LUẬN A TỲ ĐÀM TỲ BÀ SA
STác giả: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử
Giải thích: Năm trăm A La Hán
Hán dịch: Đời Bắc Lương, Sa môn Phù Đà Bạt Ma, Đạo Thái v.v…
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 55

Chương 3: KIỀN ĐỘ TRÍ

Phẩm thứ 3: TU TRÍ, phần 1

* Tám trí: (1) Pháp trí. (2) Tỷ trí. (3) Tha tâm trí. (4) Đẳng trí. (5) Khổ trí. (6) Tập trí. (7) Diệt trí. (8) Đạo trí.

Thế nào là Pháp trí v.v… cho đến: Thế nào là Đạo trí? Chương như thế cùng giải thích nghĩa của chương, ở đây nên nói rộng là Ưuba-đề-xá.

Hỏi: Vì sao Tôn giả Ca-chiên-diên-tử kia đã dựa vào tám trí để tạo phần Luận này?

Đáp: Ở đây nên quảng diễn như trong chương lớn Kiền Độ Sử đã nêu: Pháp trí gồm thâu bao nhiêu trí, cho đến Đạo trí gồm thâu bao nhiêu trí?

Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì nhằm ngăn chận ý của người nói về nghĩa đều nhau. Như phái Tỳ-bà Xà-bà-đề nói: Gồm thâu pháp của tha tánh, không gồm thâu pháp của tự tánh. Vì nhằm ngăn chận ý của những người nói như thế, nên tạo ra phần Luận này.

Gồm thâu, như trong Phẩm Nhất Hành của chương Kiền Độ Sử đã nói rộng.

Pháp trí gồm thâu pháp trí, cũng gồm thâu phần ít của năm trí, đó là tha tâm trí, khổ, tập, diệt, đạo trí.

Nói tóm tắt pháp trí gồm thâu pháp trí. Nhưng pháp trí ở nơi sáu địa là thiền vị chí, trung gian và bốn thiền căn bản. Pháp trí trong thiền vị chí gồm thâu trong thiền vị chí, cho đến pháp trí trong thiền thứ tư gồm thâu trong thiền thứ tư.

Lại, pháp trí là bốn trí, tức khổ trí cho đến đạo trí. Khổ trí gồm thâu khổ pháp trí. Cho đến đạo trí gồm thâu đạo pháp trí.

Lại, pháp trí ở nơi quá khứ, vị lai, hiện tại. Quá khứ gồm thâu quá khứ. Vị lai, hiện tại gồm thâu vị lai, hiện tại.

Lại, pháp trí ở quá khứ có vô lượng sát-na. Sát-na kia tức gồm thâu sát-na kia. Vị lai, hiện tại nói cũng như thế.

Hỏi: Thế nào là gồm thâu phần ít của tha tâm trí?

Đáp: Tha tâm trí là hữu lậu, vô lậu. Gồm thâu vô lậu, không gồm thâu hữu lậu. Vô lậu kia lại có hai thứ, là phần pháp trí và phần tỷ trí. Gồm thâu phần pháp trí, không gồm thâu phần tỷ trí. Đó gọi là phần ít.

Hỏi: Thế nào là gồm thâu phần ít của khổ trí?

Đáp: Khổ trí là phần pháp trí, phần tỷ trí. Gồm thâu phần pháp trí, không gồm thâu phần tỷ trí. Đó gọi là phần ít.

Cho đến đạo trí nói cũng như thế.

Tỷ trí gồm thâu tỷ trí, cũng gồm thâu phần ít của năm trí, nói rộng như pháp trí.

Tha tâm trí gồm thâu tha tâm trí, cũng gồm thâu phần ít của bốn trí là pháp trí, tỷ trí, đẳng trí, đạo trí.

Nói tóm tắt tha tâm trí gồm thâu tha tâm trí. Nhưng tha tâm trí ở tại bốn thiền căn bản. Tha tâm trí nơi thiền thứ nhất gồm thâu thiền thứ nhất. Cho đến tha tâm trí nơi thiền thứ tư gồm thâu thiền thứ tư.

Lại, tha tâm trí là hữu lậu, vô lậu. Hữu lậu gồm thâu hữu lậu. Vô lậu gồm thâu vô lậu.

Lại, tha tâm trí là phần pháp trí, phần tỷ trí. Phần pháp trí gồm thâu phần pháp trí. Phần tỷ trí gồm thâu phần tỷ trí.

Ở quá khứ, vị lai, hiện tại, như trước đã nói.

Hỏi: Thế nào là gồm thâu phần ít của pháp trí?

Đáp: Pháp trí là bốn trí, chỉ gồm thâu đạo trí, không gồm thâu trí khác. Đó gọi là phần ít.

Lại, đạo trí là tướng chung, tướng riêng, chỉ gồm thâu tướng riêng không gồm thâu tướng chung. Đạo trí có duyên nơi ba đời. Có duyên nơi hiện tại. Có duyên nơi thân mình. Có duyên thân người khác. Có duyên nơi tâm tâm số pháp. Có duyên nơi năm ấm. Gồm thâu duyên nơi hiện tại, duyên nơi thân người khác, duyên nơi tâm tâm số pháp. Không gồm thâu duyên nơi thân mình, duyên nơi năm ấm, duyên nơi quá khứ, vị lai. Đó gọi là phần ít.

Như pháp trí, thì tỷ trí cũng như thế, tùy tướng mà nói.

Hỏi: Thế nào là gồm thâu phần ít của đẳng trí?

Đáp: Đẳng trí ở nơi mười một địa, là từ cõi dục cho đến xứ phi tưởng phi phi tưởng, chỉ gồm thâu địa của bốn thiền căn bản, không gồm thâu các địa khác.

Lại nữa, đẳng trí duyên nơi tướng chung, tướng riêng. Chỉ gồm thâu tướng riêng, không gồm thâu tướng chung. Ngoài ra nói rộng như trên.

Hỏi: Thế nào là gồm thâu phần ít của đạo trí?

Đáp: Đạo trí ở nơi chín địa, là thiền vị chí, trung gian, bốn thiền căn bản và ba định vô sắc. Chỉ gồm thâu địa của thiền căn bản, không gồm thâu các địa khác. Đó gọi là phần ít.

Lại, đạo trí duyên nơi tướng chung, tướng riêng, cho đến nói rộng. Đó gọi là phần ít.

Đẳng trí gồm thâu đẳng trí, cũng gồm thâu phần ít của một trí là tha tâm trí.

Nói tóm tắt, đẳng trí gồm thâu đẳng trí. Nhưng đẳng trí ở tại mười một địa, là cõi dục, thiền vị chí, trung gian, bốn thiền căn bản và bốn định vô sắc. Đẳng trí nơi cõi dục gồm thâu cõi dục. Cho đến đẳng trí nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng gồm thâu xứ phi tưởng phi phi tưởng.

Lại, cõi dục có thiện, nhiễm ô, vô ký không ẩn mất. Thiện gồm thâu thiện. Nhiễm ô gồm thâu nhiễm ô. Vô ký không ẩn mất gồm thâu vô ký không ẩn mất. Ba thứ này ở nơi quá khứ, vị lai, hiện tại. Quá khứ, vị lai, hiện tại gồm thâu quá khứ, vị lai, hiện tại.

Lại, quá khứ có vô lượng sát-na. Sát-na kia gồm thâu sát-na kia. Vị lai cũng như thế. Như cõi dục, cho đến xứ phi tưởng phi phi tưởng nói cũng như thế.

Hỏi: Thế nào là gồm thâu phần ít của tha tâm trí?

Đáp: Tha tâm trí là hữu lậu, vô lậu. Chỉ gồm thâu hữu lậu, không gồm thâu vô lậu. Đó gọi là phần ít.

Khổ trí gồm thâu khổ trí, cũng gồm thâu phần ít của hai trí là pháp trí, tỷ trí. Nói tóm tắt, khổ trí gồm thâu khổ trí. Nhưng khổ trí ở nơi chín địa là thiền vị chí, trung gian, bốn thiền căn bản cùng ba định vô sắc. Thiền vị chí gồm thâu thiền vị chí. Cho đến xứ vô sở hữu gồm thâu xứ vô sở hữu. Ngoài ra, nói rộng như trên.

Hỏi: Thế nào là gồm thâu phần ít của pháp trí?

Đáp: Pháp trí là bốn trí, tức trí khổ, tập, diệt, đạo. Chỉ gồm thâu phần khổ trí, không gồm thâu phần trí khác. Đó gọi là phần ít.

Như pháp trí, thì tỷ trí cũng như thế.

Như khổ trí, thì tập trí, diệt trí cũng như vậy.

Đạo trí gồm thâu đạo trí, cũng gồm thâu phần ít của ba trí là pháp trí, tỷ trí, tha tâm trí. Nói tóm tắt, đạo trí gồm thâu đạo trí, nói rộng như trên. Có khác biệt: Là gồm thâu phần ít của tha tâm trí.

Hỏi: Thế nào là gồm thâu phần ít của tha tâm trí?

Đáp: Tha tâm trí là hữu lậu, vô lậu. Chỉ gồm thâu vô lậu, không gồm thâu hữu lậu. Đó gọi là phần ít.

Nếu thành tựu pháp trí thì đối với tám trí này, bao nhiêu thứ thành tựu, bao nhiêu thứ không thành tựu?

Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì để ngăn chận ý của thuyết nói là không có thành tựu, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Nếu thành tựu pháp trí thì đối với tám trí này, bao nhiêu thứ thành tựu, bao nhiêu thứ không thành tựu?

Đáp: Hoặc thành tựu ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám trí. Nếu lúc có khổ pháp trí không có tha tâm trí thì thành tựu ba, là pháp trí, khổ trí, đẳng trí. Có tha tâm trí thì thành tựu bốn.

Lúc có khổ tỷ nhẫn không có tha tâm trí thì thành tựu ba. Có tha tâm trí thì thành tựu bốn. Trong đây tăng thêm kiến, thêm tuệ, thêm đạo, không tăng thêm trí, không tăng thêm danh.

Lúc có khổ tỷ trí không có tha tâm trí thì thành tựu bốn, là pháp trí, tỷ trí, đẳng trí, khổ trí. Có tha tâm trí thì thành tựu năm. Ở đây là tăng thêm kiến, thêm tuệ, thêm đạo, thêm trí, thêm danh.

Lúc có tập pháp nhẫn không có tha tâm trí thì thành tựu bốn. Có tha tâm trí thì thành tựu năm. Ở đây là tăng thêm kiến, thêm tuệ, thêm đạo, không tăng thêm trí, không tăng thêm danh.

Lúc có tập pháp trí không có tha tâm trí thì thành tựu năm, là pháp trí, tỷ trí, đẳng trí, khổ trí, tập trí. Có tha tâm trí thì thành tựu sáu. Trong đây là tăng thêm kiến, thêm tuệ, thêm đạo, thêm trí, thêm danh.

Lúc có tập pháp nhẫn không có tha tâm trí thì thành tựu năm. Có tha tâm trí thì thành tựu sáu. Ở đây là tăng thêm kiến, thêm tuệ, thêm đạo, không tăng thêm trí, không tăng thêm danh.

Lúc có tập tỷ trí, không có tha tâm trí thì thành tựu năm. Có tha tâm trí thì thành tựu sáu. Ở đây là tăng thêm kiến, thêm tuệ, thêm đạo, không tăng thêm trí, không tăng thêm danh. Vì sao? Vì lúc có khổ tỷ trí đã lập tên tỷ trí. Khi có tập pháp trí đã lập tên tập trí.

Lúc có diệt pháp nhẫn không có tha tâm trí thì thành tựu năm. Có tha tâm trí thì thành tựu sáu. Ở đây là tăng thêm kiến, thêm tuệ, thêm đạo, không thêm trí, không thêm danh.

Lúc có diệt pháp trí không có tha tâm trí thì thành tựu sáu, đó là pháp trí, tỷ trí, đẳng trí, khổ trí, tập trí, diệt trí. Có tha tâm trí thì thành tựu bảy. Ở đây là tăng thêm kiến, thêm tuệ, thêm đạo, thêm trí, thêm danh.

Lúc có diệt tỷ nhẫn không có tha tâm trí thì thành tựu sáu. Có tha tâm trí thì thành tựu bảy. Ở đây là tăng thêm kiến, thêm tuệ, thêm đạo, không thêm trí, không thêm danh.

Lúc có diệt tỷ trí không có tha tâm trí thì thành tựu sáu. Có tha tâm trí thì thành tựu bảy. Ở đây là tăng thêm kiến, thêm tuệ, thêm đạo, không thêm trí, không thêm danh. Vì sao? Vì lúc có diệt pháp trí đã lập tên diệt trí. Khi có khổ tỷ trí đã lập tên tỷ trí.

Lúc có đạo pháp nhẫn không có tha tâm trí thì thành tựu sáu. Có tha tâm trí thì thành tựu bảy. Trong đây là tăng thêm kiến, thêm tuệ, thêm đạo, không thêm trí, không thêm danh.

Lúc có đạo pháp trí không có tha tâm trí thì thành tựu bảy, là pháp trí, tỷ trí, đẳng trí, khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí. Có tha tâm trí thì thành tựu tám. Trong đây là tăng thêm kiến, thêm tuệ, thêm đạo, thêm trí, thêm danh.

Lúc có đạo tỷ nhẫn không có tha tâm trí thì thành tựu bảy. Có tha tâm trí thì thành tựu tám. Ở đây là tăng thêm kiến, thêm tuệ, thêm đạo, không thêm trí, không thêm danh. Vì sao? Vì khi có đạo pháp trí đã lập tên đạo trí. Lúc có khổ tỷ trí đã lập tên tỷ trí. Cho đến thành tựu đạo trí cũng theo tướng để nói.

Nếu khi tu pháp trí thì cũng tu tỷ trí chăng?

Tu có bốn thứ, nói rộng như trên. Ở đây, nhân nơi hai thứ tu để tạo luận, là tu đắc, tu hành.

Phàm phu khi lìa dục của cõi dục, nơi đạo phương tiện, chín đạo vô ngại, tám đạo giải thoát, hiện tại tu đẳng trí, vị lai cũng tu đẳng trí. Trong đạo giải thoát thứ chín, hiện tại tu đẳng trí, vị lai tu đẳng trí, tha tâm trí.

Khi lìa dục của thiền thứ nhất, nếu dựa vào thiền thứ nhất để tạo phương tiện, thì nơi đạo phương tiện hiện tại tu đẳng trí, vị lai tu đẳng trí, tha tâm trí. Nếu dựa vào biên của thiền thứ hai để tạo phương tiện, thì nơi đạo phương tiện, chín đạo vô ngại và tám đạo giải thoát, hiện tại tu đẳng trí, vị lai cũng tu đẳng trí. Nơi đạo giải thoát thứ chín, hiện tại tu đẳng trí, vị lai tu đẳng trí, tha tâm trí. Cho đến lìa dục của thiền thứ ba nói cũng như thế.

Khi lìa dục của thiền thứ tư, nếu dựa vào thiền thứ tư để tạo phương tiện, thì nơi đạo phương tiện hiện tại tu đẳng trí, vị lai tu đẳng trí, tha tâm trí. Nếu dựa vào biên xứ không để tạo phương tiện, thì nơi đạo phương tiện, chín đạo vô ngại, chín đạo giải thoát, hiện tại tu đẳng trí, vị lai cũng tu đẳng trí.

Khi lìa dục của xứ không, nơi đạo phương tiện, chín đạo vô ngại, chín đạo giải thoát, hiện tại tu đẳng trí, vị lai cũng tu đẳng trí.

Cho đến lìa dục của xứ vô sở hữu nói cũng như thế.

Phàm phu chưa lìa dục của cõi dục, lúc khởi bốn vô lượng, hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ đầu, quán bất tịnh, niệm An na ban na (Quán sổ tức), niệm xứ, noãn, đảnh, nhẫn, pháp thế đệ nhất, thì hiện tại tu đẳng trí, vị lai cũng tu đẳng trí.

Phàm phu lìa dục của cõi dục, lúc khởi bốn vô lượng, ba giải thoát đầu, tám thắng xứ, tám nhất thiết xứ, quán bất tịnh, niệm An na ban na, niệm xứ, thì hiện tại tu đẳng trí, vị lai tu đẳng trí, tha tâm trí.

Phàm phu lìa dục của cõi dục, lúc khởi căn thiện của phần đạt, hiện tại tu đẳng trí, vị lai cũng tu đẳng trí.

Phàm phu lìa dục của cõi dục, lúc khởi thông, nơi đạo phương tiện, hai đạo giải thoát, hiện tại tu đẳng trí, vị lai tu đẳng trí, tha tâm trí. Trong một đạo giải thoát, hiện tại tu tha tâm trí, vị lai tu đẳng trí, tha tâm trí. Trong năm đạo vô ngại, hiện tại tu đẳng trí, vị lai cũng tu đẳng trí. Tức phàm phu kia lúc khởi giải thoát, nhất thiết xứ của xứ không, nhất thiết xứ của xứ thức thuộc cõi vô sắc, nếu dựa vào niệm xứ của cõi vô sắc, thì hiện tại tu đẳng trí, vị lai cũng tu đẳng trí.

Đây là nói về người phàm phu, Thánh nhân trong kiến đạo khởi công đức hiện ở trước như thế, tức vị lai tu công đức. Như khởi nhẫn hiện ở trước, tức vị lai tu nhẫn. Khởi trí hiện ở trước, tức vị lai tu trí. Chỉ trừ ba khoảnh tâm. Vị lai tu đạo thế tục, là khổ tỷ trí, tập tỷ trí, diệt tỷ trí, tu đẳng trí biên của kiến đạo.

Hỏi: Vì sao trong kiến đạo chỉ tu pháp tương tợ, còn trong tu đạo tu pháp tương tợ và không tương tợ?

Đáp: Vì đối tượng duyên trong kiến đạo là định, nên đối trị là định, nên chỉ tu pháp tương tợ, không tu pháp không tương tợ. Đối tượng duyên trong tu đạo không định, nên đối trị cũng không định, tức tu cả pháp tương tợ, không tương tợ. Phần còn lại như nơi Kiền Độ Tạp đã giải đáp, nói rộng.

Nếu không có tha tâm trí nhập kiến đạo, khi đạo tỷ trí hiện ở trước, hiện tại tu hai trí là đạo trí, tỷ trí. Vị lai tu sáu trí là trừ đẳng trí, tha tâm trí. Nếu có tha tâm trí, hiện tại cũng tu hai trí, vị lai tu bảy trí là trừ đẳng trí.

Thánh nhân dùng đạo thế tục, khi lìa dục của cõi dục: Nếu dùng vô lậu làm phương tiện, thì nơi đạo phương tiện, ở trong tám trí, nếu mỗi mỗi trí hiện ở trước, vị lai tu bảy trí. Nếu dùng đạo thế tục làm phương tiện, thì nơi đạo phương tiện, chín đạo vô ngại, tám đạo giải thoát, hiện tại tu đẳng trí, vị lai tu bảy trí. Nơi đạo giải thoát thứ chín, hiện tại tu đẳng trí, vị lai tu tám trí.

Khi lìa dục của thiền thứ nhất, nếu dùng vô lậu làm phương tiện, ở trong tám trí, nếu mỗi mỗi trí hiện ở trước, thì vị lai tu tám trí. Nếu dùng đạo thế tục làm phương tiện, thì nơi đạo phương tiện, chín đạo giải thoát, hiện tại tu đẳng trí, vị lai tu tám trí. Trong chín đạo vô ngại, hiện tại tu đẳng trí, vị lai tu bảy trí. Cho đến lìa dục của xứ vô sở hữu nói cũng như thế.

Thánh nhân dùng đạo vô lậu, khi lìa dục của cõi dục: Nếu dùng thế tục làm phương tiện, thì hiện tại tu đẳng trí, vị lai tu bảy trí. Nếu dùng vô lậu làm phương tiện, ở trong tám trí, nếu khởi mỗi mỗi trí hiện ở trước, thì vị lai tu bảy trí. Nơi chín đạo vô ngại, tám đạo giải thoát, ở trong bốn trí, nếu khởi mỗi mỗi trí hiện ở trước thì vị lai tu bảy trí. Nơi đạo giải thoát thứ chín, ở trong bốn trí, nếu mỗi mỗi trí hiện ở trước, thì vị lai tu tám trí.

Khi lìa dục của thiền thứ nhất, nếu dùng đạo thế tục làm phương tiện, thì hiện tại tu đẳng trí, vị lai tu tám trí. Nếu dùng vô lậu làm phương tiện, ở trong tám trí, nếu mỗi mỗi trí hiện ở trước, thì vị lai tu tám trí. Nơi chín đạo vô ngại, ở trong sáu trí, nếu mỗi mỗi trí hiện ở trước, thì vị lai tu bảy trí. Nơi chín đạo giải thoát, ở trong sáu trí, nếu mỗi mỗi trí hiện ở trước thì vị lai tu tám trí. Cho đến lìa dục của xứ vô sở hữu nói cũng như vậy.

Khi lìa dục của xứ phi tưởng phi phi tưởng, nếu dùng thế tục làm phương tiện, thì hiện tại tu đẳng trí, vị lai tu tám trí. Nếu dùng vô lậu làm phương tiện, ở trong tám trí, nếu mỗi mỗi trí hiện ở trước, thì vị lai tu tám trí. Nơi chín đạo vô ngại, ở trong sáu trí, nếu mỗi mỗi trí hiện ở trước, thì vị lai tu sáu trí. Nơi tám đạo giải thoát, ở trong sáu trí, nếu mỗi mỗi trí hiện ở trước, thì vị lai tu bảy trí. Nơi đạo giải thoát thứ chín, ở trong hai trí, nếu một trí hiện ở trước, thì vị lai tu tám trí, cùng căn thiện của ba cõi. Đó là nói Thánh nhân lìa dục.

Khi chưa lìa dục của cõi dục, Tín giải thoát chuyển căn tạo Kiến đáo. Nếu dùng thế tục làm phương tiện, thì nơi đạo phương tiện, hiện tại tu đẳng trí, vị lai tu bảy trí. Nếu dùng vô lậu làm phương tiện, thì nơi đạo phương tiện, ở trong tám trí, nếu mỗi mỗi trí hiện ở trước, thì vị lai tu bảy trí. Nơi đạo vô ngại, ở trong tám trí, nếu mỗi mỗi trí hiện ở trước, thì vị lai tu sáu trí. Nơi đạo giải thoát, ở trong tám trí, nếu mỗi mỗi trí hiện ở trước, thì vị lai tu: Hoặc có người nói tu sáu trí. Hoặc có người nói tu bảy trí.

Khi lìa dục của cõi dục, Tín giải thoát chuyển căn tạo Kiến đáo. Nếu dùng thế tục làm phương tiện, ở nơi đạo phương tiện, thì hiện tại tu đẳng trí, vị lai tu tám trí. Nếu dùng vô lậu làm phương tiện, nơi đạo phương tiện, ở trong tám trí, nếu mỗi mỗi trí hiện ở trước, thì vị lai tu tám trí. Nơi đạo vô ngại, ở trong tám trí, nếu mỗi mỗi trí hiện ở trước, thì vị lai tu sáu trí. Nơi đạo giải thoát, ở trong tám trí, nếu mỗi mỗi trí hiện ở trước, thì vị lai tu: Hoặc có người nói tu bảy trí. Hoặc có người nói tu tám trí.

A-la-hán Thời giải thoát khi chuyển căn tạo Bất động, nếu dùng thế tục làm phương tiện, nơi đạo phương tiện, thì hiện tại tu đẳng trí, vị lai tu tám trí. Nếu dùng vô lậu làm phương tiện, ở trong tám trí, nếu mỗi mỗi trí hiện ở trước, thì vị lai tu tám trí. Nơi chín đạo vô ngại, ở trong sáu trí, nếu mỗi mỗi trí hiện ở trước, thì vị lai tu sáu trí. Nơi tám đạo giải thoát, ở trong sáu trí, nếu mỗi mỗi trí hiện ở trước, thì vị lai tu bảy trí. Nơi đạo giải thoát thứ chín, ở trong hai trí, nếu mỗi mỗi trí hiện ở trước, thì vị lai tu tám trí cùng căn thiện của ba cõi.

Khi tu đủ loại thiền, trong khoảnh sát-na đầu, ở trong tám trí, nếu mỗi mỗi trí hiện ở trước, thì vị lai tu bảy trí. Trong khoảnh khắc sát-na thứ hai, hiện ở trước thì tu đẳng trí, vị lai tu bảy trí. Nơi khoảnh khắc sát-na thứ ba, ở trong tám trí, nếu mỗi mỗi trí hiện ở trước, thì vị lai tu tám trí.

Lúc khởi thông, trong năm đạo vô ngại, hiện tại tu đẳng trí, vị lai tu bảy trí. Trong hai đạo giải thoát, hiện tại tu đẳng trí, vị lai tu tám trí. Khi khởi tha tâm trí nơi đạo giải thoát, hiện tại tu tha tâm trí, vị lai tu tám trí.

Lúc khởi bốn vô lượng, ba giải thoát đầu, tám thắng xứ, tám nhất thiết xứ, quán bất tịnh, niệm A na ban na, niệm xứ của thế tục trong thiền, vô ngại của thế tục, nguyện trí vô tránh, Bán đa câu trí ca, tam muội không không, tam muội vô nguyện vô nguyện, tam muội vô tướng vô tướng, giải thoát thế tục vô sắc, xứ không, xứ thức, Nhất thiết xứ nơi cõi vô sắc, niệm xứ của thế tục, nhập định diệt, tưởng vi tế, thì hiện tại tu đẳng trí, vị lai tu tám trí.

Lúc khởi trí vô lậu, hiện tại tu tha tâm trí, vị lai tu tám trí.

Lúc khởi niệm xứ vô lậu trong thiền, vô ngại vô lậu, hiện tại ở trong tám trí, nếu mỗi mỗi trí hiện ở trước, thì vị lai tu tám trí.

Lúc khởi niệm xứ vô lậu, vô ngại vô lậu, giải thoát vô lậu của cõi vô sắc, ở trong bốn trí, nếu mỗi mỗi trí thể hiện ở trước, thì vị lai tu tám trí.

Lúc khởi tâm vi vi xuất định diệt, hiện tại tu đẳng trí, vị lai cũng tu đẳng trí.

Như thế v.v… là nói tóm lược về Tỳ-bà-sa.

Nếu khi tu pháp trí thì cũng tu tỷ trí chăng? Cho đến nói rộng làm bốn trường hợp:

1. Tu pháp trí không tu tỷ trí: Là trong kiến đạo, lúc tu khổ pháp trí, tập pháp trí, diệt pháp trí, đạo pháp trí, thì không tu tỷ trí. Vì sao? Vì trong kiến đạo, nếu tu công đức này, tức công đức ấy là vị lai tu. Nếu pháp trí hiện ở trước, tức tu pháp trí. Nếu tỷ trí hiện ở trước, tức tu tỷ trí. Là Học kiến tích hoặc A-la-hán khởi pháp trí vốn được hiện ở trước. Người học là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm. Tích là Thánh đế. Nếu người có thấy gọi là kiến tích. Người A-la-hán, hoặc là Tuệ giải thoát, hoặc là Câu giải thoát, vào lúc này thì không tu tỷ trí. Vì sao? Vì khởi công đức vốn được hiện ở trước, hãy còn không thể tiếp theo sát-na sau tu, huống hồ là vị lai xa.

2. Tu tỷ trí không tu pháp trí: Là trong kiến đạo, lúc tu khổ tỷ trí, tập tỷ trí, diệt tỷ trí, không tu pháp trí. Như trước đã nói, Học kiến tích hoặc A-la-hán khởi tỷ trí vốn được hiện ở trước, thì nói như trên.

3. Tu pháp trí cũng tu tỷ trí: Là khi đạo tỷ trí nhâp kiến đạo thì tu pháp trí cũng tu tỷ trí. Vì sao? Vì lúc này là xả bỏ đạo đã từng được, được đạo chưa từng được, đoạn trừ phiền não, đồng một vị chứng đắc giải thoát, cùng được tám trí, tu mười sáu hành. Học kiến tích hoặc A-la-hán khởi trí vô lậu chưa từng được hiện ở trước. Người học dùng đạo vô lậu để lìa dục của cõi dục. Nếu dùng vô lậu làm phương tiện, tức được đạo phương tiện, chín đạo vô ngại, chín đạo giải thoát. Cho đến lúc lìa dục của xứ vô sở hữu, đều được cùng tu. Lúc lìa dục của xứ phi tưởng phi phi tưởng, nếu dùng vô lậu làm phương tiện, tức được đạo phương tiện, chín đạo vô ngại, tám đạo giải thoát. Khi Tín giải thoát chuyển căn tạo Kiến đáo, nếu dùng vô lậu làm phương tiện, tức được đạo phương tiện, đạo vô ngại, đạo giải thoát. Lúc tu đủ loại thiền nơi sát-na của tâm trước sau, người học khởi tha tâm trí vô lậu, khởi niệm xứ vô lậu, khởi giải thoát vô lậu của vô sắc. Những thời gian như thế đều khởi trí vô lậu chưa từng được hiện ở trước, đều được tu pháp trí, tỷ trí.

Lúc lìa dục của xứ phi tưởng phi phi tưởng, A-la-hán trụ nơi đạo giải thoát sau cùng, là A-la-hán thời giải thoát chuyển căn tạo bất động. Nếu dùng vô lậu làm phương tiện, tức được đạo phương tiện, chín đạo vô ngại, chín đạo giải thoát. Khi tu đủ loại thiền, nơi sát-na của tâm trước sau, khởi tha tâm trí vô lậu, khởi niệm xứ vô lậu, khởi vô ngại vô lậu và khởi giải thoát vô lậu của cõi vô sắc.

Những thời gian như thế đều khởi trí vô lậu chưa từng được hiện ở trước đều được tu cả pháp trí, tỷ trí. Khởi trí thế tục chưa từng được hiện ở trước, lúc này được tu pháp trí, tỷ trí.

Người học dùng đạo thế tục để lìa dục của cõi dục. Nếu dùng thế tục làm phương tiện, tức được đạo phương tiện, chín đạo vô ngại, chín đạo giải thoát. Cho đến lìa dục của xứ vô sở hữu nói cũng như thế. Nếu là đoạn trừ dục của xứ phi tưởng phi phi tưởng, dùng thế tục làm phương tiện, tức được đạo phương tiện. Tín giải thoát lúc chuyển căn tạo kiến đáo, nếu dùng thế tục làm phương tiện, tức được đạo phương tiện. Khi tu đủ loại thiền nơi sát-na của tâm giữa, lúc khởi thông làm phương tiện, tức được đạo phương tiện, năm đạo vô ngại, ba đạo giải thoát.

Lúc khởi bốn vô lượng, giải thoát thế tục, thắng xứ, nhất thiết xứ, quán bất tịnh, niệm A na ban na, niệm xứ thế tục, nhập định diệt, tưởng vi tế, A-la-hán thời giải thoát chuyển căn tạo bất động, nếu dùng thế tục làm phương tiện, tức được đạo phương tiện. Khi tu đủ loại thiền, nơi sát-na của tâm giữa, lúc khởi thông tức được đạo phương tiện, năm đạo vô ngại, ba đạo giải thoát. Khi khởi vô lượng, giải thoát thế tục, thắng xứ, nhất thiết xứ, khởi niệm xứ thế tục, vô ngại thế tục, khởi nguyện trí vô tránh, Bán đa câu trí ca (định biên tế), nhập định diệt, tưởng vi tế.

Những thời gian như thế, khởi trí thế tục chưa từng được hiện ở trước, vị lai được tu cả pháp trí, tỷ trí.

(4) Không tu pháp trí cũng không tu tỷ trí: Bậc Học kiến tích hoặc A-la-hán khởi trí thế tục đã từng được hiện ở trước, công đức đã từng được hiện ở trước, hãy còn không thể khiến tiếp theo sát-na sau để tu, huống chi là tu ở vị lai xa. Khởi trí thế tục chưa từng được hiện ở trước, đó là văn, tư, tuệ và tâm vi vi xuất định diệt. Lúc này là không được tu pháp trí, tỷ trí. Hết thảy người phàm phu đều không tu hai trí này. Vì sao? Vì hai trí ấy không phải là pháp của hàng phàm phu. Do vậy, tâm nhiễm ô là không tu vì là phần thoái chuyển, tánh của tâm ấy là chìm nặng, tương ưng với lười biếng. Tâm thắng diệu thì cùng với tinh tấn tương ưng, có thể có đối tượng tu. Tâm vô ký là tâm thấp kém, yếu đuối, như hạt giống mục, không thể có đối tượng tu. Tâm mạnh mẽ bền chắc tức có thể có đối tượng tu. Nhập định vô tưởng, định diệt tận là pháp không có tâm. Pháp có tâm thì có thể có đối tượng tu.

Chúng sinh vô tưởng, hoặc có thuyết nói: Trong tất cả thời gian đều không thể khởi tâm thiện hiện ở trước. Hoặc có thuyết cho: Tuy khởi tâm thiện, nhưng không thể làm đối tượng nương dựa cho việc tu trí kia. Lúc tất cả nhẫn hiện ở trước, chỉ tu nhẫn, không tu trí.

Hỏi: Khởi pháp đã từng được hiện ở trước, thì vì sao không có vị lai tu?

Đáp: Do pháp này là đã dùng, đã có đối tượng tạo tác, đã cho quả. Lại nữa, pháp này đã tu, đã được khinh an, lại không có thế dụng.

Lại nữa, lúc khởi pháp đã từng được hiện ở trước, là lúc tu hành ở đời vị lai, là tu đắc, vì đã trải qua thế gian, chỉ có tổn giảm, sao lại được tăng ích. Như người sử dụng thức ăn uống, trước phải tích tập tài sản, vật dụng. Như vậy là chỉ có tổn giảm, làm gì có tăng ích.

Pháp kia cũng như vậy.

Lại nữa, dụng công nhiều, có đối tượng tạo tác nhiều, muốn khiến đời vị lai có thể khởi pháp đã từng được, hiện ở trước. Không dụng công nhiều, không có đối tượng tạo tác nhiều, nên không thể khiến cho đời vị lai tu tập.

Lại nữa, nếu khởi pháp đã từng được hiện ở trước mà vị lai tu, thì khi Đức Thế Tôn Bát Niết-bàn, nhập tất cả các thiền tam muội, cũng nên ở nơi đời vị lai tu. Nếu tu thì khi Đức Thế Tôn được tận trí, tức không cùng được đủ tất cả các công đức thiện.

Muốn khiến không có lỗi như thế, nên khi khởi công đức đã từng được, nơi đời vị lai không tu.

Các trí còn lại, về tu thì tùy theo tướng, nói rộng như nơi Bản Luận.

Có đẳng trí biên của kiến đạo, có căn thiện khi được tận trí, ở đây nên nói rộng như nơi Kiền Độ Tạp.

Pháp trí nên nói là duyên với pháp trí chăng?

Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn ngăn trừ ý của những người nói: Duyên của cảnh giới không có thể tánh, cũng để làm rõ duyên của cảnh giới thật sự có thể tánh, nên tạo ra phần Luận này.

Hoặc có thuyết nói: Ở đây nên nêu câu hỏi như thế này: Pháp trí duyên với bao nhiêu trí? Nếu như thuyết kia đã nói, thì pháp trí không duyên với tỷ trí, đều duyên với trí khác. Tỷ trí không duyên với pháp trí, đều duyên với trí khác. Tha tâm trí, đẳng trí đều duyên với các trí. Khổ trí, tập trí duyên với đẳng trí, tha tâm trí, không duyên với trí khác. Diệt trí không duyên với các trí. Đạo trí không duyên với đẳng trí, đều duyên với trí khác.

Lại có thuyết cho: Ở đây nên nêu câu hỏi như thế này: Pháp trí vì bao nhiêu trí làm đối tượng duyên? Nếu nói như thế này: Pháp trí vì bao nhiêu trí làm đối tượng duyên? Còn nếu như thuyết kia đã nói thì khổ trí, tập trí, tỷ trí, diệt trí không duyên với pháp trí, trí khác thì duyên. Khổ trí, tập trí, pháp trí, diệt trí không duyên với tỷ trí, trí khác thì duyên. Diệt trí không duyên với tha tâm trí, trí khác thì duyên. Diệt trí, đạo trí không duyên với đẳng trí, trí khác thì duyên. Khổ trí, tập trí, diệt trí đều không vì khổ, tập, diệt trí làm đối tượng duyên, trí khác thì duyên. Khổ trí, tập trí, diệt trí không duyên với đạo trí, trí khác thì duyên.

Hỏi: Vì sao pháp trí, tỷ trí đều không cùng duyên với nhau?

Đáp: Vì cảnh giới của pháp trí là ở dưới, cảnh giới của tỷ trí là ở trên. Ví như hai người cùng đứng một nơi, một người nhìn xuống đất, một người thì nhìn lên không, tức mặt của hai người ấy đều không nhìn vào nhau. Pháp trí, tỷ trí kia cũng như thế.

Pháp trí đối với pháp trí có bao nhiêu duyên? Cho đến đối với đạo trí có bao nhiêu duyên?

Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn ngăn chận ý của người nói bốn duyên không có thể tánh, cũng nhằm làm rõ bốn duyên thật sự có thể tánh, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Pháp trí đối với pháp trí có bao nhiêu duyên?

Đáp: Pháp trí đối với pháp trí có bốn duyên là duyên nhân, duyên thứ đệ, duyên cảnh giới và duyên oai thế.

Hỏi: Vì sao trong đây nói duyên khác, nơi phẩm Bất Thiện của chương Kiền Độ Sử nói duyên khác? Như ở đây nói: Pháp trí đối với pháp trí là có bốn duyên. Còn trong phẩm Bất Thiện nói: Thân kiến đối với thân kiến hoặc có bốn, ba, hai, một duyên?

Đáp: Như ở đây đã nói: Pháp trí đối với pháp trí là có bốn duyên, thì trong phẩm kia cũng nên nói như thế này. Như nơi phẩm kia nói: Thân kiến đối với thân kiến hoặc có bốn, ba, hai, một duyên thì ở đây cũng nên nói như thế.

Lại nữa, vì muốn hiện bày hai môn, hai tóm lược, nói rộng như nơi Kiền Độ Sử.

Pháp trí đối với pháp trí là có bốn duyên: Nhân, thứ đệ, cảnh giới, oai thế.

Duyên nhân: Là như chủng tử. Duyên thứ đệ: Là ở trước mở bày dẫn dắt. Duyên cảnh giới: Là như pháp chống đỡ. Duyên oai thế: Là vì không chướng ngại nhau.

Pháp trí đối với pháp trí có một nhân, đó là nhân tương tợ. Duyên thứ đệ: Nghĩa là pháp trí theo thứ lớp khởi pháp trí hiện ở trước. Duyên cảnh giới: Nghĩa là pháp trí duyên với pháp trí. Duyên oai thế: Nghĩa là không cùng tạo chướng ngại nhau.

Pháp trí đối với tỷ trí là có ba duyên: Nhân, thứ đệ, oai thế, không có duyên cảnh giới.

Duyên nhân là nhân tương tợ. Duyên thứ đệ: Nghĩa là pháp trí theo thứ lớp khởi tỷ trí hiện ở trước. Duyên oai thế: Nghĩa là không chướng ngại lẫn nhau. Không có duyên cảnh giới: Nghĩa là pháp trí, tỷ trí đều không duyên lẫn nhau.

Pháp trí đối với tha tâm trí là có bốn duyên: Nhân, thứ đệ, cảnh giới, oai thế như trước đã nói.

Pháp trí đối với đẳng trí là có ba duyên: Thứ đệ, cảnh giới, oai thế, không có duyên nhân. Vì sao? Vì nhân như pháp chủng tử. Pháp vô lậu không làm chủng tử cho pháp hữu lậu.

Pháp trí đối với khổ, tập, diệt trí là có ba duyên: Nhân, thứ đệ, oai thế, không có duyên cảnh giới. Vì sao? Vì khổ, tập trí duyên nơi pháp hữu lậu, còn trí này là vô lậu. Diệt trí duyên nơi vô vi, còn trí này là hữu vi. Ngoài ra nói rộng như trên.

Pháp trí đối với đạo trí là có bốn duyên: Nhân, thứ đệ, cảnh giới, oai thế, nói rộng như trên.

Tỷ trí như pháp trí, tùy theo tướng để nói.

Tha tâm trí đối với tha tâm trí là có bốn duyên: Nhân, thứ đệ, cảnh giới, oai thế. Như trên đã nói. Ở đây có khác: Nếu có nhân thì không có duyên. Nếu có duyên thì không có nhân. Có nhân không có duyên: Là như tự thân đối với tự thân. Có duyên không có nhân: Là như tha thân đối với tự thân.

Tha tâm trí đối với đẳng trí là có bốn duyên: Nhân, thứ đệ, cảnh giới, oai thế. Nhân tức là hai nhân, đó là nhân tương tợ, nhân báo. Ngoài ra đều nói rộng như trên.

Tha tâm trí đối với khổ, tập trí là có bốn duyên: Nhân, thứ đệ, cảnh giới, oai thế. Nhân: Là nhân tương tợ. Nếu có nhân thì không có duyên. Nếu có duyên thì không có nhân. Có nhân không có duyên: Nghĩa là nhân tức vô lậu, còn khổ, tập trí duyên nơi hữu lậu. Có duyên không có nhân: Nghĩa là khổ, tập trí duyên nơi hữu lậu, còn nhân là vô lậu.

Tha tâm trí đối với diệt trí là có ba duyên: Nhân, thứ đệ, oai thế, không có duyên cảnh giới. Nói rộng như trên.

Tha tâm trí đối với đạo trí, pháp trí, tỷ trí là có bốn duyên: Nhân, thứ đệ, cảnh giới, oai thế. Nói rộng như trên.

Đẳng trí đối với đẳng trí là có bốn duyên: Nhân, thứ đệ, cảnh giới, oai thế. Nhân là có ba nhân: Nhân tương tợ, nhân nhất thiết biến, nhân báo. Ngoài ra nói rộng như trên.

Đẳng trí đối với khổ trí, tập trí là có ba duyên: Thứ đệ, cảnh giới, oai thế, không có duyên nhân. Vì sao? Vì nhân như pháp chủng tử. Pháp hữu lậu không làm chủng tử cho pháp vô lậu.

Đẳng trí đối với diệt trí, đạo trí là có hai duyên: Thứ đệ, oai thế, không có duyên nhân, không có duyên cảnh giới. Thứ đệ: Nghĩa là đẳng trí theo thứ lớp khởi diệt, đạo trí hiện ở trước. Oai thế: Nghĩa là không cùng tạo chướng ngại nhau. Không có duyên nhân: Nghĩa là pháp hữu lậu không làm nhân cho pháp vô lậu. Không có duyên cảnh giới: Nghĩa là diệt, đạo trí duyên với vô lậu, còn đẳng trí là hữu lậu.

Đẳng trí đối với pháp trí, tỷ trí là có ba duyên: Thứ đệ, cảnh giới, oai thế, không có duyên nhân. Nói rộng như trên.

Đẳng trí đối với tha tâm trí là có bốn duyên: Nhân, thứ đệ, cảnh giới, oai thế. Nhân là nhân tương tợ. Ngoài ra nói rộng như trên.

Khổ, tập, diệt trí đối với khổ, tập, diệt trí là có ba duyên: Nhân, thứ đệ, oai thế, không có duyên cảnh giới. Nhân là nhân tương tợ. Duyên thứ đệ: Nghĩa là khổ, tập, diệt trí theo thứ lớp khởi khổ, tập, diệt trí. Duyên oai thế: Nghĩa là không cùng tạo chướng ngại nhau. Không có duyên cảnh giới. Vì sao? Vì khổ, tập duyên nơi hữu lậu còn các trí này là vô lậu. Diệt trí duyên nơi vô vi, còn các trí này là hữu vi.

Khổ, tập, diệt trí đối với đạo trí, pháp trí, tỷ trí, tha tâm trí là có bốn duyên: Nhân, thứ đệ, cảnh giới, oai thế. Nói rộng như trên.

Khổ, tập, diệt trí đối với đẳng trí là có ba duyên: Thứ đệ, cảnh giới, oai thế, không có duyên nhân. Nói rộng như trên.

Đạo trí đối với đạo trí, pháp trí, tỷ trí, tha tâm trí là có bốn duyên: Nhân, thứ đệ, cảnh giới, oai thế. Nói rộng như trên.

Đạo trí đối với đẳng trí là có ba duyên: Thứ đệ, cảnh giới, oai thế, không có duyên nhân. Nói rộng như trên.

Đạo trí đối với khổ, tập, diệt trí là có ba duyên: Nhân, thứ đệ, oai thế, không có duyên cảnh giới. Vì sao? Vì đạo trí là học, vô học, còn các trí này duyên nơi phi học phi vô học.

* Các kiết thuộc cõi dục, kiết ấy là do pháp trí đoạn trừ chăng?

Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn khiến người nghi có được quyết định: Pháp trí có thể đoạn trừ kiết của cõi sắc, vô sắc. Tỷ trí không thể đoạn trừ kiết của cõi dục. Hoặc có người cho: Như pháp trí có thể đoạn trừ kiết của cõi sắc, vô sắc. Tỷ trí cũng có thể đoạn trừ kiết của cõi dục. Hoặc cho: Như tỷ trí không thể đoạn trừ kiết của cõi dục. Pháp trí cũng không thể đoạn trừ kiết của cõi sắc, vô sắc. Vì muốn cho nghĩa này được quyết định: Pháp trí có thể đoạn trừ kiết của cõi sắc, vô sắc. Tỷ trí không thể đoạn trừ kiết của cõi dục, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Vì sao pháp trí có thể đoạn trừ kiết của cõi sắc, vô sắc. Còn tỷ trí không thể đoạn trừ kiết của cõi dục?

Đáp: Vì pháp trí trước đã đoạn trừ kiết của cõi dục, nên có thể tiếp tục đoạn trừ kiết của cõi sắc, vô sắc. Còn tỷ trí vì trước không đoạn trừ kiết của cõi sắc, vô sắc, nên không thể đoạn trừ kiết của cõi dục.

Lại có thuyết nói: Vì tỷ trí chưa đoạn trừ kiết của cõi sắc, vô sắc, nên pháp trí có thể đoạn trừ. Do pháp trí đã đoạn trừ kiết của cõi dục, nên tỷ trí không đoạn trừ.

Lại nữa, nếu tỷ trí có thể đoạn trừ kiết của cõi dục, là đã đoạn trừ kiết của cõi sắc, vô sắc chăng? Hay là chưa đoạn? Nếu đã đoạn thì không có sự việc trước đoạn trừ kiết của cõi sắc, vô sắc, sau đoạn trừ kiết của cõi dục. Nếu chưa đoạn thì tỷ trí tức nên có sự chê trách như thế này: Kiết dục của cõi mình chưa đoạn trừ mà đoạn trừ kiết của cõi khác. Ví như quốc vương không thể hàng phục được nước mình mà muốn hàng phục quốc vương của nước khác. Tức có sự chê trách như thế này: Vì sao không thể hàng phục nước mình mà lại muốn hàng phục nước khác? Tỷ trí kia cũng như thế.

Lại nữa, vào thời gian có đạo tỷ trí, nếu như tỷ trí lìa dục của cõi dục, thì đến đạo giải thoát sau cùng, tỷ trí xuất hiện. Do không xuất hiện, nên không thể đoạn trừ kiết của cõi dục.

Lại nữa, pháp trí đoạn trừ kiết của cõi dục xong, đến đạo giải thoát sau cùng, thì tánh mãnh liệt, do tánh này nên có thể đoạn trừ kiết của cõi vô sắc, vô sắc ở trên. Tỷ trí đoạn trừ kiết của xứ phi tưởng phi phi tưởng, đến đạo giải thoát sau cùng, thì tánh mãnh liệt, do sức mãnh liệt nên muốn đoạn trừ kiết của cõi dục, nhưng kiết của cõi dục đã đoạn rồi.

Lại nữa, tà kiến có thể duyên nơi khổ, tập của ba cõi, tức trước đã đoạn trừ kiết, tiếp theo là cầu đối trị kiết đó và diệt, nhưng có thể khiến cho kiết của cõi sắc, vô sắc liền đoạn. Tà kiến của cõi sắc, vô sắc không thể duyên nơi cõi dục, vì không cầu đối trị và diệt, nên không thể đoạn trừ kiết của cõi dục.

Lại nữa, nếu là nhất thiết biến của cõi khác, có thể duyên với khổ, tập của ba cõi thì trước đã đoạn, sau cầu đối trị và diệt, nhưng có thể khiến kiết của cõi sắc, vô sắc liền đoạn. Cũng như vị quốc vương trước giết trừ giặc oán, sau cũng phá bỏ chỗ vui chơi của kẻ ấy. Pháp kia cũng như thế.

Lại nữa, pháp trí mạnh mẽ, nhạy bén, không dụng công nhiều, cũng có thể đoạn trừ phiền não bất thiện, vô ký, huống chi là phiền não vô ký. Ví như dao bén có thể cắt đứt sắt, huống chi là cỏ cây. Pháp trí kia cũng như thế. Tỷ trí không phải là trí mạnh mẽ, nhạy bén, phải dụng công nhiều mới có thể đoạn trừ phiền não vô ký, sao có thể đoạn trừ phiền não bất thiện. Ví như dao lụt phải dùng nhiều công sức mới có thể cắt cỏ, sao có thể cắt đứt được sắt? Tỷ trí kia cũng như thế.

Lại nữa, pháp trí như địch lại ngàn người. Thế nào là như địch lại ngàn người? Vì có thể đối trị mười tám giới, mười hai nhập, năm ấm. Tỷ trí thì không phải như địch với ngàn người.

Thế nào là không phải như địch với ngàn người? Là chỉ đối trị mười bốn giới, mười nhập, năm ấm, bốn ấm.

Lại nữa, hành giả vì bị năm ấm của cõi dục bức bách, như gánh gánh nặng, cầu mong đối trị năm ấm ấy, đến khi diệt chúng tức có thể đoạn trừ kiết của cõi sắc, vô sắc.

Pháp trí có thể đoạn trừ kiết của cõi sắc, vô sắc, là pháp trí của diệt đạo, không phải pháp trí của khổ tập.

Hỏi: Vì sao không phải là pháp trí của khổ tập?

Đáp: Hành giả bị năm ấm của cõi dục bức bách, muốn trừ bỏ gánh nặng, nên cầu đối trị năm ấm kia và đến lúc diệt chúng tức có thể đoạn trừ kiết của cõi sắc, vô sắc.

Lại nữa, cõi dục là cõi bất định, không phải là địa tu, không phải là địa lìa dục. Cõi sắc, vô sắc là cõi định, là địa tu, địa lìa dục, nên không thể dùng trí duyên nơi cõi bất định để đoạn trừ kiết của cõi định.

Lại nữa, cõi dục là cõi thô, cõi sắc là cõi tế, nên không thể dùng trí duyên nơi cõi thô để đoạn trừ kiết của cõi tế.

Lại nữa, cõi dục là cõi hạ, cõi sắc là cõi trung, cõi vô sắc là cõi thượng, nên không thể dùng trí duyên nơi cõi hạ để đoạn trừ kiết của cõi trung, thượng.

Lại nữa, nếu pháp trí của khổ tập có thể đoạn trừ kiết của cõi sắc, vô sắc, tức là ở nơi xứ khác, tu nhàm chán, ở nơi xứ khác được giải thoát. Ví như đoạn trừ sự trói buộc nơi tay thì tay được giải thoát. Đoạn trừ sự trói buộc nơi chân thì chân được giải thoát. Không phải đoạn trừ sự trói buộc nơi tay mà chân được giải thoát. Không phải đoạn trừ sự trói buộc nơi chân mà tay được giải thoát. Pháp trí của khổ tập kia cũng như thế. Nếu dùng pháp trí của diệt đạo để đoạn trừ kiết của cõi sắc, vô sắc, tất là người sinh nơi cõi dục, không phải là người sinh nơi cõi sắc, vô sắc.

Hỏi: Vì sao chỉ là người sinh nơi cõi dục, không phải là người sinh nơi cõi sắc, vô sắc?

Đáp: Vì tâm của phương tiện nhập pháp trí, xuất tỷ trí là pháp hệ thuộc cõi dục, do bỏ pháp ấy nên sinh nơi cõi sắc, vô sắc.

Lại nữa, cùng với pháp trí hồi chuyển thành là do bốn đại của cõi dục tạo, vì bỏ bốn đại đó để sinh nơi cõi sắc, vô sắc.

Lại nữa, pháp trí đối với đối tượng tạo tác của cõi dục đã xong, lại không tạo phương tiện, nên đối với cõi sắc, vô sắc không còn khởi hiện ở trước. Cũng như A-la-hán không còn khởi đối trị đoạn của ba cõi hiện ở trước. Pháp trí kia cũng như thế.

HẾT – QUYỂN 55