LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 37

Phẩm thứ 4: BIỆN VỀ NGHIỆP, phần 5

Như thế là đã kiến lập biểu cùng với vô biểu và thành tựu xong. Ở đây ba thứ luật nghi có sai biệt, làm sao đạt được? Tụng nêu:

Định sinh được địa định

Thánh kia được đạo sinh

Luật nghi biệt giải thoát

Được do từ tha giáo v.v…

Luận nói: Luật nghi tĩnh lự cùng với tâm đều cùng được. Nếu được luật nghi tĩnh lự, tâm của địa tĩnh lự căn bản, cận phần hữu lậu, bấy giờ liền được tâm của tĩnh lự kia đều cùng có. Nên khi từ cõi vô sắc mất, sinh vào cõi sắc, tùy thuận được tĩnh lự sinh đắc trong địa kia, tức cũng được luật nghi cùng hành của địa kia, luật nghi vô lậu cũng cùng với tâm đều cùng có.

Nếu được tâm của địa tĩnh lự căn bản cận phần vô lậu, bấy giờ liền được: Ở đây lại có hai thứ. Nghĩa là do gia hạnh và lìa nhiễm. Do gia hạnh: Như đạt được thuộc về đạo thắng tấn gia hạnh. Do lìa nhiễm: Như đạt được thuộc về đạo vô gián giải thoát.

Tiếng kia là hiển bày tâm của tĩnh lự trước. Lại nói chữ Thánh, tức phân biệt nhận lấy vô lậu. Sáu địa tĩnh lự có tâm vô lậu. Nghĩa là vị chí, trung gian và bốn định căn bản, không phải là ba cận phần, như phần sau sẽ biện.

Tụng nói: “Định sinh được địa định”: Lời nói này có lỗi. Do câu nói địa định là gồm thâu chung các pháp luật nghi hiện có của địa này, cũng là đối tượng thâu tóm của địa này, tức là được luật nghi. Do được luật nghi, nên nếu nói như thế, tức không được thành.

Trong đây, Kinh chủ nên tự xét chọn, tức chỉ nói câu đạt được tĩnh lự. Luật nghi biệt giải thoát, do người khác truyền dạy v.v… mà được. Người khác có thể chỉ dạy gọi là khác. Vì từ sức chỉ dạy của người khác như thế phát sinh giới, nên nói giới này do người khác truyền dạy mà được. Giới này lại có hai thứ, nghĩa là từ Tăng già, Bổ-đặc-già-la có sai biệt. Từ Tăng già được: Nghĩa là giới của Bí-sô, Bí-sô-ni và Chánh học. Từ Bổ-đặc-già-la được: Nghĩa là năm thứ giới còn lại.

Các Sư Tỳ-bà-sa thuộc Tỳ-nại-da nêu có mười thứ được pháp cụ giới. Vì gồm thâu mười thứ đó, nên lại nói chữ v.v… (Cuối câu tụng thứ tư). Mười thứ đó là:

    1. Do tự nhiên: Nghĩa là Đức Phật, Độc giác. Tự nhiên: Nghĩa là trí do không từ Sư chứng. Lúc được trí này là được giới cụ túc.

 

  • Do Phật gọi: Thiện lai Bí-sô! Nghĩa là như Da-xá v.v… Do sức của bản nguyện, uy lực của Phật gia bị.
  • Do được nhập chánh tánh ly sinh: Nghĩa là như năm Bí-sô do chứng đắc kiến đạo, được giới cụ túc.
  • Do tín thọ Đức Phật là bậc Đại sư: Nghĩa là như Tôn giả Đại Ca Diếp.
  • Do khéo léo đáp lại câu hỏi: Nghĩa là như Tô Đà Di.
  • Do kính thọ tám pháp tôn trọng: Nghĩa là như Đại Sinh chủ.
  • Do sai khiến: Nghĩa là như pháp truyền trao cho ni.

 

  1. Do vâng giữ luật, làm người thứ năm: Nghĩa là ở nơi biên quốc.
  2. Do chúng mười người: Nghĩa là ở trung tâm của nước.
  3. Do ba lần nói quy y Phật, Pháp, Tăng: Nghĩa là như sáu mươi Hiền bộ cùng tập hợp thọ cụ giới.

Ở đây, hoặc do sức của bản nguyện, hoặc vì A-thế-da đã viên mãn cùng tột, hoặc được uy lực của Đức Bạc-già-phạm gia hộ, tùy theo chỗ ứng hợp ấy mà được giới cụ túc.

Như thế là đã nói về Luật nghi biệt giải thoát. Nên gồm đủ bao nhiêu thời gian theo kỳ hạn mà thọ? Tụng nêu:

Luật nghi biệt giải thoát

Trọn đời, hoặc ngày đêm.

Luận nói: Giới biệt giải thoát, đối tượng nương dựa của bảy chúng, chỉ nên suốt đời theo kỳ hạn ấy mà thọ. Giới biệt giải thoát, đối tượng nương dựa của cận trụ, chỉ theo kỳ hạn là một ngày, đêm mà thọ.

Thời hạn này được định như vậy là do đâu? Cố nhiên không phải là nghĩa lý tương ưng của Tỳ-nại-da. Không phải bậc Nhất thiết trí có thể lường tính sự thật ấy. Nghĩa là giới biệt giải thoát có nhân gì? Có ở trong chúng nắm giữ ba y v.v…, lễ chúng, cầu thầy, xét hỏi, ngăn chận, vấn nạn, bạch tứ yết-ma vì là ưu tiên nên được. Hoặc có người chỉ nhờ vào duyên dạy bảo v.v…. của Bổ-đặc-già-la, là ưu tiên nên được. Hoặc có người được giới, không nhờ duyên ngoài. Những sự việc này, tất nên có lý quyết định. Đức Phật nhận biết, nhưng nói không phải là đối tượng lường tính khác.

Lại, do nhân gì tạo ra vô gián?

Về sau tuy ăn năn hổ thẹn, tu các nghiệp thiện, đối với lý nhân quả có thể nhất định tin biết, nhưng ở trong thân giới không cùng phát sinh. Đức Phật ngăn chận người kia xuất gia thọ cụ giới, nhất định nên biết có riêng thân thuận với thọ giới. Do thọ Thi la có thể cứu khỏi nẻo ác. Không phải giới đã thọ ở nơi vô gián sinh, tất định có thể chiêu cảm quả nên thọ. Cũng không phải về sau không có công năng chiêu cảm quả. Lại, không phải người kia, không phải là cảnh bi của Đức Phật. Về lý nên nhất định có chủng tánh của luật nghi. Chỉ dựa vào xứ này, xứ khác không sinh.

Vì thế không nên nêu hỏi về lý do.

Có Sư khác nói: Đức Thế Tôn nhận biết rõ về biên vực thời gian giữ giới chỉ có hai thứ: (1) Biên vực của thọ mạng (Trọn đời). (2) Biên vực của ngày đêm.

Nói lần nữa về ngày đêm là nửa tháng v.v…, nên Đức Phật chỉ nói hai thời gian thọ giới. Pháp nào gọi là thời gian không phải lìa các hành? Chỉ do phần vị sáng tối nơi bốn châu không đồng. Như thứ lớp nên biết lập làm ngày đêm.

Trong đây, Kinh bộ nói như thế này: Thọ giới trọn đời trong hai biên vực thì có thể như vậy. Sau khi mạng chung, tuy có kỳ hạn, nhưng không thể sinh giới biệt giải thoát. Vì dựa vào thân riêng khác, nên dựa riêng trong thân. Vì không có gia hạnh, không có nhớ nghĩ, nhưng sau một ngày đêm hoặc năm, hoặc mười. Trong ngày đêm v.v… thọ giới cận trụ, pháp nào làm chướng ngại, khiến đa số chúng kia, luật nghi cận trụ không phải cũng được khởi? Bộ kia nêu bày như thế, há không trái với kinh. Xem khắp các kinh từng không thấy nói về vie65c thọ luật nghi cận trụ quá ngày đêm. Các ông do đâu lại dùng tuệ kém của mình để xét chê cảnh giới nhất thiết trí của chư Phật, tính nói thọ luật nghi cận trụ như năm đêm v.v…, do trong kinh Phật chỉ nói là ngày, đêm. Phái Đối pháp cũng nói thế này: Luật nghi cận trụ chỉ thọ trong một ngày, đêm. Tất nên có pháp có thể làm chướng ngại, khiến quá ngày đêm, giới kia không sinh. Nên trong kinh Đức Phật chỉ nói là ngày đêm, nhưng thuyết kia lại nói: “Nên cùng tầm, tư”. Vì Đức Phật chánh quán sau một ngày đêm, về lý không cùng khởi luật nghi cận trụ. Nên ở trong kinh nói một ngày đêm, vì quán căn trí của đối tượng hóa độ là khó điều phục. Vả lại, nên trao cho giới một ngày đêm, là dựa vào lý giáo nào để nói như thế? Vượt quá thời gian này, giới sinh cũng không trái lý. Lại giảm thời gian này thì lý nào trái nhau?

Nghĩa là người được hóa độ, căn tánh có khi khó điều phục. Đã thừa nhận là nói luật nghi ngày đêm, vì sao không điều phục dần người khó điều phục? Nói chỉ khoảng thời gian ngắn một đêm, một ngày, vì căn trí khó điều phục có nhiều phẩm loại. Do đấy nhận biết có cận trụ theo thời gian nhất định. Hoặc giảm, hoặc tăng, liền không phát sinh giới. Vì Đức Thế Tôn quán thấy, nên chỉ nói về thời gian này. Thế nên Kinh bộ so với sư Chánh lý trong lý vô tránh đã ngang nhiên dấy khởi tranh luận.

Dựa vào biên vực nào để có không luật nghi? Tụng nêu:

Giới ác không ngày, đêm

Do không như thọ thiện.

Luận nói: Chính do kỳ hạn trọn đời tạo các nghiệp ác, nên được không luật nghi, không phải một ngày đêm như giới cận trụ. Vì sao? Vì không luật nghi này không phải như thọ giới thiện. Nghĩa là tất không có việc lập thời hạn, đối trước sư thọ không luật nghi, như giới cận trụ: Ta nơi một ngày đêm, nhất định thọ không luật nghi.

Đây là nghiệp mà người trí đã chê trách, chán lìa. Tuy cũng không có lập thời hạn đối trước sư nói: “Con sẽ trọn đời gây tạo các nghiệp ác”, nhưng do phát khởi ý lạc hoại thiện, vì muốn vĩnh viễn tạo ác được không luật nghi, không phải khởi ý lạc tạm thời tạo ác, không sư mà có được không luật nghi, nên không luật nghi không có một ngày, đêm. Tuy nhiên, công đức của giới cận trụ là có thể vui mừng, do sức hiện đối nơi sư theo kỳ hạn thọ nhận, tuy không hoàn toàn hủy hoại ý lạc ác, nhưng ở nơi một ngày đêm được luật nghi cận trụ, nên được không luật nghi so với được luật nghi là khác.

Luật nghi này đều cùng có thật, đã thành lập rộng, nên nói luật nghi cận trụ là một ngày đêm. Khi muốn chính thức thọ nhận thì nên thọ như thế nào? Tụng nêu:

Cận trụ nơi bình minh

Dưới tòa từ sư thọ

Theo giáo nói đủ chi

Lìa trang sức ngày đêm.

Luận nói: Luật nghi cận trụ được thọ vào lúc sáng sớm. Nghĩa là thọ giới này, chủ yếu là vào lúc mặt trời mới mọc. Giới này cần trải qua một ngày đêm. Các hữu tình trước hết lập kỳ hạn như thế này: Tôi sẽ luôn vào ngày mồng tám của mỗi tháng quyết định thọ luật nghi cận trụ này. Nếu buổi sáng có duyên trở ngại, thì thọ trai xong, cũng được thọ.

Nói dưới tòa: Nghĩa là ngồi ở chỗ thấp trước sư, thân tâm khiêm tốn, cung kính. Thân khiêm tốn cung kính: Nghĩa là hoặc ngồi xổm, hoặc quỳ, khom người xuống, chấp tay, chỉ trừ trường hợp có bệnh. Tâm khiêm tốn cung kính: Nghĩa là đối với sư trao giới, tâm không khinh mạn. Đối trước Tam bảo, sinh tâm tin tịnh, ân cần, tôn trọng hết mực. Do các luật nghi từ nơi kính tin phát khởi, nếu không khiêm tốn, cung kính, thì luật nghi không phát khởi. Luật nghi này, tất là từ sư, không chấp nhận tự thọ. Vì về sau, nếu gặp phải các duyên phạm giới, do hổ thẹn đối với giới, sư nên có thể không trái phạm. Nghĩa là người kia tuy thiếu tự pháp tăng thượng, do thế gian tăng thượng, cũng có thể không phạm. Thọ luật nghi này nên theo lời sư chỉ dạy. Người thọ ở sau nói chớ nên cùng hợp với chớ nên ở trước. Như thế mới thành thọ nhận từ sư truyền dạy. Khác với đây thì sự việc truyền trao và thọ nhận, cả hai cùng không thành. Thọ đủ tám chi mới thành Cận trụ. Tùy có chỗ thiếu thì cận trụ không thành. Các chi xa lìa đều cùng hệ thuộc nhau. Do đấy, bốn thứ chi lìa sát v.v… ở trong một thân, có thể cùng thời khởi, vì trong các chi xa lìa là cùng hệ thuộc, hoặc ít, hoặc nhiều cùng có sai biệt. Người thọ giới này tất lìa trang sức, xứ phóng dật. Các vật dụng thường trang sức thân không hẳn phải bỏ. Nhưng duyên nơi giới này, thì không thể sinh tâm phóng dật, như lúc mới lìa bỏ.

Thọ luật nghi ấy, tất cần đủ ngày đêm. Nghĩa là vào lúc sáng sớm, khi mặt trời vừa mọc, trải qua thời gian như thế, giới luôn nối tiếp nhau. Khác với đây, thì người thọ chỉ sinh hành diệu, không được luật nghi. Tuy nhiên, vì khiến chiêu cảm quả đáng yêu thích, nên cũng được thọ nhận. Lại, nếu thọ trọn ngày đêm như vậy, tức sẽ chế phục đủ các hữu tình là đồ tể, săn bắn, gian manh, trộm cắp, luật nghi cận trụ trở thành có tác dụng sâu xa.

Nói Cận trụ: Nghĩa là luật nghi này trụ gần A-la-hán để theo học A-la-hán.

Có thuyết nói: Luật nghi này trụ gần với giới trọn đời hành trì.

Có thuyết cho: Giới này là ở nơi thời gian gần mà trụ. Luật nghi như thế, hoặc gọi là nuôi lớn, tức nuôi lớn các hữu tình có căn thiện mỏng, thiếu, khiến căn thiện của họ ngày càng thêm nhiều.

Do đâu thọ luật nghi cận trụ này, tất gồm đủ tám chi không tăng, không giảm? Tụng nêu:

Chi giới cấm không dật

Thứ lớp bốn, một, ba

Vì ngừa các tánh tội

Mất niệm và kiêu dật.

Luận nói: Bốn trước trong tám chi là chi Thi la. Nghĩa là từ lìa sát sinh, đến lìa nói lời hư dối. Do bốn thứ này là lìa tánh tội. Tiếp theo có một thứ là chi không phóng dật. Nghĩa là lìa việc uống các thứ rượu, sinh xứ phóng dật. Tuy thọ Thi la nhưng nếu uống các thứ rượu, tâm tức phóng dật hủy phạm Thi la. Do say tất không thể giữ gìn chi khác. Sau có ba thứ chi là cấm hạn chế.

Nghĩa là lìa bôi xoa trang sức hương thơm, đeo tràng hoa, cho đến ăn phi thời, do có thể tùy thuận tâm chán lìa. Vì chán lìa có thể chứng quả luật nghi.

Do đâu phải thọ đủ ba chi như thế?

Vì nếu không gồm đủ chi thì không thể lìa được tánh tội và lỗi lầm mất niệm, kiêu mạn, phóng dật. Nghĩa là đầu tiên lìa sát sinh, cho đến lìa nói lời hư dối, thì có thể phòng ngăn tánh tội, vì lìa tham, sân, si đã khởi các nghiệp ác như sát sinh v.v… Tiếp theo lìa uống rượu là có thể ngăn trừ mất niệm do khi uống rượu, tức có thể khiến quên mất các sự việc nên làm không nên làm, là không thể giữ gìn các chi xa lìa khác. Sau lìa ba chi còn lại, có thể đề phòng kiêu mạn, phóng dật. Vì nếu thọ dụng các thứ hương, tràng hoa, giường tòa cao rộng, quen gần ca múa, tâm bèn kiêu căng, liền tức hủy giới. Do xa lìa các thứ kia, nên tâm tức lìa kiêu mạn. Nghĩa là hương, tràng hoa v.v… nếu luôn thọ dụng, hãy còn thuận với kiêu mạn, làm duyên phạm giới. Huống chi người thọ dụng thọ nhận các vật mới lạ từng chưa có, vì thế tất cả các thứ ấy nên lìa bỏ. Nếu có thể thọ trì dựa nơi thời mà ăn do có thể ngăn trừ sự việc luôn ăn, bèn nhớ lại luật nghi cận trụ tự mình đã thọ, có thể ở nơi thế gian sinh chán lìa sâu xa. Nếu ăn phi thời, thì cả hai sự việc ấy đều không. Thường xuyên ăn có thể khiến cho tâm phóng túng, buông thả. Do nghĩa lớn này, nên thọ đủ ba chi.

Có Sư khác nói: Lìa ăn phi thời, gọi là Thể của trai (ăn chay). Còn lại có tám thứ, được gọi là chi trai. Xoa xông các thứ hương, mang tràng hoa, xem nghe ca múa thì chia làm hai. Nếu tạo ra lối chấp này, thì trái với Khế kinh. Khế kinh nêu rõ: Lìa ăn phi thời xong, liền nói như thế này: Chi thứ tám ấy, tôi nay tùy thuận học Thánh A-la-hán, hành theo, làm theo.

Nếu như vậy thì có Thể của trai riêng nào để nói tám thứ ấy gọi là chi trai?

Sư Tỳ-bà-sa nêu bày như vầy: Lìa ăn phi thời là trai, cũng là chi trai. Bảy chi còn lại là chi trai, không phải là trai. Như chánh kiến là đạo, cũng là chi đạo. Bảy chi còn lại là chi đạo, không phải là đạo. Trạch pháp giác là giác, cũng là chi giác. Sáu chi còn lại là chi giác, không phải là giác. Tam-ma-địa là tĩnh lự, cũng là chi tĩnh lự. Số chi còn lại là chi tĩnh lự, không phải là tĩnh lự.

Ở đây, Kinh chủ đã lầm tạo vấn nạn thế này: Không thể cho chánh kiến v.v… tức là chi chánh kiến v.v…. Nếu cho chánh kiến v.v… của sinh trước là chi chánh kiến v.v… của sinh sau, thì Thánh đạo v.v… của sát-na đầu tiên, tức nên không có đủ tám chi v.v… Không phải Tỳbà-sa nói chánh kiến v.v… Thể của chúng tức là chi chánh kiến v.v… Cũng không phải chánh kiến v.v… của sinh trước, là chi chánh kiến v.v… của sinh sau. Nhưng đối với tám thứ như chánh kiến v.v… cùng sinh, chỉ một chánh kiến là có khả năng tìm cầu diệu lực của các pháp tướng, nên gọi là đạo. Do khả năng tìm cầu nghĩa của đạo ấy, vì thế tức chánh kiến này lại có thể tùy thuận chánh tư duy v.v… nên gọi là chi. Bảy chi còn lại, đối chiếu với pháp cùng sinh có thể tùy thuận, nên gọi là chi, không phải có thể tìm cầu, không gọi là đạo.

Nghĩa thật là như thế. Nếu căn cứ nơi giả danh, thì bảy chi còn lại đều có thể nuôi lớn chánh kiến, nên tư duy v.v… cũng được mang tên đạo, kiến gọi là chi đạo cũng không trái lý. Tức là tất cả cũng là đạo, cũng là chi. Phần còn lại tùy theo chỗ ứng hợp của chúng đều nêu bày như thế.

Do đấy, so sánh giải thích tám chi trai giới.

Kinh chủ ở trong ấy dựa vào gì để nói về lỗi?

Là chỉ cận sự được thọ cận trụ hay là các hữu tình khác cũng có thọ Cận trụ? Tụng nêu:

Cận trụ, khác cũng có

Không thọ ba quy, không.

Luận nói: Các hữu tình chưa thọ luật nghi cận sự, trong một ngày đêm quy y Tam bảo, nói về tam quy xong, thọ giới cận trụ, các hữu tình kia cũng được thọ luật nghi cận trụ. Khác với đây thì không có, trừ người không biết, do sức của ý lạc nên cũng phát sinh luật nghi.

Há không phải là ba quy tức thành cận sự, như Khế kinh nói: Đức Phật bảo Tôn giả Đại Danh: Các hữu tình tại gia, người nam bạch y, nam căn thành tựu, quy y Phật, Pháp, Tăng, sinh tâm tịnh đầy đủ, phát khởi lời nói thành thật đúng đắn, tự xưng con là Ô-basách-ca, xin bậc tôn kính nhớ giữ, từ bi hộ niệm. Ngang với đây gọi là Ô-ba-sách-ca. Điều này không trái nhau, vì ở phần vị thọ ba quy, chưa thành Cận sự. Vì sao? Vì chủ yếu là phát sinh luật nghi mới thành cận sự.

Ở vào thời nào thì phát sinh luật nghi cận sự? Tụng nêu:

Xưng cận sự phát giới

Nêu bày như Bí-sô.

Luận nói: Khởi tâm tịnh đầy đủ phát khởi lời nói thành thật đúng đắn, tự xưng con là Ô-ba-sách-ca, xin bậc tôn kính nhớ giữ, từ bi hộ niệm. Lúc ấy mới phát sinh luật nghi cận sự, vì xưng nói cận sự v.v… mới phát sinh luật nghi. Do kinh lại nói câu: Con từ nay cho đến mạng chung, luôn giữ gìn mạng sống. Nếu lìa phần xưng hiệu, chỉ thọ ba quy thành cận sự, thì câu nói tự xưng con là cận sự v.v… nên là vô dụng.

Dựa nơi nghĩa nào nên nói là giữ gìn mạng sống?

Vì luật nghi biệt giải thoát là do giữ gìn mạng sống mà được. Nhưng có tụng khác nói: Xả sinh. câu này ý nói là xả sát sinh v.v… lược bỏ chữ sát v.v… chỉ nói xả sinh. Hữu tình kia tuy đã được luật nghi cận sự, nhưng vì khiến nhận biết rõ về học xứ ứng hợp, nên vì họ nói về năm thứ giới tướng như lìa sát sinh v.v… khiến nhận biết để kiên trì. Như được giới cụ túc của Bí-sô xong, nói lần nữa về học xứ khiến nhận biết kiên trì. Cần sách cũng như vậy. Ở đây cũng nên như thế. Do đấy cận sự tất gồm đủ luật nghi, không phải thọ ba quy tức thành cận sự.

Tụng nêu:

Nếu đều đủ luật nghi

Thì sao nói một phần

Dựa có thể trì nói.

Luận nói: Theo nghĩa lý đã nêu ở trước của Kinh bộ, thì tâm không sinh vui mừng. Lại, nếu như là vấn nạn: Nếu các cận sự đều gồm đủ luật nghi thì do đâu Đức Thế Tôn nói có bốn thứ: (1) Có thể học một phần. (2) Có thể học ít phần. (3) Có thể học nhiều phần. (4) Có thể học đủ phần.

Há không phải do đấy lại đã chứng thành, không phải chỉ ba quy tức thành cận sự. Nghĩa là nếu có trường hợp riêng, chỉ thọ ba quy liền thành cận sự. Thì cận sự như thế, không phải thuộc về bốn thứ đã nói ở trước. Tức nên lại nói có cận sự thứ năm. Cận sự này đối với học xứ là hoàn toàn không có học. Cũng nên nói là một cận sự. Đức Phật xem cận sự không phải là lìa luật nghi, nên trong Khế kinh chỉ nói bốn thứ. Tuy các cận sự đều gồm đủ luật nghi, nhưng căn cứ ở khả năng hành trì nên nói bốn thứ. Nghĩa là tuy thọ đủ năm chi luật nghi, nhưng về sau gặp duyên, hoặc liền hủy bỏ, thiếu sót. Trong đó, hoặc có hữu tình đối với các học xứ có thể giữ gìn một phần, cho đến hoặc có hữu tình có thể giữ gìn đủ năm chi, nên nói như thế này: Vì có thể hành trì luật nghi đã thọ trước, nên nói câu có thể học. Không như vậy thì nên nói thọ một phần v.v… Tức bốn thứ này chỉ căn cứ ở khả năng thọ trì.

Kinh chủ ở trong đây đã nêu bày như vậy. Chỗ chấp như thế là trái vượt Khế kinh. Vì sao nói là trái với Khế kinh?

Nghĩa là không có kinh nào nói câu: Tự xưng con là cận sự, nên liền phát sinh năm giới. Kinh này không nói câu: Con từ nay, cho đến mạng chung xả sinh.

Kinh vì sao nói như kinh Đại Danh? Chỉ trong kinh này nêu bày về tướng của cận sự, kinh khác thì không như vậy, nên là trái với kinh. Tuy nhiên nơi kinh khác nói: Con từ thời nay cho đến mạng chung, xả bỏ sinh, quy về tịnh, là nói phát lời thành tín, quy về Tam bảo. Trong đây, chỉ rõ là người đã kiến đế, do được chứng tịnh, nêu lên mạng sống, tự bày tỏ sự cần thiết đối với chánh pháp tâm đã mang yêu mến kính trọng sâu xa. Cho đến làm duyên để cứu giúp sinh mạng của chính mình, trọn không bỏ chánh pháp của Như Lai. Không phải kinh kia vì muốn nói về tướng của cận sự, nên nói câu xả bỏ sinh v.v… như thế. Chưa xét kỹ ý nói của Kinh chủ trong đây, là nhằm khuyên các sư của nước ta hãy gắng sức thọ trì theo Kinh bộ của phương ngoài đã tụng, hay là thọ trì Khế kinh do Đức Phật đã giảng nói. Nhưng có các kinh không trái với chánh lý, Kinh bộ của phương ngoài từng không thọ trì. Có A-cấp-ma vượt hơn tụng chung. Kinh bộ kia chỉ tuân theo ý tạo, trở lại tự thọ trì. Kinh chủ há chấp nhận khiến các vị Đại Luận sư khéo xem khắp Thánh giáo trong nước ta đồng với Kinh bộ kia bỏ chân, thọ trì ngụy giáo. Lại, kinh đã nói: Con từ thời nay, cho đến mạng chung, xả bỏ sinh v.v… lý nào chỉ nói người được chứng tịnh, không phải các phàm phu cũng lập thệ này. Các loại phàm phu sắp thọ luật nghi, cũng có ý lạc kiên cố như đây, cho đến làm duyên để cứu sinh mạng của chính mình, trọn không thiếu trái với học xứ đã thọ, như lời thệ nguyện thọ nhận này nơi hiện đời có thể đạt được. Nhưng văn cú trong kinh Đại Danh này, hiện có người thọ trì không trái với chánh lý, tức không nên bỏ chánh văn đã tụng. Nếu như kinh Đại Danh không có văn cú ấy, thì đối với nghĩa của tông ta cũng không có chỗ sai trái, không phải ngôn thuyết của tông ta có văn cú này rốt cùng mới phát sinh luật nghi cận sự. Do nói tự xưng con là cận sự, xin ghi nhận hộ niệm, liền phát khởi luật nghi để tự phát ngôn biểu hiện là đệ tử. Như Tôn giả Đại Ca Diếp được giới cụ túc, Đức Thế Tôn đã nói là Ô-ba-sách-ca, tức nên thọ trì đủ năm thứ học xứ. Vị kia nói: “Con là Ô-ba-sách-ca, tất gồm đủ luật nghi”, sao phải nhọc sức đến nỗi mê. Như xưng: Ta là đại quân sư của nước, người ấy tất đã tập quen đủ sự nghiệp binh tướng.

Dựa vào dụ như thế, người trí nên suy xét. Rõ ràng như vậy là không có vượt quá lý giáo. Nếu không nhẫn thọ thì biết làm thế nào?

Lại, Kinh chủ nói: Căn cứ nơi việc trì giới, phạm giới, để nói về một phần v.v… hãy còn không nên nêu hỏi, huống chi là nên đáp. Người nào đã hiểu luật nghi cận sự, tất gồm đủ năm chi, mà lại không thể hiểu về đối tượng của học xứ, là thọ trì một không phải là thứ khác, cho đến thọ trì đủ, gọi là một phần v.v… Do vị kia chưa hiểu lượng thọ nhận ít nhiều của luật nghi cận sự, nên thỉnh vấn:

Thông thường có bao nhiêu hạng Ô-ba-sách-ca có thể học Học xứ?

Đáp: Có bốn Ô-ba-sách-ca. Nghĩa là có thể học một phần v.v… Cũng chưa thể hiểu rõ. Lại hỏi:

Vì sao gọi là có thể học một phần, cho đến nói rộng?

Điều này hoàn toàn là vô lý. Vì chỉ trong lý đã nêu bày của tông Đối pháp là nên hỏi đáp. Tuy biết cận sự tất gồm đủ luật nghi nhưng chưa nhận biết rõ tùy thuộc phạm một thứ là vượt tất cả hay là một không phải thứ khác.

Do có nghi này nên phải thỉnh hỏi. Các bộ hoặc có bộ chưa thấy văn này, ở trong nghĩa ấy cho đến nay cũng còn tranh cãi. Nếu khác với đây, thì như kinh Phật thường nói: Ô-ba-sách-ca gồm đủ năm học xứ. Ở đây người nào đã khéo nhận biết rõ, mà lại hoài nghi hỏi thọ nhiều ít? Nếu như thừa nhận như thế, thì cùng trái với nghi vấn. Nghĩa là vị kia vốn nghi ở lượng thọ nhận nhiều ít, mà hỏi có bao nhiêu cận sự có thể học học xứ? Đáp: Học một phần v.v…

Há loại trừ chỗ nghi vốn có, tức trong nghĩa kia là không nên hỏi đáp.

Kinh chủ ở đây, không tìm xét thích đáng, ở trong lý tranh luận mang lấy chấp phe phái, nói trái với nghĩa của Đối pháp đã nêu bày, hỏi hãy còn không nên, huống chi là nên đáp.

Có Sư khác cho: Do Khế kinh riêng khác, chứng biết lìa luật nghi, cũng thành cận sự. Như Khế kinh nói: Ngang với gì gọi là Thi la viên mãn của Ô-ba-sách-ca? Nghĩa là có cận sự có thể đoạn sát sinh, có thể lìa sát sinh, cho đến uống rượu, nên biết cận sự luật nghi có thiếu.

Sư kia đối với ý nghĩa của kinh này là rất mê mờ. Ý của kinh này là nói về Thi la vô lậu, do trong ấy không có tiếng trọn đời. Lại, như kinh nêu: Ngang tới đâu gọi là tín căn viên mãn của Ô-ba-sách-ca? Nghĩa là có cận sự ở nơi trụ xứ của Đức Như Lai, có tín căn, cho đến nói rộng. Không thể nói có Ô-ba-sách-ca ở nơi tín này không thành, tức hoàn toàn không có tín. Như kinh này nói câu tín viên mãn, là chỉ căn cứ ở vô lậu, nên biết đã nói câu giới viên mãn là không phải căn cứ nơi hữu lậu mà chỉ căn cứ theo vô lậu để nói lời như thế.

Vì vậy không nên dẫn kinh này nói để chứng mình là có cận sự không đủ luật nghi, vì trong giới vô lậu không có lìa uống rượu.

Giải thích này về lý tất không đúng. Vì vấn nạn này đã không đúng. Kinh này đã làm rõ là nói về Thể của giới vô lậu có công năng hơn hẳn. Nghĩa là Đức Phật chỉ rõ về sức của giới vô lậu, có thể khiến cho luật nghi cận sự đã thọ, cho đến đến ngăn chận giới cũng nhất định không phạm. Nên kinh này căn cứ nơi Thi la vô lậu nói lìa uống rượu, cũng không có lỗi. Thế nên Khế kinh nói: Người thấy biết viên mãn, trọn không cố ý phạm các học xứ. Hoặc kinh này nói về Thi la viên mãn, vì muốn hiển bày nghĩa thanh tịnh khắp của Thi la. Nghĩa là ở nơi năm giới, hoàn toàn không có hủy hoại, thiếu sót, mới gọi Thi la thanh tịnh khắp.

Dựa nơi thanh tịnh khắp để lập danh xưng viên mãn. Nếu quyết định không lìa giới cận sự, liền trái với kinh nói. Hoặc có một loại đủ tín, không phải là giới Ô-ba-sách-ca. Loại này không trái nhau. Đây là nói về cận sự không thể gồm đủ. Người giữ năm giới, gọi là đủ tín, không phải là đủ Thi la. Hoặc nói đủ ở đây là hiển bày nghĩa đáng khen ngợi. Như nói gươm này đã mài xong, sắc đủ, không phải cho lưỡi gươm này chưa mài, sắc hoàn toàn không có. Giới cũng nên như thế, có thể tán thán, gọi là đủ. Giới gồm đủ các đức được lập tên gọi đáng khen ngợi. Cùng với đây trái nhau gọi giới không đủ. Nếu thiếu luật nghi thì cũng gọi là cận sự, thì Bí-sô, Cần sách thiếu, tức cũng nên thành. Nhưng Kinh chủ nói: Do đâu không thừa nhận do sức nơi giáo pháp của Phật thiết lập không đồng, nên tuy thiếu luật nghi mà thành cận sự. Bí-sô, Cần sách chính là phải đủ luật nghi.

Đây là Kinh chủ tuân theo tình của chính mình, vì không có kinh nào nói.

Trước kia đã nói: Chỉ kinh Đại Danh đã nêu bày về tướng của cận sự, kinh khác thì không như thế. Nay nên quyết định nêu rõ: Đức Thế Tôn ở đâu nói lìa luật nghi mà thành cận sự?

Từng nghe Kinh bộ có tạo ra chấp này: Cũng có Cần sách, Bísô không có giới. Lối chấp của Kinh bộ kia là đồng với các kiến chấp của ngoại đạo như Bố-lạt-noa v.v… không phải là tông của Phật pháp.

Tất cả phẩm loại của luật nghi là như nhau chăng?

Phẩm loại không bằng nhau, vì có ba phẩm hạ trung thượng riêng tùy vào gì để thành? Tụng nêu:

Hạ, trung, thượng tùy tâm.

Luận nói: Giới biệt giải thoát của tám chúng đã thọ, tùy theo sức của tâm thọ, nên thành thượng, trung, hạ. Do lý như thế, nên các A-la-hán, hoặc có vị thành tựu luật nghi phẩm hạ, nhưng các phàm phu hoặc thành tựu phẩm thượng.

Ở đây, Thượng tọa bác bỏ nói: Tông đã nêu như thế là trái với lý giáo đích thực. Nếu tất như thế, tức nên không có người chánh cần, dũng mãnh tu giữ cấm giới. Đức Thế Tôn cũng nêu rõ: Phép tắc đã hành đều được viên mãn. Đối với tội vi tế, nhận thấy sợ hãi lớn. Đây chỉ là thọ trì các giới như trước đã được, khiến không hủy hoại. Vậy nên phát khởi chánh cần dũng mãnh, không phải do tu trì, khiến phẩm hạ trung chuyển thành trung thượng. Cũng không phải do khởi chánh cần dũng mãnh liền bỏ hạ trung được giới trung thượng.

Do đấy, tức giải thích Khế kinh đã dẫn, cũng chỉ căn cứ theo chỗ thọ trì luật nghi như trước đã được. Có thể ở trong tội vi tế đã hủy phạm, nhận thấy sợ hãi lớn, nên nói như vậy, không nói do đấy khiến giới tăng dần.

Lại, thuyết kia đã nói: Các pháp hữu vi, sát-na không trụ, nên giới đã thọ, do sức của nhiều duyên và A-thế-da, từ hạ sinh trung, từ trung sinh thượng.

Điều này cũng phi lý, vì luật nghi đã thọ dựa vào duyên thù thắng mới được sinh. Nghĩa là giới đã thọ tất nhờ nơi duyên thọ, được rồi không chấp nhận luôn luôn thọ lại. Nếu trước thọ rồi, sau lìa duyên thọ, thì gặp rộng duyên khác, có thể lại được. Trước chưa thọ giới, nếu như gặp duyên khác cũng nên có thể đạt được, vì không có sai biệt. Tuy các pháp hữu vi đều nhờ vào duyên khởi, nhưng giới tất nhờ vào duyên thù thắng sinh, nên thuyết kia đã nói, nhất định là không hợp lý. Vì dựa vào nghĩa nào để nói Ô-ba-sách-ca, trước kia đã quy y Phật, Pháp, Tăng bảo, thân cận, thừa sự, tôn trọng thầy, liền được Thi la, nên gọi là Cận sự. Hoặc có thể tập cận hành tác như lý, phá trừ những sự việc ác, nên gọi là Cận sự. Hoặc có thể gần gũi, thờ Phật làm thầy, nên gọi là Cận sự. Phần đồng chư Phật được Thi la tịnh, vì ý lạc thiện. Như có tụng nêu:

Ở xa mà gần Phật

Do siêng dốc quy lễ

Có bi, lìa tưởng ác

Nên gọi là Cận sự.

Nay nên xét chọn:

Thế gian không có trí đã thờ vô số các chúng trời thần. Là các cận sự nên lễ bái trời kia như lễ bái Đức Thế Tôn hay là không nên lễ? Do đâu ở đây bỗng nhiên sinh nghi?

Do ở nơi thế gian hiện có một loại hữu tình thờ trời tà, ái nhiễm hành tập tâm họ, ưa thích tuân theo tình mình, làm các sự việc, không dựa nơi lý giáo, vọng tạo ngôn thuyết: Ô-ba-sách-ca nên lễ chúng trời, vì Đức Phật đã cho phép. Nghĩa là Đức Phật cho phép cúng dường trời thần, nên Khế kinh nói: Cúng dường trời gọi là phụng hành Phật giáo. Lại tùy niệm. Nghĩa là Đức Thế Tôn nói nên tùy niệm trời, nên lễ bái trời. Như nói: Tùy niệm Phật, Pháp, Tăng bảo. Lại, vì không ngăn chận. Nghĩa là không có kinh nào ngăn chận Ô-ba-sách-ca lễ bái các thiên chúng. Lại vì có ân. Nghĩa là chư thiên kia thừa hành phụng sự hợp với nghi thức có thể ban cho ân phước. Lại, vì có thể gây tổn hại. Nghĩa là trời thần kia thừa hành phụng sự sai nghi thức, có thể tạo tổn hại lớn, vì thế các cận sự nên lễ bái trời thần.

Lược nêu Tông kia đã nói như thế. Những sự việc trên đây đều phi lý. Lại, thuyết kia đã nói: Vì Đức Phật đã cho phép, nên lễ bái trời. Ý của Đức Phật không như vậy, vì phân biệt nên nói. Nghĩa là kinh kia nêu rõ: Các thí chủ tịnh đối với chư vị trời thần nên thọ nhận cúng tế, nơi các thế gian nên dùng ba sự việc để cúng dường thuận hợp, lễ bái thừa hành. Trời thần kia, đối với thí chủ, tất khởi tâm thiện, xót thương, hộ niệm, khiến không bị tổn não.

  1. Nơi các thời nên hành thí nghiêm tịnh.
  2. Nơi các thời nên hành thí cúng dường các vật dụng.
  3. Nơi các thời nên hành thí tụng, nguyện.

Do nêu lên ba sự việc trên, là nhân quyết định, chứng biết Đức Thế Tôn, ngoại trừ ba việc này, thì các sự việc hành tác khác, đều không phải được Phật thuận cho. Không phải nêu danh số, là liền hiển bày nghĩa quyết định. Như nói câu địa động không phạm v.v… Nghĩa là như kinh nói: “Do bốn nhân duyên nên đại địa chấn động”, không phải không còn có nhân duyên khiến địa động ngoài bốn nhân duyên.

Lại, như kinh nói: Các A-la-hán, có thể đối với năm xứ hoàn toàn không phạm. Chẳng phải không còn có xứ không phạm khác.

Lại, như kinh nêu rõ: Người tại gia, xuất gia ở trong năm xứ, nên thường xuyên quán xét. Không phải không còn có xứ khác nên quán xét.

Những câu nói như thế, loại ấy không phải là một. Ba việc nêu trên cũng nên như vậy, không phải là nhân quyết định.

Lời biện hộ giúp này là không hợp lý. Như địa chấn động v.v… kinh khác nói là không thể có được.

Ở đây nêu lên số nhất định, không phải ở nơi kinh khác, có lời nói không nhất định, như địa chấn động v.v…

Dùng việc ấy để chứng biết trong kinh này danh số liệt kê, nêu lên, là hiển bày về lý quyết định. Trừ lý này thì lý khác không cùng có. Hoặc nên nói về uẩn, xứ, giới v.v… như danh số này, đều thành không nhất định. Hoặc như đã nói về uẩn xứ giới, nhân của địa động v.v… số lượng cũng nên nhất định. Do đâu một loại danh số được liệt kê, nêu lên đã làm rõ trong nghĩa, hoặc nhất định, không nhất định, do ở nơi xứ khác đã trừ chỗ sáng tỏ này, hoặc không thấy xứ khác, hoặc thấy xứ khác. Nếu tất cả xứ đã dùng ngôn thuyết đồng chấp sự việc đều như nhau tức thành lỗi lớn.

Nếu cho kinh nói câu cúng dường v.v…, tức đã hiển bày xác nhận nên lễ bái, thì Đức Phật tức nên loại trừ các chúng trời thần, thí chủ cũng có thể nên lễ bái cúng tế. Như kinh kia nói: Các chúng trời thần đã được cúng dường và phụng sự xong, phải nên cúng dường v.v… trở lại, để báo đáp ân của thí chủ. Thế nên trong đây chỉ căn cứ theo sự việc đã ưa thích mong muốn của các chúng trời thần kia, đều dâng cúng thích đáng, gọi là cúng dường v.v… không phải nêu bày lễ kính. Các chúng trời thần, ở bên hàng cận sự không dám mong cầu sự việc kính lễ, như vua chúa của nước đối với các Bí-sô, nhất định không có mong cầu sự việc lễ kính, e sợ tổn giảm công đức và thọ mạng. Như Khế kinh nêu rõ: Thiên vương Tỳ Sa-môn cung thỉnh năm trăm Thánh chúng như các Tôn giả Đại Mục Liên, Xá-lợi-tử v.v…, đến trong cung mình, thiết lễ cúng dường xong, thì thỉnh hành thí tụng, nguyện. Lại xin từ nay, các người xuất gia, cận sự v.v… đến doanh trấn của tôi, tất cả đều nên hành thí tụng nguyện cho tôi. Tôi cùng với quyến thuộc cũng từ nơi thời hiện nay, thường đem tâm chuyên thành hộ trì chánh pháp, khiến cho hàng đệ tử xuất gia, tại gia của Phật trong tất cả thời gian, luôn không có não hại.

Bấy giờ, hai vị Đại Thánh chấp nhận lời thỉnh cầu của Thiên vương Tỳ Sa-môn, bố cáo khắp tất cả các hữu tình xuất gia, tại gia, đã thọ trì giới cấm của Đức Phật: Từ nay trở đi, chư vị đi đến trong doanh trấn của Thiên vương kia, đều nên như pháp hành thí tụng nguyện cho Thiên vương. Thế nhưng chưa từng khiến chấp tay lễ kính. Do chứng cứ này, nên nhận biết nhất định Đức Thế Tôn ở trong kinh ấy đã không thừa nhận kính lễ.

Nói tùy niệm tức nên lễ bái trời thần, thì cũng không hợp lý, vì mê chấp nghĩa của kinh. Nghĩa là ý của kinh nêu câu: Nên tạo niệm. Các hữu tình kia đã thành tựu tín v.v… từ đây xả bỏ thọ mạng xong, tức được sinh lên trời Tứ Đại vương và chúng trời khác. Ta cũng thành tựu các pháp thiện như tín v.v…, tức cũng nên đồng với các hữu tình kia sẽ được sinh thiên, khiến tùy niệm trời cùng với mình là đồng đức, không phải khiến lễ kính, gọi là tùy niệm trời, nên dẫn kinh này đối với tùy niệm kia, không phải là chứng cứ. Nói không ngăn chận, nên lễ bái trời, tức cũng không hợp lý, vì nghĩa đã ngăn chận. Kinh chỉ thừa nhận ba sự việc cúng dường trời thần.

Há không phải là ở đây nói nhất định là đã ngăn chận lễ kính?

Lại, căn cứ theo trong phần lược nói về Tỳ-nại-da, cũng đã có nghĩa ngăn chận lễ bái trời thần. Nghĩa là Đức Phật từng lược nói về Tỳ-nại-da, bảo các Bí-sô: Ta tùy theo câu văn đã nói về các thứ ngăn chận chế ngự đều không nên làm. Nhưng thứ đã mở ra cho phép, thì các ông nên làm. Nếu không phải là điều đã ngăn chận, không phải là pháp đã thuận cho, thuận với uế, trái với tịnh, thì đều không nên làm. Thuận với tịnh, trái với uế, thì các ông nên làm.

Đã chấp cho Đức Như Lai không ngăn chận hàng cận sự lễ bái các chúng trời, cũng không từng thấy thuận cho hàng cận sự lễ bái các trời thần. Há không phải là ở đây tức nên thuộc về tụ thứ ba? Tuy nhiên, các cận sự nếu lễ bái trời thần thì việc đã làm như thế là thuận với uế, trái với tịnh, về lý nên là điều Đức Phật đã không cho làm. Như vậy trở lại thành Đức Phật đã ngăn chận mà nói không ngăn chận.

Nhân không cực thành thì do đâu nói lễ bái trời là thuận với uế, trái với tịnh?

Do nếu hàng cân sự ưa thích lễ bái trời thần, nên so với ngoại đạo v.v… là không khác biệt, vì đã yêu thích chỗ tạo nghiệp của đồ chúng tà. Lại, nếu chúng cận sự lễ kính trời thần, tức nên thành ái trọng, khen ngợi luận tà về trời, liền cùng với đồ chúng tà vậy yêu thích kính lễ trời, đồng nhận Thi la, làm bạn bè an ủi. Do phương tiện này nên quen gần với sư tà, nhân đọa vào nẻo ác, ngày càng tăng thịnh, thêm chắc. Từ đây, lần lượt cho đến nhiều đời, cũng ưa thích hành nhiều hành tà như thế. Lại, nếu lễ kính các trời thần tà, nhân đấy liền ghét bỏ Thánh giáo của Như Lai. Do đều kính trời thần tà, nghe công đức của Phật thì sinh tâm giận dữ. Vừa có thể, ở nơi giữa tâm không có yêu ghét. Lại ở nơi lễ kính, lỗi lầm đã giữ lấy tâm, tất định oán ghét người kính trọng công đức.

Do đâu tín phụng trời thần đại lực mà nói là kính người lỗi lầm?

Vì lễ kính kia luôn ưa thích đối với người khác, phá trừ, từ bỏ ân nghĩa tạo dua nịnh, lừa dối v.v… vì có cảnh lỗi lầm là tăng thượng. Do đấy, chỉ có người ngu không hiểu biết, đối với trời thần kia, sinh ái kính sâu nặng. Nếu các Hiền Thánh, chỉ ở nơi đoạn diệt xa lìa tịch tĩnh, các đức được tập thành như đại trí đại bi v.v…, đã được chư Phật Thế Tôn sinh kính ái sâu xa. Dựa nơi nghĩa như thế, nên có tụng nói:

Nghèo kém, có mong cầu

Loại ngu, kính trời thần

Giàu sang không mong cầu

Người trí chỉ kính Phật.

Lại, nếu hàng cận sự lễ kính trời thần, thì dẫn dắt nhiều hữu tình, tạo suy tổn lớn. Nghĩa là người phụng sự trời đều nói lời thế này: Ô-ba-sách-ca đã tập quen sâu nơi Phật giáo, hiện đến lễ kính trời của ta đã thờ phụng. Tất ở nơi trời thần có mang tâm tin kính. Lành thay! Chúng ta không có quy y điên đảo. Lại nơi thế gian, những người ưa thích quan sát, suy tìm về Phật giáo, chưa xét tới phần chân thật, xem qua các sự việc ấy, liền sinh khởi chấp tà như thế. Phật giáo tức nên giống với truyện sách của thế gian, không thể quyết định biện về nghĩa lý chân chính, mới khiến những người hiểu biết về Phật giáo như thế, trở lại đến quy y các chúng trời thần, dẫn dắt vô số các hữu tình như vậy v.v… khiến gia tăng chấp tà, gọi là suy tổn lớn.

Hàng cận sự lễ kính trời thần như thế, là trái với tịnh, thuận với uế, nên Đức Phật đã ngăn chận. Vì vậy không nên nói là không ngăn chận.

Lại, không ngăn chận vì không phải là nhân nên tạo tác. Như Đức Phật không ngăn Bí-sô xả giới, vì từng không có xứ nào Đức Phật nói thế này: Bí-sô không nên xả giới đã học. Không phải đối với việc xả giới, Đức Phật từng không ngăn chận, tức pháp của các Bí-sô nên xả giới, do vậy không nên nói: Ô-ba-sách-ca tức nên lễ trời thần. Đức Phật không ngăn chận, nên nói vì có ân, nên lễ trời, cũng không hợp lý, vì nghe có oán.

Truyền nghe các thứ khổ như bệnh nhiệt, già chết v.v… cũng có là do trời thần kia đã tạo. Không nên nói nhất định ở nơi thế gian có ân. Lại, các Bà-la-môn, Trưởng giả, Cư sĩ, đối với chúng Bí-sô, Đức Phật nói là có ân vì đã cung cấp duyên mạng, khiến không thiếu thốn. Há chúng Bí-sô tức nên lễ thí chủ?

Đã không nên lễ tất cả có ân, nên nhân đã lập có lỗi không nhất định.

Lại, các hàm thức thảy đều thọ dụng, do tự nghiệp đã chiêu cảm các quả dị thục. Thế nên thuyết nói về thờ cúng trời thần ở nơi thế gian do có ân, có lỗi không thành.

Do đấy, cũng phá bỏ nhân có thể làm tổn hại, vì tất cả hữu tình đều dựa vào tự nghiệp, mà nói người nào có sức mạnh có thể gây tổn hại cho người nào? Lại, hữu tình kia đối với kẻ khác, đã có thể làm tổn hại, ai là người có trí đã yêu kính kẻ oán ghét mình. Thế gian có người thiện, có thể tạo lợi ích cho người khác, các người nhờ được lợi ích, nên kính người kia. Tánh của các trời thần này, phần nhiều là giận dữ, luôn ưa gây tổn não cho các hữu tình khác. Như ghét bỏ kẻ oán mình, không nên kính lễ, thế nên thuyết kia đã nói thành nhân trái nhau.

Lại, nhận thấy nơi thế gian quy kính trời, thì trời thần đối với họ, có khi tạo suy tổn. Cũng có hữu tình không kính trời, trời thần đối với họ đã không thể làm hại, nên thuyết kia đã nói không phải là nhân kính trời.

Nếu cho như vua thì cũng không hợp lý, vì pháp hệ thuộc, nương dựa của thế gian tức nên như vậy. Không phải các cận sự hệ thuộc trời thần. Tự là đồ chúng tà cùng dua theo quy về nhờ cậy. Đối tượng nương dựa của nhiều người kể cả vua chúa của thế gian, không phải người xuất gia đều nên tôn kính.

Vì thế hàng cận sự không nên kính lễ tất cả trời thần, về lý là cực thành lập.

HẾT – QUYỂN 37