LUẬN A TỲ ĐÀM TỲ BÀ SA
STác giả: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử
Giải thích: Năm trăm A La Hán
Hán dịch: Đời Bắc Lương, Sa môn Phù Đà Bạt Ma, Đạo Thái v.v…
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 56

Chương 3: KIỀN ĐỘ TRÍ

Phẩm thứ 3: TU TRÍ, phần 2

Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao A-la-hán khởi khổ, tập trí hiện ở trước?

Đáp: Vì muốn quán năm ấm này cũng như pháp lỗi lầm tai hại của gánh nặng.

Tôn giả Cù-sa nói như thế này: Sinh nơi cõi vô sắc, không thể khởi thiền và công đức trong thiền hiện ở trước. Sinh nơi cõi sắc thì có thể nói như thế. Vậy đây là nghĩa gì? Đáp: Đây là nói về pháp trí của diệt, đạo. Người sinh nơi cõi sắc có thể khởi trí này, đoạn trừ kiết của cõi sắc, vô sắc. Nếu phiền não đã đoạn thì không còn khởi trí ấy.

Lời bình: Không nên tạo ra thuyết ấy: Sinh nơi cõi sắc, khởi pháp trí hiện ở trước. Vì sao? Vì trí này không phải là pháp đối trị của cõi sắc kia.

Lại nữa, đây là tướng hoại bất định: Hoặc có người khởi phần ít, đó là pháp trí của diệt, đạo. Hoặc có người không khởi phần ít, đó là pháp trí của khổ, tập. Hoặc có người khởi, hoặc có người không khởi. Người chưa lìa dục khởi, người đã lìa dục không khởi. Hoặc có lúc khởi, hoặc có lúc không khởi. Lúc thì đạo lìa dục khởi, lúc thì căn thiện khác không khởi.

Do những sự việc ấy, nên như thuyết trước nói là tốt.

Hỏi: Các kiết thuộc cõi dục, kiết ấy là do pháp trí đoạn trừ chăng?

Đáp: Hoặc kiết là thuộc cõi dục, kiết ấy không phải do pháp trí đoạn trừ, cho đến nói rộng làm bốn trường hợp.

Thế nào là kiết thuộc cõi dục, kiết ấy không phải do pháp trí đoạn trừ? Đáp: Các kiết do nhẫn đoạn, cũng do trí khác đoạn, cũng không đoạn. Nhẫn là bốn pháp nhẫn. Trí khác là đẳng trí. Không đoạn là hoặc đã đoạn, hoặc không tạo phương tiện đoạn.

Thế nào là kiết do pháp trí đoạn, kiết ấy không phải thuộc cõi dục? Đáp: Là các kiết thuộc cõi sắc, vô sắc, do pháp trí đoạn. Pháp trí: Là pháp trí của diệt, đạo nơi người đã lìa kiết của cõi sắc, vô sắc.

Thế nào là kiết thuộc cõi dục, kiết ấy là do pháp trí đoạn? Đáp: Là các kiết thuộc cõi dục do pháp trí đoạn. Pháp trí: Là bốn pháp trí nơi người lìa kiết của cõi dục.

Thế nào là kiết không phải thuộc cõi dục, kiết ấy cũng không phải do pháp trí đoạn? Đáp: Là các kiết thuộc cõi sắc, vô sắc, do nhẫn kia đoạn, hoặc do trí khác đoạn, cũng không đoạn. Nhẫn: Là bốn tỷ nhẫn. Trí khác đoạn: Là hoặc do đẳng trí đoạn, hoặc do tỷ trí đoạn. Không đoạn: Là hoặc đã đoạn, hoặc không tạo ra phương tiện đoạn.

Hỏi: Các kiết thuộc cõi sắc, vô sắc, kiết ấy là do tỷ trí đoạn trừ chăng?

Đáp: Các kiết do tỷ trí đoạn, kiết ấy là thuộc cõi sắc, vô sắc.

Hỏi: Từng có kiết thuộc cõi sắc, vô sắc, kiết ấy không phải do tỷ trí đoạn chăng?

Đáp: Có. Là các kiết do nhẫn đoạn, cũng do trí khác đoạn, cũng không đoạn. Nhẫn: Là bốn tỷ nhẫn. Trí khác: Là pháp trí, đẳng trí.

Không đoạn: Là nếu đã đoạn, hoặc không tạo phương tiện đoạn.

Hỏi: Các kiết do kiến khổ đoạn, kiết ấy là do khổ trí đoạn chăng?

Đáp: Hoặc có kiết là do kiến khổ đoạn, kiết ấy không phải do khổ trí đoạn: Là các kiết do nhẫn đoạn. Vì sao? Vì nhẫn kia là đối trị của kiết này.

Hoặc có kiết là do khổ trí đoạn, kiết ấy không phải do kiến khổ đoạn: Là các kiết do tu đạo đoạn, kiết ấy do khổ trí đoạn. Vì sao? Vì khổ trí là pháp đối trị kiết do tu đạo đoạn.

Như kiết do kiến khổ đoạn, cho đến kiết do kiến đạo đoạn nói cũng như thế.

Hỏi: Là đạo vô ngại đoạn phiền não hay là đạo giải thoát đoạn phiền não? Nếu đạo vô ngại đoạn phiền não, thì như nơi Kiền Độ Sử đã nói làm sao thông? Như nói: Kiết có chín thứ, là loại do khổ pháp trí đoạn, cho đến là loại do tu đạo đoạn. Nếu là đạo giải thoát đoạn phiền não, thì như nơi văn này nói làm sao thông? Như nói: Hoặc kiết là do kiến khổ đoạn, kiết ấy không phải do khổ trí đoạn. Hoặc kiết là do khổ trí đoạn, kiết ấy không phải do kiến khổ đoạn.

Đáp: Nên nói như thế này: Là đạo vô ngại đoạn phiền não, không phải là đạo giải thoát đoạn phiền não. Nói rộng như nơi Kiền Độ Sử.

* Các kiết do pháp trí đoạn, kiết ấy là do pháp trí diệt tác chứng chăng?

Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Đạo vô ngại đoạn trừ kiết đắc. Đạo giải thoát chứng giải thoát đắc. Đây là thuyết của Pháp sư nước ngoài nói.

Vì nhằm ngăn chận ý của những người nói như thế, lại cũng để làm rõ là đạo vô ngại đoạn trừ kiết đắc, chứng giải thoát đắc. Nếu như đạo vô ngại đoạn trừ kiết đắc, đạo giải thoát chứng giải thoát đắc, thì trái với văn này. Như nói: Các kiết do pháp trí đoạn là do tỷ trí diệt tác chứng chăng?

Cũng nên đáp như vầy: Nếu dùng pháp trí của diệt đạo đoạn trừ kiết của xứ phi tưởng phi phi tưởng, thì tỷ trí diệt tác chứng. Nhưng không đáp như thế, nên biết là đạo vô ngại đoạn trừ kiết đắc, cũng chứng giải thoát đắc.

Hỏi: Các kiết do pháp trí đoạn, kiết ấy là do pháp trí diệt tác chứng chăng?

Đáp: Các kiết do pháp trí đoạn, kiết ấy là do pháp trí diệt tác chứng. Tùy đoạn trừ từng ấy kiết tức có từng ấy diệt tác chứng.

Hỏi: Từng có kiết do pháp trí diệt tác chứng, kiết ấy không phải do pháp trí đoạn chăng?

Đáp: Có. Là các kiết do nhẫn đoạn, cũng do trí khác đoạn.

Tu-đà-hoàn hướng đến quả Tư-đà-hàm, dùng đạo thế tục đoạn trừ một thứ kiết, cho đến năm thứ kiết. Nếu đạo vô ngại thứ sáu là pháp trí, thì lúc ấy là chứng biết các kiết do nhẫn đã đoạn và do kiến đạo đoạn trong ba cõi, cùng chứng biết kiết do đẳng trí đã đoạn và do tu đạo đoạn năm thứ kiết của cõi dục.

Tư-đà-hàm hướng đến quả A-na-hàm, dùng đạo thế tục đoạn trừ hai thứ kiết. Nếu đạo vô ngại thứ chín là pháp trí, thì vào thời gian này là chứng biết các kiết do nhẫn đã đoạn và do kiến đạo đoạn trong ba cõi, cùng chứng biết các kiết do đẳng trí đã đoạn và do tu đạo đoạn tám thứ kiết của cõi dục.

Lìa dục của thiền thứ nhất, cho đến lìa dục của xứ vô sở hữu. Nếu dùng tỷ trí, đẳng trí lìa dục của xứ phi tưởng phi phi tưởng, dùng tỷ trí đoạn trừ tám thứ kiết, đạo vô ngại thứ chín là pháp trí, bấy giờ là chứng biết các kiết do nhẫn đã đoạn và do kiến đạo đoạn trong ba cõi, cùng chứng biết các kiết do đẳng trí đã đoạn và do tu đạo đoạn ở cõi dục.

Trong bảy địa, kiết do tỷ trí, đẳng trí đoạn trừ và tám thứ kiết của xứ phi tưởng phi phi tưởng do tỷ trí đoạn trừ.

Các kiết như thế v.v… là do pháp trí diệt tác chứng.

Hỏi: Các kiết do tỷ trí đoạn, kiết ấy là do tỷ trí diệt tác chứng chăng?

Đáp: Các kiết do tỷ trí đoạn, kiết ấy là do tỷ trí diệt tác chứng. Tùy đoạn trừ từng ấy kiết tức có từng ấy diệt tác chứng.

Hỏi: Từng có kiết do tỷ trí diệt tác chứng, kiết ấy không phải do tỷ trí đoạn chăng?

Đáp: Có. Là các kiết do nhẫn đoạn, cũng do trí khác đoạn. Tỷ trí diệt tác chứng. Hoặc do pháp trí, hoặc do đẳng trí, lìa dục của cõi dục, cho đến lìa dục của xứ vô sở hữu. Nếu do pháp trí đoạn một thứ kiết cho đến tám thứ của xứ phi tưởng phi phi tưởng. Hoặc đạo vô ngại thứ chín là tỷ trí, thì lúc này là chứng biết các kiết do nhẫn đã đoạn trừ và do kiến đạo đoạn trong ba cõi, cùng chứng biết các kiết trong tám địa do pháp trí, đẳng trí đoạn trừ và tám thứ kiết của xứ phi tưởng phi phi tưởng do pháp trí đoạn.

Hỏi: Các kiết do khổ trí đoạn, kiết ấy là do khổ trí diệt tác chứng chăng?

Đáp: Các kiết do khổ trí đoạn, kiết ấy là do khổ trí diệt tác chứng. Tùy đoạn trừ từng ấy kiết tức có từng ấy diệt tác chứng.

Hỏi: Từng có kiết do khổ trí diệt tác chứng, kiết ấy không phải do khổ trí đoạn chăng?

Đáp: Có. Là các kiết do nhẫn diệt, cũng do trí khác diệt. Khổ trí diệt tác chứng.

Tu-đà-hoàn hướng đến quả Tư-đà-hàm, dùng tập, diệt, đạo trí, đẳng trí đoạn một thứ kiết, cho đến năm thứ. Nếu đạo vô ngại thứ sáu là khổ trí, thời gian này là chứng biết các kiết do nhẫn đã đoạn trừ và do kiến đạo đoạn trừ trong ba cõi, cũng chứng biết năm thứ kiết của cõi dục do tập diệt đạo trí, đẳng trí và tu đạo đoạn trừ.

Lúc Tư-đà-hàm hướng đến quả A-na-hàm, dùng tập, diệt, đạo, trí, đẳng trí đoạn trừ hai thứ kiết. Nếu đạo vô ngại thứ chín là khổ trí, thì thời gian này là chứng biết các kiết do nhẫn đã đoạn trừ và do kiến đạo đoạn trừ trong ba cõi cùng chứng biết kiết của cõi dục do tập diệt đạo trí, đẳng trí và tu đạo đoạn. Dùng tập, diệt, đạo trí, đẳng trí lìa dục của thiền thứ nhất, cho đến lìa dục của xứ vô sở hữu. Dùng tập, diệt, đạo trí đoạn trừ một thứ kiết cho đến tám thứ của xứ phi tưởng phi phi tưởng. Nếu đạo vô ngại thứ chín là khổ trí, thời gian này là chứng biết các kiết do nhẫn đã đoạn trừ cùng do kiến đạo đoạn trừ trong ba cõi. Cũng chứng biết các kiết của tám địa do tập diệt đạo trí, đẳng trí và tu đạo đoạn trừ, và tám thứ kiết của xứ phi tưởng phi phi tưởng do các trí kia cùng tu đạo đoạn trừ.

Như khổ trí cho đến đạo trí nói cũng như thế,

Hỏi: Môn trước đã nói so với thuyết của môn này đã nêu bày có khác biệt gì?

Đáp: Nếu như nói: Đạo vô ngại đoạn trừ kiết đắc, đạo giải thoát đắc tác chứng, thì môn trước là đối tượng tạo tác của đạo vô ngại, còn môn này là đối tượng tạo tác của đạo giải thoát.

Nếu nói như thế này: Đạo vô ngại đoạn trừ kiết đắc, cũng chứng giải thoát đắc, đạo giải thoát chỉ chứng giải thoát đắc, thì môn trước là nói đạo vô ngại đoạn trừ kiết đắc, chứng giải thoát đắc, còn môn này là nói đạo giải thoát chứng giải thoát đắc.

Như đoạn trừ kiết đắc, chứng giải thoát đắc, thì lìa lỗi lầm tai hại, hành tập công đức, trừ không lợi, được có lợi, bỏ thấp kém, được thắng diệu, lìa nhiễm ái, được an vui tịch tĩnh cũng như thế.

Lại nữa, đoạn là môn trước. Được vô vi là môn này.

Lại nữa, đoạn trừ kiết và tác chứng là môn trước. Trước đoạn trừ kiết, sau tác chứng là môn này.

Đó là sự khác biệt giữa môn trước và môn này.

* Nhãn căn có bao nhiêu trí nhận biết? Cho đến sử vô minh của cõi vô sắc do tu đạo đoạn có bao nhiêu trí nhận biết?

Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Không có cảnh giới, chỉ có trí. Hoặc nói: Không có trí, chỉ có cảnh giới. Vì để ngăn chận ý của những người nói như thế, nên tạo ra phần Luận này.

Các pháp, nếu hỏi về gồm thâu nên suy nghĩ về giới để đáp. Nếu hỏi về thức nên suy nghĩ về nhập để đáp. Nếu hỏi về sử nên suy nghĩ về chủng loại để đáp. Nếu hỏi về trí nên suy nghĩ về đế để đáp. Như vậy, các pháp dễ có thể hiển hiện. Ở đây, hỏi về trí nên tư duy về đế để đáp.

Pháp có năm thứ: Thuộc về khổ, tập, diệt, đạo đế và thuộc về không phải đế.

Khổ, tập đế của cõi dục gồm thâu pháp tương ưng, không tương ưng. Khổ, tập đế của cõi sắc, vô sắc cũng như vậy. Diệt đế chỉ gồm thâu pháp không tương ưng. Đạo đế gồm thâu pháp tương ưng, không tương ưng. Pháp thuộc về không phải đế gồm thâu pháp không tương ưng.

Pháp tương ưng thuộc về khổ, tập đế của cõi dục do y trí nhận biết, trừ tỷ trí, diệt trí, đạo trí. Pháp không tương ưng do sáu trí nhận biết, trừ tỷ trí, diệt trí, đạo trí, tha tâm trí. Pháp tương ưng thuộc về khổ, tập đế của cõi sắc do bảy trí nhận biết, trừ pháp trí, diệt trí, đạo trí. Pháp không tương ưng do sáu trí nhận biết, trừ pháp trí, diệt trí, đạo trí, tha tâm trí. Pháp tương ưng, không tương ưng thuộc về khổ, tập đế của cõi vô sắc do sáu trí nhận biết, trừ pháp trí, diệt trí, đạo trí, tha tâm trí.

Pháp tương ưng thuộc về diệt đế do sáu trí nhận biết, trừ tha tâm trí, khổ trí, tập trí, đạo trí.

Pháp tương ưng thuộc về đạo đế do bảy trí nhận biết, trừ khổ trí, tập trí, diệt trí. Pháp không tương ưng do sáu trí nhận biết, trừ khổ trí, tập trí, diệt trí, tha tâm trí.

Pháp thuộc về không phải đế do một trí nhận biết là đẳng trí.

Hỏi: Vì sao gọi là trí?

Đáp: Vì là đối tượng nhận thức của trí, nên gọi là trí.

Hỏi: Vì sao gọi là đối tượng nhận thức?

Đáp: Vì là đối tượng nhận biết của trí nên gọi là đối tượng nhận thức. Như nêu xưng, đối tượng nêu xưng, lường xét, đối tượng lường xét cũng như thế. Lường xét là trí. Đối tượng lường xét là đối tượng nhận thức. Đây là tóm lược về Tỳ-bà-sa. Môn khác nói rộng như nơi Bản Luận.

* Như nói: Tu hành rộng khắp tưởng vô thường, đoạn trừ dục ái, sắc ái, vô sắc ái, trạo, mạn, vô minh.

Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?

Đáp: Đây là kinh Phật. Kinh Phật nói: Tu hành rộng khắp tưởng vô thường, cho đến nói rộng. Kinh Phật tuy nói như thế, nhưng không phân biệt rộng. Kinh Phật là chỗ dựa căn bản để tạo luận. Nay vì muốn phân biệt rộng, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Nếu kinh Phật là chỗ dựa căn bản để tạo luận, thì vì sao Đức Thế Tôn giảng nói kinh ấy?

Đáp: Vì Đức Thế Tôn muốn khiến những người lười biếng, kiêu mạn, không siêng năng tinh tấn, khi thọ nhận sự giáo hóa sẽ siêng năng tinh tấn.

Lại nữa, vì các đệ tử tham vướng hữu sau, tức khiến họ không còn mong cầu hữu sau. Như Đức Thế Tôn nói về thời Đức Phật Di Lặc xuất thế, có các Tỳ-kheo khởi nguyện: Xin khiến cho con được diện kiến Đức Phật Di Lặc ra đời mới Bát Niết-bàn. Đức Phật nói rõ: Các ông hiện nay có của cải, vật dụng vừa ý nên khởi suy nghĩ như thế. Về sau, nếu bị khổ của các hữu bức bách, ở trong các hữu tức không sinh nguyện vui. Tu hành rộng khắp tưởng vô thường có thể đoạn trừ dục ái: Tưởng này nên nói là cùng với pháp trí, khổ trí tương ưng. Nên nói là có giác có quán, vì ở nơi địa có giác có quán. Nên nói là cùng với xả căn tương ưng, vì địa kia có xả căn. Nên nói là cùng với vô nguyện tương ưng, vì là khổ vô nguyện. Nên nói là duyên nơi hệ thuộc cõi dục, vì duyên nơi năm ấm của cõi dục.

Đoạn tất cả sắc ái: Tưởng này nên nói là cùng với tỷ trí, khổ trí tương ưng. Nên nói hoặc có giác có quán, vì ở nơi thiền vị chí, thiền thứ nhất. Hoặc không giác có quán, vì ở nơi thiền trung gian. Hoặc không giác không quán, vì ở nơi ba thiền trên. Hoặc tương ưng với lạc căn, vì ở nơi thiền thứ ba. Hoặc tương ưng với hỷ căn, vì ở nơi thiền thứ nhất, thiền thứ hai. Hoặc tương ưng với xả căn, vì ở nơi thiền vị chí, trung gian, và thiền thứ tư. Cùng với vô nguyện tương ưng, vì là khổ vô nguyện. Nên nói là duyên nơi hệ thuộc cõi sắc, vì duyên nơi năm ấm của cõi sắc.

Đoạn tất cả vô sắc ái: Tưởng này nên nói là cùng với pháp trí, khổ trí tương ưng. Nên nói hoặc có giác có quán, vì ở nơi thiền vị chí, thiền thứ nhất. Hoặc không giác có quán, vì ở nơi thiền trung gian. Hoặc không giác không quán, vì ở nơi ba thiền, ba định vô sắc. Hoặc tương ưng với lạc căn, vì ở nơi thiền thứ ba. Hoặc tương ưng với hỷ căn, vì ở nơi thiền thứ nhất, thiền thứ hai. Hoặc tương ưng với xả căn, vì ở nơi thiền vị chí, trung gian và thiền thứ tư cùng ba định vô sắc. Cùng với vô nguyện tương ưng, vì là khổ vô nguyện. Nên nói là duyên nơi hệ thuộc cõi vô sắc, vì duyên nơi bốn ấm của cõi vô sắc.

Đoạn trừ tất cả trạo, mạn, vô minh: Tưởng này nên nói hoặc tương ưng với pháp trí, tương ưng với khổ trí, tương ưng với tỷ trí. Phần còn lại nói rộng như trên.

Hỏi: Tám Thánh đạo đều có thể đoạn trừ kiết, vì sao chỉ riêng nói tưởng vô thường?

Đáp: Thánh đạo ở đây, Đức Thế Tôn dùng tưởng để gọi. Đức Thế Tôn hoặc nói đạo gọi là tưởng, nói rộng như nơi xứ bốn vô lượng.

Hỏi: Tưởng vô thường là pháp đối trị bảy sử. Vì sao ở đây chỉ nói có ba thứ?

Đáp: Vì nếu sử ở nơi ba cõi là do năm thứ đoạn. Kiến, nghi tuy ở nơi ba cõi, nhưng không phải do năm thứ đoạn. Sử giận tuy do năm thứ đoạn, nhưng không ở nơi ba cõi.

Lại nữa, sử này ở nơi ba cõi, cũng là do kiến đạo, tu đạo đoạn. Kiến, nghi tuy ở nơi ba cõi, nhưng không phải do tu đạo đoạn. Sử giận tuy do kiến đạo, tu đạo đoạn, nhưng không ở nơi ba cõi.

Lại nữa, sử này ở nơi ba cõi là đối tượng hành của cả phàm phu, Thánh nhân. Kiến, nghi tuy ở nơi ba cõi, nhưng không phải đối tượng hành của Thánh nhân. Sử giận tuy là đối tượng hành của phàm phu, Thánh nhân, nhưng không phải ở nơi ba cõi.

Hỏi: Vì sao sử ái được nói ở nơi ba cõi, còn sử khác thì chỉ nói ở nơi một cõi?

Đáp: Sử khác tức cũng nên nói như sử ái, nhưng không nói, nên biết là nghĩa này nêu giảng chưa trọn vẹn.

Lại nữa, vì muốn dùng đủ thứ cách nêu bày để trang nghiêm cho văn. Vì dùng nhiều cách nêu bày diễn đạt để trang nghiêm cho văn thì nghĩa tức dễ hiểu.

Lại nữa, vì muốn hiện rõ hai môn, cho đến nói rộng.

Lại nữa, vì ái này là pháp ác nặng, có nhiều lỗi lầm tai hại, muốn quán lần nữa về những lỗi lầm tai hại ấy. Nói rộng như nơi xứ bốn đế trên.

Hỏi: Tưởng vô thường là pháp đối trị sử do kiến khổ đoạn, vì sao nói là đoạn trừ tất cả sử dục ái, cho đến nói rộng?

Đáp: Tất cả có hai thứ: (1) Có tất cả của phần ít. (2) Có tất cả của tất cả. Ở đây là nói tất cả của phần ít.

Lại nữa, ở đây nói Thánh nhân dùng tưởng vô thường để đoạn trừ tất cả phiền não trong ba cõi do tu đạo đoạn.

Kinh khác lại nói: Tu hành rộng khắp tưởng vô thường, có thể đoạn trừ ngã mạn.

Hỏi: Tưởng vô thường là pháp đối trị cả bảy mạn, vì sao chỉ nói đoạn trừ ngã mạn?

Đáp: Vì tưởng vô thường là pháp đối trị gần của ngã mạn. Như nói: Tưởng vô thường có thể sinh khởi tưởng vô ngã. Nếu Tỳ-kheo có tưởng vô thường, tưởng vô ngã, thì có thể đoạn trừ ngã mạn, nhanh chóng đối với pháp ấy được dứt hết các lậu.

* Như nói: Tỳ-kheo đối với bảy xứ thiện, ba thứ nghĩa quán, nhanh chóng đối với pháp này được dứt hết được hữu lậu.

Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?

Đáp: Đây là kinh Phật. Kinh Phật nói: Tỳ-kheo đối với bảy xứ thiện v.v…, cho đến nói rộng. Kinh Phật là chỗ dựa căn bản để tạo luận. Nay vì muốn phân biệt rộng, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Nếu kinh Phật là chỗ dựa căn bản để tạo luận, thì vì sao Đức Thế Tôn giảng nói kinh ấy?

Đáp: Vì người học đối với quả Sa-môn trên không tạo phương tiện. Nếu như có tạo phương tiện thì không hiểu biết. Đức Phật nói rõ: Như các ông nhập kiến đạo, không buông bỏ phương tiện, thì không lâu cũng sẽ được dứt hết các lậu.

Lại nữa, người đã được kiến đạo trụ nơi tu đạo, nhưng lại bị các phiền não do tu đạo đoạn trừ gây nhiều trở ngại. Vì muốn nói rõ về pháp đối trị của tu đạo, khiến kẻ mất đạo trở lại được đạo. Như người rất mạnh mẽ bị kẻ oán địch gây khó khăn. Người khác nói: Ông nay là người dũng mãnh, sao không hàng phục kẻ oán địch để nó gây khó khăn? Sự việc kia cũng như thế.

Nhận biết như thật về sắc khổ là bốn trí. Đó là pháp trí, tỷ trí, đẳng trí, khổ trí. Pháp trí nhận biết sắc khổ của cõi dục. Tỷ trí nhận biết sắc khổ của cõi sắc. Đẳng trí nhận biết tất cả sắc khổ. Khổ trí nhận biết sắc hữu lậu là vô thường, khổ, không, vô ngã.

Hỏi: Đây tức là bốn xứ thiện chăng?

Đáp: Đây đều quán về một đế, quán khổ, quán quả.

Nhận biết như thật về sắc tập là bốn trí. Đó là pháp trí, tỷ trí, đẳng trí, tập trí. Pháp trí nhận biết sắc tập của cõi dục. Tỷ trí nhận biết sắc tập của cõi sắc. Đẳng trí nhận biết tất cả sắc tập. Tập trí nhận biết sắc hữu lậu theo nhân tập hữu duyên.

Hỏi: Đây tức là bốn xứ thiện chăng?

Đáp: Đây đều quán về một đế, quán tập, quán nhân.

Nhận biết như thật về sắc diệt là bốn trí. Đó là pháp trí, tỷ trí, đẳng trí, diệt trí. Pháp trí nhận biết sắc diệt của cõi dục. Tỷ trí nhận biết sắc diệt của cõi sắc. Đẳng trí nhận biết tất cả sắc diệt. Diệt trí nhận biết tất cả sắc hữu lậu theo diệt chỉ diệu lìa.

Hỏi: Đây tức là bốn xứ thiện chăng?

Đáp: Đây đều quán về một đế, quán diệt, quán cứu cánh.

Nhận biết như thật về sắc diệt đạo là bốn trí. Đó là pháp trí, tỷ trí, đẳng trí, đạo trí. Pháp trí nhận biết sắc diệt đạo của cõi dục. Tỷ trí nhận biết sắc diệt đạo của cõi sắc. Đẳng trí nhận biết tất cả sắc diệt đạo. Đạo trí nhận biết tất cả sắc diệt hữu lậu theo đạo chánh tích thừa (đạo như hành xuất).

Hỏi: Đây tức là bốn xứ thiện chăng?

Đáp: Đây đều quán về một đế, quán đạo, quán đối trị.

Nhận biết như thật về sắc vị là bốn trí. Đó là pháp trí, tỷ trí, đẳng trí, tập trí.

Hỏi: Đây tức là bốn xứ thiện chăng?

Đáp: Đây đều quán về một đế, quán tập, quán vị.

Nhận biết như thật về tai họa của sắc là bốn trí. Đó là pháp trí, tỷ trí, đẳng trí, khổ trí.

Hỏi: Đây tức là bốn xứ thiện chăng?

Đáp: Đây đều quán về một đế, quán khổ, quán tai họa.

Nhận biết như thật về sắc lìa là bốn trí. Đó là pháp trí, tỷ trí, đẳng trí, diệt trí.

Hỏi: Đây tức là bốn xứ thiện chăng?

Đáp: Đây đều quán về một đế, quán diệt, quán lìa.

Như sắc ấm có bảy xứ thiện, cho đến thức ấm cũng có bảy xứ thiện.

Hỏi: Nếu như vậy thì có ba mươi lăm xứ thiện, cũng có vô lượng xứ thiện chăng?

Đáp: Đây là bảy pháp xứ. Như sắc ấm có bảy, cho đến thức ấm cũng có bảy, không quá nơi bảy.

Như kinh nói: Tu-đà-hoàn thọ nhận bảy hữu. Đây là bảy pháp xứ, không quá nơi bảy, nói rộng như xứ của bốn đế.

Tôn giả Ba-xa nói: Nhận biết như thật sắc là khổ, cho đến nhận biết như thật thức là khổ. Nhận biết như thật sắc là tập, nhận biết như thật sắc là diệt, nhận biết như thật sắc là diệt đạo, nhận biết như thật sắc là vị, nhận biết như thật sắc là tai họa, nhận biết như thật sắc là lìa, cho đến nhận biết thức cũng như thế. Nếu nói như vậy tức có bảy xứ thiện.

Lại nữa, nếu nói tóm lược thì có bảy xứ thiện. Nếu nói rộng thì có ba mươi lăm xứ thiện, vô lượng xứ thiện. Như lược – rộng, thì phân biệt – không phân biệt cũng như thế.

Lại nữa, nếu vì người lợi căn giảng nói tức có bảy xứ thiện. Nếu vì người độn căn giảng nói tức có ba mươi lăm xứ thiện, vô lượng xứ thiện.

Như lợi căn, độn căn, thì sức của nhân, sức của duyên, sức chi trong, sức chi ngoài, sức tư duy bên trong, sức nghe pháp bên ngoài, sức nghe tức có thể hiểu, sức phân biệt rộng, nên biết cũng như thế.

Lại nữa, như khi ở kiến đạo thì có bảy, như lúc quán sát thì có ba mươi lăm, vô lượng xứ thiện.

Lại nữa, như khi Thánh Hiền hành hóa thì có bảy, như lúc thế tục hành tác thì có ba mươi lăm, vô lượng xứ thiện.

Lại nữa, nếu tạo quán tướng chung thì có bảy xứ thiện. Nếu tạo quán tướng riêng thì có ba mươi lăm, vô lượng xứ thiện.

Hỏi: Ở đây là nói quán tướng riêng hay là nói quán tướng chung? Nếu nói quán tướng riêng, thì như nơi văn này nói làm sao thông? Như nói: Nhanh chóng đối với pháp này được dứt hết hữu lậu. Nếu nói quán tướng chung, thì như nơi văn này nói làm sao thông? Như nói: Nhận biết như thật về sắc, cho đến nhận biết như thật về thức.

Đáp: Nên nói như thế này: Là quán tướng riêng.

Hỏi: Nếu như vậy thì như nói: Nhanh chóng đối với pháp này được dứt hết hữu lậu, làm sao thông hợp?

Đáp: Ở đây nói quán tướng riêng có thể sinh khởi quán tướng chung. Quán tướng chung cũng được dứt hết hữu lậu.

Lại có thuyết nói: Trong đây là quán tướng chung.

Hỏi: Nếu như vậy thì như nơi văn này nói làm sao thông? Như nói: Nhận biết như thật về sắc, cho đến nhận biết như thật về thức.

Đáp: Văn ấy nên nói như thế này: Nhận biết như thật về ấm là khổ, tập, diệt, đạo, vị, tai họa, lìa. Nhưng không nói như vậy là có ý gì? Bất tất phải nói cùng với lúc kiến đạo đồng. Hoặc có khi nói cùng với lúc kiến đạo đồng. Hoặc có khi nói cùng với lúc kiến đạo khác. Như Đức Thế Tôn vì bốn Thiên vương dùng Thánh ngữ để nói về bốn đế, hai vị hiểu, hai vị không hiểu. Đức Thế Tôn lại dùng tiếng nói Đà-tỳ-la để nói về bốn đế, một vị hiểu, một vị không hiểu. Đức Thế Tôn lại dùng tiếng nói Di-la-xa để nói về bốn đế, sau đấy mới hiểu. Như thế, lúc quán giải thì dùng tướng riêng, khi nhập đạo là tướng chung.

Hỏi: Bảy xứ thiện và ba thứ nghĩa quán có gì khác biệt?

Đáp: Bảy xứ thiện là vô lậu, ba thứ nghĩa quán là hữu lậu.

Hỏi: Nếu như vậy thì như ở đây đã nói làm sao thông? Như nói: Nhận biết như thật sắc là bốn trí. Đó là pháp trí, tỷ trí, đẳng trí, khổ trí.

Đáp: Trong đây, số trí hành đối với cảnh giới không hẳn đều là vô lậu.

Hỏi: Có thể đem bảy xứ thiện nhập vào ba thứ nghĩa quán chăng? Có thể đem ba thứ nghĩa quán nhập vào bảy xứ thiện chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Không thể. Vì sao? Vì bảy xứ thiện là vô lậu. Ba thứ nghĩa quán là hữu lậu.

Lại có thuyết cho: Bảy xứ thiện là hữu lậu, vô lậu. Ba thứ nghĩa quán là hữu lậu.

Hỏi: Nếu như vậy thì có thể đem bảy xứ thiện nhập vào ba thứ nghĩa quán, do ba thứ nghĩa quán đồng với bảy xứ thiện?

Đáp: Có thể. Chỉ phải dụng công nhiều, có nhiều đối tượng tạo tác.

Nhận biết như thật về sắc, cho đến nhận biết như thật về thức. Nhận biết như thật về tai họa của sắc, cho đến nhận biết như thật về tai họa của thức, là nói quán ấm. Nhận biết như thật về sắc là tập, cho đến nhận biết như thật về thức là tập. Nhận biết như thật về sắc là vị, cho đến nhận biết như thật về thức là vị, là nói quán nhập. Nhận biết như thật về sắc là diệt, cho đến nhận biết như thật về thức là diệt. Nhận biết như thật về sắc là lìa, cho đến nhận biết như thật về thức là lìa, là nói quán giới.

Có thể nói về tướng đồng như thế, chỉ cần dụng công nhiều, có nhiều đối tượng tạo tác.

Hỏi: Ba thứ nghĩa quán ở trước, bảy xứ thiện ở sau. Vì sao Đức Thế Tôn trước nói bảy xứ thiện, sau nói ba thứ nghĩa quán?

Đáp: Nếu nói như vậy là nói theo nghĩa tùy thuận tức dễ hiểu, người thọ nhận cũng dễ.

Lại nữa, Đức Thế Tôn đã giảng nói, văn nghĩa đều đầy đủ. Nếu trước nói ba thứ nghĩa quán thì nghĩa tuy đầy đủ nhưng văn chưa đầy đủ. Đức Thế Tôn giảng nói pháp văn nghĩa luôn đầy đủ.

Lại nữa, nếu nên trước nói bảy xứ thiện thì nói bảy xứ thiện trước. Nếu nên sau nói ba thứ nghĩa quán thì nói ba thứ nghĩa quán sau. Vì sao? Vì ba thứ nghĩa quán hoặc ở phần đầu của kiến đạo, hoặc ở phần đầu của tu đạo. Trong đây là nói ở phần đầu của tu đạo, không nói ở phần đầu của kiến đạo. Như kiến đạo, tu đạo, thì kiến địa, tu địa, vị tri dục tri căn, tri căn cũng như thế.

Lại nữa, ba thứ nghĩa quán hoặc ở phần đầu của sáu địa Thánh đạo, hoặc ở phần đầu của chín địa Thánh đạo. Trong đây là nói ở phần đầu của chín địa, không nói ở phần đầu của sáu địa.

Tôn giả Ba-xa nói: Ở đây nói bốn thứ địa, là địa tu hành, địa kiến, địa tu và địa vô học. Như nói: Bảy xứ thiện, ba thứ nghĩa quán của Tỳ-kheo là nói về địa tu hành. Nhận biết như thật về sắc là khổ, tập, diệt, đạo, cho đến nhận biết như thật về thức là khổ, tập, diệt, đạo là nói về địa kiến. Quán sắc cho đến thức là vị, là tai họa, là lìa, là nói về địa tu. Nhanh chóng đối với pháp này, được dứt hết hữu lậu, là nói về địa vô học.

Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao trong kiến đạo nói bốn xứ thiện, trong tu đạo nói ba xứ thiện?

Đáp: Vì trong kiến đạo là chưa từng thấy đế mà thấy. Trong tu đạo thì đã từng thấy đế mà thấy.

Lại nữa, trong kiến đạo là chưa từng được thấy tánh Thánh mà được khi hành quán nơi đế. Trong tu đạo là đã từng được tánh Thánh khi hành quán nơi đế.

Hỏi: Vì sao trong đây nói nhiều lần về ba đế trước, chỉ một lần nói về đạo đế?

Đáp: Do trong đây đã nói rộng về đạo đế. Như nói: Nhận biết như thật sắc là khổ, đó là đạo đế. Nhận biết như thật sắc là tập, diệt, đạo, là vị, là tai họa, là lìa, cho đến nhận biết thức cũng như thế, đó là đạo đế.

Lại nữa, điều đã nói ở đây là vì người đã thấy đế. Đức Phật đã nêu rõ: Các ông nếu có thể quán sát như thật về ấm thì không lâu sẽ được dứt hết lậu.

Lại nữa, ba đế là pháp hữu biên. Như nói: Biên của năm thủ ấm. Biên tập của năm thủ ấm. Biên diệt của năm thủ ấm.

Hỏi: Nếu như vậy thì nhân luận sinh luận: Vì sao ba đế nói là hữu biên, còn đạo đế không nói là hữu biên?

Đáp: Vì nghĩa của biên ở đây là nói rộng. Như nói: Đẳng trí ở nơi biên của kiến đạo.

Lại nữa, có khổ đã sinh, có khổ chưa sinh. Có nhân của khổ đã sinh, có nhân của khổ chưa sinh. Có khổ diệt đã sinh, có khổ diệt chưa sinh. Các khổ đã sinh, các khổ chưa sinh, nhân của khổ đã sinh, nhân của khổ chưa sinh, khổ diệt đã sinh, khổ diệt chưa sinh, thì pháp gì có thể nhận biết, đoạn, chứng? Đó là đạo đế.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn phân biệt rộng về đối tượng nhận biết của trí?

Đáp: Vì muốn khiến cho kẻ mất đạo trở lại nhận biết đạo nên nói như thế.

Lại nữa, điều nói ở đây là nói về người ái hành, nên Đức Phật nói rõ: Các ông nên quán vị và lỗi lầm tai họa của ấm này. Nếu người nào thấy được vị và lỗi lầm tai họa của ấm này thì không lâu sẽ được dứt hết lậu.

Hỏi: Vì sao trong kiến đạo, trước quán khổ sau quán tập, còn trong tu đạo, thì trước quán tập sau quán khổ?

Đáp: Tùy thuận có hai thứ: (1) Tùy thuận của kiến đạo. (2) Tùy thuận như đã nói. Như tùy thuận của kiến đạo thì trước quán khổ, sau quán tập. Tùy thuận như đã nói thì trước quán tập, sau quán khổ. Thứ lớp của kiến đạo, thứ lớp như đã nói cũng như thế.

Hỏi: Sắc tập, sắc vị có gì khác biệt?

Đáp: Tên gọi là khác biệt: Đây gọi là sắc tập. Đây gọi là sắc vị.

Lại nữa, sắc tập là ở địa ý. Sắc vị thì chung nơi sáu thức thân.

Lại nữa, tập là nhiễm ô, không nhiễm ô. Vị là nhiễm ô.

Lại nữa, tập ở nơi ba cõi. Vị ở nơi cõi dục.

Hỏi: Ấm là có nhiều thứ tập hay là có một thứ tập? Nếu có nhiều thứ tập thì như nơi Luận Thi Thiết nói làm sao thông? Như nói: Ái này là nhân khổ, gốc khổ, duyên khổ của quá khứ, vị lai, hiện tại. Nếu có một thứ tập thì như nơi Kinh này nói làm sao thông? Như nói: Tập hỷ ái là sắc tập. Tập xúc là tập của ba ấm. Tập danh sắc là thức tập.

Đáp: Nên nói như thế này: Có nguyên do là nhiều thứ tập. Có nguyên do là một thứ tập. Vì nói nhân gần nên là nhiều thứ tập. Vì nói nhân xa nên là một thứ tập. Như nhân gần, nhân xa, thì thân này, thân khác cũng như thế.

Lại nữa, ở đây nói ba thứ tập: (1) Tập của phiền não. (2) Tập của khổ. (3) Tập của nghiệp.

Tập hỷ ái, sắc tập là nói tập của phiền não. Tập xúc, tập của ba ấm là nói tập của khổ. Tập danh sắc, thức tập là nói tập của nghiệp. Trong đây nói danh sắc là nghiệp.

Như tập của phiền não, tập của khổ, tập của nghiệp, thì hữu của phiền não, hữu của khổ, hữu của nghiệp, nẻo phiền não, nẻo khổ, nẻo nghiệp, nơi phiền não, nghiệp, khổ nên biết cũng như thế.

Lại nữa, ở đây nói về ba thời gian, là thời gian chứa nhóm, thời gian thọ dụng, thời gian giữ gìn. Tập hỷ ái, sắc tập là nói thời gian chứa nhóm. Tập xúc, tập của ba ấm là nói thời gian thọ dụng. Tập danh sắc, thức tập là nói thời gian giữ gìn.

Lại nữa, ở đây nói về hữu của ba thời gian, là hữu của thời gian trước, trung hữu, sinh hữu. Tập hỷ ái, sắc tập là nói hữu của thời gian trước. Tập xúc, tập của ba ấm là nói trung hữu. Tập danh sắc, thức tập là nói sinh hữu.

Lại nữa, tập hỷ ái, sắc tập là nói danh duyên nơi sắc. Tập xúc, tập của ba ấm là nói danh duyên nơi danh. Tập danh sắc, thức tập là nói danh sắc duyên nơi danh.

Lại nữa, vì ái tìm cầu hữu vị lai, nên Đức Phật nói: Tập ái hỷ là sắc tập. Tâm tâm số pháp nhân nơi xúc mà sống, từ xúc sinh, do lực của xúc nên có thể hiện ở trước. Đức Phật cũng nói rõ: Tập xúc là tập của ba ấm. Thức nhân nơi danh sắc lập nên được tăng trưởng rộng. Thế nên Đức Phật nói rõ: Tập danh sắc là thức tập.

Hỏi: Sắc diệt, sắc lìa có gì khác biệt?

Đáp: Nếu ái tạo sắc này, ái ấy nếu diệt, đó gọi là sắc diệt. Nếu ái duyên nơi sắc này, sinh khởi các ái khác, khi ái ấy lìa, đó gọi là sắc lìa. Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao hỏi sắc diệt mà đáp ái diệt?

Đáp: Vì nếu đoạn nhân thì quả cũng đoạn. Nhân nếu diệt thì quả cũng diệt. Bỏ nhân là cũng bỏ quả. Nếu loại trừ nhân thì cũng loại trừ quả. Nếu diệt nhân thì cũng diệt quả.

Hỏi: Vì sao ái đã sinh nói là diệt, ái chưa sinh nói là lìa?

Đáp: Vì ái đã sinh không thể tạo ra ái chưa sinh. Đức Phật nói: Chỉ nên diệt ái. Ái chưa sinh nên khiến nó không sinh. Chỉ nên lìa là như thế.

Có ba thứ suy lo: (1) Đã nhận lấy. (2) Nay đang nhận. (3) Sẽ nhận lấy.

Đã nhận lấy: Là thọ nhận xong.

Nay đang nhận: Là đang nhận chịu.

Sẽ nhận lấy: Là hoặc do sức mình, hoặc do sức của quyến thuộc, hoặc do sức của tài sản, vật dụng. Phương tiện cầu lìa ái kia cũng như thế.

Phần còn lại, giải đáp nói rộng như nơi Kiền Độ Tạp.

Như sắc diệt, sắc lìa, cho đến thức diệt, thức lìa, nói cũng như thế.

Hỏi: Vì sao trong đây ba lần nói về ái không nói nghiệp, phiền não khác?

Đáp: Vì ái là lỗi lầm tai họa nặng nhất, rất khó đoạn trừ. Nói rộng như trên.

Như ở đây và Luận Thi Thiết đã phân biệt nhiều về diệt đế.

Hỏi: Vì sao ở đây và Luận Thi Thiết đã phân biệt nhiều về diệt đế?

Đáp: Do diệt này ở trong pháp hữu vi, vô vi là tối thắng.

HẾT – QUYỂN 56