ĐÀM TÂN VĂN TẬP

Sa-môn Khế Tung ở Đông Sơn, Đàm Tân, Đằng Châu soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 17

THƠ CỔ LUẬT

(gồm 60 bài)

THƠ BA VỊ CAO TĂNG

(và lời Tựa)

Ở thời Tiền Đường, có ba Sa-môn Kiểu Nhiên, Linh Triệt và Đạo Tiêu, do đạo phong vang vọng đến Ngô Việt, nên có ca dao ngợi ca đó rằng: “Trú ở Tráp hay thanh tú, Triệt ở Việt như băng tuyết, Tiêu ở Hàng sát mây xanh”. Tôi nghe mỹ phong mà mến mộ người đó, nhân điều nói của ca dao, bèn làm ba bài thơ để nói rộng ý đó.

TRÚ CÔNG Ở TRÁP HAY THANH TÚ

Trú Công văn chương thanh lại tú
Thời cùng tài đó chẳng thể đấu
Tăng làm văn thập từ xưa có
Ra bạt phải tôn Trú đứng đầu.
Tạo hóa tuy dời, Thần chẳng đổi
Trú Công làm thơ tâm cũng vậy
Trên đạp tao nhã, dưới lẳng sàn
Khéo nghĩ tung hoàng Đạo tự toàn
Thiền Bá sửa văn đâu nhọc vậy
Dụ dẫn tâm người thông Phật lý
Quan lại tiên sanh bạn Lỗ Công
Sớm theo thanh du mến phương ngoài
Người đó đã đi, lời còn đó
Hộ pháp đáng nên để muôn đời!

TRIỆT CÔNG Ở VIỆT NHƯ BẢNG TUYẾT.

Thanh của Triệt Công như băng tuyết
Bẩm chất cao tăng khác biệt người
Tuổi vừa ba mươi thơ đã xuất
Tên ở bạn Thơ tâm ở Luật.
Chẳng khác Huệ Viễn khác Huệ Hưu
Kiểu Nhiên chưa hợp ai cùng bạn
Mây trắng tiêu tan nào định dừng
Chợt vào Quan trung hỏi Bao Lý
Riêng Thanh khó vũng nhiều ngại trở
Đến cùng không tội trong chẳng nói
Cây đẹp giữa rừng gió hẳn lay
Triệt Công ôm đức thành thai họa
Người xưa đã qua chẳng lại than
Vì vậy làm thơ để cho đời.

TIÊU CÔNG Ở HÀNG SÁT MÂY XANH.

Cao của Tiêu Công sát mây xanh
Tại Đức đâu tại nơi trầm lắng
Một am chót đảnh riêng sâu thẳm
Chống vết tiêu nhiên chẳng vào tục
Có lúc trèo vượt ngằn mé nhìn
Chẳng nghe nói đó vọng trời reo
Đang lúc Lục Vũ việc u xét
Từng vào mây xanh dự nghe Đạo
Dùng mưa cứu hạn xua thần Rồng
Đó cùng nhân gian việc đâu đồng
Cơ ngầm cảm dị mầm mống tâm
Công đây sở dĩ xưng Đạo Tiêu.

TIỄN ĐƯA BÍ THƯ CHƯƠNG BIỂU DÂN.

Một ngày Phu Tử đến sơn thùy
Hỏi rằng ly biệt đi đến đâu?
Thanh trần Úy cũ cũng đều đến
Ít xe nhẹ mang sáng lục ly
Vào cửa nhìn ta nhan sắc đẹp
Dưới rừng vén ào cùng tìm theo
Cười ngạo phóng tứ ý khí hào
Ngẫng đầu bất chợt bạch nhật soi
Phủi giường nghĩ lại đêm hang núi
Chăn giấy chiếu Bồ thật đáng tao
Chẳng tính phong ước chỉ vừa đẹp
Duy duy không nói cùng chống trái
Bấy giờ giữa tháng Hai (02) Xuân hòa
Trọn đêm rực sáng xem thường lạnh
Cao đàn giao phát nhã hứng hợp
Như bình trút suối tranh lâm ly
Khoảng khắc thúc chiếu đề ngôn chí
Nhả ngay niềm nỗi khua thuần từ
Tâm người chẳng động có như mặt.
Bình sanh mỗi tự có chỗ làm
Biểu Dân thốt nhiên đến chiếu thẳng
Nói tôi có chí người chẳng hay
Mạt tục thiển cận sao đủ nói
Ngậm men chưa nhả than thở dài
Thuở nhỏ theo thầy học kinh điển
Chẳng đầm lành lá cùng cội rễ
Đạo của Đế Vương, đoán khá biết
Ân bàn Chu Cáo không lại nghi
Sự nghiệp xưa nay quý vừa dùng
Văn ý thuật làm phải có khuôn
Đâu loại trẻ con không giũa khắc
Bánh vẽ chẳng thể trừ đói sáng
Mười lăm năm chăm việc văn tự
Mài cọ bút nghiên tinh thần bải
Thiên dài pho lớn rộng vô số
Khảng khái chỉ muốn giúp chính trị
Năm trước bổ Lại đến chiết hữu
Cục chuyên nhũng tục chẳng thể trông
Ôm hoài muốn so Vương Bá lược
Cưỡi ngựa bắn săn chẳng hợp nghi
Tiền Đường phủ lớn nhiều Quan đạt
Phẩm trật cùng sánh ta thấp cùng
Mạnh Kha riêng phụ khí Hạo nhiên
Ai hay vén áo rủ may dài
Trượng phu quý trọng dùng Đạo tiến
Mây xanh muôn dặm phải tự rong
Than ôi! Nhìn ta Hồ làm đó
Đành làm cửa che làm thân giúp
Bèn làm tạ bệnh xa dẫn đi
Vội mang trâm dãi cùng sai thành
Giao tây Đổng sanh tạm đáng mến
Dưới chướng khắc khổ cùng thi thư
Nhàn cư rơi chớ lắm cảm kích
Chỗ cảm thời chính sanh tỳ vết
Tôi hèn ôm tiết riêng tự sánh
Làm sách muôn chữ ném sân chầu
Lính trời hang sâu tại Tây bắc
Dẫn lên đãnh trông mây tan tạnh
Đức âm trọn chẳng xuống báo đền
Tỏ bày gan mật không khạt nhổ
Than thôi !Tôi sống thời mạng sai
Chẳng gặp phải thời đành ẩn dật
Trùng sâu rồng rắn chịu lui khuất
Muôn vật không thời phải tự vui
Nhà tôi ruộng vườn ở phía Nam
Cũng có khe núi tên Võ Di
Suối ngọt đất tốt đáng gieo trồng
Về cùng lão nông chuyên cày bừa
Tôi cùng cảm đó nghe lời ấy
Tinh thần bay động kinh rung má
Mưu sâu tính xa chẳng thể lường
Mênh mông không đáy trời không bờ
Trước ngạch chốt cửa khách vô hạn
Kề vai đạp gót tranh từ trước
Ăn no mặc ấm tứ khí đẹp
May bạn rành rọt hay như vậy
Xin ông đến trước cùng Quân nói
Nào hẳn khinh ngại phiền chăm chăm
Thóc tốt đông thâu nhậm bút phát
Các vật tốt tươi có bệnh chậm
Chẳng nghe Y Duẫn ngũ can Thang
Đạo của Nghiêu Thuấn mới được hành
Hiền Kiệt khinh thân trọng thiên hạ
Đâu khiến cấp cấp tạo riêng ấy
Huống đang Di Địch khinh Trung Hoa
Giẫm xéo hai bỉ phiên da đất
Tướng quân xét giết khổ chưa khắc
Muôn vàn Sư Lão nhọc biểu dương
Năm tốt năm xấu lại xen làm
Gió mưa sương tuyết chẳng phải mùa
Thiên Tử chăm chính chẳng rãnh ăn
Cũng đợi tài năng cùng giúp đỡ
Ở trên Miếu đường có Quân tử
Thông minh đâu chịu nhiều cao quý
Cầm nắm Đạo công tôn Đại tượng
Chọn độ quê nhà yên sâm sai
Mến ông làm người tánh thông đạt
Chẳng vì giáo đó cùng bới móc
Gặp gió trăng thanh ngàn dặm biệt
Chúc Từ đâu sợ khuynh gan mật
Người tục khéo hủy ít vui thiện
Tên tốt Tiết thanh chớ khuyết mất
Triều đình nếu hỏi sách Bình Tân
Hiền Lương nhất ông, chẳng ai bằng.

Ý XƯA (có năm bài)

BÀI MỘT

Gió đùa vừng mây trôi
Mưa xuân bay nhè nhẹ
Uống rượu dưới rặng tuông
Bẻ cành thông làm gậy
Chống đỡ qua giá băng
Trong tay không một vật
Cốc sâu không người lại
Chiều tà ý ai hay!

BÀI HAI

Ông chớ cười Chi Hứa
Tịch mạc chẳng ngu rõ
Ông chớ khinh kệ nguyễn
Núi rừng có thanh hứng
Người sống trong trăm năm
Vui ít buồn có thừa.
Muôn sự đầy ngắn dài
Không như khiến Đạo thắng
Đó không sĩ ngạo đời
Cao đạp móc Danh xưng
Chỉ tạ duyên trong vức
Cam lòng gá bậc đá
Lắng không bạch nhật bay
Thế sự trọn không ứng
Chẳng như xét thành đó
Tự nói và tự tặng.

BÀI BA

Thong mây thấy đôi chim
Cao bay dắt nhật nguyệt
Lông cánh rực văn chương
Liệng quanh khắc ứng cốt
Chợt nhiên xa ngàn dặm
Trọn chẳng nhìn rừng Việt.
Gió Xuân thổi lan tràn
Lông cứng lại vút nhanh
Du hiệp tử trên bờ
Nhìn trông nhọc thương tốt
Tuy có cung tên vàng
Ngắm nghía không dám bắn
Nhân biết vốn kỳ dị
Tự giữ dài vượt qua
Xoay nhìn đàn sẻ vàng
Nên làm chuyển bụi trần.

BÀI BỐN

Kham làm mấy nỗi cao
Lướt trời che trăng sao
Thà làm Lan Huệ ẩn
Trong cỏ tự thoảng thơm
Tự đủ là phần trời
Chưa cần Hư linh ấy
Bít che nơi xấu ác
Nên làm lâu dừng dùng
Xưa nay Sĩ thông đạt
Sao vết lắm ẩn mờ
Núi rừng tiếc lớn quá
Tàng Dụng cũng tàng Hình
Ngu cốc không thể kịp
Thẳm sâu lại tự yên
Ôi! Tôi cũng tham thế
Núi chẳng dưỡng tuổi già

BÀI NĂM

Cùng phẩm gặp cụ già
Trao tôi một quyển sách
Rừng sâu gặp người
Thẩm Cho tôi Búa với Bừa
Búa bừa cũng sao làm
Dạy dưỡng cùng thảo mộc
Hoang nế hẳn phải cắt
Khiến đó tốt tự nhiên
Trao sách muốn sao làm
Dạy đó tâm và Thân
Học hẳn trước chánh mình
Tự trị mới thừa ngoài
Ý đó có dạy tốt
Mang đó chưa từng trừ
Làm sao người dặn dặt
Tự lầm muốn phải từ
Cùng tập thành bạc tục
Đức mọn ôm chiếu trúc
Tôi chọn đó nhờ nói
Cậy ông làm truyền lan.

ĐẾN LONG SƠN PHỎNG TÌM ĐẠO SĨ LÝ TIÊN SƯ.

Nhật xuất đồng trống sáng
Chỉnh túc tìm Đạo Sanh
Man mác đi ngoài hồ
Tan đản bên mây bước
Thu cao bầu trời sạch
Lá rụng bay tung hoành
Cưỡi gió qua đãnh rừng
Chuyển thấy áo đầy nhẹ
Lúc nghe giữa thăm thẳm
Gió vút vang tiếng Hạc
Biết cùng nhà Tiên gần
Qua Tư lãnh trong sáng
Phút chốc chuyển cốc sâu
Phủ tía đồng cỏ phẳng
Tiên Đồng chạy chân báo
Tùng tử lại cửa nghinh
Tiếp áo nói lại cười
Vui chỗ chẳng tục tình
Má son người chưa giá
Đạo mạo trời đã thành
Mở chiếu bày Hạt ngọc
Bàn thức ăn tía ánh
Buộc ràng tợ bạn cũ
Rượu rơi hoài bảo khuynh
Xế chiều nhẫn bảo đi
Bồi hồi tựa gian núi
Muốn có trùng tìm ước
Lại lo biến cao danh.

CẢM NGỘ. (có chín bài)

BÀI MỘT

Nước Biển đêm tối trong
Sắc thu dung Hồ bồng
Có hai Long Công già
Lưới sắt trải San hô
Gió mây rộng dung cùng
Buồn bã vẽ nơi nào
Muốn hỏi người trên trời
Vén được Trăng sáng không.

BÀI HAI

Tiên nhân kinh Bạch Ngọc
Đi đi sao xa tít
Lầu Quỳnh mười hai tầng
Lung linh nổi ngoài mây
Bạc nhuốm Trăng làm sóng
Muôn khoảnh tức ao cong
Thu lại cung điện sáng
Rạng ngời khắp nhân gian
Trời trong không mây gợn
Ráng khói chim xanh nhỏ
Thấy được không đến được
Chỗ nghĩ không mịt mờ

BÀI BA

Lo thay! Dương cầm kích
Biết xa tài tuyệt kỳ
Mới đề bút thảo huyền
Rất làm chỗ người cười
Trác trác đạo Khổng Mạnh
Tạ bình hiểm hý đó
Gương ngọc ngâm u quang
Ngàn năm mới tươi tốt
Gởi nói Sĩ khoảng hoài
Chưa đạt thôi than thở
Tâm mong Đạo tự quý
Thói tục, thế sao tùy
Núi xanh giữ lớn qua
Bạch nhật trong đáng nhìn
Nêu cao tạ Tùng Bách
Cô phương tháo chẳng dời.

BÀI BỐN

Thiên oai nói chẳng đến
Can qua động biên bỉ
Tướng Quân ra oai mạnh
Anh hùng thế nổi thao
Rối ren ra du quan
Chỉnh nghiêm trong sắc thu
Ngựa trắng xung mây vàng
Sương thanh gắng nghiêm chỉ
Trẻ mạnh cánh rừng non
Chuyên hay chớ lắm mừng
Khéo võ nào Tâm ông
Dùng binh chẳng đặng đừng
Gởi lời đến Tướng Quân
Chước khéo nên không sánh
Chí còn báo ân Quân
Đâu làm vàng ròng chết
Trượng phu thân nước nào
Khảng khái đang như thế
Thà dạy Thái sử thư
Khinh cười Lỗ Liên Tử.

BÀI NĂM

Mênh mông giữa đất trời
Tỏa sáng xử thế nào
Từng nghe người xưa cổ
Chưa thấy vầng nhật dừng
Tài ngầm mây Yêm tư
Lại bên cây Phù tang
Sắc núi buồn trong tối
Hình trời sáng trong mộng
Sao biết mục Thiên tử
Rồng ngựa thần làm ngự
Muôn dặm chóng cưỡi gió
Lại theo Diêu Đài đi
Vượt xa bạn Thần Tiên
Lý đó đáng thế nào
Chẳng hướng Nghiêu năm dài
Trọn khiến ở nhân gian.

BÀI SÁU

Mão lọng khách xử nào
Lướt mây ý bay cưỡi
Sớm sớm đến Song khuyết
Xung xung qua cầu Vị
Vàng ngọc ngoài mây hưởng
Họa đuốc đốt trong trăng
Xa tít đi đường trời
Vọt bay tại Ngọc tiêu
Làm sao trong khu Vũ
Chóng cùng xa nhân gian
Lớn phủi xiêm lụa đi
Chầu dưới Điện Minh Quang
Một cúi lại một ngưỡng
Vinh nhiều buồn cũng lắm
Tóc bạc bên cổ dài
Sắc son trong gương lạnh
Đâu biết dưới Tùng cối
Người ngầm dài vắng vẻ
Muôn sự lắng không lo
Buông nằm ngâm nga dài
Mênh mông giữa đất trời
Ai hỏi Hy, Hoàng, Nghiêu?
Gặp một gió lành thổi
Sao làm Thiên tử cao

BÀI BẢY

Giữa trời lắng khói xa
Sắc tạnh ngậm cảnh thu
Nghĩ ông mỗi bàng hoàng
Chăm nhìn đảnh Thiên phong.
Trăng sáng mới vừa tròn
Khá soi bóng mỹ nhân
Mỹ nhân lại không đến
Mây ráng xa núi rừng

BÀI TÁM

Đất Tùng Bách linh thiêng
Cỏ gai đồng tươi tốt
Mong được trong khu vức
Tâm người lại thuần tố
Ngô xanh cối kê mát
Không lại có lăng mộ
Lục Hợp không biết âm
Núi xanh có đường về
Nhân sanh tiếc chu nhan
Hiền chiếu lớn cùng trông
Đêm qua sương đài hoa
Ai chẳng oán chiều thu.

BÀI CHÍN

Chợt nhiên Nghiêm Tử Lăng
Xa lớn vắng rỗng khí
Nên người quý làm Quân
Ngựa trắng cần chẳng đến
Đắm nhàn luyến đầm biếc
Cao vượt lộng bánh thơm
Núi xanh nổi mây trắng
Muôn xưa ngụ ý cao
Hầu Bá không biết Đạo
Mới đầu chí hiềm ngạo
Việc gì thấp Vương Hầu
Tâm đó vượt trời đất
Nhân thương gìn giữ bạn
Sao làm thế cậy quyền
Rão chơi giữa giáng quán
Bẻ tiết xếp quanh co
Rực rỡ Hoàng Đạo xưa
Nhọc sống tự nó buộc
Chẳng như về đi lại
Nhân gió phủi áo dài.

NHỚ CÁC KHAI SĨ NGẦM Ở NÚI KIÊM THỊ – VIỆT TRUNG

Nhàm thấy cảnh người náo
Lặng đi nhớ Linh Việt
Đông nam ngàn dặm núi
Xanh nổi đầy lắng chìm
Theo lại cảnh trong kiếng
Hình thắng tuyệt nhân gian
Trăng lặng vén khe nga
Mây nổi che huyệt sách
Mỗi một tơ phiêu bồng
Vội cùng người xưa biệt
Thước lụa chưa kịp thông
Cỏ thơm đã bảo hết
Buồn thay! Đường đi khó
Cúi ngưỡng tôn sanh tiết
Hạc kêu muốn về Đông
Gởi lời tạ trăng sáng.

NGÂM THU SỚM

Đêm qua ở núi Phòng cửa lạnh
Ngô Đồng một lá nơi giếng vàng
Trời cao như nước sạch chứa mây
Trăng sáng ngậm tỏa biến cảnh thu
Cành Quế hoa gãy gió vút bay
Ai trên lầu cao thổi Tiêu ngọc
Nhân gian chẳng thấy dạng lên trời
Trên trời sắp thấy chim làm cầu
Tuổi trẻ người đi ở xứ nào
Sương trắng đượm áo chưa về đi
Bờ biển nay không nỗi nhà mẹ
Giang Nam ai cùng Vương tôn gặp
Bồi hồi dưới trăng rỗng ngâm dài
Tôi nhọc tự xưa khó biết âm
Muốn lên Đài cao hỏi trăng sáng
Trăng sáng sao chẳng rọi tâm người!

CÁC HIỀN GIẢ NGHỈ ĐÊM Ở NÚI, PHÚ VỊNH ĐƯỢC MÂY CHIỀU DƯỚI HANG.

Gió nhẹ lắng rừng sao
Vầng nhật xuống hang núi
Ánh trăng nhô đã tròn
Mây trắng về chưa lắm.
Cao ứng bạn khỉ hạc
Sâu chẳng tối lưới tùng
Như chẳng làm lâm khứ
Đó như hạn năm nào.

CHIẾT GIANG CHIỀU TRÔNG

Sắc chiều nhìn không ngằn
Chiều không nước lộn trời
Cánh buồm chim bay ngoài
Trăng non rơi bên sóng
Cách Việt hình núi nhỏ
Nuốt đất Ngô thế lệch
Mấy người già qua lại
Sớm chiều đến đầu Thuyền.

ĐỀ CHÙA KÍNH SƠN

Xanh phủ ngoài các núi
Liền trời thế chưa thôi
Mây mờ đường chim bay
Mưa ra ao Rồng cổ
Tăng nhập định trong mây
Hương thơm hòa quyện tỏa
Người đời được chẳng đến
Đài Điện tự thu thanh.

LANG THỊ LANG TỪ QUAN

Lúc bình riêng cao tạ
Đạo chẳng muốn ngầm sáng
Tóc bạc từ minh chúa
Núi xanh mến quê nhà
Ruộng thuốc dung Hạc đến
Ngâm tắc sợ mây tàng
Lại chuộng nằm rừng Thiền
Đến giờ phẩy giường đá.

TẢO MAI TRONG NÚI.

Dừng dừng rừng cảnh chiều
Rỡ rỡ ra đầu rừng
Vườn nhỏ liền mây đượm
Cỏ thơm xung tuyết lạnh
Nhân gian rất chưa thấy
Vật ngoài nhìn trước tiên
Chỉ muốn ngọc Phương Quỳnh
Sao sắp thắng mẫu đơn.

BƠI THUYỀN KHE NHÃ DA

Vượt nước cưỡi Xuân nổi
Cửa thuyền đóng lại mở
Núi đẹp men bờ đi
Chợt mưa rơi hoa lại
Bờ ảnh Tiều phu qua
Tiếng ca gái tắm về
Mênh mông không hạng ý
Trời chiều lại lo thay.

THƯ MAO CÓ ĐÌNH CHƯƠNG VIÊN

Mến vườn rừng đây đẹp
Trùng điệp cây hoa tươi
Người chơi say quên bước
Chim lắng hót không ngơi
Khói tỏa liền cỏ thơm
Hồ xuân nổi ao biếc
Tùng tre không tục vận
Du tử đầy cùng mong.

SƠN ĐÌNH CHIỀU XUÂN

Sơn đình chiều tĩnh lắng
Rừng đá tự hiểm hóc
Chó đi sủa người nói
Hoa bay mặc chim ngâm
Tạnh khói xông cỏ tốt
Trời lặng ngọn sam cao
Lại vui Trăng đầy tròn
Sáng trong dưới núi biếc.

TỰ TẶNG

Ngồi lắng lại nhìn trúc
Đi nhàn cũng hợp tiều
Đạo tâm nên hiện có
Sanh sự hợp chẳng buồn
Khách đi thiếu thành đàm
Năm đến tóc bạc nhiều
Tràn đầy chi theo bút
Nhàn rỗi thú tiêu dao.

NGÀY HẠ KHÔNG MƯA

Trong núi khổ không mưa
Ngày ngày trông mây mống
Hạn nhỏ lại hạn lớn
Khe sâu thành khe cạn
Suối khô liền đáy giếng
Đất nóng quá luống rau
Không đem hỏi ý trời
Không nghĩ chim nước kêu

GHI NHỚ CUỐI NĂM.

Gió bấc vừa đổi lạnh
Sớm mai sắp ngậm sáng
Nước Nam lại chưa về
Đông Sơn năm đã cạn
Phù sanh ngầm lại qua
Dáng đẹp sao được dừng
Gởi tạ người thế gian
Phân hoa rất đáng ngộ.

ĐI SỚM TRONG NÚI

Trước núi qua đêm mưa
Riêng bước bộ bùn xuân
Ráng trời gần ló dạng
Gà gáy canh nhà nông
Khói lễ nỗi nơi đi
Đồng trống nhìn trông xuống
Còn mừng gặp Tiều Phu
Cùng dẫn qua mấy suối.

CHIỀU VỀ TRÊN HỒ.

Nhân gian bạc du bải
Về hướng tìm ẩn cũ
Bờ xuân đi chưa cùng Tịch
Dương nhìn muốn hết.
Khí sáng ngằn núi nhạt
Cảnh trời bên nước gần
Tự thương sâu lắng thật
Ngâm thanh lại kéo dài.

CUỐI XUÂN GỬI BẠN SANH

Trên hồ ngày không khói
Nhân gian lúc Hàn thực
Râm tạnh Xuân biến đổi
Hoa trắng hầu khó bằng
Chưa sợ Thanh oa loạn
Trước buồn quyết tía suy
Mây núi hướng dần nóng
Cùng hỏi chớ nên chậm.

GỬI NHỚ THIỀN SƯ NGUYỆT Ở NÚI LẶC ĐÀM.

Nghe nơi Thiền Đạo An
Rêu sâu mờ cách khe
Thanh viên phát trong đình
U điểu gá bên tòa
Mây ảnh chầu trưa biệt
Đảnh núi xa gần bằng
Không biết ai hỏi pháp
Tuyết đêm xuống Giang Tây.

TIỄN ĐƯA KHÁCH VỀ BẮC KHUYẾT, LÀM GIỮA ĐƯỜNG.

Bắc Quách tiễn Dương Tử
Nhật liệu về ở xưa
Đường lầy gần sáng nhuận
Trăng mờ bức xuân thừa
Tang Đố trong mưa biếc
Người khói thông ngoài ải
Y nhiên thấy phong tục
Về hứng lẫn Tiều ngư

THƯ VẬN VÔ BIỆN ĐẾN THỪA THIÊN TÁI MẠNG.

Chở mạng về cao nhường
Biết chỗ ông đến sâu
Núi xanh đáng chỗ ẩn
Tóc bạc muốn gá tâm
Lại đợi gặp mưa mơ
Nào ngại qua Hổ Lâm
Lừ đừ hợp khe nước
Tháng sáu đủ thanh âm.

SƠN XÁ CHIỀU VỀ.

Chiều xuống về Tinh lô
Bước chậm không chỗ đều
Trời lặng trăng lại sáng
Núi không nước lại lắng
Phảng phất nghe chuông vọng
Chợt nhiên tại non Tây
Lời gởi người cao đời
Lại đây tạ cảnh trần.

ĐỌC SÁCH

Đọc sách Lão làm gì
Thay đọc hãy che mắt
Ý đó tuy Đằng nhàn
Tình cao gởi vô hạn
Giũa mài Tâm ngàn xưa
Vụt lại đói quên cơm
Không biết mây trắng trôi
Xuân lắng chiều trong núi.

TIỄN ĐƯA LÔ ẨN SĨ VỀ LÔ SƠN.

Việc đời tợ xoay quanh
Phải quất trọn chẳng cùng
Tham đó về núi sâu
Mặc người chê tiểu ẩn
Hoàng Hạc bay đã cao
Mây trắng cách chẳng gần
Tiếng trời kề tịch mạc
Đảnh nào đùa thanh chẩn.

TÚC SỰ VỀ LẠI NÚI NAM BÌNH.

Tuổi già về lại Thạch thất lạnh
Tùng rêu sầm tịch tự bàng hoàn
Chỉ biết dưới rừng qua một năm
Không thấy nhân gian muôn việc khó
Ở ẩn có thơ đề Thạch Ký
Giải đùa không nói cùng thời xem
Tâm đây đã cùng không sanh hợp
Thân tợ mây trôi chẳng hẳn nhìn.

VÀO NÚI THẠCH BÍCH

Thân tợ mây nổi tuổi tợ dòng
Nhân gian quấy nhiễu chỉ nên thôi
Già lại đã quen La tử xanh
Ẩn đi nên tìm Đạo du bạc
Thẳng vào loạn sơn sao tĩnh đường
Định nhìn lá rụng mới hay Thu
Lúc nào cửa cốc người cùng gặp
Chớ hỏi chọn thơ tạ Ngũ Hầu.

TỰ VUI TẠ CHỖ BIẾT TRONG NÚI

Muôn sự tùy nghi chớ gượng vin
Tạm qua Triều chợ xoay về núi
Nhọc sống chưa hẳn danh nổi đẹp
Xứng tánh nên phải đến chỗ nhàn
Đều tợ trong mộng thôi hỏi ảnh
Chỉ kham ngâm lý đổi dáng vui
Đạo ở Tương Dương sao biết vậy
Khỉ Hạc tiêu nhìn Thạch thất nhàn.

GỬI THỪA THIÊN NGUYÊN LÃO

Thanh tán năm lại việc càng nhàn
Chẳng luận dưới rừng với nhân gian
Tâm Thiền tỏ rõ không ồn lắng
Mặc khách nào ai lại viếng thăm
Thanh Hiên đá đẹp thêm thắng thú
Suối chảy tòa biếc rọi thân gầy
Chi hình thoát lược thời có lắm
Nên cười về lại lìa mua núi.

GHI RĂN

Ngâm cao trông xa tựa thang mây
Việc cũ qua Tâm thảy đáng bày
Đạo đức hai thiên nhọc tự biện
Phải quấy một ngựa đâu ngang bằng
Ngọc thất núi sáng thương kinh lửa
Rắn linh mất nước sợ ở bùn
Gửi lời minh hồng vút trời bay
Lướt mây lông cánh chớ nghĩ cúi.

NGUYÊN NHẬT (Ngày mồng một tết).

Trong tối xuân giục bày sắc sáng
Trăm gà chào nghinh gáy tiếng mới
Đêm lạnh còn trong sâu Rồng rắn
Lịch tàng mới bày ngày tháng nghinh
Lá Huyên bốn mùa nay mới phát
Hoa mai một sớm chiếm khoe xinh
Sơn gia xin chúc ngày Nghiêu thọ
Mạn học Trâu núi báo thái bình.

BIÊN THUẬT SÁCH XONG, NGHĨ TRỞ VỀ NAM, GẶP KHÁCH TỪ PHIÊN NGU ĐẾN, NHÂN PHÚ THƠ NÀY.

Thường trước viết sách nay tạm thôi
Về Nam trọn muốn ẩn La Phù
Đầu xuân chợt gặp ông quê cũ
Trọn đêm khoe nói đi biển khơi
Chỉ Quý Dương thành phong vật đẹp
Đâu từ Mai Lãnh đường hiểm tu
Nên phải chung cùng bàn Hồng cát
Chống vết núi rừng tiễn bạc đầu.

RIÊNG THƯỞNG SUỐI LẠNH, GỬI XUNG HỐI THƯỢNG NHÂN.

Gió Nam dậy sóng nước khe đầy
Trong núi kẻ ẩn lại tắm rửa
Riêng đứng bên khe thanh hứng thật
Lại thích dòng suối cỏ thơm non
Bình sanh ẩn xét quý tiêu tán
Thế Đạo rối ren nào đủ tính
Tháng năm (05) nhân gian hạ mây nhiều
Cùng ước về lại ông chớ yên.

KHIỂN HỨNG TAM TUYỆT.

Quá hứng phải nên học Kiểu Nhiên
Đời này rưới rửa lão thơ Thiền
Nào phòng thừa được câu kinh người
Vịnh khắp núi sông một muôn thiên
Lấn ép đạo tôi mọi việc sai
Mà nay không kế cấm sóng dần
Theo người đùa pháp thành lưu tục
Chỉ khóc sách vàng vậy làm sao.
Năm trước tạm dừng chùa đầu sông
Nay cùng tăng lữ ở núi rừng
Chớ bảo thân này không vết định
Nhân sanh đều loại một lục bình.

GHI CHÙA LỤC HÒA – NAM SƠN.

Thông xanh cây ngọc tiếp khe sầm
Đài các vút cao đất trải vàng
Đi đến mây trắng nối trùng điệp
Tiếng nước vận trùng nhạt tâm người.

TRONG MƯA NGÀY HÀN THỰC.

Man mác mây giăng tạnh lại râm
Hoa đồng rũ ướt chiều trầm trầm
Người đi chớ oán trời mưa lắm
Huống ở Đông Cao Xuân đã sâu.

DẬY SỚM.

Cửa trời trăng qua sao lác đác
Khoảng rèm mờ phân mây yểu điệu
Sơn gia sâu thẳm không gà gáy
Tới giờ quạ lạnh báo sáng ngày.

ĐỐI CHIM KHÁCH.

Nằm yên chợt kinh chim khách nhiều
Khoảnh khắc thật có cố nhân qua
Trong núi rõ lường toàn vô sự
Hỏi đó miên man đâu nói gì.

GỬI NGỘ XUNG MAI.

Tuổi già cùng thăm mắt càng xanh
Nhớ ông nghĩ thơ khổ nhọc mình
Nhân gian lại có vô cùng cảm
Khéo nắm cửa Thiền giữ tánh linh

RỬA BÚT.
Người xưa tin văn tự
Chữ chữ từ đây ra
Tâm Thiện hạ chẳng khinh
Đó cũng có âm chất
Rửa đây để trẻ con
Nhớ đó chưa nên mất.

ĐẾN NÚI ĐẠI TỪ, GHI Ở VÁCH TƯỜNG CỦA TRÚ THƯỢNG NHÂN.

Trong cốc chùa Xâm Vân
Tìm vào đến nơi sâu
Xuân qua hoa lạnh nở
Người lại chim hót bay
Đâu mang khách thảo am
Về chiều cùng gặp đây.

THANH KHÊ

Chớ bảo Thanh Khê trong
Lớn như kiếng mới rửa
Phải phòng dung tạp vật
Dơ trong đó đến đáy.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19