hợp. Vì thuận khởi sinh nghiệp sau có khác. Như thứ lớp nơi phẩm hạ trung thượng, phiền não hiện hành có sai biệt, cùng căn thượng trung hạ có khác nhau.

Ba thứ này, mỗi mỗi như đối tượng ứng hợp kia, cũng do nghiệp, Hoặc, căn có sai biệt, nên đều có ba riêng khác, tức thành chín thứ. Nghĩa là thứ nhất, thứ hai, thứ ba, do Hoặc, căn riêng khác, nên đều thành ba thứ, không phải do nghiệp khác. Ba thứ sau cũng do thuận nghiệp hậu thọ có sai biệt, nên phân thành ba thứ. Tức nêu rõ Bất hoàn hành nơi cõi sắc như thế, do nghiệp, Hoặc, căn khác nhau nên thành ba, chín riêng.

Nếu như vậy thì vì sao trong các Khế kinh, Đức Phật chỉ nói có bảy nẻo thiện sĩ? Tụng nêu:

Lập bảy nẻo thiện sĩ

Do Thượng lưu không riêng

Hành, không hành thiện, ác

Có đến, không trở lại.

Luận nói: Trung, Sinh đều có ba, Thượng lưu có một. Kinh dựa nơi đấy để lập bảy nẻo thiện sĩ.

Vì sao hai thứ trước đều phân làm ba, Thượng lưu thứ ba chỉ lập làm một?

Vì hành nơi cõi trên, nên gọi là Thượng lưu. Do nghĩa này đồng, nên chỉ lập làm một. Hai thứ trước tuy cũng đồng nghĩa, nhưng vì tướng riêng trong đó khó hiểu rõ. Vì muốn khiến dễ hiểu rõ, nên đều phân làm ba. Thượng lưu có ba tướng riêng dễ hiểu rõ, không phiền ở nơi tướng kia lại kiến lập riêng. Lại, tướng riêng của hai thứ trước, chỉ có từng ấy. Vì dễ hiển bày, nên đều phân làm ba. Về nghĩa riêng của Thượng lưu thứ ba có nhiều thứ, rốt cuộc là khó hiển thị, nên lập chung làm một. Nghĩa là Trung bát đầu tiên chỉ ở nơi sắp sinh, phẩm căn, Hoặc khác, nên phân làm ba thứ.

Sinh bát thứ hai chỉ ở nơi đã sinh, cũng do căn, Hoặc khác, nên phân thành ba thứ: Thượng lưu thì chung có sắp sinh, đã sinh. Thượng lưu sắp sinh lại có hai thứ. Nghĩa là ở nơi tĩnh lự có tu xen tạp, không tu xen tạp. Thượng lưu đã sinh được phân làm hai cũng như thế.

Lại ở trong hai Thượng lưu như vậy, nếu không có tu xen tạp, thì cùng sinh ở hai cõi. Nếu có tu xen tạp, thì chỉ sinh ở một cõi. Sinh ở một cõi phân làm ba: Siêu việt hoàn toàn, siêu việt phân nửa, và mất khắp có khác nhau.

Ở trong siêu việt phân nửa, sai biệt có nhiều, do tướng riêng của Thượng lưu này là nhiều, rộng. Nếu mỗi mỗi đều biện, thì khó có thể đều trọn, nên dựa nơi nghĩa bằng nhau, để lập chung là Thượng lưu. Trong phần vị Trung, Sinh nghĩa sai biệt ít, dễ hiển bày hiểu rõ, nên phân làm sáu. Tuy mỗi mỗi thứ Trung, Sinh kia cũng có nghĩa đồng, nhưng bằng với thứ ba. Ở trong Thượng lưu tuy có nghĩa khác, nhưng bằng với hai thứ trước. Vì cùng ảnh hiển, nên chỉ lập bảy. Chỉ bảy vị này đã đoạn trừ tham, sân của cõi dục, không phải là pháp của Thiện sĩ, cùng với quả Đại thiện sĩ vô học là rất gần nhau.

Kinh chỉ nói bảy vị này gọi là nẻo Thiện sĩ, không phải cho người Dự lưu và Nhất lai, đều không thể nói gọi là nẻo Thiện sĩ. Đức Phật cũng nói những người kia gọi là Thiện sĩ. Như Khế kinh nêu rõ: Thế nào là Thiện sĩ? Nghĩa là nếu thành tựu chánh kiến hữu học, cho đến thành tựu chánh định hữu học. Đi đến cõi trên, gọi là hướng tới. Nghĩa là hướng đến quả trên cùng hướng đến sinh nơi cõi trên nên chỉ nói bảy. Hoặc chỉ bảy thứ này đều có thể hành thiện, không hành bất thiện. Các thứ khác thì không như thế.

Lại, chỉ bảy vị này đi đến sinh nơi cõi trên, không còn trở lại. Vì thứ khác thì không như thế, nên chỉ dựa nơi bảy vị này để lập nẻo Thiện sĩ.

Đối với những người ở vị Thánh, từng trải qua sinh, cũng có những tướng sai biệt như ở đây chăng? Không như vậy thì thế nào?

Tụng nêu:

Qua cõi dục, sinh Thánh

Không đến cõi khác sinh

Đây và đến sinh trên

Không luyện căn thoái chuyển.

Luận nói: Nếu ở nơi vị Thánh, trải qua sinh nơi cõi dục, tất không đi đến sinh nơi cõi sắc, vô sắc. Do Thánh kia chứng được quả Bất hoàn xong, nhất định ở nơi hiện thân bát Niết-bàn. Nếu Thánh giả ở nơi cõi sắc, trải qua cùng sinh, thì cùng có nghĩa sinh nơi cõi vô sắc trên. Tuy nhiên, Thiên Đế thích nói như thế này: Từng nghe có trời gọi là Sắc cứu cánh. Ta về sau bị thoái chuyển sẽ sinh nơi trời đó. Là do Đế thích kia, không hiểu rõ tướng của đối pháp. Nói ta về sau, nghĩa là trời Ba mươi ba nơi biên vực sau cùng của dị thục tự tại. Nói thoái chuyển mất mát: Nghĩa là vào thời gian sau, nếu không đạt được quả A-la-hán, thì sẽ sinh nơi cõi trời kia. Nghĩa là nguyện sẽ sinh nơi trời Sắc cứu cánh, chớ nên sinh vào cõi dục. Vì Thiên Đế thích duyên nơi năm tướng chết, sinh rất buồn khổ, đến quy kính Đức Thế Tôn, thì tướng chết liền dứt trừ, liền nói như thế để khiến hoan hỷ.

Lại quan sát ngăn chận cõi dục kia, vì không có nhiều ích lợi. Đức Phật thì không ngăn chận. Tức Thiên Đế thích này đã trải qua, sinh nơi cõi dục, và đã từ cõi này đi đến sinh nơi cõi trên.

Các Thánh tất không có luyện căn và thoái chuyển.

Do đâu không thừa nhận Thánh giả trải qua, sinh nơi cõi dục và sinh nơi cõi trên có luyện căn và thoái chuyển?

Vì từng trải qua sinh nơi phần tự cùng nối tiếp, có tích tụ Thánh đạo rất kiên cố và được thân là đối tượng nương dựa hơn hẳn. Do nơi cõi này, Thánh kia không có lý luyện căn, thoái chuyển.

Trước đã nói Thượng lưu do tu xen tạp tĩnh lự làm nhân, có thể đi đến trời Sắc cứu cánh. Trước nên tu xen tạp những thứ tĩnh lự nào?

Do những vị nào nhận biết tu xen tạp thành? Lại vì duyên gì tu xen tạp tĩnh lự? Tụng nêu:

Trước tu tạp thứ tư

Thành do một niệm tạp

Vì thọ sinh hiện lạc

Và ngăn phiền não thoái.

Luận nói: Các người muốn tu xen tạp bốn tĩnh lự, tất trước hết là tu xen tạp tĩnh lự thứ tư, vì đẳng trì kia rất có khả năng thực hiện. Trong các thứ hành an lạc thì tĩnh lự thứ tư là tối thắng. Nghĩa là tĩnh lự kia rất có khả năng, lúc hiện tiền, khiến cho uy lực tự thể của đối tượng nương dựa được tăng trưởng rộng lớn. Nếu dựa vào uy lực đó, tu xen tạp tĩnh lự, về sau tuy có thoái mất, sinh trong trời khác, nhưng do ở nơi thời trước đã tux en tạp theo uy lực kia, lại có thể dựa vào đó để tu xen tạp tĩnh lự, tức do lý này, nên trong các hành an lạc, thì tĩnh lự thứ tư rất là thù thắng. Vì lạc khinh an kia là rất thượng diệu.

Người nào ở nơi tĩnh lự có thể huân tu xen tạp?

Chỉ các Thánh giả chung cả hữu học, vô học. Ở vị hữu học chỉ chung cho tín giải, kiến chí. Ở vị vô học thì chung cho thời, phi thời. Tất trước là ở ba châu tu xen tạp tĩnh lự, thoái chuyển sinh nơi cõi sắc, cũng có thể tu xen tạp.

Há không phải là người tu xen tạp các tĩnh lự hẳn trước đã lìa tham của ba tĩnh lự, vì sao có thể nói tu xen tạp tĩnh lự chung nơi kiến chí mà thành Thượng lưu?

Nghĩa là chủ yếu ở nơi nhân gian tu xen tạp định xong. Về sau thoái chuyển ba định, sinh nơi trời Phạm chúng. Ở nơi trời ấy, lại cần phải lìa nhiễm của ba định, mới có thể khởi lại tu xen tạp tĩnh lự. Từ trời kia mất rồi, liền sinh nơi trời Tịnh cư, mới gọi là Thượng lưu, như trước đã nói. Không phải các kiến chí có thể có lý này.

Người kia đối với phần lìa nhiễm, tất không thoái chuyển, nên không có lỗi như thế. Người ấy từ trước đến nay, trụ nơi kiến chí, vì căn không phải đã thừa nhận. Nghĩa là người ấy trước trụ nơi chủng tánh tín giải, tu xen tạp tĩnh lự, sau đó thoái mất, vì sợ nơi thời gian sau, lại có thoái chuyển nữa, liền tu luyện căn, thành tánh kiến chí. Từ cõi dục mất, sinh trong cõi sắc, nhân nơi trước lại có khả năng tu xen tạp tĩnh lự, nên nơi sáu thứ tánh đều có Thượng lưu.

Khi tu xen tạp thì tạo phương tiện gì?

Thánh giả kia tất trước là nhập tĩnh lự thứ tư, nhiều niệm vô lậu nối tiếp nhau hiện tiền. Từ đấy dẫn sinh nhiều niệm hữu lậu. Sau lại có nhiều niệm vô lậu hiện ở trước. Như thế, xoay vòng càng về sau thì giảm dần, cho đến hai niệm vô lậu sau cùng. Tiếp theo dẫn hai niệm hữu lậu hiện tiền, vô gián lại sinh hai niệm vô lậu, gọi là gia hạnh tu xen tạp định thành mãn. Từ đây về sau, không do công sức, tự nhiên chỉ từ một niệm vô lậu, dẫn khởi một niệm hữu lậu hiện ở trước, vô gián lại sinh một niệm vô lậu.

Như thế sát-na của trung gian hữu lậu, sát-na trước sau, vì vô lậu xen lẫn, nên gọi là tu xen tạp định căn bản viên thành.

Tu xen tạp định thứ tư như vậy xong, nhân nơi uy lực của định này, tùy theo đối tượng ứng hợp kia, cũng có thể tu xen tạp ba tĩnh lự dưới, tu xen tạp tĩnh lự năm uẩn làm thể. Nhưng ở trong ấy các thế tục trí là bốn pháp, bốn loại, tám trí đã tu xen tạp.

Có Sư khác nói: Các thế tục trí chỉ là khổ, tập loại trí tu xen tạp, vì hai trí kia là chủ thể duyên nơi này làm cảnh.

Nếu như vậy thì không cùng có nhiều trí vô lậu hiện tiền xen tạp, tức không nên nói pháp này do pháp kia xen lẫn. Nên được tự tại tu xen tạp tĩnh lự tức không viên thành. Tĩnh lự này không từ diệt đạo pháp loại, khổ tập pháp trí khác vô gián mà sinh cùng vô gián sinh các trí kia. Tu xen tạp tĩnh lự lược có ba duyên: (1) Vì thọ sinh. (2) Vì hiện lạc. (3) Vì ngăn chận khởi phiền não thoái chuyển. Nghĩa là trong Bất hoàn, nếu các kiến chí, tu xen tạp tĩnh lự tức là hai duyên trước: (1) Vì thọ sinh. (2) Vì hiện lạc.

Vì thọ sinh: Là mong cầu sinh hơn hẳn. Nghĩa là nhàm chán sinh chung, vui thích không chung.

Vì hiện lạc: Là vui thích định thù thắng. Nghĩa là định thế tục rất có khả năng hỗ trợ thân. Do đấy có thể khiến được hiện pháp lạc trụ, vô lậu trước sau làm trợ bạn cho thân kia.

Nếu các tín giải làm hai duyên trước thì cũng là ngăn chận, đề phòng dấy khởi phiền não khiến thoái chuyển. Nghĩa là người độn căn khởi hai vô lậu làm phương tiện phòng hộ đẳng trì thanh tịnh, khiến vị tương ưng nơi đẳng trì chuyển xa, không khiến cho tịnh bị nhiễm nơi đẳng vô gián duyên, nên bất thời giải thoát trong A-la-hán, chỉ tu xen tạp tĩnh lự vì hiện lạc.

Nếu thời giải thoát vì cầu hiện lạc, cũng là ngăn chận đề phòng dấy khởi phiền não khiến thoái chuyển.

Nếu tu xen tạp tĩnh lự, được sinh nơi năm Tịnh cư, do đâu xứ Tịnh cư chỉ có năm? Tụng nêu:

Do tu xen năm phẩm

Sinh có năm Tịnh cư.

Luận nói: Do huân tu xen tạp tĩnh lự thứ tư, vì có năm phẩm, nên Tịnh cư chỉ năm.

Những gì là năm phẩm?

Nghĩa là phẩm hạ, trung, thượng, thắng thượng, cực thượng có sai biệt. Ở đây phẩm đầu có ba tâm hiện tiền liền được thành đủ. Nghĩa là đầu tiên vô lậu, tiếp theo khởi hữu lậu, sau khởi vô lậu.

Phẩm trung thứ hai có sáu tâm hiện tiền mới được thành đủ.

Nghĩa là hai hữu lậu làm đối tượng tu xen tạp của bốn vô lậu.

Như thế, số còn lại tùy theo thứ tự của chúng có chín, mười hai, mười lăm niệm tâm, như ứng hợp hiện tiền mới được thành đủ.

Như vậy năm phẩm tu xen tạp làm nhân, như thứ lớp có thể chiêu cảm quả là năm Tịnh cư.

Mười lăm tâm hữu lậu, vô lậu như thế, đều là tâm trước nay chưa từng được, nay mới được.

Có Sư khác cho: Năm vô lậu đầu tiên, là từ trước nay chưa được, nay được. Mười vô lậu còn lại đều là tâm từng đã được. Năm vô lậu trước, lúc hiện tiền xong, vì tu vị lai, nên có khi không khởi định để tu xen tạp thành đủ. Chủ yếu là có thường khởi mới được viên thành.

Có Sư khác nói: Do năm căn như tín v.v… theo thứ lớp tăng thượng nên chiêu cảm năm Tịnh cư. Nghĩa là hoặc có lúc tín căn tăng thượng, tu xen tạp tĩnh lự. Hoặc có khi cho đến tuệ căn tăng thượng, tu xen tạp tĩnh lự, tùy theo chỗ sai biệt này đã chiêu cảm năm Tịnh cư.

Đối với các trường hợp chiêu cảm Tịnh cư vì là sức của nghiệp hay vì sức của tu xen tạp? Nếu là sức của nghiệp, thì tu xen tạp tĩnh lự, tức là vô ích. Nếu là sức của tu xen tạp, thì so với Luận Phẩm Loại Túc đã nêu là trái nhau. Như Luận ấy nói: Tu xen tạp tĩnh lự cùng do nghiệp, nên sinh nơi trời Tịnh cư. Các danh xưng như sở hữu xứ v.v… không phải là pháp phàm phu.

Có thuyết cho: Do sức của nghiệp đã chiêu cảm sinh nơi trời Tịnh cư, nhưng tu xen tạp tĩnh lự không vô ích, do tu hành tư của nghiệp kia hiện tiền.

Có Sư khác nêu: Là do sức của tu xen tạp nhưng không trái hại với văn của Luận Phẩm Loại Túc. Luận kia trước nói về người tu xen tạp định, là làm rõ lúc trước đã nhập định kia. Tiếp theo sau lại nói cùng do nghiệp, nên sinh nơi Tịnh cư, tức hiển bày thời gian sau, tức do sức của định kia nên sinh nơi Tịnh cư.

Trong đây, quyết định đều cùng do hai sức, vì tùy theo đấy thiếu một, thì không sinh nơi trời Tịnh cư kia. Nhưng chỉ hữu lậu mới chiêu cảm dị thục của trời kia, không phải là sức của vô lậu vì đã từ bỏ hữu.

Kinh nói Bất hoàn có tên là Thân chứng. Dựa nơi đức thù thắng nào để lập tên Thân chứng? Tụng nêu:

Bất hoàn được định diệt

Chuyển gọi là Thân chứng.

Luận nói: Có định diệt được gọi là đắc định diệt. Tức người Bất hoàn, nếu ở trong thân có định diệt, thì được chuyển gọi là Thân chứng. Nghĩa là người Bất hoàn do thân chứng đắc giống với pháp Niết-bàn, nên gọi là Thân chứng.

Vì sao nói định diệt kia chỉ gọi là Thân chứng? Là do không có tâm, vì dựa vào thân sinh, do thân đều cùng sinh được uy lực, nên phần vị đã diệt kia, cũng gọi là đắc Thân chứng.

Trong đây, Kinh chủ nói như thế này: Về lý thật nên nói người Bất hoàn kia từ định diệt khởi được pháp trước chưa được. Có thức thân tĩnh lặng, liền khởi tư duy: Định diệt tận này rất là tịch tĩnh, rất giống với Niết-bàn. Như thế, vì thân đã chứng đắc tịch tĩnh, nên gọi là Thân chứng. Do đắc cùng trí hiện tiền nên thân chứng đắc tịch tĩnh.

Nay cho người Bất hoàn kia từ vị định diệt khởi, tuy được pháp trước chưa được, có thức thân tĩnh lặng, nhưng không phải chỉ do phần vị kia mới được tên Thân chứng. Hai thời trước sau đều cùng được mang tên. Do đấy thiết lập trí của định diệt không duyên đạt được uy lực, nên lập tên Thân chứng.

Thế nên thuyết trước về lý là hơn. Vì nêu lên biên sau, nên chỉ nói như thế. Bất hoàn được định diệt chuyển gọi là Thân chứng. Lý thật thì thân chứng đối với tám giải thoát đều được đầy đủ. Do thân chứng trụ, vì định diệt tận dùng giải thoát khác làm môn để nhập. Nên được định diệt, quyết định cũng nên được các giải thoát khác. Như Khế kinh nói: Lúc nhập định diệt, trước là diệt ngôn hành, cho đến nói rộng.

Do đâu Đức Phật nói về phước điền hữu học, thì Bất hoàn thân chứng, không can dự nơi số kia? Nghĩa là Đức Thế Tôn nói với trưởng giả Cấp Cô Độc: Trưởng giả nên biết! Phước điền có hai: (1) Hữu học. (2) Vô học.

Hữu học có mười tám, vô học chỉ có chín. Những gì gọi là mười tám thứ hữu học? Nghĩa là hướng Dự lưu, quả Dự lưu. Hướng Nhất lai, quả Nhất lai. Hướng Bất hoàn, quả Bất hoàn. Hướng A-la-hán. Tùy tín hành. Tùy pháp hành. Tín giải. Kiến chí. Gia gia. Nhất gián. Trung, Sinh, Hữu hành, Vô hành, Thượng lưu. Đó gọi là mười tám.

Những gì gọi là chín thứ vô học? Nghĩa là Pháp thoái. Pháp tư duy. Pháp hộ. Pháp an trụ. Pháp kham đạt. Pháp bất động. Pháp bất thoái. Tuệ giải thoát. Câu giải thoát. Đó gọi là chín.

Về lý cũng nên nêu bày. Nhưng không nói là vì Đức Phật quán thấy hàng hữu học, vô học, do đoạn cùng căn có thù thắng, có thể sinh thắng quả, gọi là phước điền. Nhưng định diệt do các người Bất hoàn đã đạt được là hữu lậu, nên không thể nêu bày. Vì tự tánh giải thoát, nên gọi là thanh tịnh. Thân của đối tượng nương dựa kia cũng có phiền não, chưa đoạn trừ vĩnh viễn, nên không thể nêu bày. Vì giải thoát tương tục nên gọi là thanh tịnh. Thế nên không căn cứ nơi thành Bất hoàn kia để lập phước điền hữu học. Vì công đức hữu lậu trong quả vị vô học, tuy không phải là thuộc về tự tánh giải thoát, nhưng vì giải thoát cùng nối tiếp, nên gọi là thanh tịnh. Do đấy cũng có thể sinh quả thù thắng. Vì vậy căn cứ ở định và căn có sai biệt để nói về chín quả ứng hợp, đều gọi là phước điền. Hoặc lập hữu học, vì dựa vào nhân không có, nên không đặt để Thân chứng trong số hữu học.

Vì sao gọi là kiến lập hữu học là dựa vào nhân?

Nghĩa là các thứ ba học vô lậu và quả, vì định diệt không phải là học, cũng không phải là quả của học, nên không căn cứ theo chỗ thành hữu học để nói hữu học có sai biệt. Nhưng nay ở trong quả vị Bất hoàn này, căn cứ theo môn không khác, mật nói là thân chứng. Nếu khác với đây thì không nên chỉ nói: Bất hoàn được định diệt, chuyển gọi là Thân chứng. (Nghĩa này về sau sẽ lại phân biệt)

Nếu nói thân chứng gồm căn cứ theo môn khác, tức như trên đã nói, không phải phần hỏi đáp tốt đẹp, vì giải thoát của ba vô sắc cũng chung cho cả vô lậu.

Đã biện về tướng thô của Bất hoàn có sai biệt. Nếu phân tích về phần vi tế thì số thành nhiều ngàn. Trong đây, lại dựa vào năm hành nơi cõi sắc. Căn cứ theo năm môn như các địa v.v… để nhận biết. Nghĩa là năm căn cứ ở số của địa thành hai mươi bốn. Vì trong địa định đều có năm thứ. Năm căn cứ theo số của chủng tánh thành ba mươi sáu. Vì trong chủng tánh đều có năm thứ. Năm căn cứ theo số của xứ sinh thành tám mươi. Vì trong mười sáu xứ, mỗi xứ đều có năm thứ. Năm căn cứ theo số căn của chủng tánh thành chín mươi. Nghĩa là căn hạ trung thượng nơi chủng tánh của pháp thoái có sai biệt, nên số thành mười lăm. Cho đến chủng tánh bất động cũng như thế. Năm căn cứ theo số chủng tánh của địa thành một trăm hai mươi. Nghĩa là trong bốn địa, mỗi địa đều có ba mươi.

Năm căn cứ theo số căn nơi chủng tánh của địa thành ba trăm sáu mươi. Nghĩa là trong bốn địa, mỗi địa đều có chín mươi.

Năm căn cứ theo số chủng tánh của xứ sinh thành bốn trăm tám mươi. Nghĩa là nơi mười sáu xứ, mỗi xứ đều có ba mươi.

Năm căn cứ theo chủng tánh của xứ sinh cùng số căn, thành một ngàn bốn trăm bốn mươi. Nghĩa là nơi mười sáu xứ, mỗi xứ đều có chín mươi.

Năm căn cứ theo tích số căn nơi chủng tánh của xứ lìa nhiễm, tổng thành một vạn hai ngàn chín trăm sáu mươi Bất hoàn có sai biệt. Nghĩa là dùng chín phẩm lìa nhiễm không đồng nhân với một ngàn bốn trăm bốn mươi ở trước.

Đã biện về hướng quả thứ ba có sai biệt. Tiếp theo nên kiến lập hướng quả thứ tư. Tụng nêu:

Trong tu hoặc cõi trên

Đoạn một phẩm định đầu

Đến tám phẩm Hữu đảnh

Đều hướng A-la-hán.

Đạo vô gián thứ chín

Gọi định kim cang dụ

Tận đắc cùng tận trí

Thành quả vô học ứng.

Luận nói: Tức người Bất hoàn, tiến đến đoạn trừ Hoặc nơi cõi sắc và cõi vô sắc do tu đạo đoạn.

Từ đoạn một phẩm của định thứ nhất là đầu tiên, đến đoạn trừ tám phẩm của xứ Hữu đảnh là sau cùng, nên biết chuyển gọi là hướng A-la-hán. Tức ở đây đã nói trong hướng A-la-hán, đạo vô gián thứ chín đoạn trừ Hoặc của xứ Hữu đảnh, cũng được gọi là định kim cang dụ. Định này cứng chắc, sắc bén, dụ như kim cang, không một tùy miên nào mà không thể phá trừ. Vì trước đã phá trừ, nên không phá trừ tất cả. Thật sự là có công năng có thể phá trừ hết thảy. Định kim cang dụ này đã có thể diệt trừ phẩm Hoặc rất vi tế, nên biết trong tất cả đạo vô gián, chỉ sát-na này, gọi là phẩm cực thượng, nên có thể đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tùy miên. Tuy trong kiến đạo cũng có pháp đối trị vô lậu, có thể đoạn trừ phiền não của xứ Hữu đảnh, nhưng chín phẩm Hoặc kia có thể làm một phẩm đoạn. Tức biết thế mạnh của phiền não nơi phẩm kia là yếu kém. Kiến đạo đã được đối trị Hoặc yếu kém kia tức biết không thể phá trừ tất cả tùy miên. Nếu có thể phá trừ, thì ngại gì không phá. Nên kiến đạo kia không được mang tên Định kim cang dụ.

Lại, trong các tùy miên thì loại vô sự tức dễ đoạn. Kiến đạo đối trị thứ tùy miên ấy, nên biết không phải là cực thượng. Do đấy không lập danh xưng định kim cang dụ.

Trong đây, đã nêu rõ định kim cang dụ có thể đối trị tất cả phẩm Hoặc hữu sự, trong ấy phẩm sau cùng là hết sức vi tế, rất khó đoạn dứt. Nên biết định kia có thể phá trừ tất cả tùy miên. Do sức của định kim cang dụ này, có thể nơi khoảnh khắc một sát-na chứng đắc ly hệ vô lậu đoạn dứt tất cả Hoặc.

Như thế là đã nói định kim cang dụ, chỉ cùng với sáu trí theo đó tương ưng một. Nghĩa là bốn loại trí và diệt, đạo pháp trí, duyên nơi mười sáu hành tướng của bốn Thánh đế, dựa chung nơi chín địa, nghĩa căn cứ theo đấy đã thành, nên sai biệt này nói có nhiều thứ. Lại thuộc về định vị chí có năm mươi hai. Nghĩa là khổ tập loại trí quán khổ tập của xứ Hữu đảnh tạo ra hành tướng như vô thường v.v…, như nhân v.v…, cùng với phần tương ưng kia có sai biệt thành tám. Diệt đạo pháp trí quán diệt đạo của cõi dục, tạo ra các hành tướng như diệt tĩnh v.v…, như đạo v.v…, cùng với phần tương ưng kia có sai biệt cũng có tám. Diệt loại trí đối với diệt của tám địa, mỗi mỗi đều quán riêng, tạo bốn hành tướng, cùng với phần tương ưng kia thành ba mươi hai. Đạo loại trí đối với đạo của tám địa, tất cả quán chung tạo ra bốn hành tướng, cùng với phần tương ưng kia có sai biệt thành bốn, do đạo của phẩm loại trí đối trị tám địa. Vì nhân của tướng đồng loại tất duyên chung. Diệt chỉ duyên riêng, đạo thì không như vậy.

Tức đối với phẩm tùy miên đã thành lập đủ. Như thuộc về tĩnh lự vị chí có năm mươi hai, thì nơi trung gian, bốn tĩnh lự, nên biết cũng như thế. Không vô biên xứ có hai mươi tám. Nghĩa là trừ phẩm diệt đạo pháp trí có tám và trừ quán diệt đế của bốn địa dưới, đều có bốn hành tướng tương ưng là mười sáu. Do dựa vào vô sắc, tất không có pháp trí cùng duyên nơi phẩm diệt loại trí của địa dưới, nên đạo duyên nơi địa dưới, về lý là không ngăn trừ. Đạo tất duyên chung như trước đã giải thích. Số còn lại như trước, nên có hai mươi tám. Thức vô biên xứ có hai mươi bốn. Vô sở hữu xứ chỉ có hai mươi. Nghĩa là xứ đó ở nơi trước, lại trừ quán xuống đến bốn, tám hành tướng nơi cảnh của diệt Thánh đế. Tùy theo thứ lớp của các hành tướng kia, so sánh với trước, nên giải thích.

Có các vị muốn khiến địa của ba vô sắc, có diệt loại trí duyên nơi địa dưới, nói thế này: Không vô biên xứ thêm mười sáu so với trước. Thức vô biên xứ thêm hai mươi so với trước. Vô sở hữu xứ thêm hai mươi bốn.

Như thế, nói chung dựa nơi địa vô sắc, định kim cang dụ có bảy mươi hai thứ. Hoặc lại nói có một trăm ba mươi hai.

Có Sư khác cho: Phẩm đạo loại trí đối với đạo của tám địa cũng đều quán riêng, nên sáu địa trước, mỗi địa đều có tám mươi. Không vô biên xứ chỉ có bốn mươi. Thức vô biên xứ có ba mươi hai. Vô sở hữu xứ có hai mươi bốn.

Lại có vị muốn khiến phẩm diệt loại trí, đối với diệt của tám địa, có quán riêng chung, nên trong sáu địa trước, mỗi địa đều có một trăm sáu mươi bốn. Không vô biên xứ chỉ có năm mươi hai. Thức vô biên xứ có ba mươi sáu. Vô sở hữu xứ có hai mươi bốn.

Các giải thích kia đều cùng phi lý. Vì đạo tất duyên chung, diệt chỉ duyên riêng, như trước đã biện.

Tôn giả Diệu Âm nêu bày như thế này: Định kim cang dụ gồm có mười ba. Nghĩa là đoạn Hoặc của xứ Hữu đảnh do kiến tu đạo đoạn, đạo vô gián gồm thâu mười ba sát-na.

Giải thích này cũng không đúng. Vì bốn loại nhẫn nơi tám đạo vô gián trước, không phải là phẩm cực thượng. Định ấy đã có thể đoạn trừ phẩm Hoặc thứ chín của địa xứ Hữu đảnh, khả năng dẫn khởi Hoặc này đã hết, đạt được tận trí cùng hành, khiến khởi định kim cang dụ, là đạo vô gián sau cùng trong sự việc đoạn trừ Hoặc này đã sinh tận trí. Là đạo giải thoát sau cùng trong sự việc đoạn trừ Hoặc này, nên nói định ấy đã dẫn sinh tận trí, cùng với phẩm thứ chín dứt hết đạt được cùng khởi.

Hoặc nói tận ở đây, là làm rõ tất cả đều tận. Nghĩa là phẩm thứ chín và các Hoặc còn lại, đều được trạch diệt, nên gọi là tận. Định kim cang dụ có thể dẫn các Hoặc dứt hết (tận) đạt được cùng hành khiến tận trí khởi. Tận trí này cùng với tất cả phiền não là tận đắc. Vì đầu tiên đều cùng sinh, nên gọi là tận trí.

Có Sư khác nêu: Hoặc tận trong thân. Vì trí này đầu tiên sinh, nên gọi là tận trí.

Tận trí như thế, đến khi đã sinh, liền thành tựu quả A-la-hán vô học, tức đã được quả vô học ứng hợp pháp. Vì đạt được quả riêng, đối tượng nên tu học ở đây là không có, nên được danh xưng vô học. Há không phải là vô học cũng mong cầu quả riêng, vì người vô học cũng chuyển căn?

Vấn nạn này là không đúng. Vì như hữu học ở trước, cầu được quả riêng, còn vô học này thì không như thế. Nghĩa là như Dự lưu không phải là Nhất lai v.v… Tức ở nơi sau khi đạt được quả Nhất lai v.v… thì xả tên gọi Dự lưu v.v… được gọi là Nhất lai v.v… đều xả quả riêng, được mang tên quả riêng. Vô học này thì không như vậy. Thoái chuyển, không phải là tư v.v… Về sau khi đạt được pháp tư v.v…, tuy bỏ tên thoái chuyển v.v…, được gọi là pháp tư v.v…, không phải bỏ quả riêng, được mang tên quả riêng, vì trước sau đều gọi là A-la-hán. Chỉ khi bỏ quả trước là được quả riêng, bỏ tên gọi quả trước, được gọi là quả riêng. Lại, không có quả riêng là đối tượng nên học, nên gọi là vô học. Nên giải thích trước là không có lỗi.

Tức là người hành hướng, trụ nơi quả trước, là cầu quả của tên riêng, điều này là không có nghĩa.

Đã nói về tận trí, đến khi đã sinh liền thành quả A-la-hán vô học. Về nghĩa so sánh với tận trí khi chưa sinh, bảy Thánh giả trước đều gọi là hữu học, vì được quả riêng, siêng năng tu học, nên trụ ở phần vị bản tánh.

Vì sao gọi là hữu học?

Vì ý học chưa đủ, vì học đạt được luôn tùy thuận.

Vì sao vô học gọi là A-la-hán?

Các hành tự lợi tu học đã thành, chỉ nên tạo tác sự việc làm ích lợi cho người khác. Như Khế kinh nói: Không tự điều phục mà có thể điều phục người khác, là không có điều này. Hoặc có ba thứ Bổ-đặcgià-la, nghĩa là các phàm phu, hữu học, vô học. Phàm phu tuy học ba thứ giới, định, tuệ, nhưng cũng chưa có thể kiến đế như thật, cùng có lý bỏ chánh, tạo ra tà học, nên không ở phàm phu kia lập tên hữu học.

Các hữu tình đã có thể kiến đế như thật, chánh học không thoái chuyển, được mang tên là hữu học.

Do đấy, Đức Thế Tôn vì chỉ rõ về nghĩa nhất định, đối với người hữu học, lại nói lần nữa về chữ học. Như trong Khế kinh Đức Phật nói với Đạm Phạ: Học điều nên học, học điều nên học! Ta chỉ nói điều ấy gọi là người hữu học. Các người đã khéo học ba thứ giới, định, tuệ, là người không còn học, lập gọi là vô học.

Đây là tất cả hàng phàm phu, hữu học phải nên cúng dường, nên gọi là ứng quả. Dựa nơi nghĩa như thế, nên có tụng nói:

Đối giới, định, tuệ ba

Nếu đã khéo tu học

Rốt ráo lìa ưu cấu

Gắng làm phước điền đời.

Thế nào là pháp học?

Nghĩa là pháp hữu vi vô lậu của người hữu học.

Thế nào là pháp vô học?

Nghĩa là pháp hữu vi vô lậu của người vô học. Các pháp vô vi tuy là vô lậu, nhưng không gọi là pháp học, pháp vô học, vì có người đạt được như thân phàm phu v.v… cũng thành tựu. Nếu không có người đạt được thì đều không hệ thuộc nơi học, vô học.

Như thế, hữu học và vô học gồm chung thành tám Bổ-đặc-giàla Thánh. Hành, hướng, trụ, quả đều có bốn, nên tên gọi tuy có tám, nhưng sự chỉ có năm. Nghĩa là trụ nơi bốn quả và hướng của quả thứ nhất. Do hướng của ba quả sau không lìa quả trước. Đây là dựa nơi người lần lượt được quả để nói. Nếu là người lìa dục gấp bội, lìa dục hoàn toàn, trụ trong kiến đạo, thì gọi là Nhất lai. Còn hướng của quả Bất hoàn, không phải thuộc về quả trước.

Vì sao tận trí chỉ là vô học? Các người hữu học cũng tự nhận biết rõ: Ta đã vĩnh viễn dứt hết địa ngục v.v… Điều này như trước đã nói. Trước đã nói là thế nào? Nghĩa là diệt hết, đạt được đều cùng có, mới gọi là tận trí. Vì các vị như Dự lưu v.v… cũng còn có Hoặc còn lại. Đã không có diệt hết, đạt được, thì cũng không có tận trí. Do đấy, Khế kinh nêu bày như thế này: Các người hữu học thành tựu tám chi. Nếu thành tựu mười chi thì gọi là A-la-hán.

Nếu như vậy thì vì sao Tôn giả Xá-lợi-tử nói với Đại trưởng giả Cấp Cô Độc: Ông đã thành tựu đủ chánh trí, chánh giải thoát? Không có lỗi cùng trái nhau. Vì dựa nơi những tạo thành tà trí, tà giải thoát kia nên cũng có thể đi đến nẻo ác. Vì theo đạo đối trị chân thật nên mật ý nói như thế.

Nếu như thế thì vì sao không nói hữu học thành tựu mười chi?

Vì vô trí chưa trọn vẹn, nên tâm chưa khéo giải thoát.

Nếu như vậy thì do đâu kinh thuyết giảng thế này: Các hữu tình thành tựu Phật chứng tịnh, tất cả đều gọi là đã được chánh kiến, cho đến đã được chánh giải thoát. Người kiến viên mãn cũng nói như thế. Cũng không có lỗi trái nhau. Vì sao? Vì tôi không nói các người hữu học không có chánh trí và chánh giải thoát. Chỉ nói như thế này: Hữu học kia không lập chi, không lập nhân của chi, như trước đã nêu rõ.

HẾT – QUYỂN 65