LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 66

Phẩm thứ 6: BIỆN VỀ HIỀN THÁNH, phần 10

Như trên đã nói: Tu đạo có hai: (1) Hữu lậu. (2) Vô lậu.

Nay nên xét chọn, đối với hai thứ này, do những đạo nào lìa nhiễm của địa nào? Tụng nêu:

Hữu đảnh do vô lậu

Khác do hai lìa nhiễm.

Luận nói: Trong địa của xứ Hữu đảnh, các phiền não hiện có, chỉ đạo vô lậu mới có thể khiến vĩnh viễn lìa, nhất định không phải là hữu lậu. Vì sao? Vì chỉ sức của đạo vô lậu này mới có khả năng đối trị địa trên, nên chỉ ở trong địa cận phần tiếp theo địa trên, khởi đạo thế tục, đối trị Hoặc của địa dưới. Hoặc của địa cứ Hữu đảnh vì đã không còn có địa trên, nên không có hữu lậu nào có thể lìa nhiễm của địa kia.

Do đâu đạo thế tục không đối trị Hoặc của địa mình? Vì đối tượng tùy tăng của tự tùy miên, không phải là sự nơi đối tượng tùy tăng của tùy miên kia. Nên có uy lực dùng đối trị tùy miên kia. Do thuận với phiền não ấy đã sinh trưởng. Nếu có thế dụng có thể đối trị tùy miên kia, thì phiền não này tất không phải là đối tượng tùy tăng của tùy miên kia. Do khi duyên nơi thế dụng này tức đã làm tổn giảm phiền não kia.

Vì sao địa dưới khởi đạo thế tục, không thể đối trị tùy miên của địa trên? Vì không phải là đối tượng tùy tăng của tùy miên kia, vì không thuận với phiền não kia đã sinh trưởng. Nên phải thừa nhận chủ thể đối trị tùy miên của địa trên, nhất định địa trên không phải là thế tục của địa dưới. Vì hành nhàm chán cảnh nơi đối tượng duyên của đạo đoạn, không phải chán bỏ địa dưới, có thể lìa nhiễm của địa trên, vì địa trên so với địa dưới là rất vi diệu.

Do đấy chứng biết chỉ sức của đạo vô lậu mới có thể lìa nhiễm của xứ Hữu đảnh, lý ấy là khéo thành.

Phiền não hiện có trong tám địa còn lại, do chung hai đạo có thể khiến vĩnh viễn lìa bỏ. Vì đạo thế, xuất thế đều cùng có khả năng lìa phiền não.

Đã nêu là do chung hai đạo lìa nhiễm của tám địa, mỗi địa như vậy có bao nhiêu thứ ly hệ đắc? Tụng nêu:

Thánh hai lìa tám tu

Đều hai ly hệ đắc.

Luận nói: Các Thánh hữu học dùng đạo hữu lậu, khi lìa nhiễm của tám địa dưới do tu đạo đoạn, có thể dẫn sinh đủ hai ly hệ đắc. Hai thứ đạo đoạn hữu lậu, vô lậu, ở trong tám địa có đối tượng tạo tác là đồng, nên dùng đạo vô lậu để lìa bỏ nhiễm kia cũng thế, cũng do ở trong ấy đối tượng tạo tác là đồng.

Do đấy, hàng hữu học lìa tám do tu đạo đoạn. Đạo thế xuất thế tùy thuận một hiện tiền, đều tu nơi đạo thế, xuất thế ở vị lai. Đã nói về Thánh giả hai lìa tám tu, đều có thể dẫn sinh hai ly hệ đắc. Căn cứ theo đấy nhận biết Thánh giả tu lìa Hữu đảnh, và khi kiến đạo đoạn thì dùng đạo vô lậu, chỉ dẫn sinh vô lậu ly hệ đắc. Cũng không tu đạo thế tục vị lai, vì so với đạo thế tục là không đồng. Phàm phu lìa tám, dùng đạo hữu lậu, chỉ dẫn sinh hữu lậu ly hệ đắc. Cũng không tu đạo vô lậu ở vị lai, vì chưa nhập Thánh, nên không nói tự thành.

Có Sư khác cho: Do khi đạo vô lậu lìa nhiễm của tám địa dưới do tu đạo đoạn, do đâu nhận biết cũng sinh hữu lậu ly hệ đắc?

Vì có vô lậu xả bỏ, phiền não đắc không thành. Nghĩa là Thánh hữu học, do đạo vô lậu khi lìa nhiễm của các địa kia, nếu không dẫn sinh đồng đối trị ly hệ đắc hữu lậu, tức do Thánh đạo lìa đủ tám địa, về sau khi dựa vào tĩnh lự được chuyển căn, thì xả bỏ ngay các Thánh đạo chậm kém từ trước đến nay, chỉ được tĩnh lự nơi Thánh đạo của quả thắng lợi. Do ly hệ Hoặc của địa trên nên đều không thành, tức là trở lại nên thành phiền não của địa kia, nhưng không phải là đối tượng được thừa nhận.

Thế nên nhận biết nhất định các Thánh hữu học, dùng đạo vô lậu khi lìa nhiễm của tám địa dưới do tu đạo đoạn, cũng dẫn sinh đủ hai ly hệ đắc.

Chứng cứ này là phi lý. Vì sao? Vì Thánh kia nếu như không có đắc do hữu lậu đoạn, cũng không tạo thành phiền não của địa trên, như khi lìa từng phần xứ Hữu đảnh, đạt được chuyển căn. Và phàm phu sinh nơi cõi trên, vì Hoặc không thành. Nghĩa là như từng phần lìa nhiễm của địa xứ Hữu đảnh. Về sau khi dựa vào tĩnh lự, được chuyển căn, vô lậu đoạn đắc, đã xả bỏ tức khắc thì ly hệ của địa kia không có hữu lậu đắc, nhưng Hoặc của địa kia cũng không tạo thành.

Lại, như phàm phu sinh nơi hai định v.v…, tuy xả bỏ phiền não của cõi dục v.v… do đoạn đắc, nhưng phiền não của cõi dục v.v… đã không tạo thành. Vì hữu lậu của cõi dục v.v… do ly hệ đắc. Thuộc về định thứ nhất v.v…, chỉ là chủ thể đối trị của định kia. Nếu sinh nơi địa trên, thì đắc này tất xả bỏ, vì sinh nơi địa trên, tất xả bỏ thiện hữu lậu của địa dưới. Hai địa này tuy không có đắc do đoạn trừ phiền não, nhưng vì thắng tấn, nên ngăn chận Hoặc được sinh. Ly hệ kia cũng nên như thế. Tức chứng cứ của Sư kia nêu là phi lý. Do đấy chỉ có thể nói như thế này: Hai đạo ở trong đó, vì đối tượng tạo tác là đồng, nên tùy theo một hiện khởi dẫn sinh hai đắc. Không thể nói cho là đoạn thành.

Đã biện về lìa nhiễm, do đạo không đồng. Nay tiếp theo nên biện do địa có sai biệt. Do đạo của địa nào, lìa nhiễm của địa nào? Tụng nêu:

Đạo vô lậu vị chí

Hay lìa tất cả địa

Tám còn, lìa tự trên

Hữu lậu lìa tiếp dưới.

Luận nói: Các đạo vô lậu đều dựa chung nơi chín địa. Nghĩa là bốn tĩnh lự, vị chí, trung gian và ba vô sắc. Nếu vị chí gồm thâu thì có thể lìa cõi dục cho đến xứ Hữu đảnh. Tám địa còn lại gồm thâu thì tùy theo đối tượng ứng hợp của chúng, đều có thể lìa nhiễm của địa mình và địa trên, không thể lìa địa dưới. Khi chưa lìa địa dưới, thì đạo của địa trên tất không hiện ở trước. Các đạo hữu lậu, tất cả chỉ có thể lìa địa dưới tiếp theo, không phải là tự địa v.v…, vì đối tượng tùy tăng của phiền não nơi tự địa thế lực là yếu kém. Vì trước đã lìa, nên các hành giả đã dựa vào địa cận phần để lìa nhiễm của địa dưới. Như đạo vô gián đều thuộc về địa cận phần, các đạo giải thoát cũng là địa cận phần chăng? Không nhất định. Vì sao? Tụng nêu:

Cận phần lìa nhiễm dưới

Đầu ba sau giải thoát

Căn bản hoặc cận phần

Địa trên chỉ căn bản.

Luận nói: Các đạo đã dựa nơi địa cận phần có tám. Nghĩa là bốn tĩnh lự cùng biên dưới của bốn vô sắc. Đối tượng lìa có chín, nghĩa là cõi dục và tám định. Ba cận phần đầu, lìa nhiễm của ba địa dưới. Khi đạo giải thoát thứ chín hiện tiền, hoặc nhập nơi căn bản, hoặc tức cận phần. Năm cận phần trên đều lìa nhiễm của địa dưới. Khi đạo giải thoát thứ chín hiện tiền, tất nhập căn bản, không phải tức cận phần vì căn bản cận phần v.v… là cùng xả căn. Căn bản cận phần của ba tĩnh lự dưới, vì thọ căn khác, nên có khi không thể nhập, chuyển nhập nơi thọ khác, vì ít gian nan. Khi lìa nhiễm của địa dưới, tất vui thích địa trên. Nếu thọ không khác, tất nhập nơi căn bản. Các đạo xuất thế, như vô gián giải thoát, trước đã nói qua. Duyên vào mười sáu hành tướng nơi cảnh của bốn đế, về nghĩa thì so sánh tự thành.

Đạo thế tục thì duyên nơi gì, tạo hành tướng gì? Tụng nêu:

Vô gián giải thoát đời

Thứ lớp duyên dưới trên

Tạo khổ thô, chướng hành

Cùng tĩnh, diệu, ly ba.

Luận nói: Đạo vô gián thế tục và đạo giải thoát, như thứ lớp có thể duyên nơi địa dưới, địa trên, bị khổ thô làm chướng ngại cùng tĩnh diệu ly. Nghĩa là các đạo vô gián duyên nơi tự địa và địa dưới tiếp theo. Các pháp hữu lậu tạo ra khổ thô v.v…, tức trong ba hành tướng tùy theo một hành tướng. Nếu các đạo giải thoát duyên nơi địa kia, tiếp theo địa trên, các pháp hữu lậu tạo ra tĩnh diệu v.v…, tức trong ba hành tướng tùy theo một hành tướng, là căn cứ theo chỗ đã thừa nhận.

Có thuyết cho: Hai đạo đều có ba hành tướng. Không phải các hữu tình ở nơi phần vị lìa nhiễm, các đạo vô gián giải thoát đều đủ ba. Trong các địa dưới, do nhiều trạo cử, nên tịch tĩnh yếu kém, tức gọi là thô. Tuy rất khổ nhọc tạm khiến cho thế dụng của trạo cử yếu kém, nhưng vẫn không thể dẫn sinh lạc mỹ diệu, nên gọi là khổ, có rất nhiều thứ tai hại trở ngại cùng có thể che ngăn, khiến không có công năng nhận thấy phương hướng xuất ly, nên gọi là chướng.

Trong các địa trên, không tạo công dụng, vì trạo cử yếu kém, nên gọi là tĩnh. Không lập ra nhiều sức khó nhọc, do trạo cử yếu kém đã dẫn sinh lạc thù thắng, nên gọi là diệu. Ở trong địa dưới, các tai hại hiện có có thể quyết định nhận thức, khiến tâm không sinh khởi vui thích, cùng có thể vượt qua những thứ kia, nên gọi là ly. Tức biết trong đây đã gồm hiển bày về hành tướng của đạo vô gián, giải thoát, đều có ba, tương phản mà sinh, như thứ tự ấy. Nghĩa là đạo vô gián duyên nơi địa dưới là thô. Trong đạo giải thoát, duyên nơi địa trên là tĩnh. Pháp còn lại cùng trái nhau khởi, như thứ lớp nên biết. Nhưng khi lìa nhiễm khởi, thì không nhất định. Đạo vô gián thế tục và đạo giải thoát, vì có thể lìa nhiễm của chín phẩm nơi địa dưới v.v…, nên biết cũng có chín phẩm sai biệt. Phàm phu trong đây, lìa nhiễm của cõi dục. Ba hành như thô v.v… của chín đạo vô gián, tùy một hiện tiền, đều tu vị lai. Ba hành như thô v.v…, nơi tám đạo giải thoát. Ba hành như tĩnh v.v…, tùy một hiện tiền, đều tu vị lai. Sáu hành như thô v.v…, nơi đạo giải thoát sau đã tu hiện tại, vị lai, như tám đạo giải thoát trước, so với trước là dị biệt. Lại, tu vị lai nơi tĩnh lự thứ nhất đã gồm thâu vô biên hành tướng.

Như thế, cho đến lìa nhiễm của vô sở hữu xứ, đã tu đạo vô gián giải thoát, nên biết.

Nếu các Thánh giả do đạo thế tục lìa nhiễm của cõi dục, theo chín đạo vô gián thì ba hành như thô v.v… tùy một hiện tiền, đều tu mười chín hành ở vị lai. Nghĩa là ba hữu lậu, vô lậu như thô v.v…, mười sáu hành Thánh nơi tám đạo giải thoát. Ba hành như tĩnh v.v…, tùy một hiện tiền, đều tu vị lai hai mươi hai hành. Nghĩa là mười chín hành trước, thêm ba hành như tĩnh v.v… Đạo giải thoát sau thì đã tu hiện tại, vị lai như trước. Tám đạo giải thoát so với trước là dị biệt.

Lại, tu vị lai nơi tĩnh lự thứ nhất đã gồm thâu vô biên hành tướng, chín đạo vô gián lìa nhiễm của định thứ nhất. Ba hành như thô v.v…, tùy một hiện tiền, đều ở nơi vị lai tu mười chín hành. Nghĩa là ba hành như thô v.v… và chỉ mười sáu hành Thánh vô lậu. Mười sáu hành này là thuộc về địa dưới. Vì biên của địa trên không có hành Thánh. Về sau tu hành Thánh, căn cứ theo đây nên biết. Tám đạo giải thoát nơi ba hành như tĩnh v.v…, tùy một hiện tiền, đều tu vị lai hai mươi hai hành. Nghĩa là mười chín hành trước thêm ba hành như tĩnh v.v… Đạo giải thoát sau thì đã tu hiện tại, vị lai như trước.

Tám đạo giải thoát so với trước là khác. Lại tu vị lai nơi hai tĩnh lự đã gồm thâu vô biên hành tướng.

Như thế cho đến lìa nhiễm của vô sở hữu xứ, đã tu đạo giải thoát vô gián, nên biết.

Có Sư khác nói: Phàm phu, Thánh giả lìa dục trong đạo vô gián giải thoát, cũng tu quán bất tịnh, tức niệm từ v.v…, lìa địa trên còn lại tức đã tu như trước. Căn thiện của biên nơi tĩnh lự thứ nhất, vì rộng nên tu hành như thế. Căn thiện của biên nơi các định trên, vì ít nên đối tượng tu như trước. Lại, trong cõi dục có nhiều phiền não, vì muốn đoạn trừ chúng nên tu nhiều pháp đối trị. Địa trên thì không như vậy, nên tu ít pháp đối trị. Lìa nhiễm của cõi dục, do chín đạo vô gián, nơi vị lai đối tượng tu là ba hành như thô v.v… Tám đạo giải thoát chỉ duyên nơi cõi dục, ở vị lai đối tượng tu là ba hành như thô v.v… Duyên chung nơi cõi dục và tĩnh lự thứ nhất, ba hành như tĩnh v.v… duyên nơi tĩnh lự thứ nhất. Đạo giải thoát sau nơi vị lai đối tượng tu là ba hành như thô v.v…, duyên chung nơi ba cõi. Ba hành như tĩnh v.v… duyên nơi tĩnh lự thứ nhất, cho đến Hữu đảnh. Lìa nhiễm của định thứ nhất, chín đạo vô gián là đối tượng tu của vị lai. Ba hành như thô v.v… duyên nơi tĩnh lự thứ nhất. Tám đạo giải thoát là đối tượng tu của vị lai. Ba hành như thô v.v… duyên nơi định thứ nhất, thứ hai. Ba hành như tĩnh v.v… duyên nơi định thứ hai. Đạo giải thoát sau là đối tượng tu của vị lai. Ba hành như thô v.v… duyên chung nơi ba cõi. Ba hành như tĩnh v.v… duyên nơi định thứ ba, cho đến xứ Hữu đảnh. Lìa nhiễm của hai tĩnh lư, ba tĩnh lự, tùy vào đối tượng ứng hợp của chúng, đều căn cứ theo trước để nói. Lìa nhiễm của bốn định do chín đạo vô gián là đối tượng tu của vị lai.

Ba hành như thô v.v… duyên nơi định thứ tư. Tám đạo giải thoát là đối tượng tu của vị lai. Ba hành như thô v.v… duyên nơi định thứ tư và duyên nơi không xứ. Nhưng không phải một niệm, do cõi là khác. Ba hành như tĩnh v.v… chỉ duyên nơi không xứ. Đạo giải thoát sau là đối tượng tu của vị lai. Ba hành như thô v.v…, ba hành như tĩnh đều duyên nơi không xứ, cho đến xứ Hữu đảnh. Lìa nhiễm của không xứ, do chín đạo vô gián là đối tượng tu của vị lai. Ba hành như thô v.v… chỉ duyên nơi không xứ. Tám đạo giải thoát là đối tượng tu của vị lai. Ba hành như thô v.v… duyên nơi không thức xứ. Ba hành như tĩnh v.v… chỉ duyên nơi thức xứ. Đạo giải thoát sau là đối tượng tu của vị lai. Ba hành như thô v.v…, ba hành như tĩnh v.v… đều cùng duyên nơi thức xứ, cho đến xứ Hữu đảnh. Lìa nhiễm của thức xứ, lìa nhiễm của vô sở hữu xứ, tùy vào đối tượng ứng hợp của chúng, đều căn cứ theo trước để nói.

Do đâu trong đạo giải thoát sau cùng là đối tượng tu của vị lai? Ba hành như thô v.v… thuộc về tĩnh lự, thì duyên chung nơi ba cõi, thuộc về vô sắc, thì chỉ duyên nơi tự địa và địa trên.

Vì trong các tĩnh lự có trí duyên khắp, căn bản, vô sắc tất không duyên nơi địa dưới, nên hai đối tượng tu, đối tượng duyên có khác.

Trong đây, một loại Luận sư của phái Thí dụ, vì muốn hiển bày thành nghĩa phân biệt luận nên nêu bày như thế này: Không có phàm phu thật sự đoạn trừ phiền não, vì có thoái mất. Nghĩa là nếu có khả năng thật sự đoạn trừ Tát-ca-da-kiến của xứ Hữu đảnh, thì tất không thoái mất. Nếu có thoái mất, tất chưa thật sự đoạn trừ. Đã thừa nhận phàm phu đối với các phiền não của tám địa dưới đoạn trừ, có thể có thoái mất, nên không có phàm phu thật sự đoạn trừ phiền não.

Thuyết của Luận sư kia là phi lý. Vì đối với Hoặc của xứ Hữu đảnh có điều phục, không điều phục đều có lỗi. Nghĩa là các phàm phu đối với Hoặc của xứ Hữu đảnh, là thừa nhận có điều phục hay thừa nhận không có điều phục? Nếu thừa nhận phàm phu điều phục Hoặc của xứ Hữu đảnh, như điều phục các phiền não của địa dưới xong, phàm phu đó đối với địa dưới, tất không thọ sinh.

Như thế đã có thể điều phục hoặc của xứ Hữu đảnh, nên đối với Hữu đảnh cũng không thọ sinh, tức là phàm phu nên chứng viên tịch. Nếu điều phục Hữu đảnh, cũng sinh nơi Hữu đảnh, không phải là điều phục địa dưới, cũng sinh nơi địa dưới, tức là không hợp. Vì Hoặc của xứ Hữu đảnh đã đoạn rồi, không thoái chuyển, so với địa dưới khiến đồng. Nếu thừa nhận phàm phu không điều phục Hoặc của xứ Hữu đảnh, vì đạo thế tục đối với Hữu đảnh là không có khả năng. Chỉ thừa nhận phàm phu kia có thể điều phục Hoặc của địa dưới, cũng không hợp. Vì Hoặc của địa Hữu đảnh đoạn xong không thoái chuyển, so sánh với địa dưới khiến đồng. Như thế, suy tìm, nêu hỏi, cả hai đều có lỗi, nên không thể nói phàm phu kia thật sự không có đoạn trừ phiền não. Tuy nhiên, Luận sư kia đã nói về kiến do Hữu đảnh gồm thâu các Hoặc như thân kiến v.v… đoạn xong không thoái chuyển, chứng biết các Hoặc hiện có của các địa dưới, cũng nên như xứ kia đoạn xong, không có thoái chuyển.

Đã nhận thấy phàm phu đối với Hoặc của địa dưới đoạn rồi, trở lại thoái chuyển, nên biết phàm phu đối với các Hoặc của địa dưới thật sự chưa có thể đoạn.

Giải thich này là không hợp lý. Vì người đoạn khác nhau. Nghĩa là không phải chúng ta thừa nhận các phàm phu đối với Hoặc của xứ Hữu đảnh, có nghĩa có thể đoạn trừ. Vì đoạn Hữu đảnh, đạo thế tục sinh không có đối tượng nương dựa. Cùng tức ở trong đó, đạo giải thoát khởi, không có đối tượng duyên. Hoặc của các địa dưới, phàm phu có thể đoạn. Đã có thể đoạn, thì phàm Thánh có khác, cũng nên thừa nhận có thoái chuyển, không thoái chuyển là khác nhau. Vì sao nêu lên lý Thánh đoạn không có thoái chuyển? So sánh với phàm phu đoạn cũng khiến không thoái chuyển? Lại vì không thành. Nghĩa là không phải chúng ta thừa nhận Hoặc của xứ Hữu đảnh đoạn xong, không có thoái chuyển.

Sự việc này đã không thành, vì sao có thể lấy lý không thoái chuyển của Thánh kia để so với địa dưới khiến đồng?

Tuy Tát-ca-da-kiến thuộc về xứ Hữu đảnh đã đoạn rồi, không thoái chuyển, nhưng Luận sư kia không thừa nhận địa trên có điều phục như Hoặc của địa dưới, nên không thể dùng đoạn Hoặc không thoái chuyển của xứ kia, để so sánh với Hoặc của địa dưới được đoạn, không có lý thoái chuyển.

Không điều phục, có điều phục, đây kia đã có khác, thì có thoái chuyển, không thoái chuyển, cũng nên thừa nhận là khác nhau. Lại vì đạo khác. Nghĩa là không phải đạo này đoạn trừ Tát-ca-da-kiến của xứ Hữu đảnh, tức do đạo này, các loại phàm phu đoạn trừ phiền não hiện có của tám địa dưới. Đạo đã có khác, tức nên thừa nhận Hoặc được đoạn, có hai thứ thoái chuyển, không thoái chuyển có sai biệt. Do các Hoặc được đoạn là quả của đạo.

Nếu cho nghĩa này nên sinh khởi nghi, thì về lý cũng không đúng, vì nêu bày đã phân minh. Nghĩa là về lý kia hoặc nên tư duy như thế này: Đạo đối trị của Thánh, phàm đã có sai biệt liền có thể sinh nghi. Các loại phàm phu đã có thoái mất, vì đoạn hay không đoạn, điều này không nên nghi. Đức Thế Tôn ở nơi xứ xứ đã thuyết giảng phân minh hiển bày: Trong các phàm phu có đoạn trừ phiền não và lìa nhiễm. Nghĩa là Khế kinh nói: Trong các phàm phu có đoạn trừ năm cái, đoạn vui, đoạn khổ. Lại, Khế kinh nói: Ốt-đạt-lạcca, Át-la-ma-tử đều có thể đoạn trừ các dục.

Lại, Khế kinh nói: Xưa có vị tiên ngoại là đạo sư của đời tên là Diệu Nhãn, vị ấy ở nơi cõi dục đã được lìa nhiễm.

Lại thấy Khế kinh phân biệt về xứ nghiệp nói: Có vị tiên ngoại đã lìa nhiễm của cõi dục. Do đấy chứng biết vì đạo có khác, nên các loại phàm phu, đối với Hoặc của tám địa, tuy có thật sự đoạn, nhưng có nghĩa thoái chuyển. Không phải vì đạo khác, nên không thể thật sự đoạn trừ. Thế nên ở đây không nên sinh nghi.

Nếu cho trong đây chỉ không hiện khởi, gọi là đoạn lìa nhiễm. Như ở xứ khác thì nói câu đoạn lìa nhiễm.

Điều này cũng không đúng, vì không có nhân quyết định, vì có lỗi thái quá. Nghĩa là người kia hoặc tư duy như thế này: Chỉ không hiện hành, gọi là đoạn lìa nhiễm. Như đối với phần vị tử, cũng nói chữ đoạn, không phải khi đang chết, thật sự có đối trị đoạn.

Lại như có thuyết nói: Ở trong thôn ấp, có các đồng nam, hoặc các đồng nữ, đang vui đùa vun đắp cát đất làm nhà, làm thành cho là vật quý báu, trong chốc lát trở lại được lìa nhiễm.

Ý của thuyết kia nói: Làm rõ ở trong cảnh ấy, tham không còn hiện hành, không phải thật sự là đoạn lìa. Thế nên trong đây chỉ không hiện khởi, gọi là đoạn lìa nhiễm. Tạo chứng không thành, nên điều này nhất định không đúng, vì không có nhân quyết định.

Ở đây đã nói câu đoạn lìa nhiễm thì có nhân quyết định nào để có thể làm chứng thành thực?

Chỉ hiển bày phiền não tạm thời không hiện hành, không phải là làm rõ thành đã được đoạn trừ các Hoặc.

Nếu cho Thánh giả đoạn Hoặc, tất không có thoái chuyển, còn phàm phu có thoái chuyển, nên biết là chưa đoạn, thì điều này cũng không đúng, vì không phải là cực thành. Không phải Thánh không thoái chuyển là đối tượng cực thành, nên ở đây không có chứng của nhân nhất định.

Lại ở đây đã nói câu đoạn lìa nhiễm, nếu chỉ không hiện hành, thì có lỗi thái quá, vì ở nơi xứ khác có nói. Thánh đạo gọi là đoạn lìa nhiễm. Ông cũng nên xét chỉ không hiện hành, như xứ khác đã nói.

Thế nên thuyết kia chấp quyết định là phi lý.

Vì sao nhận biết được câu nói đoạn lìa nhiễm này, không phải là điều phục triền hiện tại, là đoạn trừ Hoặc đã đạt được?

Ở đây như Thánh giả, cũng sinh lên địa trên. Nghĩa là Thánh hữu học, đoạn trừ Hoặc của địa dưới đạt được, mới được sinh lên địa trên. Kia đây đồng thừa nhận loại phàm phu này, cũng được sinh lên địa trên, tức cũng nên thừa nhận đắc Hoặc của địa dưới là đạt được.

Nếu cho vì đạo khác, nên không đồng, tức đã làm rõ thành phàm phu đoạn trừ có thoái chuyển. Có thoái chuyển, không thoái chuyển, đủ chứng tỏ là đạo riêng khác.

Vì sao chủ yếu đoạn trừ, điều phục, mới làm rõ là đạo khác?

Do đạo khác, nên khiến các phiền não điều phục, đoạn trừ có sai biệt, không phải vì đạo khác. Tuy đã thật sự đoạn trừ, nhưng thoái chuyển, không thoái chuyển là dị biệt.

Những điều đã nói như thế, lấy lý gì làm chứng?

Lại nên tất cả tâm thiện, vô ký, nhưng người mạng chung tuy phiền não có được, trong thân chưa đoạn, cũng được sinh lên địa trên. Vì sao? Vì lìa triền hiện tại. Nghĩa là ở nơi phần vị này, tâm thiện, vô ký hiện ở trước, phiền não của tự địa tất không hiện tiền, nên gọi là lìa. Không phải do đấy, nên phiền não không hiện hành, so với do duyên khác, ít có sai biệt. Lại, không phải pháp riêng vì có sai biệt, nên có thể khiến trong đây cũng có sai biệt. Cùng lìa không khởi vì không có đối tượng trừ bỏ. Nghĩa là không phải pháp riêng ở trong phần cùng nối tiếp ít có đối tượng trừ bỏ. Pháp khác thì không có sức mạnh này, để có thể nói pháp kia là có đối tượng trừ bỏ. Tuy cùng không hiện hành nhưng thời gian thì có riêng khác.

Nếu ý của thuyết kia cho, đạt được trong địa này, người điều phục đối trị, tức sinh nơi địa ấy, nên tâm thiện, vô ký của phần vị mạng chung hiện tiền, tức sinh ở địa mình, không phải nơi địa trên, do phần vị mạng chung, thì tâm thiện, vô ký không thuộc về địa trên để điều phục đối trị. Giải thích này cũng không đúng, vì các pháp nương dựa nơi địa trên để điều phục đối trị các phiền não của địa dưới, là do sức của nghiệp nơi địa trên nên sinh hay là do sức của đạo điều phục đối trị của địa trên. Nếu do sức của nghiệp nên sinh lên địa trên, thì chỉ điều phục phiền não của địa dưới, và địa này tất định nên có chiêu cảm nghiệp của địa này. Do sức của nghiệp ấy, nên nhất định sinh nơi địa ấy.

Nếu do sức của đạo nên sinh lên địa trên, thì dựa vào đạo của địa này, điều phục Hoặc của cõi dục, khi mạng chung chỉ nên sinh nơi địa này. Tức loại phàm phu mạng chung ở cõi dục, tức nên không có, cho đến sinh nơi xứ Hữu đảnh, chỉ nên được thọ sinh nơi tĩnh lự thứ nhất. Đạo này nhất định có thể chiêu cảm sinh nơi địa này. Do đấy chưa đoạn được Hoặc của địa dưới, thì quyết định không thể sinh lên địa trên. Nên thuyết kia đã nói về đạo là đã có khác, liền có thể sinh nghi. Các loại phàm phu đã có thoái mất, vì đoạn hay không đoạn, mà đã nghi như thế, thì nhất định không hợp lý.

Do đấy như đã nói do đạo khác, nên các loại phàm phu đối với Hoặc của tám địa, tuy có thật sự đoạn trừ mà lý thoái chuyển là thành.

Lại có Sư khác cho: Đạo thế tục đối với việc đoạn trừ phiền não quyết định là không thể. Nên Đức Thế Tôn nói: Chủ yếu là đạt được Thánh tuệ mới đoạn trừ phiền não, không phải là các phàm phu.

Đã được Thánh tuệ thì há có thể đoạn trừ Hoặc? Lại Khế kinh nói: Đây hơn kia. Nghĩa là hơn kia rồi thì kia lại không sinh. Nếu kia lại sinh, thì đây không phải là hơn kia. Các loại phàm phu tuy đoạn trừ phiền não, nhưng các phiền não có khi lại sinh. Thế nên nhất định biết phiền não kia đã không thật sự đoạn trừ.

Lại, Khế kinh nói: Nếu thân kiến v.v… khi chưa vĩnh viễn đoạn trừ, thì tham v.v… chưa đoạn. Chủ yếu là thân kiến v.v… kia đã đoạn rồi thì tham v.v… này mới đoạn.

Lại, Khế kinh nêu rõ: Ba pháp Tát-ca-da-kiến, giới cấm thủ, nghi chưa đoạn, thì rốt cuộc không thể đoạn trừ tham, sân, si.

Các loại phàm phu đã chưa có thể đoạn trừ hữu thân kiến v.v… Thế nên nhất định biết tất chưa thật sự đoạn trừ phiền não như tham v.v…

Điều này cũng không đúng, vì khen người hơn, nên mật thuyết về tham, sân, si của xứ Hữu đảnh. Nghĩa là Đức Phật, Thế Tôn vì khen ngợi người hơn, nên nói đoạn trừ phiền não, chủ yếu là đạt được Thánh tuệ, vì các Thánh tuệ đối với việc đoạn trừ phiền não, trong quán như lý rất là thù thắng. Thế gian cũng có căn cứ theo phần hơn hẳn để nói: Chủ yếu là chân quốc vương mới có thể hộ quốc. Chủ yếu là chân thiện sĩ mới không bị rơi vào chốn ngu si, lừa dối.

Thế nên kinh này chỉ căn cứ ở phần đạo đoạn trừ phiền não rốt ráo, mật ý mà nói, không thể do đấy, liền có thể ngăn chận công dụng đoạn trừ phiền não của các đạo thế tục. Do đấy đã giải thích câu kinh nói đây thắng kia. Nghĩa là căn cứ theo Thánh đạo đoạn trừ Hoặc hoàn toàn vĩnh viễn không có thoái mất, mật ý nêu bày. Như thế gian nói: Ăn thức ăn này xong, thì trọn không có biến đổi, loại bỏ hết, gọi là ăn thức ăn này. Đốt cháy vật này xong, thì trọn không còn sinh, gọi là đốt cháy vật này. Không phải về sau biến đổi, loại bỏ hết và về sau sinh, là không phải ăn, không phải đốt cháy, chỉ căn cứ ở phần rốt ráo, không có biến đổi sinh để nói. Đoạn trừ phiền não này cũng nên như thế.

Nếu không như vậy thì phiền não đã đoạn, về sau nếu sinh lại, tức khi đối với chánh đoạn, tức nên không gọi là hơn. Tuy không phải là vĩnh viễn hơn, nhưng tạm thời hơn. không phải là không có. Vì sao dẫn chứng này cho là không thật sự đoạn?

Hữu thân kiến v.v… khi chưa đoạn trừ vĩnh viễn, thì ba thứ tham, sân, si tất chưa đoạn. Điều này đối với phần tôi đã nêu lý cũng không trái. Đây là căn cứ theo xứ Hữu đảnh, mật ý nêu bày. Nghĩa là Hoặc của địa xứ Hữu đảnh do kiến đạo đoạn, trước đã đoạn, thời gian sau mới đoạn trừ Hoặc do tu đạo đoạn. Đây là căn cứ theo chỗ đoạn trừ Hoặc do kiến đạo đoạn trừ hoàn toàn rồi, thời gian sau mới đoạn trừ Hoặc do tu đạo đoạn, mà nói. Đã do mật ý nói, thì không thể làm chứng. Kinh này quyết định là do mật ý nói, vì ở đây tức lại nói lời này: Nếu đối với ba pháp chưa đoạn trừ, tất không thể đoạn trừ hữu thân kiến v.v… Ba pháp gồm: (1) Tác ý phi lý. (2) Tập cận tà đạo. (3) Tánh của tâm thấp kém.

Đó gọi là ba. Nhưng tất không thể trước đoạn trừ ba pháp, thời gian sau mới đoạn trừ hữu thân kiến v.v…, vì trước kiến đạo không có đối trị hữu thân kiến kia, nên chứng biết kinh này là do mật ý nói.

Đây là đối với điều phục ở trước, nói tiếng đã đoạn. Về sau kiến đạo hiện tiền mới thật sự là đoạn trừ thân kiến v.v… Luận giả Chánh lý nói như thế này: Dựa nơi đạo thế tục cũng có thể đoạn trừ Hoặc, vì có giáo lý là chứng cứ phân minh. Lại có giáo, nghĩa là Khế kinh nói: Các ông nếu có thể đoạn trừ vĩnh viễn một pháp, ta chứng nhận là các ông được quả Bất hoàn.

Một pháp là gì?

Nghĩa là hữu thân kiến. Ý của kinh này nêu rõ: Người lìa dục trước là nhập hiện quán đế, đoạn trừ hữu thân kiến. Khi hiện quán mãn thì được quả Bất hoàn. Không phải trước người chưa lìa tham của cõi dục, khi hiện quán mãn, được quả Bất hoàn. Nên đạo thế tục thật sự có công năng đoạn trừ Hoặc. Nếu ý của thuyết kia cho đoạn thân kiến xong, thời gian sau dần đạt được quả Bất hoàn. Chứng tỏ dựa nơi nghĩa như thế, mật nói lời ấy. Không phải khi đoạn thân kiến là được quả Bất hoàn.

Luận giải này cũng phi lý. Nếu dựa vào thuyết ấy, thì kinh cũng nên nói là được quả ứng. Nghĩa là đoạn trừ thân kiến, ở trong thời gian sau cũng dần dần đạt được quả A-la-hán. Tuy nhiên, trong Khế kinh không nêu bày như thế, nên biết chỉ căn cứ ở người trước đã lìa dục, nhập hiện quán đế đoạn trừ hữu thân kiến. Khi hiện quán mãn, được quả Bất hoàn, mật tạo ra thuyết ấy, cũng được thành chứng. Nhưng ở trong phần vị hiện quán Thánh đế, không có nghĩa không được quả mà thoái xuất.

Lại, người lìa dục kia không chấp nhận lại được quả khác, nên như kinh nói: Các ông nếu có thể đoạn trừ hữu thân kiến, thì ta chứng nhận là các ông tất được quả Bất hoàn, không phải là vô gián đắc. Nên không có lỗi, lý tất nên như thế. Do trong kinh khác, Đức Thế Tôn cũng nói: Sau khi được định thứ tư, nhập hiện quán, thì đắc quả Bất hoàn. Nghĩa là Khế kinh nêu rõ: Hành giả kia do Thi la như thế viên mãn, có thể lìa các pháp dục ác bất thiện, nói rộng cho đến: Khổ an trụ đủ nơi tĩnh lự thứ tư. Hành giả do đẳng trì như thế viên mãn, đối với khổ Thánh đế, thấy biết như thật. Nói rộng cho đến: Được quả Bất hoàn.

Nếu cho: Há không phải tức kinh này nói, hành giả kia do thấy biết như thật về bốn đế, liền có thể đoạn trừ vĩnh viễn năm kiết phần dưới.

Nếu hành giả kia khi trước đã lìa nhiễm của cõi dục, đã có thể thật sự đoạn trừ kiết như dục tham v.v…, thì không nên nói là trước đã lìa dục. Nay Thánh đạo khởi mới đoạn trừ kiết kia, không phải trước đã đoạn, có nghĩa lại đoạn, nên giáo đã dẫn để làm chứng là không thành.

Luận giải này cũng không đúng. Vì ý của kinh ấy là làm rõ bấy giờ chỉ được quả Bất hoàn. Nghĩa là các người dần dần được Bất hoàn, lúc ấy tất đoạn trừ hoàn toàn năm kiết, vì khiến nhận biết rõ người lìa dục từ trước nhập hiện quán đế, chỉ được Bất hoàn, nên nói bấy giờ đã đoạn năm kiết phần dưới.

Ý của lời nói này cho là liền có thể đoạn hết, không phải cho là thời nay có thể đoạn chung năm, lý tất nên như thế. Do sức của kiến đạo, không thể đoạn trừ kiết tham, sân một cách trọn vẹn. Chủ yếu là đoạn trừ trọn vẹn mới chứng Bất hoàn.

Do đấy, nhất định biết người trước lìa dục, đã có thể thật sự đoạn trừ hai kiết phần dưới. Vì để hiển bày người kiến đế kia, chỉ chứng Bất hoàn, nên nói người Bất hoàn ấy, vào thời nay đã đoạn trừ năm kiết phần dưới. Hoặc ý này là nhằm làm rõ người kia vào thời hiện nay, đoạn trừ kiết ấy lại sinh, nên mật nói như thế. Nghĩa là nếu không nhập hiện quán Thánh đế, thì loại phàm phu kia tuy đoạn trừ tham, sân, nhưng thời gian sau nhất định nên trở lại thoái mất. Hoặc ở đây đối với xa giả nói tiếng gần. Như nói: Nhà vua nay từ đâu đến v.v…? Nghĩa là tuy trước đã đoạn trừ hai kiết tham, sân, nhưng là đồng với thế tục. Nay nói liền đoạn. Như nhà vua đã đến đây lâu sau khi rời khỏi chốn khởi hành, nhưng giả nói nay từ đâu đến v.v…

Hoặc ba kiết của người kia khi nhập hiện quán, hiện có ly hệ đắc, vô lậu đắc, vì hai kiết tham, sân đã được vĩnh viễn không sinh, nên nói: Bấy giờ, đoạn trừ năm kiết cũng không có lỗi.

Nếu cho tuy nói sau khi đạt được định thứ tư, nhập hiện quán, đắc quả Bất hoàn, nhưng không nhất định nói đoạn trừ điều phục địa dưới, vì sao nhất định nhận biết Hoặc của địa dưới kia, đều đã thật sự đoạn đắc, không phải chỉ điều phục triền hiện tại?

Sự việc ấy không nên nghi, do kinh này nêu rõ: Vì được Bất hoàn, nên không thể nói là về sau dần dần mới được. Vì trước đã phá bỏ. Lại, trước đã nói: Phàm phu lìa dục cũng như Thánh giả sinh lên địa trên. Nghĩa là chỉ có khả năng điều phục phiền não của địa dưới, liền sinh nơi địa trên, không phải là đối tượng cực thành. Chỉ có thể thật sự đoạn trừ phiền não của địa dưới, liền sinh nơi địa trên, là đối tượng cực thành, tức nên ở trong đây không nên do dự.

Như thế gọi là có giáo chứng, nên biết đạo thế tục cũng có thể đoạn trừ Hoặc.

Nói có lý: Nghĩa là sức của phiền não có thể trói buộc tự thân khiến cho cõi, địa riêng khác. Nếu Hoặc của cõi dục chưa được thật sự đoạn trừ, mà có thể đi đến sinh nơi cõi sắc, cõi vô sắc, thì các phiền não tức nên không có công năng trói buộc sinh nơi cõi, địa, khiến có sai biệt.

Nếu cho chưa điều phục đối trị phiền não của địa dưới, tất không sinh nơi địa trên là công năng kia thì điều này cũng không đúng. Vì tuy điều phục phiền não hiện có của địa này, nhưng cũng sinh nơi địa này. Nghĩa là có khả năng điều phục phiền não của xứ Hữu đảnh, nhưng lại được sinh nơi địa của xứ Hữu đảnh. Tuy nhiên, dựa vào địa mình, khởi đạo thế tục, cũng có thể điều phục phiền não của địa mình. Như quán bất tịnh, hành trì tức niệm v.v…, cũng điều phục phiền não hiện hành của địa mình, được đoạn trừ phiền não. Chủ yếu ở trong các phiền não của địa này, đạt được đạo giải thoát, điều phục phiền não, khiến chúng tạm thời không hiện hành. Oai nghi, công xảo cũng có lực này, huống chi tâm thiện dấy khởi mà không có công năng. Như trụ trong đạo giải thoát này, có thể điều phục phiền não hiện có của tám địa, khiến chúng không hiện hành.

Ở nơi xứ Hữu đảnh do đâu riêng một mình không thể điều phục?

Thuyết kia nhất định nên thừa nhận nghĩa lý như thế. Nếu không thừa nhận như vậy thì các hữu tình đã lìa nhiễm của vô sở hữu xứ, tâm trông mong không khởi để nhập hiện quán đế.

Người chứng vô học, vì sao không điều phục phiền não của xứ Hữu đảnh, liền khởi đoạn trừ phiền não kia, khiến Thánh đạo hiện tiền? Nên trụ trong Thánh đạo này, tất ở nơi xứ Hữu đảnh có điều phục phiền não. Trí phương tiện thiện đã không thể nói là không đoạn các phiền não của xứ Hữu đảnh đắc, chỉ do điều phục phiền não hiện hành của xứ kia tức không sinh nơi xứ ấy. Đối với tám địa dưới, so sánh cũng nên như thế.

Do đấy, nhất định biết các đạo thế tục cũng đoạn trừ phiền não, lý đó cực thành.

Lại, các người Dự lưu được sinh nơi cõi vô sắc, nếu điều phục phiền não của địa dưới, tức được sinh nơi địa trên. Có các phàm phu trước đã điều phục hai cõi, về sau khi nhập kiến đạo, hiện quán mãn, tức nên được quả Dự lưu, không phải là quả Bất hoàn. Vì Hoặc của ba cõi do tu đạo đoạn đã thừa nhận là trói buộc đủ. Vì kiến đạo không phải là đoạn đối trị Hoặc kia.

Người Dự lưu kia trụ nơi quả vị, nếu một khi mạng chung, thì quyết định nên thừa nhận sinh nơi cõi vô sắc, vì Hoặc của hai cõi dưới trước đó đã điều phục. Nếu sinh nơi cõi vô sắc kia là đã đoạn trừ Hoặc của cõi dục v.v…, thành A-la-hán, là trái với Khế kinh. Như Khế kinh nói: Có năm Thánh giả ở xứ này thông đạt ở xứ này được cứu cánh, không phải Thánh giả kia có nhân quyết định. Chủ yếu là trở lại sinh nơi cõi này mới chứng viên tịch. Nếu cho đã nói tối đa là bảy lần trở lại hữu, nên nhất định từ vô sắc kia trở lại sinh nơi cõi này, về lý cũng không đúng.

Lời nói này chỉ căn cứ theo nẻo người, trời thuộc cõi dục để mật ý nêu bày.

Đâu thể nhận biết bảy lần trở lại là căn cứ nơi cõi dục để nói.

Chỉ căn cứ vào Hoặc của cõi dục được đoạn do tu đạo đoạn để lập ra danh xưng như Gia gia v.v… có sai biệt. Nghĩa là vì đoạn năm thứ kiết phần dưới, nên gọi là quả Bất hoàn. Ở trong phần dưới, các thứ dục tham, giận dữ và si vì mỏng, nên gọi là quả Nhất lai. Hướng của quả Bất hoàn gọi là Nhất gián. Hướng của quả Nhất lai gọi là Gia gia. Ở đây đã chỉ căn cứ theo Hoặc của cõi dục do tu đạo đoạn để lập ra danh xưng có sai biệt. Nên biết chỉ dựa vào Hoặc của cõi dục do tu đạo đoạn, đều ở vị chưa đoạn để lập bảy lần trở lại hữu.

Nếu căn cứ ở phần chưa vượt qua phiền não của địa này để lập bảy lần trở lại sinh, thì biết chỉ ở nơi địa chưa vượt qua, thọ nhận bảy lần trở lại hữu, nên bảy lần trở lại hữu không phải là ở cõi sắc, vô sắc. Lại, người trước đã lìa tham của hai cõi, thì không nên kiến lập tên gọi bảy lần trở lại hữu, vì người ấy chỉ thuộc về hàng lợi căn. Còn tối đa bảy lần trở lại sinh là thuộc về loại độn căn.

Lại, thuyết kia đã nói là trái với kinh của tự tông. Không phải kinh của tông kia thừa nhận bảy lần trở lại hữu, hoặc cùng có nghĩa thọ sinh lần thứ tám. Xứ sinh của cõi sắc, vô sắc là rất nhiều, ở những nơi đó, không có chấp nhận tối đa chỉ bảy hữu.

Lại, xứ trời kia sinh đủ lần thứ bảy, quyết định không cùng trở lại sinh nơi xứ này. Vì thế sự việc trở lại so với kinh là trái nhau. Nên Khế kinh nói: Có năm Thánh giả ở xứ này thông đạt, ở xứ này được cứu cánh.

Lại, bảy lần trở lại sinh, không phải tất định thọ nhận, vì tiếng tối đa chỉ nói về số lượng tối đa. Dự lưu đi đến xứ kia để thọ sinh lần thứ hai, liền bát Niết-bàn, cũng ở đây thông đạt, ở xứ kia được cứu cánh, nhất định là trái với kinh trước.

Vì thế tất không có chỉ điều phục phiền não hiện có của địa dưới liền được sinh lên địa trên.

Các phàm phu đã có lý sinh lên địa trên, nên biết đạo thế tục cũng có công năng đoạn trừ Hoặc.

Có người chấp thế này: Các hữu tình trước đã lìa tham của cõi dục, sau nhập kiến đế, khi hiện quán đạo thì được quả Dự lưu. Dục tham giận dữ tuy không hiện hành, nhưng vẫn có đắc của các thứ kia luôn theo đuổi trói buộc. Tức thuyết kia lại cho lúc hiện quán đạo, tuy tất định được quả Dự lưu, nhưng thời gian chứng đắc thì rất ngắn.

Trong các Khế kinh nói thế này: Người trước đã lìa dục, ở phần vị hiện quán đạo chứng quả Dự lưu.

Lại nói như thế này: Hiện quán đế đều cùng được Bất hoàn. Đây là đối với vô gián, lập dùng tiếng cùng có. Như Khế kinh nêu rõ: Các loài hữu tình sinh nơi trời Vô tưởng, về sau tưởng khởi đều cùng có, liền từ trời Vô tưởng kia mất. Lại nói: Ở phần vị hiện quán đạo, vì được đạo hơn hẳn, nên lìa tham của cõi dục, tức ở vào lúc bấy giờ được quả Bất hoàn.

Như thế, tất cả trước sau là trái nhau, như đám trẻ thơ ấu tự nơi nhà mình nói năng. Nghĩa là nếu thuyết kia nói: Người trước đã lìa dục, khi hiện quán đạo, được quả Dự lưu. Các thứ dục tham, giận dữ tuy không hiện hành, nhưng vì có đắc của những thứ kia luôn theo đuổi trói buộc, thì không nên nói là ở phần vị hiện quán đạo đã được đạo hơn hẳn. Người lìa tham của cõi dục, tức vào thời bấy giờ được quả Bất hoàn, do tất không thể khi hiện quán đạo, cùng được cả hai quả: Dự lưu, Bất hoàn.

Nếu môn sau là nên bỏ môn trước. Nếu môn trước là nên bỏ môn sau. Trước sau cùng trái nhau là không cùng có. Thế nên nếu ý của thuyết kia cho: Như khi đạo của địa trên hiện ở trước, tất định nên tu đạo thuộc địa dưới, vì khi đạo thù thắng hiện tiền, thì khả năng tu yếu kém, thì ở đây cũng nên như vậy, tức nơi phần vị hiện quán đạo, thì được đạo hơn hẳn. Vì đã lìa tham của cõi dục, ở vào thời bấy giờ là được quả Bất hoàn.

Luận giải này là không hợp lý. Vì sao? Vì tông của thuyết kia không lập có vị lai, nên chấp lìa ngoài pháp thì không có đắc riêng. Đạo không hiện hành, có thể lìa kiết dục tham và giận dữ, về lý là không thành. Do kiến đạo không có khả năng đoạn trừ Hoặc do tu đạo đoạn. Cả hai đạo đều không chấp nhận cùng có hiện tiền.

Lại, thuyết kia đã nói ở nơi phần vị hiện quán đạo, được đạo hơn hẳn, thì Thể của nó là gì? Không phải ở vào thời bấy giờ, có đạo hơn hẳn khác, có thể đang hiển bày chỉ rõ về đối tượng chứng đắc này.

Đã không thể nêu bày về tướng của đạo đã chứng đắc, đâu thể nói đạo này có khả năng lìa dục tham để nói là vào bấy giờ được quả Bất hoàn? Vì thế thuyết kia đã nêu chỉ tuân theo tình mình. Lại, không nên cho khi hiện quán đạo, tuy tất định được quả Dự lưu, nhưng khi chứng đắc thì rất ngắn, do trong các Khế kinh không nói lời này: Người trước đã lìa dục, nơi phần vị hiện quán đạo đã chứng quả Dự lưu. Cũng không nên nêu khi hiện quán đế đều cùng được Bất hoàn. Bất hoàn này ở nơi vô gián lập, dùng tiếng đều cùng có. Vì sao? Vì thiếu Nhất lai, nên sau quả Dự lưu, tất trước chứng đắc quả Nhất lai. Không phải Dự lưu vô gián, tức chứng đắc quả Bất hoàn. Khế kinh tức nên nói: Người trước đã lìa dục, ở phần vị hiện quán đạo, chứng quả Dự lưu, nơi hiện quán đế đều cùng được quả Nhất lai. Từ vô gián này mới được quả Bất hoàn. Nhưng vì không nói như thế, nên không hợp lý.

Thế nên Luận giả của thuyết kia, đối với nghĩa của chánh pháp, đã ở nơi mặt trái mà trụ, chấp kinh thuật theo tình của mình, không thể cùng với chánh pháp kia khảo xét về chánh lý.

Luận thêm đã rõ, nên biện về nghĩa gốc. Gốc là nêu bày về các vị căn thiện cùng sinh. Trước đã nói về định kim cang dụ vô gián, tất có tận trí nối tiếp sinh. Tận trí vô gián thì có trí nào khởi? Tụng nêu:

Bất động, sau tận trí

Tất khởi vô sinh trí

Tận khác, hoặc chánh kiến.

Quả ứng này đều có.

Luận nói: Trước hết là các A-la-hán của pháp bất động, tận trí vô gián thì có vô sinh trí khởi. Trí này là gốc nơi đối tượng cầu của trí kia, nên tất cùng với tận trí cùng thời mà được. Nghĩa là trí kia cầu đạt được thuận với các đối tượng kiến giải. Nếu không có liền có chướng ngại khi nhập Niết-bàn. Lúc các A-la-hán đều cùng được trí, tức cũng có chí mong cầu được vô sinh trí. Nhưng tận trí của Thánh giả kia, lý nên sinh khởi trước, là vì trong phần vị nhân trước đã mong cầu. Trước là pháp bất động, sau định kim cang, được vô sinh trí nhưng chưa hiện tiền, khi tận trí vô gián mới được hiện khởi. Trừ bất động trước, còn các A-la-hán khác, thì tận trí vô gián có tận trí sinh. Hoặc tức dẫn sinh chánh kiến vô học, không phải vô sinh trí, về sau cùng có thoái chuyển. Nghĩa là nếu trước là tánh của thời giải thoát, thì tuy ở phần vị của nhân cũng cùng cầu đạt hai thứ, nhưng đến quả tột cùng, thì chấp nhận có thoái chuyển. Nên định kim cang dụ trong phần vị đang diệt, không được vô sinh trí, chỉ được tận trí, nên sau tận trí thì tận trí hiện tiền, hoặc tức dẫn sinh chánh kiến vô học.

Pháp bất động trước, sau vô sinh trí, có vô sinh trí khởi, hoặc chánh kiến vô học. Kiến vô học này thì tất cả ứng quả đã cùng có cũng như tận trí. Nên trong phần vị định kim cang đang diệt, tất cả đều được chánh kiến vô học. Nhưng chánh kiến này không phải là đối tượng đang mong cầu, nên hai trí tận, vô sinh vô gián hoặc có tức khởi, hoặc chưa hiện tiền. Ở trong phần vị này đã tóm lược chung về nghĩa. Nếu trước bất động, đầu tiên khởi tận trí, thì chỉ là một sát-na. Tiếp theo vô sinh trí cũng là một sát-na, hoặc có cùng nối tiếp. Nếu thời giải thoát, đầu tiên khởi tận trí, hoặc một sát-na, hoặc có cùng nối tiếp, hai thời gian này đã khởi chánh kiến vô học, đều không quyết định là sát-na cùng nối tiếp như trước đã nói, vì không phải là các A-la-hán kia đang mong cầu.

HẾT – QUYỂN 66