LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 36

Phẩm thứ 4: BIỆN VỀ NGHIỆP, phần 4

Đã biện về môn nghiệp, lược có hai thứ: Nghĩa là tư nghiệp và tư dĩ nghiệp có sai biệt.

Lại có ba thứ. Nghĩa là thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp có sai biệt.

Lại có năm thứ. Nghĩa là hai nghiệp thân, ngữ đều có biểu, vô biểu và một nghiệp tư duy có sai biệt.

Tánh của năm nghiệp như thế cùng cõi, địa được kiến lập như thế nào? Tụng nêu:

Vô biểu ký, khác ba

Bất thiện chỉ ở dục

Vô biểu khắp dục, sắc

Biểu chỉ có tứ hai

Dục vô hữu phú biểu

Do không có đẳng khởi.

Luận nói: Vô biểu chỉ chung nơi tánh thiện, bất thiện, không có vô ký. Vì sao? Vì là đối tượng cùng khởi của tâm có sức mạnh. Tâm vô ký thì yếu kém, không có công năng làm nhân cùng khởi để dẫn dắt nghiệp của sức mạnh, khiến ở trong phần vị của tâm khác càng về sau và lúc không tâm, cũng luôn nối tiếp khởi.

Nói về khác: Nghĩa là hai biểu và tư. Ba nghĩa là đều chung nơi thiện, bất thiện, vô ký. Trong ấy, bất thiện ở cõi dục, không phải ở cõi khác, vì có căn bất thiện là không hổ không thẹn. Thiện và vô ký tùy theo chỗ ứng hợp của chúng, nơi ba cõi đều có, không ngăn chận riêng. Hai cõi dục, sắc đều có vô biểu, quyết định không ở nơi cõi vô sắc, vì trong cõi ấy, có tưởng chế phục sắc, chán bỏ các sắc, nhập định vô sắc. Vì thế trong định kia không thể sinh sắc. Hoặc tùy theo xứ nào, có thân, ngữ chuyển biến, thì chỉ xứ ấy có luật nghi của thân, ngữ.

Có thuyết nêu: Do cõi vô sắc không có đại chủng, nên không có vô biểu sắc. Thuyết kia chỉ có thể ngăn chận vô biểu hữu lậu, còn vô biểu vô lậu thì không có lý nào có thể ngăn chận. Nghĩa là trong vô sắc, không có đại chủng nên rơi vào cõi hệ thuộc địa nơi luật nghi hữu lậu, tất định không cùng là đại chủng đã tạo của địa, cõi riêng. Vô sắc không có luật nghi vô lậu.

Đã thừa nhận được làm đại chủng đã tạo của cõi riêng, địa riêng.

Cõi vô sắc có lý gì để có thể ngăn chận? Thế nên thuyết trước nói, về lý là không lỗi.

Sư Tỳ-bà-sa nói như thế này: Vì đối trị giới ác, nên khởi Thi la, chỉ trong cõi dục, có các giới ác. Vô sắc đối với cõi dục có đủ bốn thứ xa: (1) Đối tượng nương dựa xa. (2) Hành tướng xa. (3) Đối tượng duyên xa. (4) Đối trị xa.

Đối tượng nương dựa xa: Nghĩa là ở trong phần vị nhập xuất của đẳng chí, đẳng vô gián duyên là thể của đối tượng nương dựa, vì không cùng có.

Hành tướng xa: Nghĩa là tâm ở cõi vô sắc hoàn toàn không có thế đối với pháp của cõi dục tạo các hành tướng như khổ, thô v.v…

Về nghĩa của đối tượng duyên xa, so sánh với hành tướng xa này, nên biết. Do tâm vô sắc chỉ có thể dùng các pháp hữu lậu của dưới tĩnh lự thứ tư, làm đối tượng duyên của hành tướng như khổ, thô v.v…

Đối trị xa: Nghĩa là nếu khi chưa lìa tham của cõi dục, tất định không cùng khởi định vô sắc, có thể làm các pháp như giới ác của cõi dục chán hoại cùng đoạn hai đối trị. Không phải là không thể duyên mà có thể có khả năng chán hoại, nên cõi vô sắc không có vô biểu sắc. Biểu sắc chỉ ở nơi hai địa có tứ. Nghĩa là chung trong cõi dục và tĩnh lự thứ nhất. Không phải trong địa trên có thể nói hữu biểu.

Nói có tứ: Nghĩa là hiển bày tất cả nghiệp hữu biểu có khắp trong tĩnh lự thứ nhất. Nếu ở địa trên, thì biểu nghiệp hoàn toàn không có. Ngữ biểu đã không, thì sao có thanh xứ. Có đại chủng bên ngoài làm nhân phát khởi tiếng, không ngăn chận tiếng bên ngoài, nên không có lỗi.

Có Sư khác nói: Ba tĩnh lự trên cũng có biểu nghiệp vô phú vô ký, lý tất nên như vậy.

Trong ba địa trên, khởi ba thức thân, đã không có mất, vì sao không phát khởi tâm của biểu nghiệp? Nhưng tâm thiện nhiễm ở địa trên, không khởi thiện của địa dưới, dưới. Nhiễm của địa dưới yếu kém nên đoạn trừ. Do đấy sinh lên địa trên không có biểu thiện, nhiễm.

Thuyết trước là tốt. Vì sao? Vì tuy nhiễm kia hiện tiền, nhưng không phải hệ thuộc địa kia, nên biểu hữu phú vô ký, ở cõi dục nhất định không có, chỉ trong tĩnh lự thứ nhất tức có thể nói là có.

Từng nghe Đại phạm có ngôn thuyết dối nịnh. Nghĩa là ở trong tự chúng, vì tránh lời gạn hỏi của Tôn giả Mã Thắng, nên giả vờ tự vui vẻ v.v…

Lại, do duyên gì từ hai định trở lên đều là nghiệp vô biểu?

Vì ở trong cõi dục, không có biểu nghiệp hữu phú vô ký, do không có tâm cùng khởi của nghiệp đã phát sinh. Tâm có tầm tứ có thể phát khởi biểu nghiệp. Hai định trở lên đều không có tâm này.

Há không phải trước đã nói: Sinh nơi ba địa trên, như cũng được khởi thức thân của ba địa dưới?

Biểu nghiệp phát sinh, tâm vì sao không khởi? Há không phải đã nói dựa nơi thân của địa trên, tuy được hiện tiền, nhưng không hệ thuộc địa kia.

Có thuyết nói: Dựa vào thân của địa khác, không phải khởi tâm của địa khác, mà có thể phát sinh thân ngữ biểu.

Nếu như vậy thì kinh nói: Đức Thế Tôn một thời lên trời Tịnh cư, chúng chư thiên của trời kia đã lễ bái, tán thán, cúng dường Đức Thế Tôn.

Kinh này tức nên thành có ngữ không nghĩa.

Lại, nghe kinh nói: Trời Tịnh cư v.v… đi đến chỗ Đức Phật tán thán, lễ bái thưa hỏi. Nên sinh nơi địa khác, khởi tâm của địa khác, phát khởi thân, ngữ biểu, về lý là không lỗi. Tuy nhiên, như thức thân v.v…, không phải là đã hệ thuộc địa kia.

Lại, phát tâm biểu chỉ do tu đạo đoạn. Hoặc do kiến đạo đoạn, vì theo môn trong chuyển biến, do trong cõi dục, quyết định không có Hoặc hữu phú vô ký do tu đạo đoạn. Thế nên biểu nghiệp nơi ba địa trên đều không có. Trong cõi dục không có biểu hữu phú vô ký, vì chỉ do cùng khởi, khiến các pháp thành tánh thiện, bất thiện v.v…

Không như vậy thì thế nào?

Do bốn thứ nhân thành tánh thiện: (1) Do thắng nghĩa. (2) Do tự tánh. (3) Do tương ưng. (4) Do đẳng khởi.

Pháp nào, tánh nào, do nhân nào thành? Tụng nêu:

Thắng nghĩa thiện giải thoát

Tự tánh, căn hổ thẹn

Tương ưng, tương ưng kia

Đẳng khởi sắc và nghiệp.

Trái đây gọi bất thiện

Thắng vô ký: hai thường.

Luận nói: Thắng nghĩa thiện: Nghĩa là chân giải thoát, do nghĩa an ổn gọi là thiện. Tức là trong Niết-bàn, chúng khổ vĩnh viễn vắng lặng, an ổn tột cùng, cũng như không bệnh. Do thắng nghĩa này, an lập tên gọi thiện. Thế nên Niết-bàn gọi là Thắng nghĩa thiện. Hoặc chân giải thoát là thắng, là nghĩa nên được mang tên thắng nghĩa. Thắng nghĩa là tối tôn, không gì sánh bằng. Nghĩa nghĩa là riêng có Thể tánh chân thật. Đây là hiển bày Niết-bàn không gì bằng, là thật có nên gọi là Thắng nghĩa.

Thắng nghĩa như thế, an ổn gọi là thiện. Niết-bàn như vậy là thiện, thường, nên ở nơi tất cả pháp, Thể ấy là tối tôn, vì vậy nêu lên riêng là thắng nghĩa thiện.

Tự tánh thiện: Nghĩa là căn hổ thẹn, do trong hữu vi, chỉ là hổ cùng với thẹn và ba thứ căn thiện như không tham v.v… không đợi tương ưng và cùng khởi khác, thể tánh là thiện, cũng như thuốc hay.

Tương ưng thiện: Nghĩa là tương ưng kia, do tâm tâm sở, chủ yếu là cùng với căn thiện hổ thẹn tương ưng mới thành tánh thiện. Nếu không cùng với hổ thẹn kia tương ưng, thì tánh thiện không thành, như nước, thuốc xen tạp.

Đẳng khởi thiện: Nghĩa là thân, ngữ nghiệp sinh v.v… và được hai định vô tâm. Do tự tánh này và thiện tương ưng đã cùng khởi, nên lập tên đẳng khởi, như nước sắc của thuốc hay đã dẫn sinh sữa. Nhân nơi tâm của loại khác, cũng khởi các đắc, như nhân nơi tĩnh lự, đắc tâm thông quả, vì tâm vô ký vượt hơn hiện tiền, nên được các pháp nhiễm, tâm nhiễm ô hiện ở trước, nên được các pháp thiện. Các pháp này vì sao thành tánh thiện v.v…?

Vì căn cứ nơi pháp kia cùng sinh được, nên mật ý nói như vậy. Không phải tâm của loại khác, không làm duyên khởi, nên không có lỗi. Tuy tâm của loại khác cũng làm duyên khởi mà thành thiện v.v… không phải chờ đợi tâm kia. Hoặc lại nhân nơi các đắc kia cùng khởi, tức chờ đợi duyên kia, nên thành tánh thiện v.v… Đắc do đẳng khởi thành tánh thiện v.v… khác. Như nói về bốn thứ tánh thiện có sai biệt. Bốn thứ bất thiện cùng với thiện này là trái nhau.

Thế nào là trái nhau?

Thắng nghĩa bất thiện: Nghĩa là pháp sinh tử, do trong sinh tử các pháp đều lấy khổ làm tự tánh, rất không an ổn, cũng như bệnh lâu không chữa khỏi.

Tự tánh bất thiện: Nghĩa là không hổ, không thẹn và ba căn bất thiện. Do trong hữu lậu, chỉ không hổ thẹn cùng ba căn bất thiện như tham, sân v.v… không chờ đợi tương ưng và cùng khởi khác. Thể là bất thiện, cũng như thuốc độc.

Tương ưng bất thiện: Nghĩa là tương ưng kia do tâm tâm sở pháp, chủ yếu là cùng với căn bất thiện không hổ, không thẹn tương ưng mới thành tánh bất thiện. Khác thì không như vậy, như nước xen lẫn chất độc.

Đẳng khởi bất thiện: Nghĩa là thân ngữ nghiệp sinh v.v… và đắc, do tự tánh này tương ưng với bất thiện đã cùng khởi, như nước chưng thuốc độc dẫn sinh sữa.

Nếu như vậy tức nên không có một pháp hữu lậu nào là vô ký, hoặc thiện, vì đều thuộc về sinh tử, nên tất cả đều nên là thuộc về bất thiện.

Tuy căn cứ theo lý thật của thắng nghĩa, tức nên như vậy, nhưng ở trong đây, căn cứ theo dị thục để nói, các pháp hữu lậu, nếu không có khả năng ghi nhận quả dị thục, thì lập tên vô ký. Ở đấy, nếu có thể ghi nhận dị thục ái, thì gọi là thiện. Pháp hữu vi vô ký, pháp thiện hữu lậu, do khởi một ít khổ, cũng như bệnh nhẹ, cũng được gọi là thắng nghĩa bất thiện.

Như thiện, bất thiện đã có thắng nghĩa, cũng có pháp vô ký thắng nghĩa chăng?

Cũng có. Vì sao?

Nghĩa là hai pháp thường dùng phi trạch diệt và đại hư không, lại không có môn khác, chỉ là tánh vô ký. Thế nên lập riêng thắng nghĩa vô ký, không khác tự tánh, tương ưng, đẳng khởi, không có một tâm sở, chỉ là tánh vô ký, cùng với tâm vô ký tương ưng khắp. Nếu như theo phương tiện lập ba thứ như tự tánh v.v… cũng gồm thâu không hết, vì vô ký nhiều. Do vô ký này chỉ có hai thứ: (1) Thắng nghĩa. (2) Tự tánh.

Hữu vi vô ký là thuộc về tự tánh, không chờ đợi nhân riêng, để thành vô ký. Vô vi vô ký là thuộc về thắng nghĩa, do tánh là thường, vì không có môn khác.

Nếu sức của cùng khởi khiến thân, ngữ nghiệp thành thiện, bất thiện, thì thân, ngữ nghiệp này đã dựa vào đại chủng, so sánh cũng nên như vậy, vì đều từ một tâm sở cùng khởi.

Vấn nạn này là phi lý, vì tâm của người tạo tác vốn muốn khởi nghiệp không phải là đại chủng. Nghĩa là không có người tạo tác ở trong đại chủng phát khởi dục lạc: Ta sẽ dẫn phát chủng loại đại chủng như thế hiện tiền. Do đấy làm môn, tâm thiện, ác khởi.

Lại, thế gian hiện thấy hai nghiệp thân, ngữ, chờ đợi tâm mà sinh, chưa từng thấy có hai nghiệp thân, ngữ lìa tâm mà khởi. Nhưng bốn đại chủng thì lìa tâm cũng sinh, nên biết pháp kia không phải chờ đợi tâm khởi.

Lại như mắt v.v… không chờ đợi tâm sinh, tánh của nó tức không có thiện v.v… có sai biệt.

Như thế, đại chủng không chờ đợi tâm sinh, nên về lý cũng không có thiện v.v… có sai biệt. Đại chủng như thế là không chờ đợi tâm sinh, nên về lý cũng không có thiện v.v… có sai biệt.

Nếu như vậy các đắc và các tướng như sinh v.v… nên không có đẳng khởi thiện v.v… có sai biệt. Do không phải vì bản tâm đã muốn khởi, nên trong phần vị không tâm cũng hiện khởi.

Vấn nạn này là phi lý. Do uy lực của pháp đã an lập thiện v.v… có sai biệt được thành. Nghĩa là được bốn pháp cùng nương dựa mà lập, không phải như đại chủng không chờ đợi tự thành. Trong pháp hữu vi không có một pháp không chờ đợi sức của tâm mà thành thiện, bất thiện. Thế nên các đắc và các tướng như sinh v.v… như pháp đã bị hệ thuộc, chủ yếu là do sức của tâm thành tánh thiện v.v… lý ấy là khéo thành. Sinh đã lìa tâm, thì tuy cùng nối tiếp chuyển biến cũng không có lỗi. Tức là do uy lực của tâm trước đã dẫn dắt, khiến tâm kia chuyển biến, tùy thuận sức của định v.v… nơi vô biểu định sinh, về lý cũng nên thành.

Tánh thiện đẳng khởi như thiên nhãn, thiên nhĩ, nên thuộc về tánh thiện, do tâm thiện này đã cùng khởi.

Vấn nạn này là phi lý, do tâm nơi đạo giải thoát của hai thông kia là vô ký. Vì hai thông ấy cùng với đạo là cùng thời sinh, nên hợp giống với vấn nạn này, đâu phải nhọc sức nêu đáp.

Như trên đã nói hai nghiệp thân, ngữ do sức của đẳng khởi thành thiện, bất thiện. Đẳng khởi có bao nhiêu thứ? Sức của đẳng khởi nào khiến thân ngữ nghiệp thành thiện, bất thiện? Đẳng khởi đối chiếu nhau có sai biệt như thế nào? Tụng nêu:

Đẳng khởi có hai thứ

Nhân và sát-na kia

Như thứ lớp nên biết

Gọi chuyển, gọi tùy chuyển.

Kiến đoạn, thức chỉ chuyển

Chỉ tùy chuyển, năm thức

Tu đoạn, ý chung hai

 Vô lậu dị thục phi.

Nơi chuyển tánh như thiện

Tùy chuyển đều cùng ba

Mâu ni thiện tất đồng

Vô ký tùy hoặc thiện.

Luận nói: Đẳng khởi của hai nghiệp thân ngữ có hai, nghĩa là nhân đẳng khởi, sát-na đẳng khởi.

Vì ở trước làm nhân, nên sát-na kia có. Như tiếp theo, trước nhất gọi là chuyển, thứ hai gọi là tùy chuyển. Nghĩa là nhân đẳng khởi, khi sắp tạo nghiệp khởi, tư duy như thế này: Ta nay sẽ tạo nghiệp, nên tạo tác như thế, như thế, vì có thể dẫn phát, nên gọi là chuyển. Sát-na đẳng khởi, khi chính thức tác nghiệp, cùng với tâm trước chuyển dẫn phát nghiệp, vì cùng thời hành, nên nói là tùy chuyển. Nếu không có tùy chuyển, thì tuy có nhân trước, là có thể dẫn phát mà như phần vị không tâm, hoặc như tử thi. Biểu tức nên không có chuyển, tùy chuyển. Đối với biểu có công năng chuyển, vô biểu thì không dựa vào tùy chuyển mà chuyển. Không tâm cũng có vô biểu chuyển. Như trên đã nói: Hoặc do kiến đạo đoạn, vì theo môn trong chuyển, nên không thể phát sinh biểu.

Nếu như vậy thì do đâu Đức Bạc-già-phạm đã nói: Do tà kiến nên khởi tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp và tà mạng v.v… Ở đây không trái nhau với thức do kiến đạo đoạn, đối với phát khởi biểu nghiệp, chỉ có thể là chuyển. Ở trong biểu có thể khởi nơi tầm tứ sinh, vì làm tư lương, nên không là tùy chuyển. Đối với môn ngoài, lúc tâm đang khởi nghiệp, thì pháp này không có. Do đấy, nên nói nơi kiến đạo đoạn tâm làm nhân đẳng khởi, phát sinh thân, ngữ nghiệp, nhất định không thể làm sát-na đẳng khởi thức do kiến đạo đoạn. Tuy có thể lường xét, nhưng không có công năng tác động thân phát ngữ. Tuy nhiên, ở trong tác động phát sinh một biểu nghiệp, cùng có nhiều tâm lường xét, phát động, chỉ một niệm sau cùng với biểu cùng hành. Khác với đây thì biểu tức nên không phải tánh của sát-na nơi thức do kiến đạo đoạn. Tuy có thể làm chuyển phát hữu biểu nghiệp, nhưng không phải là biểu nghiệp, vì ở sau thức này là vô gián, tức sinh tâm chuyển biến của môn trong, không thể dẫn khởi cùng với thân, ngữ biểu nơi thức đều cùng hành. Nếu khác với đây thì nơi kiến đạo đoạn, tâm cũng nên ở nơi biểu nghiệp làm sát-na đẳng khởi. Do tu đạo đoạn có gia hạnh khiến ý thức có thể vô gián dẫn biểu tâm cùng hành, cũng cùng với biểu đều cùng hành làm sát-na đẳng khởi. Kiến đạo đoạn tuy có thể làm nhân dẫn các biểu nghiệp nhưng lìa nhân đẳng khởi của tu đạo đoạn thì tâm cùng hành của tâm biểu không cùng được khởi. Thế nên ở cõi dục không có biểu nghiệp hữu phú vô ký. Tuy nhiên, trong Khế kinh, chỉ căn cứ theo chỗ lần lượt làm nhân đẳng khởi, mật ý nói: Do tà kiến nên khởi tà ngữ v.v… A-tỳ-đạt-ma dựa theo kinh kia, cho không thể vô gián dẫn sinh biểu thức cùng hành, nên mật ý nêu nơi kiến đạo đoạn có tâm theo môn nội chuyển, nên không có thể phát sinh biểu. Thế nên, kinh, luận, về lý là không trái nhau.

Lại, kiến đạo đoạn, nếu phát khởi biểu sắc thì sắc này tức nên là kiến đạo đoạn. Sắc không phải là do kiến đạo đoạn, đã được thành lập rộng.

Nếu năm thức thân chỉ làm tùy chuyển, không phân biệt, nên theo môn ngoại khởi, thì ý thức của tu đạo đoạn, có chung nơi hai thứ. Vì có phân biệt, nên ở nơi môn ngoại khởi, do đấy nên thành bốn trường hợp phân biệt:

1. Có chuyển không phải là tùy chuyển. Nghĩa là tâm của kiến đạo đoạn.

2. Có tùy chuyển không phải là chuyển. Nghĩa là năm thức như nhãn v.v…

3. Có chuyển cũng là tùy chuyển. Nghĩa là một phần ý thức của tu đạo đoạn.

4. Có không phải chuyển cũng không phải tùy chuyển. Nghĩa là tất cả thức còn lại của tu tạo thành, do tu tạo thành không có phân biệt.

Tuy nhiên, nói dị thục vô lậu là không phải, thì đây có lỗi quá giảm thiểu và thái quá, vì tâm định hữu lậu cũng đều cùng không phải. Các thức dị thục chỉ có thể không phải chuyển, nhưng có thể làm tùy chuyển, lý nào có thể ngăn chận? Nhưng Kinh chủ nói: Không do gia hạnh mà tự nhiên chuyển, nên các thức dị thục không phải là chuyển và tùy chuyển.

Có thuyết khác lại nói: Dị thục này chỉ được dẫn do uy lực của nghiệp trước, vì phần vị ngừng dứt của tâm khác mới có thể hiện tiền, nên không phải là hai thứ. Nếu như dị thục này có thể khởi thân ngữ biểu nghiệp là loại tánh nào? Là dị thục sinh? Là đường oai nghi? Hay là xứ công xảo? Lại, không phải dị thục sinh, vì gia hạnh hiện khởi, nên cũng không phải là hai thứ dị thục khác khiến tâm khởi.

Nghĩa lý như thế, chỉ có thể tạo ngăn chận tâm của dị thục sinh làm nhân đẳng khởi, tâm khác làm chuyển đã phát khởi tâm dị thục sinh của biểu nghiệp, vì theo môn ngoài chuyển, nên có thể làm tùy chuyển. Lý nào là trái nhau? Lại, nếu biểu nghiệp không tâm không chuyển mà thừa nhận biểu nghiệp chuyển, dùng thức dị thục làm nhân tùy chuyển. Điều này có lỗi gì? Lại, chỉ nên nói tâm dị thục sinh, vì uy lực yếu kém, nên không phải là nhân đẳng khởi. Không nên nói: Không do gia hạnh mà tự nhiên chuyển. Chớ cho thiện sinh đắc, cũng không làm nhân phát sinh hữu biểu nghiệp, cũng không phải gia hạnh tự nhiên chuyển.

Do đấy, Kinh chủ có lỗi tăng, giảm, nhân lại chẳng phải nhân, người trí cần phải hiểu rõ. Tánh của thức chuyển, tùy chuyển, tất là đồng chăng? Không như vậy thì thế nào?

Nghĩa là thức chuyển trước, nếu là tánh thiện. Thức tùy chuyển sau, thì chung nơi ba tánh như thiện v.v… Bất thiện, vô ký được chuyển cũng như vậy. Chỉ có Mâu Ni Tôn nơi thức chuyển, tùy chuyển phần nhiều là tánh đồng, ít có bất đồng. Nghĩa là tâm chuyển nếu thiện, thì tùy chuyển cũng thiện. Tâm chuyển nếu vô ký, thì tùy chuyển cũng như thế, nên ở sát-na nối tiếp, nhất định không mê lầm. Nhưng hoặc có phần vị thiện theo vô ký chuyển. Từng không có lúc nào vô ký theo thiện chuyển. Do Đức Phật, Thế Tôn đối với tâm như thuyết giảng pháp v.v…, hoặc luôn tăng trưởng, không hề khô cạn.

Có bộ khác nói: Chư Phật, Thế Tôn vì thường ở nơi định, nên tâm chỉ là thiện, không có tâm vô ký. Nên Khế kinh nêu rõ:

Na Già hành nơi định

Na Già trụ nơi định

Na Già ngồi tại định

Na Già nằm tại định.

Sư Tỳ-bà-sa giả thích: Đây là làm rõ ý Phật, tất do chánh tri sinh, cũng không có tâm không tùy mong muốn khởi, ở nơi cảnh không loạn, nên lập tên định. Không phải Đức Phật, Thế Tôn không có đường oai nghi, thức dị thục sinh và tâm thông quả. Khởi các tâm này, về lý là không lỗi.

Đã nói về chuyển, tùy chuyển của thiện v.v… đều có ba. Căn cứ theo đấy thì trong phần nêu dẫn giải thích là đủ để minh chứng. Các nghiệp được phát khởi thành thiện, ác v.v… là tùy theo nhân đẳng khởi, không phải tùy theo sát-na. Khác với đây thì tâm thiện dẫn phát nghiệp, đã cùng với tâm bất thiện, vô ký cùng có. Lý nào có thể ngăn chận thành ác, vô ký? Thế thì nên có từ tư duy riêng làm nhân, dẫn sinh nghiệp loại tánh riêng.

Như thế, người siêng năng gắng sức muốn làm thiện, trái lại có nghiệp bất thiện, vô ký sinh. Hoặc cùng trái với đây liền trái với chánh lý. Nên nghiệp thành thiện v.v… nhất định do sức của chuyển, không phải do sức của tùy chuyển, lý ấy là khéo thành. Nhưng tùy thuận tâm định, các vô biểu nghiệp cùng với một quả của tâm cùng thời khởi, do sức của tùy chuyển, tánh thiện được thành, nhất định thuộc tâm này mà được sinh.

Kinh chủ ở đây đã nêu giải thích, trong lý không xét kỹ để nhận biết rõ, lại tạo vấn nạn này. Các hữu biểu nghiệp, thành tánh như thiện v.v… là như tâm chuyển hay là như tùy chuyển?

Nếu nêu như thế thì có lỗi gì?

Nếu như chuyển thì trong cõi dục nên có biểu nghiệp hữu phú vô ký, vì thân kiến, biên kiến, có thể tạo chuyển. Hoặc nên phân biệt, không phải tất cả thứ tâm của kiến đạo đoạn, đều có thể tạo chuyển. Nếu như tùy chuyển, thì tâm ác vô ký cùng được biểu biệt giải thoát, nên không phải là tánh thiện. Ở đây nêu hỏi, đặt vấn nạn, chỉ khiến nhọc sức.

Lời nói này chưa xét kỹ thì theo mật ý gì để nói? Là khuyên các Đại Luận sư Đối pháp, khiến nên nhọc sức hay là đang tự khuyên? Nếu khuyên các Đại Luận sư Đối pháp, thì Kinh chủ kia ở trong đây đã siêng năng dùng phương tiện khéo tư duy, khéo nêu bày, sao còn khuyên làm gì?

Còn như tự khuyên, tức nhận biết Kinh chủ đối với nghĩa lý này chưa phải khổ công, nhọc sức. Nay chánh kiến sinh mới có thể tự tỉnh ngộ, nhưng chưa thể hiểu rõ về tông chỉ của Đối pháp, tự siêng năng tinh tấn, cầu tìm lý để nêu dẫn giải thích.

Lại có thuyết nói: Nếu biểu không do sức của tâm tùy chuyển thành thiện v.v…, thì không nên nói kinh kia chỉ căn cứ nơi nhân đẳng khởi trước, không phải căn cứ ở sát-na, nên trong cõi dục, nhất định không có biểu nghiệp hữu phú vô ký.

Thuyết kia cho: Ở đây nói biểu thành tánh như thiện v.v… quyết định chỉ do sức của sát-na đẳng khởi. Hoặc do kiến đạo đoạn tuy làm nhân đẳng khởi, nhưng nơi cõi dục nhất định không có nghiệp hữu phú vô ký.

Trong đây, do Kinh chủ không thấu đạt nghĩa ngôn hiện có nơi tông của ta, nên nói như vậy. Ý thuyết này nói: Nếu Hoặc do kiến đạo đoạn là sát-na đẳng khởi, cùng với nghiệp đều cùng hành, thì không nên phân cách với tu đạo đoạn, có thể khởi tâm của nhân đẳng khởi nơi biểu nghiệp. Tức trong cõi dục, do đâu không có biểu nghiệp thân ngữ hữu phú vô ký?

Nhưng Hoặc do kiến đạo đoạn hãy còn không thể làm nhân vô gián, dẫn sinh nghiệp có thức cùng hành, thì sao có thể tự tạo sát-na đẳng khởi.

Nói không thể tạo ra sát-na đẳng khởi, là hiển bày không thể làm nhân đẳng khởi gần. Chỉ có thể làm nhân đẳng khởi gần thì nhân này tất có thể làm sát-na đẳng khởi. Nên thân kiến, biên kiến tuy làm nhân xa, dẫn sinh thân, ngữ biểu, nhưng do uy lực của nhân gần nơi tu đạo đoạn để thành tánh bất thiện.

Vì thế câu nói cho: Kinh kia chỉ căn cứ nơi nhân đẳng khởi trước, không phải căn cứ ở sát-na, nên trong cõi dục, nhất định không có biểu nghiệp hữu phú vô ký.

Nếu không như vậy, tức không nên nói, kinh kia chỉ căn cứ theo nhân đẳng khởi trước. Nói trước là làm rõ phân cách với nhân gần, vì phân biệt với nhân gần, nên nói câu nhân trước. Thế nên Kinh chủ kia đã không thấu đạt về nghĩa ngôn ở trong ấy.

Biện về địa cõi của nghiệp có phần luận thêm đã xong. Lại nên biện về tướng của biểu, vô biểu ở trước. Tụng nêu:

Vô biểu, ba luật nghi

Không luật nghi, phi hai.

Luận nói: Nên biết vô biểu lược nói có ba: (1) Luật nghi. (2) Không luật nghi. (3) Không phải hai. Nghĩa là phi luật nghi, phi bất luật nghi.

Có thể ngăn chận, có thể diệt trừ giới ác cùng nối tiếp, nên gọi là luật nghi.

Luật nghi như thế, sai biệt có bao nhiêu? Tụng nêu:

Luật nghi biệt giải thoát

Tĩnh lự cùng đạo sinh.

Luận nói: Luật nghi có sai biệt lược có ba thứ: (1) Luật nghi biệt giải thoát. Nghĩa là giới thuộc cõi dục. (2) Luật nghi tĩnh lự sinh. Nghĩa là giới thuộc cõi sắc. (3) Luật nghi đạo sinh. Nghĩa là giới vô lậu.

Tướng của luật nghi đầu tiên có sai biệt như thế nào? Tụng nêu:

Luật nghi đầu tám thứ

Thể thật chỉ có bốn

Vì hình chuyển danh khác

Đều riêng, không trái nhau.

Luận nói: Tướng của luật nghi biệt giải thoát có sai biệt gồm có tám: (1) Luật nghi Bí-sô. (2) Luật nghi Bí-sô-ni. (3) Luật nghi Chánh học. (4) Luật nghi Cần sách. (5) Luật nghi Cần sách nữ. (6) Luật nghi Ô ba sách ca. (7) Luật nghi Ô ba tư ca. (8) Luật nghi Ô ba bà sa.

Tám thứ tướng của luật nghi như thế có sai biệt, gọi chung là luật nghi biệt giải thoát thứ nhất.

Trong đây, dựa theo Bổ-đặc-già-la có thể tu tập lìa hành ác và lìa hành dục, an lập năm luật nghi trước có sai biệt do loại Bổ-đặcgià-la như thế, cho đến mạng chung có thể lìa các hành ác như sát sinh v.v… và có thể xa lìa phi phạm hạnh.

Tiếp theo lại dựa nơi Bổ-đặc-già-la có thể tu tập lìa hành ác, không phải lìa hành dục, an lập luật nghi có sai biệt của hai chúng tại gia trọn đời tuân giữ.

Do loại Bổ-đặc-già-la như thế, cho đến mạng chung, vì có thể lìa các hành ác như sát sinh v.v…, không thể xa lìa phi phạm hạnh.

Do đấy, trong kinh chỉ nêu bày: Lìa hành dục tà, không phải là phi phạm hạnh. Sau cùng lại dựa nơi Bổ-đặc-già-la có thể tu tập không hoàn toàn lìa hành ác, hành dục an lập luật nghi có sai biệt nơi một ngày, một đêm của hàng tại gia.

Do loại Bổ-đặc-già-la như thế, không thể hoàn toàn lìa hành ác và các dục, vì khiến họ hành tập dần đến hoàn toàn lìa hành ác và các hành dục, theo phương tiện giữ gìn. Cho nên, tuy tên gọi có tám, nhưng Thể thật chỉ bốn: (1) Luật nghi Bí-sô. (2) Luật nghi Cần sách. (3) Luật nghi Cận sự. (4) Luật nghi Cận trụ.

Chỉ bốn thứ luật nghi biệt giải này đều có thật thể, tướng đều riêng. Vì sao? Vì lìa luật nghi Bí-sô, thì không có luật nghi Bí-sô-ni riêng. Lìa luật nghi Cần sách, thì không có luật nghi Cần sách nữ, Chánh học riêng. Lìa luật nghi Cận sự, thì không có luật nghi Cận sự nữ riêng.

Vì sao nhận biết như thế?

Do hình chuyển đổi, thể tuy không có xả được mà tên gọi có khác. Hình, nghĩa là hình tướng, tức căn nam, nữ. Do hai căn này, nên hình nam, nữ dị biệt. Chỉ do hình chuyển, khiến các luật nghi gọi là Bí-sô, Bí-sô-ni v.v… Nghĩa là nơi phần vị chuyển căn, khiến cho luật nghi Bí-sô gốc, gọi là luật nghi Bí-sô-ni. Hoặc luật nghi Bí-sô-ni gọi là luật nghi Bí-sô. Khiến cho luật nghi Cần sách gốc gọi là luật nghi Cần sách nữ. Hoặc luật nghi Cần sách nữ và luật nghi Chánh học gọi là luật nghi Cần sách. Khiến cho luật nghi Cận sự gốc gọi là luật nghi Cận sự nữ. Hoặc luật nghi Cận sự nữ gọi là luật nghi Cận sự.

Không phải ở phần vị chuyển căn, có xả bỏ trước được, trước được, chưa được nhân duyên của luật nghi, nên bốn luật nghi không phải khác với ba Thể. Như từ luật nghi Cận sự, thọ luật nghi Cần sách. Lại từ luật nghi Cần sách thọ luật nghi Bí-sô.

Ba luật nghi này là do tăng lên đủ phương tiện xa lìa, lập tên riêng biệt. Như một, một đôi đồng tiền vàng và năm, mười, hai mươi làm Thể đều riêng. Cụ túc liền sinh ba thứ luật nghi, Thể không cùng xen tạp, tướng chúng đều riêng. Cụ túc tức thì sinh, trong ba luật nghi, đủ ba lìa sát, mỗi mỗi lìa sát, Thể của chúng đều khác. Các giới còn lại, tùy theo chỗ ứng hợp, nên biết cũng như thế. Do nhân duyên riêng, nên Thể không đồng. Như như cầu thọ nhận nhiều thứ học xứ. Như thế, như thế, có thể lìa nhiều thứ như giường tòa cao rộng, thời gian, nơi chốn phóng dật, uống các thứ rượu v.v…, tức lìa rất nhiều duyên khởi của sát v.v… Do các thứ xa lìa dựa vào nhân duyên phát khởi, nên nhân duyên xa lìa riêng có khác. Nếu không có sự việc này, thì xả luật nghi Bí-sô, bấy giờ tức nên cả ba luật nghi đều xả. Hai luật nghi trước, thâu tóm ở trong một luật nghi sau.

Đã không thừa nhận như vậy, nên cả ba đều riêng. Nhưng ba thứ này đều cùng không trái nhau, ở trong một thân cùng thời mà chuyển. Không phải do thọ sau, xả luật nghi trước. Chớ cho xả giới Bí-sô liền không phải là cận sự v.v… vì trước đã xả hai luật nghi kia.

Nếu có Cần sách thọ luật nghi Cận sự, hoặc có Bí-sô thọ hai thứ giới trước, là thọ được không?

Có thuyết nói: Điều này không nên nêu vấn nạn. Nếu trước đã có, thì không có lý được nữa, vì trước đã được. Nếu trước chưa có, thì không phải Cần sách, cũng không phải là Bí-sô, do trước không thọ luật nghi Cận sự, tất không có lý được thọ giới Cần sách. Nếu trước không thọ luật nghi Cần sách thì cũng không có lý được thọ giới Bí-sô. Vì vậy không thể lập hai tên gọi kia. Do đấy, tìm cầu thọ nhận tức nên không được.

Có Sư khác cho: Không thọ luật nghi trước, tức cũng có lý có thể được thọ giới sau. Nên người trì luật tạo ra tụng này nói: Tuy lúc trước không thọ giới Cần sách, nhưng hiện nay chỉ thọ luật nghi Cụ túc, cũng gọi là khéo thọ luật nghi Cụ túc.

Do đấy Cần sách chấp nhận có được thọ luật nghi Cận sự. Bí-sô chấp nhận có lý được thọ giới Cần sách, Cận sự.

Há không phải là Cần sách không nên tự xưng: Xin nguyện chứng biết con đã là Cận sự. Bí-sô cũng vậy không nên tự xưng: Xin nguyện chứng biết con đã có được hai luật nghi trước. Không phải là lìa như thế để tự xưng hiệu nói có lý được giới Cận sự, Cần sách?

Vấn nạn này là phi lý, vì đều cùng có thể xưng. Nghĩa là có thể xưng: Con là Cần sách, cũng là Cận sự, xin nguyện chứng biết.

Bí-sô cũng nên như chỗ ứng hợp mà nói. Nhưng căn cứ ở giới thù thắng, để làm rõ về tên của hai giới kia cũng không có lỗi.

Nếu như vậy, Cần sách và Bí-sô v.v… cũng nên được thọ luật nghi Cận trụ. Như được Cận sự mà thừa nhận, cũng đâu có lỗi. Nhưng do thấp kém, nên không vui vẻ thọ nhận.

Bốn thứ luật nghi: Cận sự, Cận trụ, Cần sách, Bí-sô, được an lập như thế nào? Tụng nêu:

Thọ lìa năm, tám, mười

Tất cả chỗ nên lìa

Lập Cận trụ, Cận sự

Cần sách và Bí-sô.

Luận nói: Nên biết trong đây, như số thứ lớp, dựa nơi bốn xa lìa để lập bốn luật nghi. Nghĩa là thọ nhận lìa năm pháp nên lìa, thì kiến lập luật nghi Cận sự thứ nhất. Những gì là năm pháp nên lìa? Đó là: (1) Sát sinh. (2) Không cho mà lấy. (3) Hành dục tà. (4) Lời nói hư dối. (5) Uống các thứ rượu.

Nếu thọ nhận lìa tám pháp nên lìa, thì kiến lập luật nghi Cận trụ thứ hai. những gì là tám pháp nên lìa? Đó là: (1) Sát sinh. (2) Không cho mà lấy. (3) Phi phạm hạnh. (4) Nói lời hư dối. (5) Uống các thứ rượu. (6) Trang sức các hương, đeo tràng hoa, xem nghe ca múa. (7) Nằm ngủ, ngồi nơi giường tòa cao rộng, đẹp đẽ. (8) Ăn bữa ăn phi thời.

Nếu thọ nhận lìa mười pháp nên lìa, thì kiến lập luật nghi Cần sách thứ ba. Những gì là mười pháp nên lìa? Nghĩa là đối với giới thứ sáu của tám giới trước (Trang sức các hương…) được chia làm hai. Lại thêm thọ giới không chứa giữ các thứ báu như vàng, bạc v.v… làm giới thứ mười. Vì dẫn dắt các hữu tình tại gia lìa sợ hãi, do có rất nhiều học xứ, nên làm rõ để dễ thọ trì. Vì vậy ở nơi tám giới, hợp hai làm một. Như Đức Phật vì người con của Lật thị, lược nói học xứ có ba.

Nếu thọ nhận lìa tất cả thì nên lìa thân, ngữ nghiệp, kiến lập luật nghi Bí-sô thứ tư. Các tên có sai biệt khác biệt của luật nghi biệt giải thoát. Tụng nêu:

Cùng được gọi Thi la

Luật nghi, nghiệp hành diệu

Chỉ biểu đầu, vô biểu

Gọi biệt giải nghiệp đạo.

Luận nói: Vì trong lành mát mẻ, nên gọi là Thi la. Thi la ở đây là nghĩa bình trị, nên xứ tự tướng tạo ra giải thích: Trong nghĩa bình trị, đặt để giới Thi la. Vì giới có thể bình trị nghiệp hiểm nguy, nên được gọi là Thi la. Vì người trí tán dương nên gọi là hành diệu. Hoặc vì tu hành Thi la này, được quả ái. Vì đã tạo tự thể, nên gọi là nghiệp. Tuy trong Khế kinh đã nói các vô biểu gọi là không tạo, cũng gọi là không tác. Do có hổ thẹn, thọ nhận sức của vô biểu, không tạo ác mà có nghĩa hành tác, như trước đã biện. Cũng gọi là luật nghi, như trước đã giải thích.

Như thế, nên biết giới biệt giải thoát, thông hợp nơi phần vị đầu, sau, danh xưng không sai biệt, chỉ biểu của sát-na đầu và vô biểu, được tên biệt giải thoát và tên nghiệp đạo. Nghĩa là khi thọ giới, biểu, vô biểu đầu tiên, riêng riêng từ bỏ vô số thứ ác, nên dựa nơi nghĩa xả riêng ban đầu để lập tên biệt giải thoát. Hoặc vì đầu tiên đã nên tu trì, nên gọi là biệt giải thoát. Hoặc đầu tiên kia khởi, hoàn toàn có thể vượt qua nẻo ác như ngục nguy hiểm, nên gọi là biệt giải thoát. Tức biểu của sát-na đầu tiên cùng với vô biểu, cũng được gọi là nghiệp đạo căn bản. Đầu tiên vì đề phòng thân ngữ ham thích tư nghiệp, nên từ niệm thứ hai, cho đến chưa xả, không gọi là biệt giải thoát. Gọi luật nghi biệt giải thoát, không gọi là nghiệp đạo mà gọi là khởi sau.

Đã biện về luật nghi an lập có sai biệt. Sẽ biện về luật nghi thành tựu có sai biệt. Ai thành tựu luật nghi nào? Tụng nêu:

Tám thành biệt giải thoát

Thánh giả được tĩnh lự

Thành tĩnh lự đạo sinh

Hai sau tùy tâm chuyển.

Luận nói: Tám chúng đều thành tựu luật nghi biệt giải thoát, nghĩa là từ Bí-sô cho đến Cận trụ. Ngoại đạo không có sự việc thọ giới chăng? Tuy có giới, nhưng không gọi là giới biệt giải thoát, do giới của họ đã thọ không có công năng vĩnh viễn thoát khỏi các ác, vì nương dựa, vướng mắc nơi hữu. Tĩnh lự sinh: Nghĩa là luật nghi này, do từ hoặc dựa vào tĩnh lự sinh. Nếu người được tĩnh lự thì nhất định thành luật nghi này. Quyến thuộc của tĩnh lự cũng gọi là tĩnh lự.

Luật nghi đạo sinh, Thánh giả đều thành tựu. Thánh giả này lại có hai loại, nghĩa là học và vô học.

Trong ba luật nghi đã nói ở trước, những luật nghi nào tùy tâm mà chuyển?

Chỉ hai thứ sau, nghĩa là tĩnh lự sinh và đạo sinh. Cả hai không phải là biệt giải thoát. Vì sao? Vì khác với tâm, không tâm cũng luôn chuyển. Hai thứ luật nghi tĩnh lự vô lậu cũng gọi là luật nghi đoạn. Dựa vào vị nào để kiến lập? Tụng nêu:

Vị chí chín vô gián

Câu sinh hai gọi đoạn.

Luận nói: Chín đạo vô gián trong định vị chí đều cùng sinh luật nghi tĩnh lự vô lậu, do có thể vĩnh viễn đoạn trừ dục, triền, giới ác cùng hay khởi Hoặc, gọi là luật nghi đoạn. Chỉ trong định vị chí mới có đối trị đoạn, do đấy chỉ gồm thâu chín đạo vô gián. Trong đây, Thi la diệt trừ giới ác, vì vậy hoặc có luật nghi tĩnh lự, không phải là luật nghi đoạn. Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Trường hợp thứ nhất: Trừ luật nghi hữu lậu của chín đạo vô gián trong định vị chí, còn lại là luật nghi tĩnh lự hữu lậu.

2. Trường hợp thứ hai: Luật nghi vô lậu của chín đạo vô gián, dựa nơi định vị chí.

3. Trường hợp thứ bằng: Luật nghi hữu lậu của chín đạo vô gián dựa nơi định vị chí.

4. Trường hợp thứ tư: Trừ luật nghi vô lậu của chín đạo vô gián nơi định vị chí, còn lại là tất cả luật nghi vô lậu khác.

Như thế, hoặc có luật nghi vô lậu không phải là luật nghi đoạn. Nên tạo ra bốn trường hợp, nghĩa là ngược với thứ lớp của bốn trường hợp trước, nên biết.

Nếu như vậy Đức Thế Tôn đã nói lược giới:

Thân luật nghi, lành thay!

Lành thay! Ngữ luật nghi

Lành thay! Ý luật nghi

Lành thay! Luật nghi khắp?

Lại, Khế kinh nêu rõ: Nên khéo bảo vệ, nên khéo an trụ luật nghi của nhãn căn. Luật nghi của ý căn nên lấy gì làm tự tánh? Tự tánh của hai thứ này không phải là vô biểu sắc.

Nếu như vậy thì thế nào? Tụng nêu:

Chánh tri, chánh niệm hợp

Gọi luật nghi ý căn.

Luận nói: Luật nghi của ý căn, mỗi mỗi đều dùng chánh tri, chánh niệm hợp làm tự thể, nên Khế kinh nói: Mắt thấy sắc rồi, không mừng, không lo, luôn an trụ xả, chánh tri chánh niệm. Như thế, cho đến ý nhận biết rõ pháp xong. Nêu ra tên riêng xong, lại nói hợp. Nói ngăn chận, nghĩa là hai luật nghi, như hai thứ lớp làm thể.

Nay nên xét chọn về biểu và vô biểu. Ai thành tựu? Ngang bằng với gì? Vào thời gian nào? Lại, biện về luật nghi thành vô biểu và không luật nghi. Tụng nêu:

Trụ biệt giải vô biểu

Chưa xả, luôn thành hiện

Sau sát-na, thành lỗi

Không luật nghi cũng vậy.

Được luật nghi tĩnh lự

Luôn thành tựu quá, vị

Thánh, đầu trừ quá khứ

Trụ trong định đạo thành.

Luận nói: Bổ-đặc-già-la trụ nơi biệt giải thoát, từ sát-na đầu tiên, cho đến chưa gặp xả học xứ v.v… các duyên xả giới luôn thành hiện đời.

Luật nghi biệt giải thoát vô biểu này, sau sát-na đầu tiên, cũng thành quá khứ. Nói trước chưa xả là truyền khắp đến sau. Đời trước đã được giới biệt giải thoát, nơi hiện nay thọ giới trong sát-na đầu tiên, như luật nghi tĩnh lự, vì sao không thành quá khứ?

Vấn nạn này là phi lý. Vì giới này cùng với tâm không phải là đồng quả, vì lìa tâm nhiễm v.v… nên đều đồng một quả. Giới kia như tâm được quá khứ sinh. Lại vì biệt giải thoát chưa từng được, nên như luật nghi tĩnh lự của phẩm thù thắng, không phải trong sátna đầu đã được quá khứ sinh. Như nói an trụ nơi luật nghi biệt giải thoát, thì trụ nơi không luật nghi, nên biết cũng như vậy. Nghĩa là từ niệm đầu tiên, cho đến khi chưa gặp duyên xả giới ác, thọ luật nghi v.v… luôn thành vô biểu của giới ác hiện đời. Sau sát-na đầu, cũng thành quá khứ. Các hữu đạt được luật nghi tĩnh lự, cho đến chưa xả, thì luôn thành quá khứ, vị lai. Luật nghi của định quá khứ sinh trước đã mất, nay nơi sát-na đầu tiên tất trở lại được. Trong đây, nên tạo phân biệt để nói. Do thuận với phần quyết trạch đã gồm thâu luật nghi định, trong sát-na đầu tiên không thành quá khứ. Chỗ đạt được do đời khác, khi mạng chung thì xả. Đời nay không cùng được lần nữa luật nghi kia.

Lại, không phải tất cả hữu tình đã từng khởi có pháp Niết-bàn mới có thể có luật nghi kia. Luật nghi vô lậu của tất cả Thánh giả nơi quá khứ, vị lai cũng luôn thành tựu. Có sai biệt: Nghĩa là sát-na đầu tiên, tất thành vị lai, không phải là thành quá khứ. Vì Thánh đạo của loại này trước chưa khởi. Xưa từng chưa được, nay mới được, gọi là đầu tiên. Trước được rồi mất, nay khi mới được thì cũng được quá khứ đã từng sinh.

Sau sát-na đầu tiên, cho đến khi chưa xả, cũng thành quá khứ. Cho đến phần vị chưa nhập vô dư y, luôn thành vị lai. Nếu có tĩnh lự hiện trụ, thì đạo kia như thứ lớp trở thành luật nghi của đạo tĩnh lự hiện tại, không phải khi xuất quán có thành hiện tại. Lý nên chỉ nói khi ở nơi đạo định, thành vô biểu của đạo định nơi đời hiện tại. Không nên nói trụ, như nói trụ nơi quả, chỉ nói là quả thành, không phải là quả hiện khởi. Nay chỉ nói trụ, làm sao nhận biết được đạo định hiện tiền, không phải chỉ thành tựu. Thế nên thuyết kia cũng khiến sinh nghi. Không thể nhất định hiển bày thành vô biểu hiện có, nên chỉ nói câu ở nơi đạo định. Tuy nói câu trụ là nhọc nhằn mà vô dụng. Nay xem rõ văn trước của ý kia đã nói là thành tựu khứ, lai. Câu này chính là nêu rõ đời giữa thành tựu. Nên biết nói là làm rõ về khởi, không phải là thành. Do không phải chỉ thành để chứng thành hiện tại. Vì vô biểu của đạo định là tùy tâm chuyển, nên tâm tán hiện tiền, tất không có vô biểu kia.

Đã biện về luật nghi an trụ nơi thiện, ác. Trụ nơi giữa là thế nào? Tụng nêu:

Trụ giữa có vô biểu

Trước thành giữa, sau hai.

Luận nói: Nói trụ nơi giữa, nghĩa là phi luật nghi phi bất luật nghi. Nghiệp kia đã khởi, không hẳn tất cả đều có vô biểu. Nếu có vô biểu tức là giới thiện. Hoặc là thuộc về chủng loại của giới ác. Hoặc không phải là hai loại kia. Vì sát-na đầu tiên chỉ thành đời giữa. Nghĩa là thành hiện tại, đây là ở giữa quá khứ, vị lai, nên từ sau sátna đầu tiên chưa xả đến nay, luôn thành vô biểu của hai đời quá khứ, hiện tại.

Nếu có người an trụ nơi luật nghi, không luật nghi, cũng có thành vô biểu thiện ác không? Nếu như có thành thì trải qua bao nhiêu thời gian? Tụng nêu:

Trụ luật, không luật nghi

Khởi vô biểu nhiễm, tịnh

Đầu thành, giữa sau hai

Đến nhiễm, tịnh uy chung.

Luận nói: Nếu trụ nơi luật nghi do phiền não hơn hẳn, tạo các nghiệp bất thiện như sát hại, buộc trói. Do đấy liền phát khởi vô biểu bất thiện. Trụ nơi không luật nghi, do tâm tin thuần tịnh, tạo các nghiệp thiện như lễ Phật v.v… Do đấy cũng phát khởi các vô biểu thiện, cho đến hai tâm này chưa đoạn. Về sau, đã phát khởi vô biểu luôn cùng nối tiếp. Nhưng ở niệm ban đầu kia chỉ thành hiện tại. Niệm thứ hai v.v… thì thành chung nơi quá khứ, hiện tại.

Đã biện về vô biểu thành tựu. Biểu nghiệp thành tựu thì thế nào? Tụng nêu:

Biểu chánh tạo thành giữa

Sau thành quá phi vị

Hữu phú và vô phú

Chỉ thành tựu hiện tại.

Luận nói: Tất cả an trụ nơi luật nghi, không luật nghi, và trụ nơi giữa, cho đến chính thức hành tác. Các biểu nghiệp nối tiếp luôn thành hiện biểu. Từ sau sát-na đầu tiên, đến chưa xả luật nghi tới nay, luôn thành quá khứ, tất không thành tựu.

Biểu vị lai không tùy thuộc tâm sắc, vì uy lực yếu kém. Các vô biểu tán cũng đồng với giải thích này. Hai biểu vô ký hữu phú, vô phú nhất định không có công năng thành tựu quá khứ, vị lai, vì sức của pháp yếu kém, chỉ có thể dẫn khởi pháp cùng hành đắc, vì sức của đắc yếu kém, nên không thể dẫn sinh tự loại cùng nối tiếp. Có thể pháp diệt rồi, theo đuổi đạt được, nói là thành cũng không có công năng đắc ngược với pháp vị lai.

Há không phải là biểu này, như tâm của chủ thể khởi, cũng nên có thành đời quá khứ, vị lai, do sức của biểu này yếu kém, vì tâm kia yếu kém?

Vấn nạn này là phi lý, vì đối tượng được khởi là kém thua so với tâm của chủ thể khởi. Vì sao? Vì như tâm vô ký là chủ thể phát khởi biểu nghiệp. Đối tượng phát khởi biểu nghiệp không sinh vô biểu, nên biết đối tượng được khởi là thua kém tâm của chủ thể khởi.

Như danh xưng luật nghi đã có sai biệt, danh hiệu không luật nghi cũng có sai biệt chăng?

Cũng có? Vì sao?

Tụng nêu:

Hành ác, nghiệp giới ác

Nghiệp đạo, không luật nghi.

Luận nói: Năm thứ tên khác của hành ác v.v… này là tên gọi có sai biệt của không luật nghi. Vì bị các người trí chê trách, chán bỏ, vì là quả phi ái, nên lập tên hành ác. Vì làm chướng ngại Thi la tịnh, nên gọi là giới ác. Tức do thân, ngữ tạo thành, nên gọi là nghiệp. Căn bản đã gồm thâu có thể vui thích. Vì là con đường có tư nghiệp đã đi qua, nên gọi là nghiệp đạo. Thân ngữ không tĩnh lặng, gọi là không luật nghi. Nhưng tên gọi nghiệp đạo, chỉ nói về niệm đầu tiên. Chung nơi phần vị trước sau, lập bốn tên gọi còn lại.

Nay, nên xét chọn.

Nếu thành tựu biểu thì cũng là vô biểu chăng?

Nên tạo ra bốn trường hợp. Tụng nêu:

Thành biểu không vô biểu

Trụ giữa kém, tư tạo

Xả chưa sinh biểu Thánh

Thành vô biểu, phi biểu.

Luận nói: Chỉ thành tựu biểu không phải vô biểu: Nghĩa là trụ nơi phi luật phi bất luật nghi. Thiện kém, tư ác, tạo thiện, tạo ác. Hai nghiệp thân ngữ chỉ có thể phát khởi biểu. Thiện ác này hãy còn không thể phát khởi vô biểu nghiệp, huống chi các tư vô ký đã phát khởi biểu, trừ khi có dựa vào phước và thành nghiệp đạo. Người kia tuy tư kém khởi, nhưng cũng phát khởi vô biểu, nên chỉ thành vô biểu.

Không phải biểu nghiệp: Nghĩa là phàm phu, Thánh, Bổ-đặcgià-la. Nay biểu chưa sinh, trước sinh thì đã xả.

Há không phải phàm phu đã được tĩnh lự. Nay biểu chưa sinh, trước sinh rồi mất, cũng thành vô biểu, không phải biểu nghiệp chăng? Vì sao trong tụng chỉ nêu lên ở Thánh, không phải là phàm phu?

Về lý cũng có thể như vậy.

Vì sao trong giải thích đã nêu lên phàm phu, đều cùng thành không phải là trường hợp được nêu?

Như lý nên suy xét.

HẾT – QUYỂN 36