LUẬN A TỲ ĐÀM TỲ BÀ SA
STác giả: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử
Giải thích: Năm trăm A La Hán
Hán dịch: Đời Bắc Lương, Sa môn Phù Đà Bạt Ma, Đạo Thái v.v…
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 49

Chương 3: KIỀN ĐỘ TRÍ

Phẩm thứ 1: TÁM ĐẠO, phần 4

Các pháp tương ưng với giác chi niệm thì cũng tương ưng với giác chi hỷ chăng? Cho đến nói rộng làm bốn trường hợp. Giác chi niệm ở trong tất cả địa, tất cả tâm vô lậu. Giác chi hỷ ở trong tất cả tâm vô lậu không phải ở nơi tất cả địa. Thế nên có thể tạo trường hợp một trong bốn trường hợp:

1. Tương ưng với giác chi niệm không phải là giác chi hỷ: Là giác chi hỷ, ở trong tụ cùng với giác chi niệm tương ưng. Thể của giác chi hỷ tương ưng với giác chi niệm, không tương ưng với giác chi hỷ. Vì sao? Tức do ba sự việc, nên tự thể không tương ưng với tự thể, như trước đã nói. Pháp khác không tương ưng với giác chi hỷ, tương ưng với giác chi niệm. Điều ấy lại là thế nào? Đáp: Trong thiền vị chí, thiền trung gian, các thiền thứ ba, thứ tư và ba vô sắc, cùng có với pháp tương ưng của giác chi niệm. Pháp ấy không tương ưng với giác chi hỷ. Vì sao? Vì trong các địa kia không có hỷ.

2. Tương ưng với giác chi hỷ không phải là giác chi niệm: Là giác chi niệm tương ưng với giác chi hỷ. Giác chi hỷ cùng có ở trong tụ. Thể của giác chi niệm tương ưng với giác chi hỷ, không tương ưng với giác chi niệm. Vì sao? Vì ba sự việc nên tự thể không tương ưng với tự thể. Như trước đã nói.

3. Tương ưng với giác chi niệm cũng tương ưng với giác chi hỷ: Là trừ sự tương ưng của giác chi niệm. Vì sao? Vì giác chi niệm kia có nhiều nên trừ đi. Và giác chi niệm, giác chi hỷ cùng có trong tụ, còn lại là tự thể của giác chi hỷ, giác chi niệm, các tâm số pháp khác đều cùng tương ưng với cả hai. Pháp tương ưng kia là gì? Đó là tám đại địa, mười đại địa thiện, địa có giác quán tức có giác quán và tâm.

4. Không tương ưng với giác chi niệm cũng không tương ưng với giác chi hỷ: Là giác chi niệm không cùng với giác chi hỷ tương ưng. Pháp không tương ưng đó là gì? Nghĩa là thiền vị chí, trung gian, các thiền thứ ba, thứ tư và ba vô sắc, thể của giác chi niệm không tương ưng với giác chi niệm. Vì sao? Vì ba việc nên tự thể không cùng với tự thể tương ưng. Như trước đã nói. Cũng không tương ưng với giác chi hỷ. Vì sao? Vì trong các địa kia không có hỷ. Các tâm tâm số pháp khác, tức ở đây đều nói tất cả tâm vô lậu, nên không có pháp khác. Có pháp khác là tâm tâm số pháp hữu lậu, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành, tạo ra trường hợp thứ tư.

Như giác chi niệm và giác chi hỷ, thì giác chi niệm và chánh kiến, chánh giác nói cũng như thế.

Hỏi: Các pháp tương ưng với giác chi niệm thì cũng tương ưng với chánh niệm chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu như cùng với chánh niệm tương ưng thì cũng cùng với giác chi niệm tương ưng chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Như giác chi niệm, thì các giác chi trạch pháp, tinh tấn, khinh an, định, xả, cùng với các đạo chi chánh phương tiện (chánh tinh tấn), chánh niệm, chánh định, nói cũng như thế.

Các pháp tương ưng với giác chi trạch pháp thì cũng tương ưng với chánh kiến chăng?

Đáp: Nếu pháp tương ưng với chánh kiến thì cũng tương ưng với giác chi trạch pháp.

Hỏi: Từng có pháp tương ưng với giác chi trạch pháp không phải là chánh kiến chăng?

Đáp: Có. Là chánh kiến không gồm thâu pháp tương ưng của giác chi trạch pháp. Pháp đó là gì? Là pháp tương ưng với tận trí, vô sinh trí.

Các pháp tương ưng với giác chi tinh tấn thì cũng tương ưng với chánh phương tiện chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu tương ưng với chánh phương tiện thì cũng tương ưng với giác chi tinh tấn chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Các pháp tương ưng với giác chi định thì cũng tương ưng với chánh định chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu tương ưng với chánh định thì cũng tương ưng với giác chi định chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Các pháp tương ưng với giác chi hỷ thì cũng tương ưng với giác chi khinh an chăng?

Đáp: Hoặc tương ưng với giác chi hỷ không tương ưng với giác chi khinh an, cho đến nên nêu ra bốn trường hợp. Hỷ ở trong tất cả tâm vô lậu, không ở trong tất cả địa. Khinh an ở trong tất cả tâm vô lậu, cũng ở trong tất cả địa.

1. Tương ưng với giác chi hỷ không phải tương ưng với giác chi khinh an: Là giác chi khinh an tương ưng với giác chi hỷ. Giác chi hỷ cùng có trong tụ. Thể của giác chi khinh an tương ưng với giác chi hỷ, không tương ưng với giác chi khinh an. Vì sao? Vì ba sự việc nên tự thể không cùng với tự thể tương ưng. Như trước đã nói.

2. Tương ưng với giác chi khinh an không phải tương ưng với giác chi hỷ: Là giác chi hỷ, giác chi khinh an cùng có trong tụ. Thể của giác chi hỷ tương ưng với giác chi khinh an. Vì sao? Vì ba sự việc nên tự thể không cùng với tự thể tương ưng. Như trước đã nói. Giác chi hỷ khác không tương ưng với pháp tương ưng của giác chi khinh an. Pháp ấy là gì? Là trong thiền vị chí, thiền trung gian, các thiền thứ ba, thứ tư và ba vô sắc, pháp tương ưng của giác chi khinh an tương ưng với giác chi khinh an, không phải là giác chi hỷ. Vì sao? Vì trong các địa kia không có hỷ.

3. Tương ưng với giác chi hỷ cũng tương ưng với giác chi khinh an: Là trừ giác chi khinh an và cùng với giác chi khinh an tương ưng. Vì sao? Là do nhiều nên trừ. Cùng giác chi khinh an và giác chi hỷ cùng có trong tụ, trừ tự thể, còn lại là các tâm tâm số pháp khác đều cùng tương ưng với hai giác chi. Pháp ấy là gì? Là chín đại địa, chín đại địa thiện. Ở nơi địa có giác có quán thì có giác quán và tâm.

4. Không tương ưng với giác chi hỷ cũng không tương ưng với giác chi khinh an: Là giác chi hỷ không tương ưng với giác chi khinh an. Pháp này là gì? Là trong các thiền vị chí, thiền trung gian, thiền thứ ba, thứ tư cùng ba vô sắc, thể của giác chi khinh an không tương ưng với giác chi hỷ. Vì sao? Vì trong các địa ấy không có hỷ, nên cũng không tương ưng với giác chi khinh an. Vì sao? Vì ba sự việc nên tự thể không cùng với tự thể tương ưng. Như trước đã nói. Các tâm tâm số pháp khác ở đây đều nói tất cả là tâm vô lậu, nên không có pháp khác. Có pháp khác là tâm tâm số pháp hữu lậu cùng sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Các pháp như thế v.v… không tương ưng với giác chi hỷ, cũng không tương ưng với giác chi khinh an.

Như giác chi hỷ và giác chi khinh an, thì giác chi hỷ cùng giác chi xả, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định, nói cũng như thế.

Hỏi: Các pháp tương ưng với giác chi hỷ thì cũng tương ưng với chánh kiến chăng?

Đáp: Hỷ ở trong tất cả tâm vô lậu, không ở nơi tất cả địa. Chánh kiến ở trong tất cả địa, không ở trong tất cả tâm vô lậu. Thế nên được lập ra bốn trường hợp lớn:

1. Tương ưng với giác chi hỷ không tương ưng với chánh kiến: Là chánh kiến tương ưng với giác chi hỷ. Giác chi hỷ cùng có trong tụ. Thể của chánh kiến tương ưng với giác chi hỷ, không tương ưng với chánh kiến. Vì sao? Vì ba sự việc nên tự thể không cùng với tự thể tương ưng. Như trước đã nói. Chánh kiến khác không tương ưng với pháp tương ưng của giác chi hỷ. Pháp ấy là thế nào? Là tận trí, vô sinh trí trong thiền thứ nhất, thứ hai. Pháp tương ưng của giác chi hỷ cùng có trong tụ, không tương ưng với chánh kiến. Vì sao? Vì là tụ của người khác.

2. Tương ưng với chánh kiến không tương ưng với giác chi hỷ: Là giác chi hỷ cùng với chánh kiến tương ưng. Chánh kiến cùng có trong tụ. Thể của giác chi hỷ tương ưng với chánh kiến, không tương ưng với giác chi hỷ. Vì sao? Vì ba sự việc nên tự thể không cùng với tự thể tương ưng. Như trước đã nói. Giác chi hỷ khác không tương ưng với pháp tương ưng của chánh kiến. Pháp này là gì? Là trong thiền vị chí, thiền trung gian, thiền thứ ba, thứ tư cùng ba vô sắc, pháp tương ưng của chánh kiến không tương ưng với giác chi hỷ, vì trong các địa kia không có hỷ.

3. Tương ưng với giác chi hỷ cũng tương ưng với chánh kiến: Là trừ chánh kiến tương ưng với giác chi hỷ, còn lại là giác chi hỷ khác tương ưng với chánh kiến, và các tâm tâm số pháp khác. Pháp này là gì? Là tám đại địa, mười đại địa thiện. Ở nơi địa có giác có quán thì có giác quán và tâm.

4. Không tương ưng với giác chi hỷ cũng không tương ưng với chánh kiến: Là chánh kiến không tương ưng với giác chi hỷ. Pháp ấy là gì? Là trong thiền vị chí, thiền trung gian, thiền thứ ba, thứ tư và ba vô sắc, thể của chánh kiến không tương ưng với giác chi hỷ. Vì sao? Vì trong các địa kia không có hỷ. Không cùng với chánh kiến tương ưng. Vì sao? Vì ba sự việc nên tự thể không cùng với tự thể tương ưng. Như trước đã nói. Giác chi hỷ không cùng với chánh kiến tương ưng. Pháp kia là gì? Là trong thiền thứ nhất, thứ hai, tận trí, vô sinh trí đều cùng có trong tụ. Thể của giác chi hỷ không tương ưng với chánh kiến. Vì sao? Vì là tụ của người khác. Không tương ưng với giác chi hỷ. Vì sao? Vì ba sự việc nên tự thể không cùng với tự thể tương ưng. Như trước đã nói. Các tâm tâm số pháp khác, pháp đó là gì? Là trong thiền vị chí, thiền trung gian, thiền thứ ba, thứ tư và ba vô sắc, tận trí, vô sinh trí cùng có trong tụ và tâm tâm số pháp hữu lậu, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành.

Như giác chi hỷ cùng với chánh kiến, thì giác chi hỷ cùng với chánh giác, chánh giác đối với chánh kiến, nói cũng như thế.

* Thế nào là chánh kiến thế tục? Thế nào là chánh trí thế tục?

Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?

Đáp: Phần Luận trước là căn bản để tạo phần Luận này. Phần Luận trước đã nói: Thế nào là Kiến? Thế nào là trí? Thế nào là Tuệ? Nhưng không nói rõ: Thế nào là chánh kiến thế tục? Thế nào là chánh trí thế tục? Nay vì muốn phân biệt rộng nên tạo ra phần Luận này.

Lại có thuyết nói: Sở dĩ tạo ra phần Luận này, vì hoặc có người cho: Ý thức tương ưng với tuệ thiện không hoàn toàn là tánh của kiến, như phái Thí dụ đã nói. Thuyết ấy là gì? Nghĩa là tiếp theo năm thức sinh, tâm khi chết có thể khởi nghiệp thân miệng.

Hỏi: Phái kia vì sao nói tiếp theo năm thức sinh, không phải là tánh của kiến? Như năm thức không thể phân biệt được sự sinh theo thứ lớp kia. Ý thức cũng không thể phân biệt. Vì sao có thể khởi nghiệp thân miệng không phải là tánh của kiến?

Đáp: Vì hành của kiến là ở bên trong. Hành của thân miệng kia là ở bên ngoài.

Hỏi: Vì sao tâm lúc chết không phải là kiến?

Đáp: Do kiến có uy lực, còn tuệ kia thì nhỏ yếu.

Hỏi: Phái Thí dụ đã nói như thế, vậy làm sao thông hợp với kinh Phật? Như nói: Lúc con người sắp chết, tâm tâm số pháp thiện đều cùng với chánh kiến kết hợp.

Đáp: Kinh kia nên nói như thế này: Đức Phật nói là tâm nối tiếp trước khi chết, không phải là tâm lúc chết.

Vì nhằm ngăn chận ý của những người nói như thế, lại cũng nhằm làm rõ là tất cả ý thức tương ưng với tuệ thiện hữu lậu tương ưng với ý thức, đều là tánh của kiến, nên tạo ra phần Luận này.

Thế nào là chánh kiến thế tục?

Đáp: Là ý thức tương ưng với tuệ thiện hữu lậu.

Sự việc ấy là thế nào? Đáp: Là giác bất tịnh tương ưng, niệm An na ban na, niệm xứ, cùng với pháp Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế đệ nhất tương ưng. Cùng với thiền, vô lượng, giải thoát, thắng xứ, nhất thiết xứ tương ưng. Đó là chánh kiến thế tục. Về lượng là nhiều như đối với nước của bốn biển cả, ở đây chỉ lược nói về phần thô.

Thế nào là chánh trí thế tục?

Đáp: Là ý thức tương ưng với tuệ thiện hữu lậu.

Sự việc ấy là thế nào? Đáp: Là giác bất tịnh tương ưng, cho đến là chánh trí thế tục. Số lượng nhiều như đối với nước của bốn biển cả. Và năm thức tương ưng với tuệ thiện. Sự việc này là thế nào? Là nhãn thức thiện tương ưng cho đến thân thức thiện tương ưng.

Nhãn thức thiện tương ưng với tuệ. Điều này là thế nào?

Đáp: Như thấy cha mẹ, Đức Phật, Phật-bích-chi, Thanh văn và những nơi chốn tôn trọng tức sinh khởi nhãn thức thiện.

Nhĩ thức thiện tương ưng với tuệ. Điều này là thế nào?

Đáp: Như nghe lời nói của Đức Phật, lời nói của cha mẹ, lời nói ở những nơi chốn tôn trọng tức sinh khởi nhĩ thức thiện.

Ba thức thiện còn lại, không phải là người thường có thể khởi được. Chỉ trừ người tu hành, quán đoạn thực, là có thể khởi ba thức thiện.

Đã nói về thể tánh. Nay sẽ nói về tướng giống nhau (đồng) và khác nhau (dị).

Nếu là chánh kiến thế tục thì cũng là chánh trí thế tục chăng?

Đáp: Nếu là chánh kiến thế tục tức cũng là chánh trí thế tục.

Từng có chánh trí thế tục không phải là chánh kiến thế tục chăng?

Đáp: Có. Là năm thức tương ưng với tuệ thiện.

Chánh kiến thế tục gồm thâu chánh trí thế tục, hay là chánh trí thế tục gồm thâu chánh kiến thế tục?

Đáp: Chánh trí thế tục gồm thâu chánh kiến thế tục, không phải chánh kiến thế tục gồm thâu chánh trí thế tục.

Không gồm thâu những gì? Đó là năm thức tương ưng với tuệ thiện.

Nếu thành tựu chánh kiến thế tục thì cũng thành tựu chánh trí thế tục chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Nếu thành tựu chánh trí thế tục thì cũng thành tựu chánh kiến thế tục chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Ai là người thành tựu chánh kiến thế tục, chánh trí thế tục?

Đáp: Người không đoạn căn thiện. Nói tóm tắt là những người không đoạn căn thiện, nhưng có nhiều ít.

Hoặc có người chỉ thành tựu chánh kiến, chánh trí thế tục ở cõi dục. Hoặc có người chỉ thành tựu chánh kiến, chánh trí thế tục ở cõi sắc. Hoặc có người chỉ thành tựu chánh kiến, chánh trí thế tục ở cõi vô sắc. Hoặc có người thành tựu chánh kiến, chánh trí thế tục ở cõi dục, cõi sắc. Hoặc có người thành tựu chánh kiến, chánh trí thế tục ở cõi sắc, vô sắc. Hoặc có người thành tựu chánh kiến, chánh trí thế tục ở cả cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc.

Do sự việc này, nên nói chung là người không đoạn căn thiện, nhưng có nhiều ít.

Nếu đoạn nhận biết khắp chánh kiến thế tục thì cũng đoạn nhận biết khắp chánh trí thế tục chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Nếu đoạn nhận biết khắp chánh trí thế tục thì cũng đoạn nhận biết khắp chánh kiến thế tục chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Ai đoạn nhận biết khắp chánh kiến, chánh trí thế tục?

Đáp: Là A-la-hán. Nói chung là A-la-hán. Người khác thì có ít nhiều. Nếu lìa dục của xứ vô sở hữu, thì đoạn chánh kiến, chánh trí của tám địa. Cho đến lìa dục của cõi dục, chưa lìa dục của thiền thứ nhất, thì đoạn chánh trí, chánh kiến của một địa. Thế nên, nói tóm tắt là A-la-hán, người khác thì có ít, nhiều.

Hỏi: Vì sao gọi là thế tục? Là do hủy hoại (biến hoại) nên nói là thế tục, hay là do đấy là xứ lập đủ tham nên nói là thế tục? Nếu do hủy hoại nên nói là thế tục, thì đạo vô lậu cũng hủy hoại, nên là thế tục. Nếu do đấy là xứ lập đủ tham nên nói là thế tục, thì đấy cũng là xứ lập đủ giận, si.

Đáp: Nên nói như thế này: Do hủy hoại nên nói là thế tục.

Hỏi: Nếu như vậy thì đạo vô lậu cũng hủy hoại, nên là thế tục chăng?

Đáp: Nếu sự hủy hoại làm tăng trưởng đối với Hữu, thì gọi là thế tục. Đạo vô lậu tuy có hủy hoại nhưng không làm tăng trưởng đối với Hữu, chỉ khiến Hữu tổn giảm.

Lại nữa, sự hủy hoại có thể làm cho Hữu nối tiếp, sinh lão bệnh tử nối tiếp, thì gọi là thế tục. Đạo vô lậu tuy hủy hoại, nhưng có thể đoạn trừ Hữu, không khiến sinh lão bệnh tử nối tiếp.

Lại nữa, nếu sự hủy hoại là đạo tích của khổ, tập, là đạo tích của sinh lão bệnh tử, thì gọi là thế tục. Đạo vô lậu tuy hủy hoại nhưng là diệt đạo tích của khổ tập, diệt đạo tích của sinh lão bệnh tử.

Lại nữa, nếu sự hủy hoại là xứ sở thuộc đối tượng duyên của thân kiến sử ái, là xứ lập đủ tham giận si, là những cấu uế, độc hại, lỗi lầm, cặn đục xen tạp gắn liền trong tánh của khổ tập, thì gọi là thế tục. Thánh đạo cùng với các thứ ấy trái nhau, nên không gọi là thế tục.

Lại có thuyết nói: Là xứ lập đủ tham nên nói là thế tục.

Hỏi: Nếu như vậy thì cũng là xứ lập đủ các thứ giận, si chăng?

Đáp: Nếu nói là xứ lập đủ tham thì cũng là xứ lập đủ các thứ giận, si.

Hỏi: Nếu thế tục là hủy hoại chăng?

Đáp: Hoặc thế tục không phải là hủy hoại, cho đến nói rộng làm bốn trường hợp:

1. Là thế tục không phải là hủy hoại: Là hai lậu quá khứ, vị lai.

2. Là hủy hoại không phải là thế tục: Là đạo đế hiện tại.

3. Là hủy hoại cũng là thế tục: Là hai lậu hiện tại

4. .Không phải là hủy hoại cũng không phải là thế tục: Là tất cả pháp vô vi của đạo đế quá khứ, vị lai.

Kinh nói: Trưởng lão Thức-mật-đề đi đến chỗ Đức Phật, bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nói là thế tục thì nghĩa ấy là thế nào? Đức Phật bảo Thức-mật-đề: Do hủy hoại (biến hoại), nên nói là thế tục.

Lại hỏi: Những gì là hủy hoại? Đức Phật bảo Thức Mật Đề: Nhãn nhập là hủy hoại, cho đến ý nhập là hủy hoại.

Hỏi: Đức Thế Tôn vì sao nói nhập là thế tục?

Đáp: Vì người thọ nhận sự hóa độ. Người thọ nhận sự hóa độ nên nghe nhập là thế tục, liền được hiểu biết giác ngộ, nên Đức Phật nói nhập là thế tục.

Hỏi: Hủy, hoại có gì khác biệt?

Đáp: Hủy là vô thường của khoảnh khắc sát-na. Hoại là vô thường lúc thân hoại.

Lại nữa, hủy là vô thường tế. Hoại là vô thường thô.

Lại nữa, hủy là vô thường của pháp bên trong. Hoại là vô thường của pháp bên ngoài.

Lại nữa, hủy là pháp của số chúng sinh. Hoại là pháp của số phi chúng sinh.

* Thế nào là kiến vô lậu? Thế nào là trí vô lậu?

Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?

Đáp: Phần Luận trước là căn bản để tạo ra phần Luận này. Phần Luận trước đã nêu: Thế nào là Kiến? Thế nào là trí? Thế nào là Tuệ?

Nhưng không nói rõ: Thế nào là Kiến vô lậu? Thế nào Trí vô lậu? Nay vì muốn phân biệt rộng, nên tạo ra phần Luận này.

Lại nữa, vì muốn nói về pháp đối trị gần, nên trước nói: Thế nào chánh kiến thế tục? Thế nào chánh trí thế tục? Pháp nào là đối trị gần của những thế tục đó? Đó là Kiến, Trí vô lậu. Thế nên tạo ra phần Luận này.

Thế nào là kiến vô lậu?

Đáp: Là tuệ vô lậu khác không thuộc về tận trí, vô sinh trí. Tuệ vô lậu khác ấy là những pháp nào? Là tám nhẫn trong kiến đạo, tám trí của học, chánh kiến của vô học.

Thế nào là trí vô lậu?

Đáp: Là tuệ vô lậu khác, trừ các nhẫn trong kiến đạo. Tuệ vô lậu khác ấy là những pháp nào? Là tám trí của học, vô học.

Đã nói về thể tánh của kiến trí. Nay sẽ nói về tướng giống nhau (đồng) và khác nhau (dị) của chúng.

Các kiến vô lậu là trí vô lậu chăng?

Đáp: Hoặc là kiến vô lậu không phải là trí vô lậu, cho đến nói rộng làm bốn trường hợp:

1. Là kiến vô lậu không phải là trí vô lậu: Là các nhẫn trong kiến đạo. Vì sao? Vì các nhẫn kia có tướng của kiến, không có tướng của trí.

2. Là trí vô lậu không phải là kiến vô lậu: Là tận trí, vô sinh trí. Vì sao? Vì hai trí kia có tướng của trí, không có tướng của kiến.

3. Là kiến vô lậu cũng là trí vô lậu: Là trừ các nhẫn trong kiến đạo, tận trí, vô sinh trí, còn lại là tuệ vô lậu khác. Kiến, trí kia là gì? Là tám trí của học, chánh kiến của vô học. Vì sao? Vì các thứ kia là tướng của kiến, cũng là tướng của trí.

4. Không phải là kiến vô lậu cũng không phải là trí vô lậu: Là trừ từng ấy sự việc trên. Nếu pháp đã lập danh, đã nêu xưng, đã nói ra thì trừ đi. Còn lại là các pháp chưa lập danh, chưa nêu xưng, chưa nói ra thì làm trường hợp thứ tư. Pháp đó là gì? Là hành ấm làm bốn trường hợp này. Tất cả tuệ vô lậu tạo ba trường hợp. Có tướng của kiến, tướng của trí, nghĩa là pháp khác có hành ấm, bốn ấm tương ưng, bất tương ưng và pháp vô vi làm trường hợp thứ tư. Đó gọi là trừ từng ấy sự việc trên. Sự gồm thâu cũng như thế.

Nếu thành tựu kiến vô lậu thì cũng thành tựu trí vô lậu chăng?

Đáp: Nếu thành tựu trí vô lậu thì cũng thành tựu kiến vô lậu.

Từng có thành tựu kiến vô lậu không phải là trí vô lậu chăng?

Đáp: Có. Là khi trụ nơi khổ pháp nhẫn.

Vì sao ở đây chỉ nói về bốn thứ: Hỏi, định, gồm thâu, thành tựu, không nói về đoạn.

Hỏi: Vì sao không nói đoạn?

Đáp: Nếu nói, đối với văn không khiến thêm rườm thì nói. Tôn giả Ca-chiên-diên-tử kia, cho đến một sát-na cũng không bỏ để tạo ra văn phân biệt. Nếu điều nói ra đối với văn khiến thêm rườm thì không nói. Như nước của bốn biển cả, văn nghĩa đều nói tóm lược.

Lại nữa, do cấu uế nên phải đoạn trừ. Pháp vô lậu không có cấu uế, nên không đoạn.

Hỏi: Nếu pháp vô lậu không đoạn, thì như nơi kinh Phật nói làm sao thông? Như nói: Tỳ-kheo! Ông nếu đã hiểu pháp dụ như chiếc bè, thì pháp hãy còn nên đoạn huống chi là phi pháp.

Đáp: Đoạn có hai thứ: (1) Đoạn trừ ái. (2) Đoạn trừ xả.

Ở đây là nói về đoạn xả bỏ. Pháp vô lậu tuy không có đoạn trừ ái nhưng có đoạn xả bỏ. Vì có đoạn xả bỏ nên nói: Các Tỳ-kheo! Xả bỏ Thánh đạo đã dứt hết lậu. Do nhớ nghĩ đến ân, nên thường xuyên khởi Thánh đạo hiện ở trước, thọ nhận đủ mọi thứ thân khổ, đó là khổ như đau đầu v.v… Thế nên Đức Phật nói thế này: Tỳ-kheo nên biết! Công việc nên làm của Thánh đạo, Ta đều đã làm xong, nên xả bỏ đạo này để nhập Niết-bàn. Như người nương vào chiếc bè để qua sông, vì nhớ nghĩ đến ân nên cũng đầu đội vai mang chiếc bè. Người khác bảo: Nam tử! Việc nên làm của chiếc bè đều đã làm xong. Nay ông nên bỏ để tùy ý mà đi. Việc bỏ đạo để nhập Niết-bàn kia cũng như thế.

Thế nào là pháp? Thế nào là phi pháp?

Đáp: Ngôn thuyết của nội đạo là pháp. Ngôn thuyết của ngoại đạo là phi pháp. Pháp của nội đạo tùy thuận nơi không, tùy thuận vô ngã, tùy thuận Niết-bàn. Pháp hãy còn nên bỏ, huống chi là ngôn thuyết của ngoại đạo, khiến Hữu nối tiếp, khiến sinh lão bệnh tử nối tiếp.

Lại nữa, khéo thọ trì danh cú vị thân là pháp. Không khéo thọ trì là phi pháp. Khéo thọ trì danh cú vị thân hãy còn xả bỏ, huống chi là không khéo thọ trì danh cú vị thân.

Tôn giả Cù-sa nói: Khéo thọ trì Kinh A Hàm, gọi là pháp. Không khéo thọ trì gọi là phi pháp. Do làm tăng trưởng sinh tử nên cần bỏ, huống chi là phi pháp.

Tôn giả Ba-xa nói: Chánh quán là pháp, không chánh quán là phi pháp. Pháp của chánh quán hãy còn nên bỏ, huống chi là pháp không chánh quán.

Lại nữa, hổ thẹn là pháp, không hổ thẹn là phi pháp. Ba căn thiện là pháp, ba căn bất thiện là phi pháp. Bốn niệm xứ là pháp, bốn điên đảo là phi pháp. Năm căn là pháp, năm cái là phi pháp. Sáu niệm là pháp, sáu ái thân là phi pháp. Bảy giác chi là pháp, bảy sử là phi pháp. Tám đạo chi là pháp, tám tà chi là phi pháp. Chín định thứ đệ là pháp, chín kiết là phi pháp. Mười nghiệp đạo thiện là pháp, mười nghiệp đạo bất thiện là phi pháp. Các pháp như thế hãy còn nên đoạn huống chi là phi pháp.

 

Chương 3: KIỀN ĐỘ TRÍ

Phẩm thứ 2: THA TÂM TRÍ, phần 1

Thế nào là Tha nhân tâm trí? Thế nào là Niệm tiền thế trí (Trí nhớ nghĩ về đời trước)? Chương như thế cùng giải thích nghĩa của chương, ở đây nên nói rộng là Ưu ba đề xá.

Hỏi: Tôn giả Ca-chiên-diên-tử vì sao đã dựa vào hai trí đó để tạo ra phần Luận này?

Đáp: Tôn giả kia đã có ý muốn như thế, tùy theo ý muốn của mình để tạo luận, cũng không trái với pháp tướng. Ý muốn của Tôn giả là nhân nơi hai trí để tạo luận, tức luận về hai trí, là tha tâm trí, và niệm tiền thế trí, tức có ý muốn luận về hai trí này.

Chỗ khác cũng nhân nơi hai trí để tạo luận. Như nơi Kiền Độ Căn đã luận về pháp trí, tỷ trí.

Chỗ khác cũng nhân nơi hai trí để tạo luận. Như nơi Kiền Độ Định đã luận về tận trí, vô sinh trí.

Chỗ khác có ý muốn luận về bốn trí, tức nhân nơi bốn trí để tạo luận. Như nơi Kiền Độ Căn đã luận về trí khổ, tập, diệt, đạo. Như nói: Nếu là khổ trí tức là trí vô lậu khổ chăng? Cho đến nếu là đạo trí tức là trí vô lậu đạo chăng?

Chỗ khác có ý muốn luận về tám trí, tức nhân nơi tám trí để tạo luận. Như nơi Kiền Độ Sử, Kiền Độ Định, Kiền Độ Trí đã nói.

Chỗ khác ý muốn luận về mười trí, tức nhân nơi mười trí để tạo luận. Như nói: Nhãn căn dùng bao nhiêu trí để nhận biết? Cũng như thợ gốm thiện xảo, trước hết trộn nhồi đất sét cho thật nhuyễn rồi đặt yên trên bánh xe, sau đó tùy theo ý muốn của mình, tạo ra các thứ đồ dùng. Tôn giả kia cũng như vậy. Dùng văn tư tuệ để quán sát pháp tướng, đoạn trừ phần ngu trong duyên, tùy theo ý muốn của mình để tạo luận, không trái với pháp tướng.

Lại nữa, hai trí này do lìa dục được, do phương tiện được, thể là tu tuệ, cũng là thể của thông, là quả của bốn chi, năm chi thiền.

Lại nữa, thể của hai trí này là tánh của trí, tánh của kiến.

Lại nữa, do hai trí này đều duyên nơi một đời. Tha tâm trí duyên nơi đời hiện tại. Niệm tiền thế trí duyên nơi đời quá khứ. Nếu nói như như thế thì niệm tiền thế trí là hữu lậu, vô lậu tức nên nói: Do hai trí này là hữu lậu, vô lậu.

Thế nào là Tha tâm trí?

Đáp: Nếu trí là tu, là quả của tu, từ tu sinh, được rồi không mất. Là tu: Tức thể là tu. Là quả của tu: Là quả của bốn chi, năm chi thiền. Từ tu sinh: Là tu tập. Được rồi không mất: Là được rồi không bỏ.

Hỏi: Vì sao không nói đã được, sẽ được, chỉ nói là nay đang được?

Đáp: Tức nên nói nhưng không nói, nên biết là nghĩa này nêu giảng chưa trọn vẹn.

Lại nữa, nếu được trí này, gọi là người được đạo, gọi là người nhận biết tâm kẻ khác, thì ở đây nói không phải là đã được, sẽ được, vì mất. Do trí này nhận biết về đối tượng giác, đối tượng quán, đối tượng hành nơi tâm người khác. Đối tượng giác là cõi dục, thiền thứ nhất. Đối tượng quán: Là thiền trung gian. Đối tượng hành: Là ba thiền trên.

Lại có thuyết nói: Đối tượng giác là cõi dục và thiền thứ nhất. Đối tượng quán là từ cõi dục cho đến Thiền trung gian. Đối tượng hành là từ cõi dục cho đến thiền thứ tư.

Hỏi: Giác, quán tâm người khác, khi duyên nơi sắc, thì tha tâm trí cũng nhận biết được sắc nơi đối tượng duyên của tâm người khác chăng?

Đáp: Pháp sư nước ngoài cho văn kinh nên nói như thế này: Nếu trí nhận biết được tâm tâm số pháp và tâm vô lậu của người khác hiện tiền ở cõi dục, cõi sắc, thì đó gọi là tha tâm trí.

Hỏi: Vì sao Sa-môn nước Kế Tân không tạo ra thuyết này? Tức cũng nên tạo thuyết như thế, nhưng không nói là có ý gì?

Đáp: Nói đối tượng giác, đối tượng quán, đối tượng hành, là nói về thể của các thiền kia, không nói tâm tâm số pháp của xứ nơi đối tượng duyên, nên nhận biết như thật. Tâm: Là tâm số. Pháp: Là số pháp. Nên nhận biết như thật: Là nói nhận biết về cảnh giới.

Nên nói một: Nghĩa là trí nhận biết tâm của người khác, tức là trí tha tâm trí thông.

Nên nói hai: Nghĩa là nhận biết hữu lậu, vô lậu, trói buộc, giải thoát, hệ thuộc, không hệ thuộc.

Nên nói ba: Nghĩa là thượng, trung, hạ.

Nên nói bốn: Nghĩa là quả của bốn thiền.

Nên nói sáu: Nghĩa là phẩm thượng, trung, hạ của hữu lậu. Phẩm thượng, trung, hạ của vô lậu.

Nên nói tám: Nghĩa là hữu lậu, vô lậu của bốn thiền.

Nên nói chín: Nghĩa là phẩm hạ hạ cho đến phẩm thượng thượng.

Nên nói mười hai: Nghĩa là trong bốn thiền, mỗi thiền đều có ba hạng là thượng, trung, hạ.

Nên nói mười tám: Nghĩa là hữu lậu có chín thứ, vô lậu có chín thứ.

Nên nói hai mươi bốn: Nghĩa là thiền thứ nhất hữu lậu có ba, vô lậu có ba, cho đến thiền thứ tư cũng như vậy.

Nên nói ba mươi sáu: Nghĩa là thiền thứ nhất có chín thứ, cho đến thiền thứ tư có chín thứ.

Nên nói bảy mươi hai: Nghĩa là hữu lậu của thiền thứ nhất có chín, vô lậu có chín thứ, cho đến thiền thứ tư cũng như vậy.

Nếu do ở nơi thân, hoặc do nơi sát-na thì có vô lượng, vô biên tha tâm trí.

Trong đây là nói tổng quát về một thứ tha tâm trí để tạo luận.

Hỏi: Thể của tha tâm trí là gì?

Đáp: Thể là tuệ.

Đã nói về thể tánh của tha tâm trí. Về lý do nay sẽ nói.

Hỏi: Vì sao gọi là tha tâm trí?

Đáp: Vì nhận biết tâm người khác, nên gọi là tha tâm trí.

Hỏi: Cũng nhận biết về số pháp, vì sao chỉ gọi là nhận biết tâm người khác?

Đáp: Là do tâm trông mong. Tâm trông mong của hành giả luôn siêng năng tu phương tiện, nên muốn nhận biết tâm người khác, không trông mong nơi số pháp. Nếu cũng nhận biết số pháp, cũng gọi là trí nhận biết tâm người khác. Như người mong cầu thấy được vua, không mong thấy quyến thuộc vua. Nhưng khi thấy vua thì cũng thấy quyến thuộc. Pháp kia cũng như thế.

Lại nữa, các pháp được đặt tên đều có lý do. Hoặc do tự thể. Hoặc do đối trị. Hoặc do phương tiện. Hoặc do tương ưng. Hoặc do đối tượng nương dựa. Hoặc do đối tượng hành. Hoặc do đối tượng duyên. Hoặc do hành do duyên.

Do tự thể: Như các trí của năm ấm, bốn đế. Phần còn lại: Giải thích nói rộng như trên.

Về cõi: Nếu hữu lậu là thuộc cõi sắc. Nếu vô lậu là không hệ thuộc.

Hỏi: Vì sao cõi vô sắc không có tha tâm trí?

Đáp: Vì cõi vô sắc không phải là nơi chốn sinh khởi của tha tâm trí. Cho đến nói rộng.

Lại nữa, vì tha tâm trí nhân nơi sắc nên sinh. Cõi vô sắc thì không có sắc.

Về địa: Là địa của bốn thiền căn bản, không ở các biên nơi địa vô sắc.

Hỏi: Vì sao trong các biên không có tha tâm trí?

Đáp: Đây là thông. Nếu có tam muội, có thể sinh quả thông, tức có trí này. Vì trong các biên không có định ấy.

Hỏi: Tâm của thiền trung gian dùng sự nhận biết nào để nhận biết tha tâm trí?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Do người của địa thiền thứ nhất nhận biết được.

Lại có thuyết cho: Do người của địa thiền thứ hai nhận biết được.

Lời bình: Nên nói như thế này: Do người của địa thiền thứ nhất nhận biết được. Vì sao? Vì là pháp của một địa.

Về đối tượng nương dựa: Là dựa vào thân của cõi dục, cõi sắc.

Về hành: Nếu là vô lậu thì hành bốn hành như đạo v.v… Nếu là hữu lậu thì không hành nơi hành.

Về duyên: Địa thiền thứ nhất duyên nơi cõi dục và thiền thứ nhất. Địa thiền thứ hai duyên nơi cõi dục cho đến thiền thứ hai. Địa thiền thứ ba duyên nơi cõi dục cho đến thiền thứ ba. Địa thiền thứ tư duyên nơi cõi dục cho đến thiền thứ tư. Tha tâm trí không nhận biết cõi vô sắc.

Hỏi: Vì sao tha tâm trí không nhận biết cõi vô sắc?

Đáp: Tha tâm trí không nhận biết pháp của địa trên. Tha tâm trí của thiền thứ nhất không nhận biết tâm của thiền thứ hai, cho đến tha tâm trí của thiền thứ ba không nhận biết tâm của thiền thứ tư.

Hỏi: Sinh nơi cõi dục, cõi sắc, khởi định vô sắc hiện ở trước. Tha tâm trí có thể nhận biết được tâm tâm số pháp của định vô sắc kia chăng?

Đáp: Không nhận biết. Vì sao? Vì như lúc ở quả đã không nhận biết thì khi ở nhân cũng như vậy.

Về niệm xứ: Là ba niệm xứ, trừ thân niệm xứ.

Về trí: Là bốn trí, tức pháp trí, tỷ trí, đạo trí, đẳng trí.

Về tam muội: Nếu là vô lậu thì cùng với đạo vô nguyện tương ưng. Nếu là hữu lậu thì không tương ưng.

Về căn: Đều cùng với ba căn tương ưng, là lạc, hỷ, xả căn.

Về đời: Là ở ba đời.

Duyên nơi ba đời: Là quá khứ duyên nơi quá khứ, hiện tại duyên nơi hiện tại, vị lai nếu không sinh thì duyên nơi ba đời, nếu sinh thì duyên nơi vị lai.

Thiện, bất thiện, vô ký: Là thiện.

Duyên nơi thiện, bất thiện, vô ký: Duyên nơi ba thứ.

Hệ thuộc ba cõi và không hệ thuộc: Nếu là hữu lậu thì hệ thuộc cõi sắc. Nếu là vô lậu thì không hệ thuộc.

Duyên nơi hệ thuộc ba cõi và không hệ thuộc: Là duyên nơi cõi dục, cõi sắc và không hệ thuộc.

Là học, vô học, phi học phi vô học: Là cả ba thứ.

Duyên nơi học, vô học, phi học phi vô học: Đều duyên hết với ba thứ.

Do kiến đạo đoạn, tu đạo đoạn, không đoạn: Nếu là hữu lậu thì do tu đạo đoạn. Nếu là vô lậu thì không đoạn.

Duyên nơi kiến đạo đoạn, tu đạo đoạn, không đoạn: Đều duyên hết với ba thứ.

Duyên nơi danh, duyên nơi nghĩa: Là duyên nơi nghĩa.

Duyên nơi thân mình, thân người khác và không phải thân: Là duyên nơi thân người khác.

Là phương tiện đắc, lìa dục đắc: Là phương tiện đắc cũng là lìa dục đắc. Người thiền thứ nhất do lìa dục của cõi dục đắc, cho đến người thiền thứ tư do lìa dục của ba thiền đắc.

Về phương tiện: Dùng phương tiện hiện ở trước. Đức Phật không dùng phương tiện hiện ở trước. Phật-bích-chi dùng phương tiện phẩm hạ. Thanh văn hoặc dùng phương tiện phẩm trung, hoặc dùng phương tiện phẩm thượng.

Hỏi: Phương tiện của tha tâm trí là thế nào?

Đáp: Như Luận Thi Thiết nói: Hành giả đầu tiên nhận lấy tướng của thân mình, nếu thân có sắc như thế, tức có tâm như thế. Nếu có tâm như thế, tức thân có sắc như thế. Đã nhận lấy tướng của thân mình rồi, cũng nhận lấy tướng của thân người khác. Nếu thân người khác có sắc như thế, tức có tâm như thế. Nếu có tâm như thế, tức thân có sắc như thế.

Nhận lấy tướng như thế xong, khởi suy nghĩ: Nay chúng sinh này là do quán nào? Là thuộc đối tượng phân biệt nào? Lúc khởi suy nghĩ ấy rồi, nhận biết như thật là chúng sinh này tư duy như thế, phân biệt như thế. Đó gọi là tha tâm trí.

Kinh Mãn Túc Tập Pháp cũng nói: Phương tiện của tha tâm trí là thế nào?

Đáp: Quán năm thủ ấm là khổ, không, vô thường, vô ngã. Quán như vậy tạo ra trí vô lậu.

Hỏi: Như tha tâm trí duyên nơi trí của bốn đế, vì sao chỉ nói duyên nơi khổ trí?

Đáp: Tức nên nói là đều duyên hết, nhưng không nói, nên biết là nghĩa này nêu giảng chưa trọn vẹn.

Lại nữa, ở đây nói về phần đầu tiên khởi phương tiện nhập pháp. Nếu nói duyên nơi khổ trí, nên biết là cũng nói duyên nơi các trí khác.

Hỏi: Phương tiện trước và phương tiện sau này có gì khác biệt?

Đáp: Phương tiện đã nói ở trước dẫn đến hữu lậu, vô lậu. Phương tiện nói sau này hoàn toàn là vô lậu.

Lại nữa, phương tiện sau là thắng diệu, sáng sạch hơn hẳn phương tiện trước.

Hỏi: Nếu mắt không thấy sắc thì có thể nhận biết tâm người khác không?

Đáp: Có thể nhận biết. Do tai nghe được tiếng nói của người đó.

Nếu mắt không thấy sắc, tai không nghe tiếng, thì có thể nhận biết tâm người khác không?

Đáp: Nhận biết. Do dùng mũi để ngửi mùi của người ấy.

Nếu mắt, tai, mũi không thấy sắc, nghe tiếng, ngửi mùi, thì có thể nhận biết tâm người khác không?

Đáp: Nhận biết. Do dùng lưỡi để nếm biết vị.

Nếu không thấy sắc, nghe tiếng, ngửi mùi, nếm biết vị, thì có thể nhận biết tâm người khác không?

Đáp: Nhận biết. Do dùng thân để xúc chạm.

Nếu mắt không thấy sắc, cho đến thân không xúc chạm, thì có thể nhận biết tâm người khác không?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Không nhận biết. Vì sao? Vì tha tâm trí là nhân nơi sắc.

Lời bình: Nên nói như thế này: Lúc sử dụng phương tiện thì không nhận biết. Lúc đầy đủ thì có thể nhận biết.

Hỏi: Vì sao tha tâm trí lúc sử dụng phương tiện thì nhân nơi sắc sinh?

Đáp: Vì nhân nơi thô được nhập nơi tế, nên tha tâm trí lúc sử dụng phương tiện thì duyên nơi chính mình. Lúc đầy đủ thì không duyên nơi chính mình.

Hỏi: Vì sao tha tâm trí lúc sử dụng phương tiện thì duyên nơi chính mình, lúc đầy đủ thì không duyên nơi chính mình?

Đáp: Vì tha tâm trí không duyên nơi đối tượng duyên, đối tượng hành thuộc tâm của người khác. Nếu tha tâm trí duyên nơi đối tượng duyên, đối tượng hành của tâm người khác, thì cũng có thể gọi là tự tâm trí. Vốn đã từng được mười lăm thứ tâm tâm số pháp hữu lậu: Cõi dục có ba thứ, là thượng, trung, hạ. Cho đến thiền thứ tư cũng có ba thứ. Tha tâm trí hữu lậu phẩm hạ của địa thiền thứ nhất nhận biết ba thứ tâm tâm số pháp của cõi dục, nhận biết tâm tâm số pháp hữu lậu phẩm hạ của thiền thứ nhất. Phẩm trung: Nhận biết ba thứ tâm của cõi dục, nhận biết hai thứ phẩm trung, hạ của thiền thứ nhất. Phẩm thượng: Nhận biết ba thứ tâm của cõi dục, nhận biết ba thứ của thiền thứ nhất. Như thiền thứ nhất cho đến thiền thứ tư. Phẩm thượng: Nhận biết mười lăm thứ. Như vốn đã từng khởi tâm hữu lậu, có mười lăm thứ. Chưa từng được tâm hữu lậu cũng có mười lăm thứ. Tâm vô lậu có mười hai thứ. Địa thiền thứ nhất có ba thứ là thượng, trung, hạ, cho đến thiền thứ tư cũng như vậy. Tâm vô lậu phẩm hạ của địa thiền thứ hai nhận biết tâm vô lậu phẩm hạ của địa thiền thứ nhất, cũng nhận biết phẩm hạ của hai thiền. Thiền thứ hai, phẩm trung: Nhận biết hai thứ trung, hạ của thiền thứ nhất, thiền thứ hai. Phẩm thượng: Nhận biết ba thứ thượng, trung, hạ của thiền thứ nhất, thứ hai. Nhận biết thiền thứ hai cho đến thiền thứ tư. Phẩm thượng: Nhận biết mười hai thứ tâm tâm số pháp vô lậu.

Hỏi: Vì sao tha tâm trí hữu lậu phẩm hạ nhận biết ba thứ nơi địa phẩm hạ và phẩm hạ của địa mình? Tha tâm trí vô lậu phẩm hạ nhận biết tâm tâm số pháp phẩm hạ, của địa dưới và phẩm hạ của địa mình, không phải là trung, thượng?

Đáp: Tâm tâm số pháp hữu lậu khác, tâm tâm số pháp vô lậu khác. Trong một thân có thể có ba thứ tâm tâm số pháp hữu lậu, tâm tâm số pháp vô lậu. Do căn nên có khác biệt. Nếu là căn phẩm hạ, tức không có căn phẩm trung, thượng. Cho đến nếu là căn phẩm thượng thì không có căn phẩm trung, hạ.

Tha tâm trí không nhận biết thắng địa, thắng căn và tâm của người thù thắng.

Thắng địa: Là tha tâm trí của địa thiền thứ nhất, không nhận biết tâm tâm số pháp của địa thiền thứ hai. Cho đến địa thiền thứ ba không nhận biết tâm tâm số pháp của địa thiền thứ tư.

Thắng căn: Là tha tâm trí của căn phẩm hạ không nhận biết tâm tâm số pháp của căn trung, thượng.

Người thù thắng: Là tha tâm trí của người học, không nhận biết tâm tâm số pháp của người vô học.

Hỏi: Tha tâm trí của tất cả người vô học đều nhận biết tâm tâm số pháp của người học chăng?

Đáp: Không nhận biết. Thời giải thoát không nhận biết tâm của kiến đáo. Kiến đáo không nhận biết tâm của thời giải thoát. Vì sao?

Vì kiến đáo đối với thời giải thoát thì căn là hơn. Thời giải thoát đối với kiến đáo thì người là hơn.

Hỏi: Người học khởi tâm của thiền thứ hai hiện ở trước. Người vô học khởi tâm của thiền thứ nhất hiện ở trước, là lần lượt nhận biết nhau chăng?

Đáp: Không nhận biết. Vì sao? Vì người vô học đối với người học, về người là hơn. Người học đối với người vô học, về địa là hơn.

Hỏi: Thanh văn khởi tâm tâm số pháp của thiền thứ hai hiện ở trước. Đức Phật khởi tâm tâm số pháp của thiền thứ nhất hiện ở trước, có lần lượt nhận biết nhau không?

Đáp: Không nhận biết. Vì sao? Vì Đức Phật đối với Thanh văn, về căn là hơn. Thanh văn đối với Đức Phật, về địa là hơn.

Hỏi: Cõi dục có bốn thứ tâm biến hóa, là quả của thiền thứ nhất cho đến quả của thiền thứ tư. Tha tâm trí của địa thiền thứ nhất có nhận biết bốn thứ tâm này không?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nhận biết. Vì sao? Vì đều là tâm của cõi dục.

Lại có thuyết cho: Chỉ nhận biết quả của thiền thứ nhất. Các quả khác thì không nhận biết. Vì sao? Vì như không nhận biết nhân thì quả cũng không nhận biết.

Tâm vô lậu hiện có và tâm hữu lậu chưa từng được của Đức Phật không có tha tâm trí, vẫn có thể nhận biết. Nơi tâm hữu lậu đã từng được, Đức Phật muốn khiến người khác nhận biết thì nhận biết. Nếu Đức Phật muốn khiến người độn căn nhận biết, người lợi căn không nhận biết, thì người độn căn tức nhận biết, người lợi căn không nhận biết. Đức Phật muốn khiến Tôn giả Tát-ba-đạt nhận biết, Tôn giả Xá-lợi-phất không nhận biết, thì Tôn giả Tát-ba-đạt nhận biết, Tôn giả Xá-lợi-phất không nhận biết. Muốn khiến cho súc sinh được nhận biết, con người không nhận biết, thì súc sinh tức nhận biết, con người không nhận biết. Làm sao nhận biết được điều ấy?

Có kinh nói: Đức Phật trú tại Tinh xá Căng Ca, thuộc thành Nađề-ca-dạ. Lúc này, có nhiều Tỳ-kheo đều để bát nơi khoảng đất trống và bát của Đức Thế Tôn cũng bày trên khoảng đất trống ấy.

Bấy giờ, có một con khỉ từ trên cây Sa-la nhảy xuống, đi đến chỗ để nhiều bát. Các Tỳ-kheo vì sợ khỉ làm bể bát nên cùng ngăn chận không cho khỉ tới.

Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: Các ông chớ nên ngăn chận, vì con khỉ này không làm bể bát của các ông đâu.

Khi đó, khỉ nhặt lấy bát của Đức Thế Tôn, rồi chậm rải trèo trở lại lên cây, đong đầy mật, đem dâng lên Đức Thế Tôn. Đức Phật không thọ nhận, do mật còn có trùng lẫn lộn. Đức Thế Tôn liền khởi tâm thế tục: “Muốn khiến khử trùng”. Khỉ biết được ý của Đức Phật, bèn bưng bát mật đi qua một phía, loại bỏ trùng trong mật, lại đem dâng lên. Đức Thế Tôn cũng không nhận, vì chưa được tác tịnh. Đức Thế Tôn lại khởi tâm thế tục: “Nếu khỉ này dùng nước tác tịnh, thì ta thọ nhận”. Khỉ nhận biết tâm Phật, liền dùng nước tác tịnh, Đức Phật bèn thọ nhận, vì mật kia đã sạch.

Vì Đức Thế Tôn đã nhận bát mật, nên khỉ vô cùng vui, nhảy múa liên hồi, rồi rơi xuống hầm mà chết, được sinh trong nẻo người, ở nơi pháp Phật xuất gia, chứng đắc quả A-la-hán, tên là Ma-đầu-bàtứ-trá.

Do sự việc ấy, nên Tôn giả Ba-tỳ-xa đã làm kệ tán thán Đức Phật:

Muốn khiến người, trời biết tâm Phật

Tùy niệm của họ đều nhận biết

Nếu nhập các thiền, định thâm diệu

Không ai có thể biết tâm Phật.

Hỏi: Đức Phật có thể duyên nơi tha tâm trí của Phật không?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Không được. Vì sao? Vì đời không có hai vị Phật.

Lại có thuyết cho: Được. Vì ở đây nói là có thể duyên, không nói là khởi hiện ở trước.

Phật-bích-chi, nếu là bậc Lân giác dụ thì dựa nơi Đức Phật nên biết. Nếu là bậc chúng xuất (Độc giác bộ hành) thì có thể duyên nơi tha tâm trí của Phật-bích-chi, cũng có thể duyên, cũng có thể khởi hiện ở trước. Thanh văn có tha tâm trí nhận biết tâm của Thanh văn, cũng có thể duyên, cũng có thể khởi hiện ở trước. Tâm vô lậu hiện có của Đức Phật và tâm hữu lậu chưa từng được không có tha tâm trí có thể duyên và khởi hiện ở trước. Tâm của cõi vô sắc không có tha tâm trí có thể nhận biết tâm này.

Chúng sinh hoặc có sinh, có diệt. Sinh là chúng sinh sinh nơi cõi dục, cõi sắc.

Hỏi: Người phàm phu sinh nơi cõi vô sắc là nên được tha tâm trí chăng?

Đáp: Do hai sự việc nên được: (1) Do có thể duyên. (2) Do hành hiện tiền. Diệt là Thánh nhân sinh nơi cõi vô sắc.

Hỏi: Nếu Thánh nhân Niết-bàn là nên được tha tâm trí chăng?

Đáp: Nên không được.

Lại có thuyết nói: Nên được. Do có thể duyên, không do hành hiện tiền.

Lời bình: Không nên nói như thế: Nên được nhưng không hành hiện tiền. Thà nên nói là không được, không nên nói được mà không hiện hành ở trước.

Có cảnh giới là đối tượng nhận biết của tha tâm trí nơi Đức

Phật, không phải là đối tượng nhận biết của Thanh văn, Phật-bíchchi. Có cảnh giới là đối tượng nhận biết của tha tâm trí nơi Đức Phật, Phật-bích-chi, không phải là đối tượng nhận biết của Thanh văn. Có cảnh giới là đối tượng nhận biết của tha tâm trí nơi Phật, Phật-bíchchi, Thanh văn. Như kinh nói: Tỳ-kheo nên biết! Trong núi Tuyết có những xứ như thế: Có xứ loài khỉ vượn không thể hành, con người cũng không thể hành. Có xứ loài khỉ vượn có thể hành, con người không thể hành. Có xứ loài khỉ vượn có thể hành, con người cũng có thể hành. Núi Tuyết dụ như cảnh giới. Khỉ vượn dụ như Phật-bíchchi. Con người dụ như Thanh văn.

Nghĩa như thế nay nên nêu bày rõ.

Kiến đạo có mười lăm tâm. Tha tâm trí nhận biết về pháp tương tợ. Nếu hữu lậu thì nhận biết hữu lậu. Nếu vô lậu thì nhận biết vô lậu.

Đã từng được nhận biết đã từng được. Chưa từng được nhận biết chưa từng được.

Thuộc phần pháp trí nhận biết thuộc phần pháp trí. Thuộc phần tỷ trí nhận biết thuộc phần tỷ trí. Tha tâm trí của người Thanh văn nhận biết hai tâm trong kiến đạo. Phật-bích-chi nhận biết bốn tâm. Đức Phật nơi mỗi một tâm đều theo thứ lớp nhận biết. Vì sao? Vì Phật-bích-chi, Thanh văn đều dùng phương tiện hiện ở trước. Đức Phật thì không dùng phương tiện hiện ở trước. Hành giả nhập kiến đạo tạo phương tiện. Thanh văn nhập kiến đạo do tha tâm trí của phần pháp trí tạo phương tiện. Hành giả đã nhập kiến đạo. Thanh văn khởi tha tâm trí của phần pháp trí hiện ở trước, có thể nhận biết hai tâm của hành giả, là khổ pháp nhẫn và khổ pháp trí. Hành giả nhập phần tỷ trí. Người Thanh văn do tha tâm trí của phần tỷ trí tạo phương tiện. Hành giả đã nhập phần tỷ trí. Người Thanh văn khởi tha tâm trí của phần tỷ trí hiện ở trước, vì muốn nhận biết khổ tỷ nhẫn mới nhận biết đạo tỷ trí. Hành giả do kiến đạo tạo phương tiện. Phật-bích-chi do tha tâm trí của phần pháp trí tạo phương tiện. Hành giả đã nhập kiến đạo. Phật-bích-chi khởi tha tâm trí của phần pháp trí hiện ở trước, nhận biết hai tâm của hành giả là khổ pháp nhẫn và khổ pháp trí. Hành giả nhập phần tỷ trí. Phật-bích-chi do tha tâm trí của phần tỷ trí tạo phương tiện. Hành giả đã nhập phần tỷ trí. Phật-bích-chi khởi tha tâm trí của phần tỷ trí hiện ở trước, vì muốn nhận biết khổ tỷ nhẫn mới nhận biết diệt tỷ nhẫn, diệt tỷ trí. Đức Phật không dùng phương tiện, nhưng hết thảy công đức đều hiện ở trước. Như hành giả thì mỗi mỗi đều theo thứ lớp khởi kiến đạo hiện ở trước, Đức Thế Tôn dùng tha tâm trí, mỗi mỗi theo thứ lớp nhận biết.

Đức Phật đối với ba thứ đạo dùng tướng chung để nhận biết, cũng dùng tướng riêng để nhận biết. Phật-bích-chi cũng nhận biết ba thứ đạo. Đối với đạo của Thanh văn, Phật-bích-chi, dùng tướng chung, tướng riêng để nhận biết. Đối với Đức Phật đạo thì dùng tướng chung để nhận biết, không dùng tướng riêng. Thanh văn cũng nhận biết ba thứ đạo. Đối với đạo Thanh văn, dùng tướng chung, tướng riêng để nhận biết. Đối với đạo của Phật-bích-chi và Đức Phật, dùng tướng chung để nhận biết, không dùng tướng riêng.

Hỏi: Thanh văn lúc thấy đạo đế là thấy Phật đạo, đạo của Phậtbích-chi chăng? Nếu thấy thì vì sao tha tâm trí không nhận biết? Nếu không thấy thì làm sao có thể duyên nơi tín không hoại kia?

Đáp: Nên nói là thấy.

Hỏi: Nếu như vậy thì tha tâm trí vì sao không nhận biết?

Đáp: Do trí nhận biết về tướng chung nhận thấy. Tha tâm trí là trí nhận biết về tướng riêng.

Một chúng sinh hiện có tha tâm trí, nhận biết tâm tâm số pháp của tất cả chúng sinh. Lúc nhận biết là nhận biết thể của thọ hay là nhận biết các sát-na của thọ? Nếu chỉ nhận biết thể của thọ, các thọ khác không được nhận biết, thì làm sao nhận biết? Nếu nhận biết các sát-na của thọ, thì vì sao tự thân không phải là nhiều thân? Tự thân, nhiều thân, tha tâm trí của ngã, thể có hai mươi mốt thứ. Nhận biết một chúng sinh nơi một sát-na thọ nhận. Như một sát-na thọ nhận thì tất cả sát-na khác thọ nhận cũng như vậy. Như sát-na của thọ, thì sátna của tâm tâm số pháp khác cũng như thế. Như tâm tâm số pháp của một chúng sinh, thì tâm tâm số pháp của các chúng sinh khác cũng như vậy. Tha tâm trí của mình cùng có tâm tâm số pháp tức là nhiều. Tất cả chúng sinh, như nhiều tâm tâm số pháp của mình, thì thân, đối tượng nương dựa cũng nên nhiều?

Đáp: Nên nói như thế này: Nhận biết thể của thọ.

Hỏi: Nếu như vậy thì những đối tượng khác không nhận biết thọ làm sao nhận biết?

Đáp: Nếu nhận biết thọ khác, thì không có việc ấy. Vì khi nhận biết, chỉ nhận biết về đối tượng nhận biết.

Lại có thuyết nói: Nhận biết các sát-na của thọ.

Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao tự thân không phải là nhiều thân?

Đáp: Nhiều thân thì có lỗi gì? Vì sao? Vì như thể nơi tha tâm trí của ngã có hai mươi mốt thứ nhận biết tâm tâm số pháp của tất cả chúng sinh. Thể của tha tâm trí nơi tất cả chúng sinh cũng có hai mươi mốt thứ nhận biết tâm tâm số pháp của mình. Thế nên không có lỗi.

Hỏi: Tha tâm trí là duyên nơi quá khứ, duyên nơi vị lai, hay duyên nơi hiện tại?

Đáp: Duyên nơi hiện tại.

Hỏi: Nếu như vậy thì như nơi Bản Luận đã nói làm sao thông? Như nói: Pháp quá khứ, vị lai do chín trí nhận biết.

Đáp: Văn của Bản Luận nên nói thế này: Pháp quá khứ, vị lai do tám trí nhận biết, trừ diệt trí, tha tâm trí. Nhưng không nói là có ý gì? Là tùy duyên nên nói.

Quá khứ duyên nơi quá khứ. Vị lai duyên nơi vị lai. Nếu như đã nói, tha tâm trí nhận biết ba sát-na là nhận biết sát-na của hiện tại, tiếp theo trước diệt, tiếp theo sẽ sinh. Bản Luận nên nói như thế.

Hỏi: Tha tâm trí là duyên nơi một pháp hay là duyên nơi nhiều pháp?

Nếu duyên nơi một pháp thì như nơi kinh nói làm sao thông? Như nói: Có tâm dục nhận biết như thật là có tâm dục. Nếu cùng một lúc nhận biết dục, cũng nhận biết tâm há chẳng phải là nhận biết nhiều pháp sao? Kinh khác cũng nói lại làm sao thông? Như nói: Lúc Đức Thế Tôn đang nhớ nghĩ, nhận biết khắp tâm niệm của chúng Tăng.

Còn nếu duyên nơi nhiều pháp thì vì sao thể là ba niệm xứ?

Đáp: Nên nói như thế này: Duyên nơi một pháp.

Hỏi: Nếu như vậy thì như nơi kinh Phật nói làm sao thông hợp? Như nói: Nhận biết như thật là tâm có dục?

Đáp: Vì tâm cùng với dục tương ưng, nên gọi là tâm có dục. Nếu nhận biết dục thì không nhận biết tâm. Nếu nhận biết tâm thì không nhận biết dục. Như quán áo cấu bẩn. Nếu quán cấu bẩn thì không quán áo. Nếu quán áo thì không quán cấu bẩn. Tâm có dục kia cũng như thế.

Hỏi: Kinh khác nói lại làm sao thông? Như nói: Lúc Đức Thế Tôn đang nhớ nghĩ, nhận biết khắp tâm niệm của chúng Tăng chăng?

Đáp: Do tỷ tướng nhận biết không phải dùng tha tâm trí.

Đức Thế Tôn dùng tha tâm trí quán tâm của một Tỳ-kheo đang trụ nơi đạo tịch tĩnh. Tiếp theo, dùng trí của tỷ tướng để nhận biết tâm của các Tỳ-kheo cũng như thế.

Lại có thuyết nói: Đức Thế Tôn không dùng tha tâm trí để nhận biết. Cũng không dùng trí của tỷ tướng để nhận biết. Nhưng dùng trí nguyện để nhận biết.

Lại có thuyết cho: Đức Thế Tôn không dùng tha tâm trí, trí của tỷ tướng, trí nguyện để nhận biết. Khi Đức Thế Tôn được tận trí, thì đạt được tâm tâm số pháp vô ký không ẩn mất chưa từng được của cõi dục, cũng không nhập thiền, cũng không khởi thông hiện ở trước, lúc đang nhớ nghĩ vẫn nhận biết khắp tâm của các Tỳ-kheo Tăng.

Lại có thuyết nêu: Do nhận biết nhiều pháp.

Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao thể là ba niệm xứ?

Đáp: Thời gian của phương tiện đầu tiên là thông hợp cả ba niệm xứ. Nếu đầy đủ là duyên chung nơi pháp niệm xứ.

Lời bình: Nên nói như thế này: Hết thảy tha tâm trí là duyên nơi một pháp. Là quán tướng riêng, duyên nơi hiện tại, duyên nơi tâm tâm số pháp của người khác. Trong kiến đạo thì không, có ở trong tu đạo, không tương ưng với tam muội không, vô tướng, không gồm thâu tận trí, vô sinh trí. Trong đạo vô ngại, không có tha tâm trí. Về pháp nên là như thế.

Thế nào là Niệm tiền thế trí (Trí nhớ nghĩ về đời trước)?

Đáp: Nếu trí là tu, là quả của tu, từ tu sinh, được rồi không mất. Do trí này nên nhớ nghĩ đến vô số đời trong quá khứ, với tướng mạo như thế. Đó gọi là niệm tiền thế trí. Ở đây việc hỏi đáp nói rộng như nơi tha tâm trí.

Hỏi: Thế nào là tướng như thế? Mạo như thế?

Đáp: Tướng như thế là Hữu của thời gian trước. Mạo như thế là Trung hữu.

Lại có thuyết nói: Tướng như thế là Trung hữu. Mạo như thế là Hữu của thời gian trước. Vì sao? Vì Hữu của thời gian trước có thể chỉ rõ: Đây là mạo sai biệt của hàng Sát-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà.

Như kinh nói: Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: Nếu có tướng như thế, mạo như thế được nêu đặt gọi là sắc thân. Nếu không có tướng như thế, mạo như thế để có thể nêu đặt thì có xúc đối không? Đáp: Không.

Kinh kia nói: Nội nhập là tướng, ngoại nhập là mạo.

Lại có thuyết cho: Kinh kia nói: Nội nhập là mạo, ngoại nhập là tướng. Vì sao? Do nội nhập nên nói các thức căn có khác biệt. Như nói: Trừ từng ấy sự việc trên. Ở đây do không có tướng mạo như thế, vì vậy nên bỏ. Như nói: Nếu dùng tướng như thế, mạo như thế nhập thiền thứ nhất. Tướng như thế là phương tiện. Mạo như thế là đối tượng duyên. Như kệ nói:

Nếu thành tựu tám trí

Tướng mạo mười sáu hành

Như vàng Diêm-phù-đàn

Không thể nói lỗi chúng.

Trong đây nói tuệ gọi là tướng mạo.

Vô số đời trong quá khứ: Là nói về cảnh giới của niệm tiền thế trí.

Nên nói là một: Là niệm tiền thế trí. Được thông của niệm tiền thế trí. Được minh của niệm tiền thế trí. Được lực của niệm tiền thế trí.

Nên nói là hai: Là đã từng được, chưa từng được.

Nên nói là ba: Là thượng, trung, hạ.

Nên nói là bốn: Là quả của thiền thứ nhất cho đến quả của thiền thứ tư.

Nên nói là sáu: Tức đã từng được có ba thứ, chưa từng được có ba thứ, là thượng, trung, hạ.

Nên nói là tám: Tức địa thiền thứ nhất có hai thứ là đã từng được, chưa từng được, cho đến địa thiền thứ tư cũng như thế.

Nên nói là chín: Là phẩm hạ hạ cho đến phẩm thượng thượng.

Nên nói là mười hai: Tức thiền thứ nhất có ba thứ thượng, trung, hạ, cho đến thiền thứ tư cũng như thế.

Nên nói là mười tám: Tức đã từng được có chín thứ, chưa từng được có chín thứ.

Nên nói là hai mươi bốn: Tức thiền thứ nhất có sáu thứ là đã từng được có ba thứ, chưa từng được có ba thứ, cho đến thiền thứ tư cũng như thế.

Nên nói là ba mươi sáu: Tức thiền thứ nhất có chín thứ, cho đến thiền thứ tư cũng như thế.

Nên nói là bảy mươi hai: Tức thiền thứ nhất đã từng được có chín thứ, chưa từng được có chín thứ. Cho đến thiền thứ tư cũng như thế.

Nếu dùng nơi thân, hoặc ở nơi sát-na, thì có vô lượng vô biên niệm tiền thế trí. Trong đây, nhân nói chung về một niệm tiền thế trí để tạo luận.

Hỏi: Thể tánh của niệm tiền thế trí là gì?

Đáp: Thể tánh là tuệ. Do sức của niệm nhiều nên gọi là niệm tiền thế trí. Như thể tánh của niệm xứ là tuệ, do sức của niệm nhiều nên gọi là niệm xứ. Như thể tánh của niệm A-na-ba-na là tuệ, do sức của niệm nhiều nên gọi là niệm A na ba na. Thể tánh của niệm nhớ nghĩ về đời trước là tuệ, nhưng do sức của niệm nhiều nên gọi là niệm nhớ nghĩ về đời trước. Thể tánh của trừ sắc tưởng là tuệ, do sức của tưởng nhiều nên gọi là trừ sắc tưởng. Như vậy, thể tánh của niệm tiền thế trí là tuệ, do sức của niệm nhiều nên gọi là niệm tiền thế trí.

Đây là thể tánh của niệm tiền thế trí, cho đến nói rộng.

HẾT – QUYỂN 49