TRUNG QUÁN LUẬN SỚ
Thích Cát Tạng biên soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 8

(Phần 1)

PHẨM NGHIỆP THỨ MƯỜI BẢY

Phẩm này vì năm hạng người mà có:

1/ Bộ Hữu ngã: Có người, năng tạo nghiệp, nghiệp được quả. Có người làm, có người thọ. Vì phá chấp này, nên có phẩm này.

2/ Bộ Vô ngã: chỉ cho rằng có thể của nghiệp, năng cảm quả.

3/ Bộ không có “người”, không có “pháp” của Tiểu thừa cũng biết nghiệp là không, chỉ là phân tích pháp, nói về “không”.

4/ Tà kiến Phương Quảng cho rằng không có nghiệp quả.

5/ Người học Đại thừa không có đối tượng chứng đắc, khiến họ tiến hành. Vì sao? Vì pháp chấp khó dứt trừ, như nói rằng: “Sơ địa vẫn có pháp, ngã chấp, cho đến Bồ-tát Thập địa vì thấy pháp có tánh, nên nhận thấy Phật tánh không rõ, cũng nói vì ở Thập trụ, nên thấy Phật tánh không rõ ràng.

Lại, ý của phẩm này có chung, riêng:

Nói chung có bốn:

1/ Luận này trải suốt pháp, nói Trung đạo, phát quán trong nhân, dập tắt các phiền não.

Nay, y cứ môn nghiệp, nhằm biểu thị rõ Trung đạo, nên bài kệ dưới nói rằng:

“Dù “không” mà không “đoạn”, “Dù “hữu” mà không “thường”.

Văn xuôi giải thích: “Về nghĩa mà luận này đã nói, vì lìa “đoạn”, “thường”, nên biết vì y cứ nghiệp để nói về trung quán, nên nói phẩm này.

2/ Các kinh Đại thừa đều nói về nghĩa sám hối, chuyển nghiệp. Như phẩm Sư Tử Hống của kinh Niết-bàn nói: “Tất cả các nghiệp đều không có tánh nhất định, chỉ có ngu, trí: người ngu thì cho nghiệp nhẹ là nghiệp nặng”, “không” mà thành “có”; còn người trí thì chuyển nặng thành nhẹ, “chuyển” “có” thành “không”.

Nay, nói nếu chấp nghiệp quyết định, thì là kẻ ngu; như phẩm này quán nghiệp, gọi là người trí.

Kinh Phổ Hiền Quán nói rằng: “Tất cả biển nghiệp chướng đều sinh từ vọng tưởng, nếu người muốn sám hối thì ngồi thẳng, nhớ nghĩ thật tướng. Từ vô thỉ đến nay, chúng sinh đã khởi nghiệp sáu đường vừa sâu, lại lớn, nên ví dụ nghiệp như biển. Vì thế, nếu không phải quán thật tướng, thì không do đâu mà diệt được nghiệp.

Nay, phẩm này quán nghiệp, tức là thật tướng, nên có thể diệt trừ nghiệp chướng, thành ra nói phẩm này.

3/ Nội, ngoại, Đại, Tiểu dù đã lập nghĩa các nghiệp, nhưng đều không thành, như Tu-bạt-đà-la cho rằng: “Quả báo của chúng sinh đều do nghiệp dĩ vãng, không có duyên hiện tại:

1/ Ni-Càn Tử nói: “Tất cả các nghiệp chắc chắn sẽ thọ báo. Nay, dù tu đạo, nhưng không thể dứt trừ được nghiệp.”

2/ Như phái Tát-Vệ chấp ba đời là “có”. Chúng sinh chưa tạo thiện, ác, nhưng vị lai đã có nghiệp thiện ác, lại hai nghiệp thiện ác dù đã dứt, nhưng thể quá khứ, sau cùng vẫn có.

Như thế, gọi là đã khởi lên trong môn nghiệp, quyết định có chấp họ không biết rằng, bản tánh của nghiệp này, tự nó là không, nên không biết Đệ nhất nghĩa đế, cũng không biết nghiệp như ảo thuật, chiêm bao, nên cũng mê thế đế.

Nay, phá hai đế này, vì không thuộc về nghiệp, nên nói là phẩm Quán nghiệp.

Phái Thành Thật dù biết nghiệp là giả, mà phân tích nghiệp được “không”, cũng làm hư hoại thế đế, đã phá hoại thế đế, cũng hoại chân đế.

Bài kệ dưới nói: “các nghiệp vốn bất sinh, vì không tánh có nhất định, nên các nghiệp cũng không diệt. Vì nghiệp kia không sinh, há có thể phân tích nghiệp, thì nghiệp mới “không” ư?

Nay, người phá những nghiệp này, để nói bản tánh của nghiệp là “không”, nên nói là phẩm Quán Nghiệp.

4/ Lại, vì tất cả người có đối tượng chứng đắc, vì sợ tội, mới sám hối, nên nói phẩm này. Vì sao? Vì người kia cho rằng, vì gây tạo nghiệp ác, tâm sanh sợ hãi, nên họ dựa vào kinh Đại, Tiểu thừa thực hành sám hối, vì muốn diệt trừ tội lỗi này. Như người này không phải chỉ phạm tội không trừ diệt, mà lại thêm lỗi. Vì sao? Vì lẽ họ vốn khởi tội, cho rằng, tội nghiệp là có danh, có kiến. Lại, muốn thực hành sám hối để diệt trừ tội này. Đối với tội, khởi chấp “không”. Một khi đã khởi “có”, “không”, tức là phiền não, vì nhân duyên phiền não, nên có nghiệp; vì có “hoặc”, “nghiệp” thì sẽ phải cảm thọ nghiệp báo, nên Tịnh Danh đã quở Lưu Bà Ly: “Không cho tội hai Tỳ kheo này thêm nặng. Phải diệt trừ thẳng, chớ khuấy nhiễu tâm họ.”

Diệt trừ tội thẳng, nghĩa là quán tánh tội này là rốt ráo “không”, như phẩm này đã nói. Cho nên vì người không có phương tiện, có đối tượng chứng đắc, thực hành sám hối, nên nói phẩm này.

Hỏi: “Người như thế có lỗi gì ư?”

Đáp: “Nghiệp vốn không sinh, diệt, nay, lại cho rằng, nghiệp sinh, diệt, há không phải là phá Đệ nhất nghĩa đế hay sao? Đã phá chân, cũng phá tục. Đã phá hai đế thì không có hai tuệ, nên không có Phật, Bồ-tát trong ba đời, mười phương, cũng phá cả thế gian, nên tội của họ rất nặng!”

Hỏi: “Nếu vậy, thì lẽ ra chỉ sám hối thật tướng, không dựa vào pháp môn thiên tụ, để thực hành sám hối ư?”

Đáp: “Phẩm Nhân Duyên nói: “Phật có hai thứ thuyết:

1/ Thuyết chân thật

2/ Thuyết tùy nghi

Nếu thực hành thật tướng sám hối, vì chúng sinh căn cơ bén nhạy, dựa vào chân thật để nói. Nếu dựa vào thiên tụ, để bỏ tội, tu phước thì đây là phàm phu, căn cơ chậm lụt, phước mỏng, mà nói, nên pháp thật đáng tin, tùy cơ nghi nói pháp không thể là thật.

Lại, nói phẩm này là vì ngoại đạo tà kiến, như lời nói của sáu sư

v.v…: “không có hắc nghiệp, không có báo của hắc nghiệp, không có tội phước, cho nên, nay, nói dù rốt ráo “không”, mà nghiệp thiện, ác vẫn y như cũ, không mất, nên bài kệ dưới nói:

“Như Thế Tôn thần thông

Biến hóa ra con người

Người biến hóa như thế

Lại biến hóa làm người.”

Chẳng lẽ không có nghiệp hay sao?” Vì thế, nên nghiệp của chín đường rõ ràng mà thường có bốn dứt bặt.

Như thế, ngộ thì sinh Ba-nhã, với phương tiện cũng sinh bốn trí, tức là vì nhập tri kiến Phật, nên được thành Phật.

Nay, luận Đại thừa này, chính là giúp cho tất cả chúng sinh nhờ môn nghiệp mà sẽ được thành Phật.

Kế là sự sinh gần. Nghĩa là phẩm Phược, Giải nói không có ràng

buộc, giải thoát. Người ngoài nói: “Sự ràng buộc là phiền não, nếu không có phiền não thì làm gì có nghiệp, vì có nghiệp, nên sẽ có phiền não.”

Lại, nghiệp có hai thứ: 1/ Nghiệp hữu lậu 2/ Nghiệp vô lậu.

Nghiệp hữu lậu, gọi là ràng buộc; nghiệp vô lậu, gọi là giải thoát. Đã có nghiệp, thì có ràng buộc, giải thoát.

Hỏi: “Nghiệp có bao nhiêu thứ? Đáp: Nghiệp có nhiều môn, y theo thân, thì có thân, miệng ý. Căn cứ giới, thì có tội phước bất động, y cứ quả báo thì có hiện báo, sinh báo, hậu báo, y cứ nhơ, sạch, thì có nghiệp hắc nghiệp bạch, nghiệp lẫn lộn và nghiệp vô lậu.”

Như vậy, một nghiệp, hai nghiệp, ba nghiệp, bảy nghiệp, mười nghiệp, như văn có nói rộng.

Hỏi: “Thể của nghiệp là sao?”

Đáp: “Tỳ-đàm, cho rằng sắc, thinh thiện, ác là “thể” của hai nghiệp thân, miệng, dùng “tư” làm thể của ý nghiệp.”

Luận Thành Thật chép rằng: “Ba nghiệp đều lấy tâm làm “thể”, thân, miệng chỉ là công cụ của nghiệp, mà không phải nghiệp.”

Hỏi: “Ba phiền não của ý địa khác với nghiệp thế nào?”

Đáp: “Ba phiền não của Tỳ-đàm hễ khởi, thì đều có chung với “tư”. “Tư” tự nó là nghiệp, ba phiền não thì không phải nghiệp, điều này rất dễ thấy.

Sư luận Thành Thật bác bỏ nghĩa này, lập ra nghĩa chánh: ý tức là nghiệp, lìa ý, không có “tư” riêng.

Người Thành Thật nói: Hai nhân tập và báo của pháp thiện, báo thân chính là nghiệp, bên tập nhân chẳng phải nghiệp, gọi chung là nghiệp; bên bất thiện thì có nhiều giải thích khái Thiện nói: “Tâm bất thiện vừa là phiền não, vừa là nghiệp. Nếu được đạo đối trị để dứt trừ, thì là phiền não mà không phải nghiệp. Nếu với lấy nghĩa sinh thì chỉ nhận lấy người tội nhẹ trước làm phiền não, nhận lấy người tội nặng sau làm nghiệp.”

Trang Nghiêm, Quang Trạch nói: “chấp quyết định là nghiệp; không quyết định là phiền não. Bên mười thứ quyết định như thế gọi chung là nghiệp bên mười thứ không quyết định gọi là phiền não.

Tiếp theo, Sư Kiến Sơ nói: “Bất thiện lại đồng với thiện. Bên nhân tập bất thiện là phiền não; bên nhân báo là nghiệp. Lại giải thích mười sử rằng: “Nghi là phiền não mà không phải nghiệp; năm kiến là nghiệp mà không phải phiền não; bốn sử còn lại, quyết định là phiền não, không quyết định là nghiệp.

Nay, không luận đồng, khác, các lối chấp có nghiệp, phẩm này tìm kiếm nghiệp cuối cùng là không, nên gọi là phẩm. Phẩm được chia làm bảy lượt:

Chính là phá thể của nghiệp

Hỏi: “Như sự nối tiếp nhau như mầm v.v… v.v… trở xuống; lượt thứ hai, phá sự nối tiếp của nghiệp:

Hỏi: “Nay, sẽ lại nói v.v… trở xuống, là lượt thứ ba, phá không mất pháp.”

Hỏi: “Nếu vậy, không có quả báo của nghiệp v.v… trở xuống; lượt thứ tư, phá tà kiến đoạn diệt.”

Hỏi: “Nếu các phiền não v.v… trở xuống, là lượt thứ năm, phá quả báo.”

Hỏi: “Dù ông dùng mỗi thứ nhân duyên để phá nghiệp v.v… trở xuống, là lượt thứ sáu, phá người khởi nghiệp.”

Hỏi: “Dù ông dùng các thứ để phá nghiệp v.v… trở xuống, là lượt thứ bảy, phá việc được thấy ở hiện tại.”

Trong mỗi chương đều có: Trước lập; tiếp theo là phá, nên có bảy lập, bảy phá.

Trong lần lập đầu tiên, có văn xuôi và kệ. Văn xuôi có bốn:

Hỏi: “Dù ông đã phá các pháp: phần thứ nhất, nhắc lại Luận chủ phá.”

“Mà nghiệp quyết định có: phần thứ hai, người ngoài lập nhân của nghiệp.

Như trong kinh Pháp Cú nói: “Chẳng phải hư không, chẳng phải dưới biển, dù có lẫn tránh, cũng không thoát khỏi nghiệp, nên gọi là quyết định có. Vì thế, nên nghiệp lực trong mười lực của Phật rất sâu, có năng lực làm cho tất cả chúng sinh đều phải thọ quả báo.”

Trên, đã nói về nghiệp nhân, sau đây, sẽ nói về được quả:

Đức Thích Ca thọ chín tội: Trong quá khứ, Đức Thích Ca đã dùng lưới châu gai đâm vào chân Điều Đạt, nên hôm nay phải chịu báo cây giáo gỗ. Bồ-tát Mục-liên dùng thần thông cứu mẹ mà mẹ không khỏi khổ ở ngạ quỷ. Đức Thế Tôn phải tránh gai để đi. Do nghiệp báo quyết định, nên bị gai đâm, Như lai hóa thành cây giáo bằng vàng. Trọng ni bị nguy khốn bởi Trần Thái. Các Hiền, Thánh còn không tránh khỏi, huống chi là phàm phu, nên biết quyết định được quả.

“Như kinh nói v.v… trở xuống, là phần thứ ba, dẫn kinh, nói tóm tắt ba nghiệp:

1/ Nghiệp phẩm hạ, nghĩa là kẻ ác vào địa ngục.

2/ Nghiệp phẩm trung: người tu phước sẽ được sinh lên cõi trời.

3/ Nghiệp phẩm thượng: người hành đạo sẽ chứng đắc Niết-bàn.

Hai người trước, là thuộc về nghiệp hữu lậu; một người sau, là nghiệp vô lậu.

“Vì thế các pháp chẳng nên là không v.v… trở xuống, là phần thứ tư, kết, quở Luận chủ.”

Y cứ bài kệ, có năm, được chia làm bốn chương:

I. Nói về một nghiệp II. Nói về hai nghiệp

  1. Một bài kệ nói về ba nghiệp
  2. Hai bài kệ nói về bảy nghiệp

Chương đầu, nói về một nghiệp, tức một nghiệp thiện. Trong nghiệp thiện, chỉ nói về nghiệp Từ, Từ là gốc của mọi điều thiện.

Lại, biết Luận chủ là Bồ-tát, tất nhiên có tâm từ, không nên phá từ, thành ra dẫn riêng:

Con người có thể hàng phục tâm mình, đem lại lợi ích cho chúng sinh. Đây là nói về công dụng của nghiệp Từ, hàng phục điều ác, làm lợi ích cho chúng sinh. Nhưng nghiệp Từ, làm lợi ích chúng sinh. Đem lại lợi ích cho chúng sinh, tức là hành thiện, khuất phục ác, tức là chỉ thiện.

Lại, hàng phục là chính mình thực hành; đem lại lợi ích, là hóa độ người, đây gọi là người từ thiện. Bởi có từ, nên có thể khuất phục điều xấu ác, giúp ích chúng sinh, tự thực hành, hóa độ người.

Hạt giống của quả báo hai đời: Trên, đã nói về nhân hạnh. Nay, sẽ nói về được quả. Hạt giống là nhân.

“Đại Thánh có hai nghiệp v.v… trở xuống, là chương thứ hai, nói về hai nghiệp: Trước, đã nói về một nghiệp, là nghiệp riêng, vì chỉ nói mỗi nghiệp từ thiện. Nay, nói nghiệp chung, có cả thiện ác. Lại ở trước nói riêng về nghiệp dụng nay nói về thể của nghiêp. Nửa kệ trên nói hai nghiệp, mà nêu Đại Thánh, là vì e rằng Luận chủ sẽ phá, nên dẫn thuyết Phật để làm chứng.

Tiếp theo, nửa kệ, đều là v.v.. trở xuống là ba nghiệp, bảy nghiệp làm chương môn. Một bài kệ tiếp theo, chia hai nghiệp làm ba nghiệp, tức là giải thích nghĩa của hai nghiệp trên.

Nửa bài kệ trên, nói về ý nghiệp; nửa bài kệ dưới, nói về nghiệp thân, miệng.

Tiếp theo, hai bài kệ nói về bảy nghiệp:

Có người nói: “Thân, miệng được chia làm hai: nghiệp hữu tác, nghiệp vô tác, cho nên thành bốn. Vì tùy nhận lấy một nghiệp trong thiện, bất thiện, nên làm thành năm nghiệp. Có thiện, ác từ trong dụng, vì cũng tùy nhận lấy một, nên thành sáu, tư, tức là bảy.

Hai cách giải thích: “Hữu tác, vô tác trong thân, hữu tác, vô tác trong miệng thành bốn. Thiện từ dụng; ác từ dụng, thành sáu và Tư là bảy. Sư Đàm Ảnh lại nói: “Đây là Thanh Mục giải thích.”

Lại giải thích: “Hai giải thích trước, đều có lỗi. Nay, nói hữu tác, vô tác trong thân, hữu tác, vô tác trong miệng. Bốn trường hợp này đồng với cách giải thích thứ hai. Đối với điều thiện, từ trong công dụng, tự có sự ở thiện, lại có điều thiện từ tác dụng và Tư, thành bảy nghiệp. Cách giải thích này là y cứ tự bảy trong thiện; tự bảy trong ác. Vì sao? Vì thân tự có tác thiện, vô tác thiện. Miệng thiện cũng thế. Có sự từ trong tác dụng, ở thiện, điều thiện từ tác dụng. Về tội, cũng tự có sự ở tội và tội từ tác dụng, giống như tạo kinh, việc này ở điều thiện. Nếu đổi qua tụng kinh thì tức là điều thiện từ tác dụng. So với văn xuôi dưới, có đủ ý này.

Nay, người giải thích chia bài kệ làm hai:

– Chính là nói về thể của bảy nghiệp;

– Một câu sau cùng, khen ngợi công dụng của bảy nghiệp.

Y cứ phần đầu lại có hai:

1/ Một hàng rưỡi bài kệ, nói về sáu nghiệp của thân, miệng.

2/ Một câu “hữu”, nói về ý nghiệp, tức là bảy.

Y cứ phần đầu lại có hai:

Một bài kệ trước, nói về nghiệp trong của thân, miệng; nửa bài kệ tiếp theo, nói về nghiệp ngoài của thân, miệng.

Nói trong: Vì tự khởi nghiệp thân, miệng, nên gọi là trong; từ người khác mà sinh ra, gọi là ngoài. Hai nghiệp thân, miệng đều không ra khỏi trong, ngoài này.

Y cứ trong hai nghiệp thân, miệng lại chia làm hai:

Nửa bài kệ trên, nói về tướng của nghiệp.

Nửa bài kệ dưới, nói về tánh của nghiệp.

Thân nghiệp và miệng nghiệp: câu này nói chung về hai nghiệp thân, miệng.

Nghiệp tác với vô tác: Nói riêng về hai nghiệp thân, miệng. Thân có tác, vô tác, miệng có tác, vô tác, nên lấy tác, vô tác để giải thích về hai nghiệp thân, miệng.

“Trong bốn việc như thế v.v… trở xuống, là thứ hai, nói về tánh của nghiệp. Bốn sự, nghĩa là hữu tác, vô tác của thân; hữu tác, vô tác của miệng, gọi là bốn việc.

Vừa thiện, vừa bất thiện: Tác, vô tác, chỉ có hai tánh thiện, ác. Nghiệp vô ký này dù có tạo tác, vẫn không gọi là nghiệp. Hơn nữa, hai nghiệp thiện, ác có thể phát ra vô tác, vì sức vô ký yếu, không phát ra vô tác, nên nói thiện, bất thiện.

“Từ dụng v.v… trở xuống, là từ trên đến đây, đã nói về bốn nghiệp trong rồi, nay, tiếp theo, sẽ nói về hai nghiệp ngoài.

Nghiệp trong ở trên có hai:

1/ Môn nghiệp tướng

2/ Môn nghiệp tánh

Nay, nghiệp ngoài cũng có hai: Ba chữ: “từ dung sinh”, là môn nghiệp tướng, nhưng từ dụng có hai:

1/ Thân từ dụng

2/ Miệng từ dụng

Thân từ dụng: Như thân chuyền áo cho người, nếu người khác nhận dùng, mặc vào, tức là sinh ra thiện vô tác, thuộc về thí chủ, gọi là vô tác của thân.

Vô tác của miệng: Như Pháp sư giảng nói, người học thuật lại lời Pháp sư, liền sinh ra vô tác của miệng, thuộc về Pháp sư.

Hỏi: “Nghiệp trong có đủ hữu tác, vô tác; nghiệp ngoài cũng có hữu tác, vô tác, vì sao chỉ nói nghiêng về hai thứ vô tác của thân, miệng là nghiệp ngoài ư?”

Đáp: “Vì muốn nói một người có đủ bảy nghiệp, nhưng nghiệp trong có bốn nghiệp hữu tác, vô tác của thân, miệng, thuộc về người tu hành. Kế lại có hai nghiệp vô tác, thuộc về người tu hành. Nếu hai thứ tác nghiệp đều từ tác dụng, thì vì thuộc về người trước, nên không đếm, vì thế, nên chỉ dùng hai vô tác.

“Hai chữ phước đức v.v… trở xuống, là phần thứ hai, nói về môn tánh của nghiệp ngoài. Tánh của nghiệp trong đã có thiện; tánh của nghiệp ngoài cũng có thiện, bất thiện. Có người đếm tội, phước làm hai, điều này không đúng, vì nếu chia tội, phước làm hai, thì trong nghiệp nội trước, lẽ ra cũng đếm được, không nên nói rằng: “Có thiện, bất thiện trong bốn việc như thế, vì trước kia đã không nhận lấy thiện, bất thiện, nay đây cũng vậy.

Sáu thứ trong, ngoài này là nghiệp của thân, miệng, thứ bảy gọi Tư, tức là ý nghiệp.

Có thể hiểu rõ tướng của các nghiệp: phần thứ hai, khen ngợi.

Nhận biết tinh tường về bảy nghiệp này: có thể hiểu rõ tất cả các nghiệp hữu tác vô tác trong, ngoài của thân, miệng.

Hỏi: “Vì sao người kia lập ra số bảy này?”

Đáp: “Số bảy này là số của một khoa, gồm đủ nghĩa, sự. Số bảy đó cũng là bốn dòng loại của ba thứ hắc, bạch, như thiện ác v.v….” Văn xuôi lại dựa theo trình tự của bài kệ để giải thích:

Bài kệ thứ nhất, trước là giải thích bảy nghiệp:

“Là bảy thứ v.v… trở xuống, là kệ giải thích ý nghiệp ngợi khen thứ hai.”

Từ văn đầu, giải thích sáu nghiệp của thân, miệng.

“Thứ bảy, gọi Tư v.v… trở xuống, là giải thích ý nghiệp thứ hai.” Y cứ giải thích sáu nghĩa lại chia làm hai:

1/ Chính là giải thích sáu nghiệp, như vậy, gọi là sáu thứ sáu nghĩa tổng kết thứ hai.

Phần đầu lại chia làm hai:

1/ Giải thích nghiệp trong

“Lại có từ dụng sinh v.v… trở xuống, là phần thứ hai, giải thích nghiệp bên ngoài.”

Trong giải thích nghiệp bên trong, trước giải thích môn thể, tướng của nghiệp trong nửa kệ trên.

“Hai thứ có thiện, bất thiện này v.v… trở xuống, là giải thích môn nghiệp tánh.”

Phần đầu lại có hai:

1/ Giải thích câu thứ nhất, nói chung về hai nghiệp thân, miệng.

“Bảy thứ này v.v… trở xuống, là giải thích phần thứ hai, nói về hữu tác, vô tác.”

Đáp: “Nghiệp dừng lại, cho đến thọ báo v.v… trở xuống, là phần thứ hai, Luận chủ phá.”

Ở trên tuy một nghiệp cho đến bảy nghiệp, đều nói về được quả.” Nay, hỏi chung:

“Nghiệp vì chờ quả khởi rồi mới diệt, hay lúc quả chưa khởi, nghiệp đã diệt ư? Nếu đợi quả khởi mới diệt, thì nghiệp là thường. Nay, nghiệp là pháp hữu vị, một niệm còn không dừng, há được chờ quả khởi rồi mới diệt. Nếu khi quả chưa khởi, mà nghiệp đã diệt, thì sẽ không có nghiệp nữa, cái gì dẫn dắt đến quả ư?”

Tát-bà-đa nói: “Hiện tại khởi nghiệp thiện, ác. Tướng quá khứ, hiện tại mà đi vào quá khứ, là thuộc về đắc đắc đối với người tu hành. Về sau, nếu quả khởi lên đắc này, thì tức là đoạn. Nghĩa này có đủ đoạn, thường: khởi mà dứt diệt ngay là “đoạn”, ở quá khứ mà không diệt là “thường”.

Tăng-kỳ, Đàm-vô-đức, phái thí dụ đồng nói nghiệp hiện tại chấm dứt, thể quá khứ là “không”, mà có nghĩa “từng có”, cho nên được quả. Cách nói này cũng có đủ đoạn, thường. Lui về quá khứ là “đoạn”; có nghĩa “từng có”, là “thường”.

Tiếp theo, Ca-Diếp-Tỳ dùng, nghĩa của cả hai nhà, ông ta nói: “Nghiệp hiện tại được chấm dứt ở quá khứ lúc chưa được quả là thường còn.” Nghĩa này cũng đồng với nghĩa “thường” của Tát-bà-đa. Về sau, khi quả khởi, nghiệp này lại dứt diệt “không còn”, đồng với nghĩa “đoạn” của Tăng-kỳ.

Tiếp theo, Sư Thành Thật, Trang Nghiêm rằng: “Nghiệp đã dứt, thể của quá khứ là “không”, mà vì có nghĩa “từng có”, nên được quả”, dẫn văn luận rằng: “Như các thiền quá khứ đã từng có ở nơi tâm. Nếu cho quả báo, thì sẽ không bị hại. Tiếp theo, Khai Thiện nói: “Nghiệp đã chấm dứt trong quá khứ, vì thành tựu đến, hiện tại, nên trong tâm hiện tại, có nghiệp thành tựu, có nghiệp hiện khởi.” Văn Luận nói: “Xưa, khởi tâm tham nối tiếp nhau đến nay, vì tâm hiện nay không khác xưa, nên nói: “Ta có”.

Những quan niệm như thế, cũng không lìa “đoạn”, “thường”, nhập vào bài kệ hiện nay để phá.

Sư Nhiếp Luận rằng: “Lê-da gìn giữ hạt giống thiện, ác thế gian, xuất thế gian, cho nên được quả. Nay dựa vào bài kệ để trách: hạt giống vì chờ đợi quả mà diệt hay chưa khởi đã diệt? Nếu đợi quả khởi mà diệt, tức là “thường”, còn chưa khởi mà đã diệt, thì sẽ không có quả báo.”

Hỏi rằng: “ v.v… trở xuống, là lượt thứ hai, phá nghĩa nối tiếp nhau của nghiệp. Trước lập, kế là phá.

Trong lập được chia làm hai phần:

Phần đầu, nói chung nghiệp nối tiếp nhau, lìa “đoạn”, “thường”; phần thứ hai, là nêu riêng mười nghiệp thiện có công năng được quả báo.

Phần đầu lại có hai: Hai bài kệ trước, nói pháp ngoại nối tiếp nhau lìa đoạn, thường, tức là dụ thuyết; hai bài kệ sau, tức là pháp nội nối tiếp nhau lìa đoạn, thường, tức là hợp dụ.

Hai bài kệ trước được chia làm ba:

1/ Kệ đầu chính thức nói nối tiếp nhau 2/ Nửa kệ nói vì nối tiếp nhau, nên có quả.

3/ Nửa kệ, kết lìa đoạn, thường văn dễ hiểu

“Nhân duyên quả báo của nghiệp thiện này v.v… trở xuống, là phần thứ hai, nêu riêng mười nghiệp thiện, năng được quả báo.

Sở dĩ nêu riêng mười điều thiện, là vì đồng với nghĩa của nghiệp Từ nói trên. Từ là nghiệp vượt hơn trong các nghiệp thiện; mười điều thiện cũng vậy.

Luận Trí Độ nói: “Có” Phật, hay “không” Phật, cũng thường có mười điều thiện, nếu mười điều thiện là thiện cũ, hoặc là việc thiện khác, hễ có Phật thì “có”, không có Phật thì “không”, gọi là khách thiện.

Hỏi: Văn nói: “Mười nghiệp đạo thanh bạch, thế nào là Nghiệp?, thế nào là Nghiệp đạo ư?”

Đáp: “Kinh, luận nói không đồng: kinh Ưu-bà-tắc nói: “Mười sự như thế, ba sự là “nghiệp” mà không phải “đạo”; bảy sự vừa là nghiệp, đạo.”

Nay, phải hội ý để giải thích: “Kinh chính là nhận lấy ý làm nghiệp, chỉ vì ý không tự đi suốt qua nên là nghiệp mà không phải đạo.”

Luận nói ba phiền não khởi nghiệp mà không phải nghiệp, nên nói rằng đạo mà không phải nghiệp, đều y cứ ở một đường.

Luận sư nói bốn quan điểm:

1/ Nghiệp mà không phải đạo, như kinh Ưu-bà-tắc.

2/ Đạo mà không phải nghiệp, như luận nói ba phiền não.

3/ Vừa là nghiệp, vừa là nghiệp đạo, như bảy nghiệp.

4/ Chẳng phải nghiệp, chẳng phải đạo, như sắc, thinh của thân, miệng.

Sư Tỳ-đàm cũng nêu ra bốn quan điểm, rất khác với bốn quan điểm trên đây:

1/ Đạo mà không phải nghiệp, nghĩa là tham, sân, tà kiến, có thể nói Tư là đạo, vì thể không phải tự nêu chẳng phải nghiệp.

2/ Nghiệp mà không phải đạo, tức “Tư” đúng vậy.

Vì “Tư” tạo tác, nên gọi nghiệp. Vì không có “tư” nữa, nên không phải đạo của Tư.

3/ Vừa nghiệp, vừa là đạo, tức thân, miệng có bảy, đương thể là nghiệp. Lại nói “Tư” là đạo.

4/ Chẳng phải nghiệp, chẳng phải đạo, tức ba căn bất thiện trước đây của “Tư”, vì chỉ năng sinh ra “Tư”, không thể nói “Tư”, nên không phải đạo, mà lại vì không phải “tư” nên không phải nghiệp.

Hỏi: “Dựa vào Luận Trí Độ, ba phiền não là đạo, không phải nghiệp. Nay, sao lại nói mười nghiệp đạo? Luận chủ đáp:

“Vì thiểu số theo đa số, nên đều gọi nghiệp đạo.” Đáp rằng: “ v.v… trở xuống, là phần thứ hai, phá.

Sở dĩ bác bỏ chung là vì

1/ Dù người ngoài có cách bào chữa này, nhưng sau cùng, vẫn không lìa “đoạn”, “thường”, cho nên không thọ nhận.

2/ Vì muốn để đến phần tổng kết sau, sẽ phá cùng một lúc, cho nên, trong đây, chỉ bác bỏ sơ lược. Vả lại, vì biết thế của nghĩa của họ chưa dứt hết, cho nên bác bỏ thẳng dẫn bào chữa sau của họ, để phá chung một lúc.

– Văn xuôi chia làm hai:

1/ Đoạt phá

2/ “Lại nữa v.v… trở xuống, là giả sử phá”

Hỏi rằng: v.v… trở xuống, là lượt thứ ba, lập pháp không mất.

Trước lập, tiếp theo phá.

– Trong lập, chia làm ba:

1/ Nêu thuyết

2/ Chính thức nói

3/ Giải thích

Hỏi: “Nay, sẽ lại nói thuận với nghĩa quả báo của nghiệp: Phẩm này có bảy lượt phá, lập:

Lượt đầu, lập thể của nghiệp, tức phá.

Lượt tiếp theo, nói nghiệp không đoạn, không thường, nhằm bào chữa lập luận trên của họ, Luận chủ phá ngay.

Nay, lập quả báo của trì nghiệp: bào chữa chung nghĩa trên, cho nên “Nay, sẽ còn nói nữa.”

Thuận với quả báo của nghiệp: Nghĩa đã được lập, phù hợp với nhân quả, không trái với pháp tướng. Nếu Luận chủ phá thì sẽ trái với lý nhân quả, trái với pháp tướng. Vì phù hợp với nhân, quả, nên đã được Hiền, Thánh của ba thừa khen ngợi. Nếu Luận chủ phá, thì sẽ bị Phật, Bồ-tát chê bai.

Một bài kệ này, nói nêu thuyết đã xong.

“Cái gọi là pháp không mất, như khoán nghiệp, như nợ tài vật v.v… trở xuống, là thứ hai là sáu bài kệ, chính thức lập tông nghĩa.

– Y cứ văn, phân làm hai: 1/ Nêu hai chương môn

2/ Giải thích hai môn

Pháp không mất, như tờ hợp đồng, nêu cho môn chương của pháp không mất. Nghiệp, như mắc nợ tài vật, nêu cho môn chương của nghiệp. Nay, sẽ giải thích chung:

Người đời muốn khỏi mắc nợ, cần phải hội đủ bốn thứ:

1/ Là chủ có tài vật

2/ Có người mắc nợ

3/ Lập sổ sách giao kèo, để giữ người mắc nợ, sao cho của cải không mất.

4/ Chủ nợ phải hoàn lại tài vật.

Chủ tài vật: là chúng sinh sáu đường, là chủ mang nợ nghiệp thiện, ác của sáu đường. Lúc tạo nghiệp, tất nhiên có một pháp theo nghiệp khởi, gìn giữ nghiệp, sao cho quả không mất. Như khi nhận lấy tài vật thì phải lập bản hợp đồng. Người (vay nợ)) phải trả lại vật cho tài chủ. Nghiệp thiện, ác là nói về quả của sáu đường, cho người tu hành phải thọ lãnh.

Văn luận chỉ nói bản hợp đồng với người mang nợ, chỉ nêu ra việc chủ yếu đó được tồn tại một cách giản đơn.

Hỏi: “Chủ tài khoản bỏ của ra cho người trước, người trước, về sau mới trả nợ, có thể nói là quả đã sinh ra từ chúng sinh và nghiệp, sau đó, nghiệp nói về quả, trở lại người hành động ư?”

Đáp: “Đại khái nêu dụ, không hẳn hoàn toàn hợp. Nếu phải hợp hoàn toàn, thì về nghĩa cũng có hợp. Quả báo của sáu đường đều vì từ trong tâm chúng sinh mà phát ra, nên Địa kinh nói rằng: “Ba cõi đều do một tâm tạo ra.”

Hỏi: “Người ngoài nêu sự này, thì làm sao bào chữa “đoạn”, “thường” ở trên ư?”

Đáp: “Trong việc hiện thấy có đủ bốn thứ này. Hành nghiệp của nhân quả cũng đủ bốn thứ này. Bốn thứ này đã phù hợp với sự lý, mà Hiền, ngu đều tin, tất nhiên, biết được quyết định có nghiệp quả, chỉ vì nghiệp là hữu vi, niệm niệm sinh diệt, cho nên “không thường”. Pháp không mất này, phải được gìn giữ sao cho quả không mất, cho nên không “đoạn”. “Không đoạn”, “không thường”, thì tránh khỏi lỗi trên.

Hỏi: “Nghiệp là hữu vi, niệm niệm sinh diệt; pháp không mất cũng là hữu vi, niệm niệm sinh diệt, thì làm sao được “không đoạn”, “không thường” ư?”

Tam tạng Chân đế nêu Chánh lượng bộ, nói về pháp không mất, công dụng của pháp này là thường, vì phải đợi quả khởi mới diệt, trung gian không có niệm niệm diệt. Ví như tờ hợp đồng, sau khi trả nợ xong, mới xé bỏ.

Hai chương môn này đều có pháp thí, pháp không mất, nghĩa là

pháp thuyết, như tờ hợp đồng là thí thuyết; nghiệp, là pháp thuyết; như nợ của thí thuyết. Nghiệp thiện, như người khác cho nợ của; nghiệp ác như mang nợ của cải của người khác, cũng được thí dụ chung cho nghiệp thiện, ác, phải trả lại báo, như của nợ.

“Tánh này là vô ký”: là phần thứ hai, giải thích hai chương môn:

1/ Môn ba tánh

2/ Môn lệ thuộc, không lệ thuộc

3/ Môn đoạn, không đoạn

4/ Môn giải thích danh

5/ Môn phá “khác”

Hỏi: “Vì sao chỉ phá riêng pháp không mất vô ký, mà không phá chung cả ba tánh để được chuẩn xác hơn?” Đáp: “Có hai nghĩa:

1/ Được phá chung ba tánh, cũng có thể cảm quả, thuộc môn nghiệp trên. Vô ký không cảm quả, trước chưa phá, nay phá.

2/ Được chung cả ba tánh, đây chỉ là nghĩa của Tiểu thừa, không đúng phá; Vô ký đi suốt qua Đại, Tiểu. Chánh lượng là Tiểu thừa, pháp không mất của A-lê-da là Đại thừa.

A-lê-da, Hán dịch là Vô một thức. Vô là tên khác của “bất”; một là tên gọi khác của “mất”. Lê-da cũng là pháp không mất. Thể của lêda là quả báo Vô ký, chủ thể duy trì tất cả hạt giống thiện, ác, chính là nghĩa của người ngoài hiện nay.

Lại, sở dĩ trước kia đã nói về môn Ba tánh, là vì đốivới hai bộ:

1/ Bộ Hữu khoán: Bộ có hợp đồng

2/ Bộ Vô khoán: Bộ không có hợp đồng

Bộ có hợp đồng, như người Tát-bà-đa, cũng có bốn thứ, nghĩa là giả gọi chúng sinh, như chủ tài vật, tạo ra nghiệp thiện, ác, như người vay nợ của, có riêng được sợi dây, được nghiệp thiện, ác làm cho quả không mất, như tờ hợp đồng. Nghiệp cảm quả, như người trả nợ.

Bộ không có hợp đồng: Người của Phật-đà-Đề-bà, phái Thí dụ, Thành Thật v.v…, chỉ nói ba thứ không có riêng được sợi dây làm tờ hợp đồng, chỉ nói chúng sinh là chủ thể thành tựu; nghiệp thiện, ác đối tượng thành tựu. Nếu tức lấy đối tượng này làm pháp không mất, thì sẽ không có chủ tài khoản riêng, cho nên chỉ có ba.”

Đàm-Vô-Đức nói: Tâm là chủ thể thành tựu, cũng không có pháp riêng là tờ hợp đồng.

Chánh Lượng bộ, trước kia vì đối với nghĩa có tờ hợp đồng, nên đã y cứ ba tánh để phân biệt. Vì sao? Vì Tát-bà-đa nói được sợi dây chung cho ba tánh. Nếu vậy, được sợi dây đã là thiện, ác, lại còn cảm báo, tức là đồng với nghiệp, đều là người nợ tài vật, đâu gọi là tờ hợp đồng. Cho nên, nay nói nghiệp thiện, ác tự cảm báo mà pháp không mất là Vô ký không cảm báo. Như người vay của vật ở thế gian, tự trả lại nợ, mà tờ hợp đồng không trả nợ, cho nên, lập phá không mất làm Vô ký.

Hỏi: “Người Số Luận được sợi dây cảm báo nào?”

Đáp: “Bà Sa nói: “Chỉ chạy theo nghiệp cảm mà cảm thọ báo, không thể cảm sinh. Lại, chỉ là nhân báo, vì cảm quả, nên không tạo nghiệp cảm quả, bốn tướng cũng vậy.”

Hỏi: “Vì sao không đồng với bộ không có tờ hợp đồng?”

Đáp: “Trong kinh nói nghĩa có tờ hợp đồng, như Luận Trí Độ dẫn kinh Tập Pháp, các La-hán nói bài kệ: “Tờ hợp đồng của bệnh, già chết đã xé nát.” Đây là nói La-hán đã trả nợ báo quá khứ xong, không còn nhận lấy nợ ở vị lai nữa, tức là tờ hợp đồng, pháp không mất liền tiêu diệt, gọi là xé nát, mà Phật-đà Ha-Lê đã không có pháp không mất riêng, tức “không” có tờ hợp đồng riêng nữa, chỉ vì có người vay của cải, nên không tương ưng với kinh, cho nên không đồng với bộ không có tờ hợp đồng.”

Hỏi: “Có bao nhiêu thứ khác nhau với bộ có tờ hợp đồng?” Đáp: “Có bốn thứ:

1/ Thường, vô thường khác nhau Tát-bà-đa được sợi dây là vô thường, niệm niệm sinh diệt, Chánh lượng là công dụng “thường”, không có niệm niệm diệt, chỉ có diệt của thời kỳ lớn.

2/ Tờ hợp đồng của Tát-bà-đa vì chung, cho cả thiện, ác, nên cảm báo; còn Chánh lượng nói chỉ vì Vô ký, nên tờ hợp đồng sẽ không cảm báo.

3/ Tát-bà-đa nói: Vì cảm báo, nên nghĩa hợp đồng không thành. Chánh lượng nói không cảm báo, nên nghĩa hợp đồng được thành.

4/ Tát-bà-đa chính là nói: Đã cắt đứt được sợi dây mà chiêu cảm tự dứt. Chánh lượng được Vô ký này, không đoạn Vô ký, chính là đoạn “hoặc” bất thiện, nhưng đồng nói phi sắc, phi tâm, nên không khác, với Tát-bà-đa.

Giải thích về tánh Vô ký này không đồng: Có người nói: “Tánh này vẫn là nghĩa số, nghĩa số được chuẩn xác là chung cho ba tánh. Nay, chỉ giải thích thí dụ tờ hợp đồng trên, người Số luận nói tờ hợp đồng chỉ là Vô ký, như giá trị giữa vàng, đã khác nhau, còn tờ hợp đồng không có quý tiên nên chỉ là Vô ký. Nếu giải thích về pháp thuyết thì chung cho cả ba tánh.

Có người nói: “Tánh này không phải nghĩa Số, mà chính là Phật đà, Thí dụ, Thành Thật, đồng lấy chúng sinh làm chủ thể thành tựu, nên Bà Sa nói: “Theo thuyết của Phật-đà-Đề bà nói: “Chúng sinh không lìa pháp này, gọi là thành tựu. Vì chúng sinh không gánh lấy việc thiện, ác, nên là Vô ký.”

Có người nói: “Bộ Đàm-Vô-Đức nói tâm là chủ thể thành tựu. Tâm không đảm đang việc thiện, ác, gọi là Vô ký, là chủ thể thành tựu thiện, ác.”

Lại, theo nghĩa của Bộ Chánh Lượng, Chánh lượng vốn là luật học. Trong ba trăm năm sau Phật diệt độ, xuất xứ từ bộ Độc tử nói về thể của pháp không mất là Vô ký.

Luận Minh Liễu, là biết do Luận sư Hộ pháp soạn, mà dựa vào nghĩa của bộ Chánh lượng. Luận rằng: “Chánh lượng bộ có hai thứ:

1/ Đến được

2/ Pháp không mất

Pháp không mất, chỉ thiện, ác “có”, pháp ngoài “không”. Lại, chỉ là tự tánh Vô ký, lại đợi quả khởi mới diệt, nếu là đến được thì pháp chung cho ba tánh, chung cho pháp nội, ngoại đều có. Lúc quả chưa khởi, nếu sám hối, thì đến được, bèn diệt, mà pháp không mất dù có sám hối, nhưng tội không diệt, chủ yếu là phải đợi quả khởi, mới diệt. Thỉ, chung có năm bộ:

Một là Tát-bà-đa, có cả ba tánh, bốn bộ còn lại đều Vô ký; bốn bộ ấy là:

1/ Người Phật đà

2/ Đàm-Vô-Đức

3/ Chánh lượng (luật học)

4/ Nhiếp luận đều là Vô ký

Sở dĩ bốn bộ này đều là Vô ký, vì lý do sâu sắc là nghiệp thiện, ác tự cảm báo. Pháp duy trì nghiệp này vì không cảm báo, nên là Vô ký, như người mắc nợ ở thế gian, tự động trả nợ, tờ hợp đồng không trả nợ.

Phân biệt có bốn thứ, nghĩa là môn trói buộc, không trói buộc thứ hai, chính là Lê-da. Lê-da gìn giữ chung hạt giống trong, ngoài của ba cõi. Duy trì hạt giống ngoài ba cõi, tức không lệ thuộc, đem ý của Nhiếp luận để giải thích nghĩa này, rất dễ hiểu.

Theo nghĩa của Số luận, được sợi dây chung cho hữu lậu, vô lậu, hữu lậu thì thuộc về ba cõi, vô lậu thì không lệ thuộc. Theo nghĩa được có bốn, chúng sinh sáu đường là người hửu lậu, hiền Thánh ba thừa là người vô lậu. Theo Đàm-vô-đức thì tâm có cả hữu lậu, vô lậu, cũng có bốn.

Có người nói: “Bốn thứ, là: Bốn Vô ký: báo sinh, oai nghi, công xảo, biến hóa. Nay, pháp không mất là Vô ký báo.” Bộ Chánh Lượng tự có bốn vô ký:

1/ Vô ký căn bản

2/ Vô ký tự tánh

3/ Vô ký hữu phú

4/ Vô ký vô phú

Vô ký căn bản, là tâm vương và tâm sở. Vô ký tự tánh, nghĩa là trừ sắc, thiện, ác, sắc của thân, miệng Vô ký khác và tất cả sắc ngoại.

Vô ký hữu phú: hai kiến bên thân, và phiền não của hai cõi trên.

Vô ký vô phú: Vô ký bạch tịnh.

Bốn Vô ký trên đây, thâu nhiếp bốn Vô ký của người Số luận, nghĩa là oai nghi, công xảo, báo sinh và biến hóa. Tâm trong bốn thứ này thuộc về sắc căn bản, là thuộc về Tự tánh nên thuộc về hai Vô ký.

Nay, dựa theo Thanh Mục nói là pháp không mất. Vì lệ thuộc ba cõi và không lệ thuộc, nên nói là , bốn thứ. Cho nên có cả bốn thứ, bộ Chánh lượng nói: “Tùy khởi lên một ý niệm thiện, ác, thì sẽ có khởi chung với pháp không mất, làm cho quả không mất. Nếu khởi nghiệp lệ thuộc ba cõi, thì có pháp không mất thuộc về ba cõi; pháp không mất là lệ thuộc ba cõi khởi nghiệp vô lậu, cũng có khởi chung với pháp không mất. Pháp không mất, gọi là không lệ thuộc.

Hỏi: “Pháp không mất, là lệ thuộc ba cõi có thể là Vô ký. Đã gọi không lệ thuộc tức là vô lậu, sao gọi Vô ký ư?”

Đáp: “Có người nói: “Bộ này lập Vô ký, vô lậu, nên không ngăn ngại. So sánh như Tát-bà-đa nói một vô vi là vô ký, mà là vô lậu.

Luận Thành Thật nói ba thức, tưởng, thọ của la-hán, là Vô ký, là vô lậu. Nay, dù được đối với vô lậu, gọi là vô lậu, mà là vô ký, nên pháp không mất cũng là vô ký.

Nay, cho rằng, bộ Chánh lượng chỉ có nghiệp thiện, ác khởi, là có pháp không mất. Nếu vô lậu là pháp khác khởi, thì chỉ có “chí đắc”, chứ không có pháp không mất, mà nói rằng phân biệt có bốn, nghĩa là trên đây nói chung Vô ký.

Nay, phân biệt rộng hơn thì “pháp không mất” của nghiệp ba cõi là Vô ký. Nghiệp được gìn giữ đã thuộc về ba cõi, pháp của chủ thể gìn giữ, cũng thuộc về ba cõi.

Nếu không lệ thuộc thì đây là chí đắc có cả ba tánh.

Vì sao? Vì nếu pháp không mất, chung cho lệ thuộc, không lệ thuộc, thì lẽ ra phải có cả đoạn, không đoạn. Dưới đây, không nên nói nghiêng về kiến đế không dứt trừ, tư duy đã dứt trừ, mà dưới đây, sẽ nói riêng về dứt trừ của kiến đế kia, chẳng nói không dứt trừ, tức biết Vô ký là giải thích nghiêng một bên pháp không mất, không giải thích đến được.

Nhiếp luận quán lâu dài Lê-da là tâm quả báo sinh tử, là hữu lậu, mà Lê-da vì chung cho cả trong, ngoài ba cõi, nên có cả hữu lậu, vô lậu, thành thử có bốn thứ

Kiến đế không dứt trừ, chỉ tư duy dứt trừ, nghĩa là phân biệt môn dứt trừ, không dứt trừ thứ ba.

Nhiếp luận dựa vào nghĩa của Đại thừa, nhằm phá kiến tư, Tư: Sơ địa là kiến đạo, nhị địa đến Kim cương là Tu đạo. Lúc Lê-da đến tâm Kim cương đối trị bờ mé, thì bản thức hoàn toàn diệt. Lê-da đã là tâm quả báo, là thuộc về khổ đế. Giải thích dần, nói về tâm quả báo sinh tử diệt dần. Đến khi đối trị bờ mé, Tập đế dứt hết trong đoạn Lê-da, biên Khổ đế của lê-da cũng diệt, thật ra thì không đoạn.

Căn cứ giải thích của kiến, tư, dứt trừ hạt giống kiến, tư “hoặc” trong bản thức, chỉ là đoạn Tập rồi, mà bờ mé Khổ đế của lê-da, đều không bị dứt trừ, nhưng vì “Tập” diệt, nên “Khổ” cũng diệt.

Văn này nói Kiến đế không dứt trừ “hoặc”, mà tư duy dứt trừ, nghĩa là Lê-da là Vô ký báo khổ đế của sinh tử, bị “duyên” của kiến, tư “hoặc” ràng buộc. Giải của kiến đế đoạn “duyên” ràng buộc không hết; giải của tư duy dứt trừ hết “duyên” ràng buộc, nên nói kiến đế không dứt trừ, tư duy dứt trừ. Phật, người và chúng sinh là quả báo Vô ký.

Đàm Vô Đức nói: “Tâm là Vô ký”. Chánh Lượng nói “pháp không mất” là Vô ký. So sánh đồng với nghĩa này đều không bị dứt trừ, đều cùng bị “duyên” hai “hoặc” ràng buộc. Kiến đạo dứt trừ không hết, vì tư duy dứt trừ ràng buộc hết, nên nói là đoạn.

Hỏi: “Cũng được giải của Kiến đế khởi, gây tổn hại cho bản thức, bản thức chưa hết, đến đối trị bờ mé, bản thức đều hết, được minh họa đây là kiến đế không đoạn, tư duy đoạn ư?”

Đáp: “Cũng có nghĩa này, chỉ vì văn nay biện luận về dứt trừ, mà Lê-da là vô ký báo, không có nghĩa bị dứt trừ.”

Người của Đàm-Vô-Đức nói: “Đều là không dứt trừ nghiệp, mà chỉ dứt trừ phiền não, thì hạt giống nghiệp tự nó sẽ khô héo.”

Người Số luận được chuẩn thằng chung cho cả dứt trừ, và không dứt trừ, không được giải thích văn này.

Luận Thành Thật cho rằng: “Người giả không có pháp bị dứt trừ, chỉ đạo vô học bỏ người giả, nhập Niết-bàn, cũng không phải dứt trừ.”

Chánh Lượng nói: “Kiến đế chỉ dứt trừ tám mươi tám phiền não bất thiện mà thôi. Vì không dứt trừ pháp Vô ký, nên không dứt “pháp không mất”.

Luận Minh Liễu nói: “Khởi một niệm ác có hai:

1/ Đến được

2/ Pháp không mất

“Đến được” đã có cả ba tánh. Nếu khởi tâm sám hối, thì “đến được” sẽ diệt ngay, mà “pháp không mất” chẳng phải là bất thiện. Lúc đạo đối trị khởi, không dứt trừ, mà chủ yếu là phải được quả, nên bậc La-hán thọ nhận quả, đây là vì duy trì “pháp không mất”. Hỏi: “Hoặc” của Kiến đế đã ràng buộc Vô ký ra sao?”

Đáp: “Vô ký thuộc về Khổ, Tập, “kiến đế hoặc duyên lý, “Khổ”, “Tập” mà ràng buộc lý Khổ, Tập, nên ràng buộc Vô ký.”

Hỏi: “Lẽ ra chỉ đoạn “hoặc” trong tâm, sao lại đoạn “hoặc” trên cảnh sở duyên?”

Đáp: “Vì dứt “hoặc” trong tâm, nên “hoặc” trên cảnh của đối tượng duyên sẽ đoạn, nên nói đoạn.”

Vì “pháp không mất này, nên các nghiệp đều có quả báo: là Phần thứ tư giải thích danh, vì Kiến đế không đoạn, chỉ tư duy đoạn, thì nghĩa Vô ký thành.

Nghiệp có khả năng gìn giữ làm cho quả không mất, nên gọi là “pháp không mất”. Đây là kết thành chánh nghĩa nếu sở đoạn của kiến đế mà nghiệp đến tương tự: là thứ năm phá môn Dị.

Sư Đàm Ảnh nói: “Kiến đế dứt trừ đều không có vô ký, hoàn toàn được báo. “Pháp không mất” này đều là đối tượng dứt trừ của Kiến đế, thì sẽ được báo. Kiến đế ấy đã là vô ký, lại được báo Vô ký, nên nói là: “đến tương tự”. Vô ký được báo, gọi là phá nghiệp.

Lại giải thích: “Nghiệp đến tương tự: chí là “chí đắc”, “chí đắc” có cả ba tánh, y cứ bên thiện, ác cũng cảm báo, “pháp không mất” chỉ là vô ký thì không cảm báo. Nay Kiến đế, là dứt trừ “pháp không mất”, cho nên “pháp không mất” cũng là bất thiện, tức là phải cảm báo, vì giống với “đến được”, nên nói rằng: “mà nghiệp đến tương tự”.

Lại, một cách giải thích: “Bốn nhà đều nói “pháp không mất” là vô ký, không bị dứt trừ. Nay, lại nói “pháp không mất” bị dứt trừ, cho nên , “pháp không mất”, tức là cảm tính, chứ không còn là vô ký. Nếu là cảm tính thì có thể cảm báo, tức là nghiệp, nên nói “là nghiệp”.

Đã là nghiệp, thì được quả báo, gọi là đến tương tự. Như nghiệp thiện, được quả vui, gọi là giống nhau. Làm điều ác, mắc quả khổ, cũng gọi là giống nhau. Đây tức là nhân giống nhau, quả giống nhau. Cách giải thích này là hơn.

Hỏi: “Sao gọi là phá nghiệp?”

Đáp: “Pháp không mất”, nếu bị dứt trừ, thì sẽ cảm báo. Vì vô ký cảm báo, nên là phá nghiệp, như vì khiến cho viết tờ hợp đồng trả nợ, nên gọi là phá nghiệp.

“Tất cả các hành nghiệp v.v… trở xuống, là phần thứ hai, giải thích nghiệp trên, như môn chương thiếu nợ tài vật.

Văn, chia ra tám môn:

1/ Môn giống, không giống

2/ Môn ba cõi

3/ Môn nghiệp quả không đi chung

4/ Môn nhẹ, nặng

5/ Môn ba báo

6/ Môn phá “khác”

7/ Môn hai diệt

8/ Môn lậu, vô lậu

Tất cả các hành nghiệp: là nêu chung nghiệp đã được gìn giữ.

Giống nhau, không giống nhau: chính là phân biệt về nghiệp, chương trước, là nhắc lại “pháp không mất”. Tiếp theo, là căn cứ môn ba tánh để phân biệt:

Nghiệp thiện lại so với nghiệp thiện là giống nhau. Nghiệp ác cũng vậy, gọi là giống nhau. Việc thiện, ác đối lập nhau, gọi là không giống, lại thiện được quả báo vui gọi là giống, thiện đối với quả khổ gọi là không giống, đủ hai nghĩa này.

Có người nói: “Ở cõi Dục, có cả nam nữ, cõi Sắc, không có nam nữ, cõi Vô Sắc, không có hình sắc, gọi là giống nhau. Nếu đối lập lẫn nhau, là không giống nhau. Lần đầu tiên thọ thân ở một cõi, lần thứ hai, dùng môn ba cõi để phân biệt. Trước, đã giải thích môn ba tánh của “pháp không mất”. Sau, là nói về môn giới (cõi), nên nói là: “có chia ra bốn thứ”. Nay cũng vậy. Môn giống, không giống trên, đã giải thích về thể tánh của nghiệp rồi. Nay, sẽ giải thích nghĩa được báo của hai nghiệp. Nghiệp ba cõi không thể đều thọ, vì tùy chiêu cảm báo của một cõi, nên nói một cõi.

“Lúc bấy giờ, báo sinh riêng v.v… trở xuống, là phần thứ ba, môn nghiệp quả không phải đều có. Nghiệp là nhân quả của nhân báo, trước sau phải cách đời, nên nhân “diệt” trước, quả sinh sau, gọi báo sinh riêng, pháp không mất, chờ báo khởi, liền diệt, cũng là nghĩa báo sinh riêng.

“Hai thứ nghiệp như thế” là môn nhẹ, nặng thứ tư:

1/ Tức hai nghiệp giống, không giống trên.

2/ Trong hai nghiệp giống, không giống, lại có hai nghiệp nhẹ, nặng.

3/ Dựa vào văn xuôi ở sau, từ nghiệp lại sinh nghiệp, cũng gọi hai nghiệp. Sau, sẽ giải thích.

“Hiện đời, thọ quả báo v.v… trở xuống, là môn ba nghiệp báo thứ năm, ba báo không thể đều thọ lãnh. Tùy thuộc nặng, nghĩa là thọ lãnh báo trước kia, nên căn cứ một đời, đồng với nghĩa một cõi ở trên. Vì thế, nên nói: “hiện đời thọ quả báo”.

Hoặc nói: “cảm nhận báo rồi mà vì nghiệp vẫn còn, nên ở môn phá “khác” thứ sáu ở dưới, ở đây có thể có hai nghĩa:

1/ Đối với nghiệp quả trên không phải đi chung, nay sẽ nói về nghĩa nghiệp quả đi chung:

Nhân phải nuôi quả, như quả trong một trăm năm chưa tiêu mất, quả của ba trăm năm trước dù đã thọ lãnh, nhưng nghiệp này vẫn còn, cần phải đến nghiệp một trăm năm mới dứt mất.

Trong mười tám bộ có nhân quả đi chung, tức bộ Phân biệt.

2/ Dựa vào giải thích của văn xuôi ở dưới: Trên, đã nói quả khởi, thì nghiệp diệt, tức là nghĩa hai đời là “không”. Vì thế, nên hễ nghiệp đã chấm dứt trong quá khứ, thì đều không có chi cả. Nay, nói về nghĩa hai đời là “có” dù rằng quả lại khởi, nhưng nghiệp đã lui về quá khứ, âm thầm khuất phục có tánh, chẳng được là “không”, nên dưới đây nói rằng: “Vì không niệm niệm diệt”. Đây cũng là nghiệp quả không đi chung, chỉ y cứ hai đời “có”, “không” là khác. Nếu vượt qua quả rồi diệt, là môn hai diệt thứ bảy:

Từ trên đến đây, chỉ giải thích nghiêng về nghiệp, như nợ tài của vật, nói về nghĩa nghiệp hữu lậu của phàm phu. Nay phân biệt khắp nghĩa nghiệp quả hữu lậu, vô lậu của phàm thánh, vượt qua quả đã diệt, được quả trên, bỏ quả dưới, cũng là nghĩa được quả, bỏ hướng.

Chết rồi mới diệt: Trên, đã nói về người hữu học của ba quả. Nay, nói phàm phu và La-hán.

La-hán không có quả trên có thể vượt qua, nên nghiệp và báo, chết rồi là diệt. Phàm phu cũng không có quả để vượt qua. Nghiệp của một hình và báo của một hình, chết rồi là diệt.

Trong đây, phân biệt hữu lậu và vô lậu: Môn lậu, vô lậu thứ tám, có thể chia ra ba câu:

1/ Được quả, bỏ quả. Hai diệt này chỉ là vô lậu.

2/ Nghiệp quả của phàm phu diệt, chỉ là hữu lậu.

3/ Vì La-hán bỏ, nên nghiệp và báo thân là hữu lậu.

Nếu bỏ trí, nhập Niết-bàn là Vô lậu.

Phần thứ ba, văn xuôi giải thích. Trước, giải thích bốn thứ, sau, giải thích Vô ký, trái với bài kệ. Nghĩa là trong bài kệ, chính vì đối với Tát-bà-đa, cũng có tờ hợp đồng chung cả ba tánh.

Đầu tiên, nói về tờ hợp đồng là Vô ký, về sau, phân biệt rộng, nên mới giải thích bốn thứ:

Trong văn xuôi, muốn nhận lấy nghĩa Vô ký, giải thích thành Kiến đế không đoạn, nên xoay lại Vô ký ở sau.

“Lại nữa, “pháp không mất” đối với các nghiệp ở một cõi trở xuống, là giải thích nghiệp trên, như môn chương mang nợ tài vật, chỉ nên giải nghiệp lại nhắc lại “pháp không mất”, là vì bộ Chánh Lượng nói tất cả chúng sinh tùy khởi nghiệp của một niệm, sẽ có “pháp không mất”, khởi theo nghiệp, như thế gian cho vay nợ, tùy thuộc ở tiền nhiều, ít, cần phải lập tờ hợp đồng, nên giải thích nghiệp, mà nêu pháp không mất.

Đối với thân hiện tại, từ nghiệp lại sinh ra nghiệp, là giải thích hai thứ nghĩa như thế ở trên. Từ tác nghiệp, sinh ra vô tác nghiệp, cũng là từ nghiệp, sinh ra nghiệp. Lại từ nhân tự phần của nghiệp sinh nhau, cũng là từ nghiệp sinh nghiệp. Như nghiệp thiện ác của niệm trước, sinh ra nghiệp v.v… thiện, ác của niệm sau.

3/ Từ ý nghiệp, lại sinh ra thân, miệng. Lại, từ nghiệp nhẹ, sinh ra nghiệp nặng, như tập lần đầu thì nghiệp nhẹ, tập mải không thôi, thì nặng.

Nghiệp này có hai thứ: Giải thích thọ báo ngay trong đời hiện tại, nghĩa là từ nghiệp lại sinh nghiệp, không ngoài hai thứ nhẹ, nặng. Tùy theo nghiệp nặng mà nhận lãnh báo trước, nhưng lại có nghiệp mạnh mẽ, nhạy bén lúc sắp qua đời thọ báo, mà không còn nhận lãnh báo của nghiệp trong một đời.

Lại, tự có nghiệp quá khứ đã thành thục, thì thọ báo, không dùng nghiệp một đời, cũng không dùng nghiệp lúc sắp qua đời.

Lại, tự có nghiệp một đời không có nhẹ, nặng, từ hiện hành thọ báo từ nghiệp, nhạy bén.

Hoặc có người nói: “Sau khi thọ báo rồi, nghiệp này vẫn còn, vì không niệm niệm diệt:

Theo Tát-bà-đa, thì nghiệp diệt ở quá khứ, là đã từng bị ép ngặt bởi bốn tướng. Nay, không còn bị dời đổi bởi bốn tướng nữa, nên nói: “không niệm niệm diệt”.

Lại giải thích: “Lại có nghiệp quả đi chung, Nghiệp thì công dụng thường không có niệm niệm diệt, chỉ có diệt trong thời gian dài?”

Đáp: “Nghĩa này đều cùng không lìa lỗi “đoạn”, “thường” v.v… trở xuống, là phần thứ hai, phá.

Hỏi: “Người ngoài có bài kệ lập, vì sao Long Thọ không có bài kệ phá?”

Đáp: “Có hai nghĩa:

1/ Vì chứng tỏ dù người ngoài còn bào chữa lại, nhưng sau cùng, vẫn không lìa “đoạn”, “thường”, nên Luận chủ không đáp, không đáp như thế, tức là đáp.

2/ Nghĩa phá của Luận này có nhiều môn: Tự có, hễ có một lập, thì có một phá. Từ trên đến đây, đã phá, lập. Tự có đối đãi với người ngoài, nghĩa các bộ đã lập đều hoàn tất, đến một thời gian sau mới phá họ, chính là văn này.

Hỏi: “Nếu vậy, vì sao Thanh Mục lại đáp?”

Đáp: “Vì Thanh Mục đã nói rõ lý do Long thọ không đáp, không phải là đã phá nghĩa của họ. Sở dĩ Long thọ không đáp là vì họ có bào chữa riêng đi nữa, cũng không có chung, riêng, và vì đã rơi vào quan điểm trước kia rồi, nên không cần đáp nữa.”

Hỏi: “Không lìa “đoạn”, “thường” là sao?”

Đáp: “Pháp này gìn giữ nghiệp đến quả, thì rơi vào “thường” duy trì nghiệp không đến quả, thì rơi vào “đoạn”.

Lại “pháp không mất” nếu niệm niệm diệt, cùng với nghiệp đều “không”, lẽ ra rơi vào “đoạn”. Nếu không niệm niệm diệt, tức là vô vi, thì đâu thể gìn giữ nghiệp. Hơn nữa, “pháp không mất”, không có niệm niệm diệt, thì sẽ rơi vào “thường”; có “diệt” trong thời gian dài tức là nhập vào “đoạn”.

Hỏi: “Nếu vậy, thì sẽ có quả báo của nghiệp v.v… trở xuống, là môn thứ tư, tiếp theo, phá chấp đoạn diệt. Trước hỏi, tiếp theo là đáp. Ý hỏi: Trước, đã “Hai phen tìm “nghiệp” mà không có đối tượng gìn giữ kế lại phá pháp của nghệip năng trì. Nếu không có chủ thể gìn giữ, đối tượng gìn giữ, thì sẽ không có nhân; không có nhân thì không có quả, nên Luận chủ là Phương quảng “đoạn”, “không”, cũng là tà kiến của sáu sư?”

Đáp rằng: “ v.v… trở xuống, là hai chương bảy hai bài kệ thứ hai mươi bảy. Hai bài kệ trước, đã trình bày Trung đạo của hai đế, nói nghiệp lìa “đoạn”, “thường”. Năm bài kệ thứ hai, phá nghiệp của tánh nhất định của người ngoài rơi vào thường kiến.

Phần đầu lại có hai:

Bài kệ trước, nói về hai đế không “đoạn”, “thường”. Bài kệ tiếp theo, nói về Đệ nhất nghĩa đế không có sinh diệt. Dù là không cũng không đoạn, nghĩa là người ngoài cho rằng: “Vì Luận chủ chấp “không”, nên rơi vào đoạn diệt.” Cho nên, nay nói dù nghiệp rốt ráo không, nhưng không phải đoạn diệt. Hoặc “không” của tà kiến ngoại đạo, “không” mà Phương quảng nói, “không” mà người Nhị thừa nói đều là đoạn diệt.

Kinh Niết-bàn chép rằng: “Nếu do Thanh Văn mà nói là không có bố thí, thì đó là tà kiến phá giới.”

Luận Trí Độ nói: “Không” của Thanh văn, gọi là “đãn không” nên là đoạn diệt.”

Nay, nói “không” là có “không”, “có” rõ ràng mà “không”. Lại, “không” chẳng dừng ở “không”, gọi là không đoạn. Dù “có” không thường: Người ngoài nói là: “nếu không phải “đoạn”, tức lẽ ra là “thường”, nên gọi: là “Dù có, nhưng chẳng phải thường”, là phá “thường kiến” của họ. Vì “hữu” là “không”, “hữu”, nên “hữu” chẳng phải là “thường”.

Cái “có” mà ngoại đạo, Tiểu thừa và Đại thừa có sở đắc, mà họ đã chấp này tức là thường.

Hỏi: “Văn này luận đủ được ba trung hay không? Đáp: “Được! Dù “không” nhưng biết “không”, chẳng phải nhất định không.

Đã chẳng nhất định “không” thì “hữu” há lại nhất định ư? Lại vì “không”, nên chẳng là “hữu”; vì “hữu”, nên chẳng là “không”, tức Trung đạo Chân đế. Tục đế cũng vậy: vì “có”, nên chẳng chấp mắc “không”, vì “không”, nên chẳng trụ “hữu”, tức tục trung, hợp nói, rất dễ hiểu.

Lại, một thế tạo tác nghiệp chín đường rõ ràng mà bốn dứt, há là “đoạn” ư? Dù bốn dứt, nghiệp của chín đường rõ ràng, há là “thường” ư?

Luận Sư Đàm Ảnh, nêu lên rằng: “Chân đế dù “không” mà “hữu”; tục đế dù “hữu” mà “không”. Dù “không”, mà vì “hữu”, nên “không đoạn”; dù “hữu” mà vì “không”, nên “không thường”, giải thích này là hơn.

Quả báo của nghiệp không mất: là hai ý của nửa bài kệ dưới:

1/ Nói vì nghiệp có đủ hai đế, nên không đoạn, thường, làm cho quả báo không mất. Không có “pháp không mất” riêng gìn giữ nghiệp, khiến không mất. Vì đức Như lai đã dựa vào hai đế nói pháp, nên nói:

“Đây là thuyết mà Phật đã nói”.

2/ “Nếu dựa vào v.v… trở xuống, là văn xuôi giải thích:

Nửa bài kệ trên, chính là nói vì nghiệp là hai đế, nên không “đoạn”, “thường”. Đây là trình bày nghĩa chính Trung đạo, tức là đối với trung của nghiêng lệch.

Nửa bài kệ dưới, phá nghĩa tà: “Ông không biết Trung đạo của hai đế, nên nói có “pháp không mất”, rồi cho là thuyết mà Phật đã nói.

Văn xuôi, trước là giải thích nửa bài kệ trên, nêu chung: lìa “đoạn”, “thường”.

“Vì sao? v.v… trở xuống, là giải thích riêng lìa “đoạn”, “thường”.

Trong phần giải thích riêng được chia làm hai:

Đầu tiên, giải thích nửa bài kệ trên.

“Lại nữa v.v… trở xuống, là giải thích nửa bài kệ dưới:

Bản tánh của nghiệp rốt ráo “không”, không phải là trước kia đã có nghiệp diệt rồi, sau đó mới “không”, nên không phải đoạn. Nếu trước kia đã có nghiệp diệt, “rồi”, mới không, tức là đoạn diệt! Đây là giải thích câu đầu.

“Nhân duyên điên đảo v.v… trở xuống, kế là nói nghiệp dù rốt ráo “không” nhưng đối với điên đảo, rõ ràng có qua lại sáu đường, cũng không phải là thường. Đây là giải thích câu thứ hai.”

Hỏi: “Vì đối với con người điên đảo, hay là vì không thường?”

Đáp: “Đối với điên đảo là thật có, phần nhiều là thường kiến. Nay, người không điên đảo, biết điên đảo như huyễn mộng, nên là không “thường”.

“Lại nữa v.v… trở xuống, là giải thích nửa bài kệ dưới, nói người ngoài đã ngang trái cho rằng “pháp không mất”, dẫn lầm kinh Phật.

“Các nghiệp vốn không sinh v.v… trở xuống, là kệ thứ hai, nói Đệ nhất nghĩa không sinh, diệt. Nhưng hai đế đều không sinh diệt, nhưng nay nói không có sinh diệt; vì sinh diệt nên tùy nghiệp qua lại sáu đường, gọi là thế đế. Nếu không sinh diệt của sinh diệt, thì không còn qua lại sáu đường nữa, gọi là Đệ nhất nghĩa đế. Cũng được nói rằng, thế đế vốn không sinh, nay không diêt, vì thế đế vốn không có thật tánh sinh diệt. Nhưng văn này dù là bài kệ của một hạnh, nhưng thật ra là pháp đại sám hối của Phương Đẳng, trong sáu thời, thường muốn sám hối để diệt trừ tội nghiệp, đây là sai lầm. Cho nên nay nói các nghiệp vốn tự không sinh thì đâu có diệt ư? Người nào thể ngộ được thế thì như đây, tội sẽ tự thanh tịnh.

Nay, sám hối của người tu tập không có sở đắc là sám hối sở dĩ như thế là vì người có sở đắc thấy có tội sinh mà sám hối. Sám hối như thế là phạm tội phá thật tướng. Nay, biết nghiệp vốn không sinh, nay cũng không diệt, sám hối có sở đắc là sám hối tội. “Nếu nghiệp có tánh v.v… trở xuống, là phần thứ hai, phá nghĩa của người ngoài. Đây là từ một nghiệp đến bảy nghiệp, cho đến “pháp không mất”, đều phá chung nghĩa ba lượt trên của người ngoài.

Hỏi: “Luận này thường xuyên trước phá tà ngoại, sau trình bày nghĩa nhân duyên chân chính. Nay, vì sao trước tỏ bày chánh, sau phá tà?”

Đáp: “Luận có nhiều thể, không nên một bề chấp lấy. Lại, trước trình bày chánh, là nói nghiệp không rơi vào đoạn, thường, vì muốn chỉ rõ rằng, người ngoài chấp nghiệp, sẽ rơi vào chấp “thường”, nên trình bày ở đây chính là phá.

Năm kệ được chia làm hai: Bốn bài kệ đầu, y cứ môn nghiệp để phá nghiệp; một kệ sau, là nêu phiền não, để phá nghiệp.

Phần đầu lại có hai: Ba bài kệ trước, phá quả báo chưa thọ lãnh của người ngoài. Một bài kệ tiếp theo, phá nghĩa nghiệp quả mà họ đã thọ nhận trong quá khứ, tức là phá nghĩa hai đời là “có” của họ.

Ba kệ đầu, là sinh nhau theo trình tự: bài kệ trước vì nói không có tánh, nên không sinh, không diệt, tức chứng tỏ có tánh là sinh diệt, mà sinh là thường, diệt, là đoạn, nên nay, bài kệ thứ nhất chép rằng:

“Nếu như nghiệp có tánh ấy

Thì đó gọi là thường

Do vị lai vốn có

Tánh nghiệp há chẳng thường?”

Lại, hiện tại chấp nghiệp có tánh, cũng rơi vào “thường”, đây là ý chính. Nếu chấp nghiệp có một mảy may tự thể, một mảy may không nhờ duyên, thì gọi là thường, nếu một mảy may pháp nhờ duyên thì sẽ không có tự thể, không có tự thể, thì không có vật không vật thì vốn vô sinh, làm sao có nghiệp? Lời này thật thiết yếu, vì tất cả pháp đều hỏi câu này.

Không tạo tác cũng gọi nghiệp: Vị lai vốn có hai nghiệp thiện, ác. Hiện tại dù không tạo tác, cũng gọi là nghiệp. Lại, hiện tại có một mảy may tự thể của nghiệp, thì không nhờ duyên, tức là vì vốn có, nên là “thường”, thường thì không thể tạo tác, nghĩa là vị lại vốn tự có nghiệp, cho nên gọi là “thường”, thường, thì không thể tạo tác. Đây là bài kệ thứ nhất, nói lên nghĩa tánh “có”, có lỗi “thường”. Bài kệ thứ hai, chỉ rõ tiếp nửa bài kệ dưới, là không tạo tác nghiệp có lỗi. Nửa bài kệ trên, nói chung không tạo tác có tội.

Nửa kệ dưới, nói riêng về tội lỗi. Nửa trên của kệ thứ ba, là phá lỗi của pháp thế tục. Nửa kệ dưới, nói về lỗi không có sự khác nhau giữa tội, phước. Hai bài kệ còn lại, dễ hiểu.

Hỏi: “ v.v… trở xuống, là lượt thứ năm, tiếp theo, là phá quả báo của nghiệp. Trước hỏi, tiếp theo là đáp. Về ý hỏi có hai:

1/ Nhận lãnh nhân “không”, vẫn như trên, sau cùng, dùng phiền não để phá nghiệp sinh.

2/ Lập quả “có”

Đáp rằng: “ v.v… trở xuống, là phần thứ hai, phá:

“Ong đã lấy quả “có” để chứng minh nhân “có”, nay tôi dùng nhân “không” để nghiệm quả là “không”.

Văn xuôi, trước giải thích nửa bài kệ trên.

“Nay, các phiền não v.v… trở xuống, là giải thích nửa bài kệ dưới.”

Hỏi: “Phiền não và nghiệp so với quả khác nhau thế nào?”

Đáp: “Luận Câu Xá nói: “Phiền não trực tiếp làm cho quả “có”; nghiệp khiến cho quả của sáu đường khác nhau. Tương ưng với văn xuôi của văn này.”

Hỏi rằng: “ v.v… trở xuống, là lượt thứ sáu, phá nghĩa của người khởi nghiệp: Từ trên đến đây, năm đoạn đều là phá pháp. Nay, kế là phá “người”. “Pháp” là gốc của “người”. Lại, nội học thường chấp có “pháp”, nên trước phá “pháp”, sau phá “người”. Trước lập, kế là phá.

Lập được chia làm ba:

1/ Văn xuôi phát khởi

2/ Bản bài kệ chính thức lập

3/ Giải thích

Văn xuôi có hai: Đầu tiên, là lãnh hội nhân quả trước là “không”.

“Mà kinh nói v.v… trở xuống, là lập có “người”, “pháp”.

Bản bài kệ chính là lập nhân tố của “người”. Tỳ Bà Sa nói: “Vô minh che lấp mắt người kia, kiết ái ràng buộc thân họ, tức là từ si có ái. Do nhân duyên si, ái, nên khởi nghiệp, nhân duyên nghiệp, nêu thọ thân trong sáu đường.

Nửa bài kệ dưới lập tác, thọ có hai, nghĩa là không phải “một”, không phải “khác”. Về nghĩa của pháp thật là “người” diệt trước, bò sinh sau, cho nên “không phải một”. Giả gọi nối tiếp nhau chuyển người thành bò, cho nên “không khác”. Cũng được ước dịnh hai hình: người, và trâu, cho nên không phải một”. Thần minh không có riêng, cho nên không “khác”.

Đáp: “Hai bài kệ giữa chia làm hai:

1/ Kệ đầu, nói nhân của “người”, “pháp” là không có.

2/ Kệ tiếp theo, quả của “người”, “pháp” là “không”.

Nửa trên của bài kệ trước, nói “pháp” được khởi là “không”.

Nửa kệ dưới, là nói vì người năng khởi là không. Nửa trên của bài kệ thứ hai là nói nhân của người và pháp là không, cho nên của pháp là “không”, nửa bài kệ dưới là nói vì quả của pháp.

Kinh Niết-bàn chép: “Nghe không có tạo tác, không có thọ, thì năm tội nghịch được tiêu diệt”. Nay, hai bài kệ này nói không có “người” tạo tác, “pháp” tạo tác; không có quả được thọ, người năng thọ, thì năm nghịch liền tiêu diệt. Cũng là hai nhẫn: Sinh, pháp nhẫn, hai vô ngã nhân, vô ngã và pháp vô ngã. Đây là do bản tánh “không”, chứ chẳng phải do phân tích, mà không, cho nên “không”. Văn xuôi chia làm ba:

Đầu tiên, giải thích bản bài kệ, tức là nghĩa phá.

“Nghiệp có ba thứ v.v… trở xuống, là giải thích riêng nghĩa lập. Thân, miệng, ý là ba, cũng là ba thứ tội, phước, bất động v.v…. Đây là giải thích riêng về nghĩa nghiệp.

Trong năm ấm, giả gọi là “người”, đây là giải thích người khởi nghiệp.

“Nghiệp này v.v… trở xuống, là giải thích quả báo. Người thọ quả, tức là người khởi nghiệp, cho nên không giải thích riêng.

“Nếu người khởi nghiệp v.v… trở xuống, là phần thứ ba, lại kết thành ý phá.”

Hỏi rằng: “ v.v… trở xuống, là đoạn thứ bảy, phá việc mắt hiện thấy. Trước hỏi, tiếp theo đáp.

Lý lẽ thí dụ của người ngoài, dù quanh co màtâm mê “hoặc” không dứt trừ, nên nêu việc hiện thấy để hỏi Luận chủ. Hỏi có hai:

1/ Nhận lãnh việc bị đả phá ở trên, mà nay hiện thấy v.v… trở xuống, là chính là nêu hiện sự để hỏi Luận chủ.

Nếu “người”, và “pháp” đều không, thì mắt không nên thấy. Nếu mắt người kia thấy thì “người”, “pháp” chẳng phải không có. Lại, nghe trước kia không có, nay do hiện thấy có, xin Luận chủ giải thích? nên nói: thế nào?

Lại, một lời trên đây đã cùng cực, nay nêu hai mắt để bào chữa.

“Đáp rằng v.v… trở xuống, là ba bài kệ được chia làm hai:

1/ Hai kệ đầu, nói riêng về pháp dụ.

2/ Một kệ tiếp theo, nói chung pháp dụ.

– Phần trước lại được chia làm hai:

1/ Kệ đầu, nêu dụ

2/ Kệ tiếp theo, hợp dụ

Sở dĩ nêu sự biến hóa lần nữa để được hiểu rõ hơn, là vì ông nói là hiện thấy, thì phải “có”, nếu “không” thì lẽ ra chẳng thấy. Điều này không đúng! Bởi mắt cũng thấy biến hóa, có thể nói “có” ư? Mắt dù thấy biến hóa đã “không”, mắt thấy việc sáu đường, cũng đồng như vậy.

Lại, từ trên đến đây, sáu lượt đã nói về nghiệp rốt ráo “không”, chẳng có nghĩa “có”. Trước kia, đã nói có “không có sở hữu”, để phá tâm chấp mắc “có”. Nay, nói có “không sở hữu”, nhằm dứt tâm chấp có nay nói vô sở hữu có để dứt trừ chấp không tức là y cứ nghĩa nghiệp để nói về Trung đạo.

Lại, từ trên đến đây, đã phá nhất định có tánh, một lượt này mới bắt đầu trình bày kinh, nói về nhân duyên thế đế “có” như trò ảo thuật, mà có. Cái “có” này không có “sở hữu”, mới là chân đế.

Lạ, từ trên đến đây, đã y cứ môn pháp thuyết để phá nghiệp. Nay, một lượt này là y cứ ở dụ thuyết để phá nghiệp, cụ thể như trong phần cuối phẩm Ba Tướng đã giải thích cặn kẽ.

Từ trên đến đây, đã phá nghiệp “đoạn”, “thường” của người ngoài rồi là nói rốt ráo “không” như thế thì phá bệnh mới xong. Nay, mới trình bày hai đế của kinh. Tăng Triệu đã dùng văn này để sáng tác luận Bất chân không. Ví như người huyễn hóa, chẳng phải không có người huyễn hóa, mà người huyễn hóa chẳng phải là người thật.

Chẳng phải không có người huyễn hóa, tức tục đế, người huyễn hóa chẳng phải người thật, là chân đế. Lại, chẳng phải không có người huyễn hóa, chứng tỏ chẳng phải “không có”nghĩa. Không phải là người thật, chứng tỏ nghĩa “chẳng phải có”, đều là nói tục đế huyễn; sáu đường rõ ràng mà thường bốn dứt bặt. Bốn dứt bặt rõ ràng mà sáu đường không mất.

Hỏi: “Vì sao nêu đức Thế Tôn lại biến hóa?”

Đáp: “Sự biến hóa của Phật và sự biến hóa của người khác, gồm

có ba điểm khác nhau:

1/ Phật có thể biến hóa lại, người khác thì không thể.

2/ Sau Phật diệt độ, có thể để lại sự biến hóa, người khác không thể.

3/ Với người khác, hễ hóa chủ nói, thì người biến hóa im lặng; nếu người biến hóa nói, thì hóa chủ im lặng. Phật có thể đều cùng nói, đều cùng im lặng.

Nửa trên của bài kệ thứ ba, giải thích rộng về “pháp”; nửa bài kệ dưới, nói rộng về dụ.

Văn xuôi, đầu tiên, là giải thích bài kệ trước.

“Thân sinh tử như thế v.v… trở xuống, là giải thích hợp dụ của bài kệ thứ hai.”

Các phiền não: là giải thích bài kệ thứ ba.

Trước hết, là giải thích nửa bài kệ trên. Giải thích bốn pháp trong nửa bài kệ trên:

1/ Giải thích phiền não

2/ Giải thích nghiệp

3/ Giải thích tác giả

4/ Giải thích quả báo

Có chia ra chín mươi tám sử. Tỳ-Bà-Sa nói: “Đức Phật chỉ nói bảy sử. Ca-chiên diên, người thông minh, căn cơ nhạy bén, đã chia bảy sử thành chín mười tám, tương ưng với văn này.

Lại, Luận Thành Thật phá chín mười tám sử rằng: “Phiền não tùy địa, không tùy cõi, đâu chỉ chín mươi tám, thì biết chín mươi tám không phải do Phật nói. Ba độc, chín mươi tám sử chỉ là chánh sử căn bản. Chín kiết: bảy sử và keo kiệt, ghanh tị, là chi căn hợp thuyết. Mười triền, sáu cấu, chỉ nói chi nhánh nhóc.

Vô lượng các phiền não: Nói tóm tắt có tám trăm; nói rộng, có tám vạn bốn ngàn. “Nghiệp, gọi là nghiệp, thân, miệng, ý v.v… trở xuống, là giải thích nghiệp trong bài kệ. Đầu tiên, nói về ba nghiệp.

“Đời nay, đời sau v.v… trở xuống, là y cứ ba tánh để nói về nghiệp.”

“Báo khổ v.v… trở xuống, là y cứ môn Ba thọ để nói về nghiệp.”

“Hiện báo v.v… trở xuống, là y cứ môn Ba báo, để nói về nghiệp.”

Vô lượng pháp như thế v.v…. Từ trên đến đây, chỉ là bốn thứ ba môn nói về nghiệp. Lại có vô lượng các môn của bốn nghiệp, mười nghiệp.

Tác, nghĩa là giải thích tác giả trong bài kệ.

“Báo khác v.v… trở xuống, là giải thích chữ “quả báo” trong bài kệ.

Như thế v.v… v.v… trở xuống, là giải thích nửa dưới của bài kệ thứ ba.

 

(Phần 2)

PHẨM PHÁP THỨ MƯỜI TÁM

Sở dĩ có phẩm này vì gồm có ba nghĩa:

1/ Nói về quán hạnh chung. Phẩm trước là quán nghiệp “không”, phẩm này là quán pháp “không”.

2/ Vì phá bệnh, nên có phẩm này. Từ phẩm đầu đến phẩm quán nghiệp, đả phá phần riêng trong pháp, đó là quán riêng. Nay, là chung, hoặc “người”, hoặc “pháp”, đều gọi là pháp, gọi là quán chung. Vì thế, luận có chung, riêng để phá bốn duyên. Kinh nói về hai tướng rộng, lược nói pháp.

Hỏi: “Vì phá pháp điên đảo, nên gọi là quán “pháp”, hay vì quán thật tướng của các pháp mà gọi là pháp ư?” Đáp: “Đều cùng có cả hai nghĩa:

1/ Vì tìm pháp điên đảo không thật có, nên nói là quán “pháp”.

2/ Quán hoặc “người”, hoặc “pháp”, vạn hóa không đồng, đều là pháp thật tướng, để cho học trò cầu lý, nhờ đó mà ngộ nhập, cho nên văn nói: “Nếu các pháp rốt ráo “không” là thật tướng, thì làm sao ngộ nhập ư? Đây là ý đúng.

Hỏi: “Luận này phá tất cả luống dối, nghiêng, tà, để hiển bày thật tướng của chánh đạo, vì sao không nói ngay từ đầu? Nếu không như vậy, thì tại sao đến sau cùng mới nói, mà không nói ở khoảng giữa ư?” Đáp: “Tóm tắt có hai nghĩa:

1/ Căn cứ theo phá trình bày thứ lớp. Vì tà giáo che lấp chánh kinh, nghĩa lý không chiếu sáng, nên phải phá tà thì tông chỉ sâu xa mới được hiển lộ. Vì thế, nên đến chương này mới nói đến thật tướng các pháp.

Vả lại, hai mươi lăm phẩm của luận này được chia rộng thành ba ý: Mười bảy phẩm đầu là phá rửa sạch người, pháp, nói về thật tướng các pháp. Nay, một phẩm này tiếp theo, nói về được lợi ích:

Từ phẩm phá thời gian về sau, lại còn phá chấp, nói lại thật tướng.

Hỏi: “Vì sao lập ra phần này ư?”

Đáp: “Vì dựa vào phẩm Giải tập ứng của Luận Trí Độ, trước hết, nói Bồ-tát tập ứng Ba-nhã. Tiếp theo, ở giữa, nói được lợi ích, nghĩa là tội nặng được tiêu diệt, chư thiên che chở. Nói được lợi ích rồi sẽ nói về tập ứng. Đức Như lai nói kinh đã có ba pháp này. Bồ-tát soạn luận nghĩa, cũng như thế.

Từ trên đến đây, đã phá tà, bày chánh, mà người nghe không biết phá, bày sẽ được những lợi ích gì? Cho nên, phẩm này sẽ nói về lợi ích . Dù được lợi ích, nhưng nghi, chấp vẫn chưa hết, nên phải phá tà, nói lại thật tướng.

Lại đã nghe được lợi ích, thì ưa muốn nghe. Dù trước kia được lợi ích, về sau, lại tiến đến thể ngộ sâu sắc. Lại, về sau, dù được lợi ích mà được không có đối tượng chứng đắc, nên lại phá tà, hiển bày thật tướng.

3/ Từ trên đến đây, đã nói về thể của thật tướng, một phẩm này sẽ nói về dụng của thật tướng.

Hỏi: “Thế nào là thể của thật tướng? Dụng của thật tướng là gì?”

Đáp: “Chín mươi sáu giáo phái đều nói rằng: “Thiên hạ chỉ có mình ta, ; thiên hạ chỉ có một đạo của ta, và đều cho rằng pháp của mình là thật, ngoài ra đều luống dối.”

Người A-tỳ-đàm cho rằng lý của bốn chân đế là thật. Luận Thành Thật nói: “Chỉ cólý “không” bình đẳng của Diệt đế, mới được gọi là thật. Đại thừa của cõi nước phương Nam, gọi lý phá đế, là chân thật. Ở phương bắc gọi thật tướng của Ba-nhã là thật, cho đến lý hai vô ngã, lý ba vô tánh, A-ma-la thức của học giả Nhiếp Đại thừa, đều gọi là chân thật, ngoài ra là luống dối.

Nay, xét chung, nếu có một lý gọi là chấp thường, tức là luống dối, không gọi là thật. Nếu không có một lý, thì lại là tà kiến, cũng là luống dối, chẳng phải chân thật. Vừa có, vừa không có, thì đầy đủ “đoạn”, “thường”, chẳng phải có, chẳng phải không, là luận ngu si. Nếu đầy đủ bốn quan điểm, thì khởi đủ các kiến chấp, đều “không” bốn quan điểm, tức là đoạn lớn.

Nay, nói nếu có thể lìa các chấp này, tâm không có chỗ nương , không biết lấy gì để gọi, chỉ gượng xưng là thật tướng. Thật tướng này là gốc mê, ngộ. Ngộ thì có Hiền, Thánh của ba thừa. Nên Niết-bàn chấp rằng: “Người thấy Trung đạo, gồm có ba hạng: Vì trí quán bực hạ, nên được Bồ-đề Thanh văn, vì trí quán phẩm trung, nên được Bồ-đề duyên giác, vì trí quán phẩm thượng, nên được Bồ-đề vô thượng. Mê thật tướng này, thì có sinh tử lăng xăng trong sáu đường, nên kinh Tịnh Danh nói: “Từ vô trụ, vốn lập tất cả pháp. Nhưng thể của thật tướng bao gồm các đức, không ra ngoài pháp tánh, dụng cùng cực khéo léo đủ tất cả môn. Nay, lược nêu có hai:

1/ Y cứ “người” để nói thể, dụng

2/ Dựa vào “pháp”, để nói về thể, dụng

Y cứ “người”, để nói về thể dụng: bài kệ dưới đây nói:

“Trong thật tướng các pháp

Chẳng ngã, chẳng phải vô ngã.”

Đây là y cứ “người” để nói về thể của thật tướng. Chư Phật hoặc nói “ngã”, hoặc nói “vô ngã”, thể, dụng của “ngã” “vô ngã” đã thế, hơn ba mươi cuộc tranh luận về thường, vô thường, chân, tục, ba thừa, nhất thừa, năm bộ, mười tám bộ, kinh Niết-bàn, cho đến năm trăm bộ với tám mươi bốn ngàn pháp môn, đều là dụng của thật tướng, vì bốn môn chung cho không trái với vô tướng:

1/ Vì tùy thế giới nên nói

2/ Vì đối trị nên nói

3/ Mỗi mỗi vì người nên nói

4/ Dựa vào môn Đệ nhất nghĩa nên nói

Vì thế, nên người học luận này, thể ngộ khắp tất cả Phật giáo.

Hai là y cứ “pháp”, để nói về thể dụng. Nghĩa là bài kệ dưới đây nói:

Tất cả thật, không thật Vừa thật, vừa không thật Chẳng thật, chẳng hi thật.

Bốn môn này đều là phương tiện của thật tướng. Bốn môn du tâm, bèn nhập thật tướng, nên dùng bốn môn làm dụng, “không bốn” làm thể. Về sau, sẽ đầy đủ, gần thì từ phẩm Nghiệp sinh. Phẩm trước, là nêu biến hóa lại, đề nói về nhân quả của “người” “pháp” đều rốt ráo “không”, tức là thật tướng các pháp.

Người ngoài nói: “Nếu thế, thì làm sao được nhập?”

Nay, sẽ đáp câu hỏi năng thể nhập, sở nhập của ông, mới có thể được nhập, đó là lý do có phẩm này.

Hỏi: “Pháp là nghĩa gì?”

Đáp: “Lấy lý mà nói, chỉ là một chánh pháp. Như nói rằng: “chánh pháp tánh viễn ly v.v…”. Lại nói: “Một đường ra khỏi sinh tử v.v… của tất cả người vô ngại.”

Nếu theo nghĩa dụng, thì có ba thứ pháp:

1/ Phép tắc, gọi là pháp, tức là pháp của giáo lý Phật.

2/ Tự thể, gọi là pháp, cũng được thông qua lý, giáo, nghĩa là sắc tâm v.v….

3/ Đối tượng duyên của ý thức, gọi là Pháp. Đây là y cứ cảnh mà nói. Đối tượng duyên của mắt là sắc, cho đến đối tượng duyên của thân gọi là xúc. Nay, là vì đối tượng duyên của ý, nên gọi là pháp. Đối tượng duyên của ý thức được chung mười bảy pháp giới trên đây, nên gọi là pháp giới. Đại luận quyển mười tám nói: pháp, là đối tượng duyên của thức; là pháp, sở duyên của trí. Các ngoại đạo cũng có ba pháp này, nhưng ngoại đạo lại có sở duyên của thần riêng pháp,. Số luận đồng nói ba pháp này, nhưng không có pháp, sở duyên của thần riêng.

Kinh Thập Địa chép: “Lúc bấy giờ, vượt qua ý giới, trụ trong trí nghiệp, nên biết rằng, đối tượng duyên của điên đảo, đều là huyễn hóa, không thể được.”

Hỏi: “Kinh Tịnh Danh nói: “Chỉ trừ bệnh của người kia, mà không trừ bỏ pháp kia. Nay, vì sao phẩm này gọi là phá pháp ư?” Đáp: “Không trừ bỏ pháp kia, gồm có hai thứ:

1/ Vì bệnh nên thấy pháp, cũng như đau mắt, nên thấy hoa đổm trong hư không. Vì không có pháp để trừ bỏ, nên nói rằng, không trừ bỏ pháp kia. Nay, nói rằng, phá pháp, nghĩa là phá pháp bệnh.

2/ kinh Niết-bàn nói: “Chỉ dứt trừ chấp mắc, không dứt trừ ngã kiến. Vì ngã kiến, tức là Phật tánh. Nay, cũng thế, chỉ phá tâm chấp mắc của người ngoài, cũng không phá thật tướng các pháp, nên chỉ nói “quán pháp”.

– Phẩm này được chia làm ba:

1/ Văn xuôi phát khởi

2/ Bản bài kệ chính là nói quán pháp

3/ Văn xuôi giải thích

Phần đầu có hai lượt hỏi đáp: Trước ý hỏi rằng: “Từ phẩm nhân duyên đến phẩm Quán Nghiệp, đồng nói tất cả pháp đều rốt ráo “không”, đây gọi là thật tướng các pháp. Ở đây, là nhắc lại thuyết trên đây của Luận chủ, nhắc rõ lại ý này, tức là minh họa thật tướng các pháp, cho đó là pháp. Nay, vì quán pháp này, nên nói là, phẩm Quán Pháp.

Thế nào là Nhập? Nhập là ngộ, là chứng, cho nên hỏi nhập, nhưng luống dối không thể được nhập thật tướngThật tướng lại không được nhập thật tướng. Lại tìm luống dối không thể được, thử hỏi đem vật gì để nhập thật tướng ư? Nếu dùng thật tướng nhập thật tướng, thì lẽ ra kiến lập thật tế, đối với thật tế, mà thật ra thì không như vậy. Trong hai môn, làm sao được nhập?

Đáp: “Diệt “ngã”, “ngã sở”, gọi là nhập: ý người ngoài nói “có thật tướng là sở nhập, người thực hành là chủ thể nhập, như nay, người học Đại, Tiểu thừa đều nói: “có người năng chứng được Bồ-đề, Bồ-đề là sở chứng.” Luận chủ nói: “Nếu bỏ được người năng nhập, và pháp sở nhập, thì rốt ráo “không” chủ thể nhập, đối tượng nhập, mới gọi là nhập.”

Kinh Hoa Nghiêm chép: “Cảnh giới sâu mầu của Như lai, dụng lượng của cảnh giới ấy ngang bằng với hư không. Tất cả chúng sinh nhập chân thật, không có sở nhập.”

Kinh Đại Tập chép: “Nhập không có nhập, mới gọi pháp nhập”, cũng như Khai thị tông Ba-nhã, Thân tử hỏi: “Thế nào là Bồ-tát thực hành Ba-nhã? Đức Phật dùng năm thứ mắt không thấy bèn lại quở trách, nếu có thể không thấy nang hành thể của Bồ-tát, không thấy chữ Bồtát, không thấy Ba-nhã; không thấy thực hành, không thấy không thực hành, mới được gọi là hạnh của Bồ-tát đối với Ba-nhã.” Nay, cũng vậy.

Bài bài kệ của Ma kiền đề trong Luận trí độ quyển thứ nhất rằng:

“Chẳng thấy, nghe hay biết

Không do giữ giới được

Cũng chẳng là không thấy nghe

Chẳng không giữ giới được.”

Người kia nạn rằng: “Nếu vậy, thì phải thực hành pháp câm, mới được đạo chăng? Phật đáp:

“Nếu không thấy các pháp thì lúc bấy giờ ông sẽ tự câm”, đều là ý văn nay.

Hỏi: “Trên đây, đã lấy việc phá “ngã”, vì sao lại phá ngã nữa?”

Đáp: “Bệnh “ngã” khó trừ! Lại, là gốc của các “hoặc”, cho nên, cần phải phá lại. Lại, trên đây, phần nhiều phá nghĩa thật có “ngã”. Nay, trong đây, chính là nói nhập thật tướng quán, trừ diệt “ngã” vi tế giả danh. Nếu có người Đại thừa gọi là Bồ-tát. Muốn thực hành thật tướng quán, tức là “ngã” và sở kiến của ngã , nên khác với trên.

Tiếp theo, là hỏi, đáp như văn.

Bản kệ ở quan nội xưa chia làm ba:

1/ Năm kệ nói về Thanh văn bẩm thọ giáo được lợi ích 2/ Sáu kệ nói Bồ-tát bẩm thọ giáo được lợi ích 3/ Một bài kệ, nói Duyên giác được lợi ích.

Sở dĩ nói riêng Thanh văn, tiếp theo, Bồ-tát, là vìcả hai địa vị này đồng bẩm thọ giáo pháp Phật, nên cùng một loại mà nói. Duyên giác đã ra đời không có Phật, vì không bẩm thọ Phật giáo, nên sẽ nói riêng ở sau, cũng như Thanh văn tạng, Bồ-tát tạng, không gọi Duyên giác tạng, bởi Duyên giác không bẩm giáo.

Hai chương trước, tức là nói về hai tạng, cũng là Đại, Tiểu thừa, cũng là bán, mãn, nên đã trình bày tất cả lợi ích cùng khắp, không nói về giáo của người, trời, nghĩa là nếu nói xuất thế thì đủ được thế gian.

Hỏi: “Đã là luận Đại thừa, thì chỉ nên nói Bồ-tát được lợi ích, sao lại nói về giáo và lợi ích của nhị thừa?”

Đáp: “Vì nói lên luận này không có mê nào, không phá, không có giáo nào không bày, không có lợi 1ich nào không đầy đủ mới là Đại thừa, vì Đại, bao gồm Tiểu. Sở dĩ trước Tiểu, sau Đại, là vì thị hiện trình tự lợi ích của giáo. Lại muốn nói lên Tiểu là phương tiện, Đại là chân thật. Trước, khai thị môn phương tiện, sau chỉ bày tướng chân thật.

Người thời Cận đại nói: “Đây là do Diêu sư ở cõi nước phương Bắc, phân ra bởi không xa tìm cổ sớ nên mới có sự lầm lẫn này. Lại, dựa vào phần cuối văn xuôi, Thanh Mục tự sáng tác ra văn này, người giảng nói, nên áp dụng.

Một luận sư kế nhau, chia ra làm năm:

1/ Một hàng rưỡi, nói đối tượng lìa.

2/ Một hàng rưỡi, nói được Tuệ vô ngã.

3/ Hai hàng nói về hai thứ Niết-bàn.

4/ Năm hàng, nêu rộng về giáo pháp Phật.

5/ Hai hàng, nói về ba thừa được lợi ích.

Nay, nói về sự phân chia này thì văn rối loạn, cần áp dụng ý trước.

Y cứ năm bài kệ nói về Thanh văn quán, được chia làm hai phần khác nhau:

1/ Một kệ rưỡi, nêu lên giáo của Thanh văn 2/ Ba bài kệ rưỡi, nói bẩm thọ giáo được lợi ích.

Y cứ phần đầu lại có hai:

Trước, một bài kệ nói về giáo “người” vô ngã.

Tiếp theo, nửa bài kệ nói giáo “pháp” vô ngã, cũng là sinh “không”, pháp không .

– Kệ đầu lại chia làm hai:

Nửa kệ trên, phá “ngã” tức ấm. Nửa kệ dưới, phá “ngã” lìa ấm.

Nửa kệ trên chép rằng:

“Ngã” đã “tức” ấm

Am có sinh diệt

“Ngã” cũng nên thế”

Nếu như vậy, chỉ thấy năm ấm, không thấy có “ngã”. Lại, “ngã” là năm ấm. Am năm, “ngã” cũng có năm, thì mất đi một “ngã”, “một” không có thì “nhiều” cũng không có. Lẽ ra cũng so sánh với ấm “ngã” đã “tức” ấm, “ngã” một, ấm cũng “một”, thì mất đi năm ấm. Vì “nhiều” không có, nên “một” cũng không có, nhưng nay chính là phá ngã, không phá ấm nên chỉ lấy “ngã” từ ấm, không đem ấm so sánh đồng với “ngã”.

Nửa kệ dưới chép rằng:

Đã ly ấm có thể của “ngã”

Lẽ ra cũng lìa ấm có tướng “ngã”

Nếu trở lại dùng tướng ấm làm tướng của “ngã”, thì lẽ ra cũng lại lấy thể của ấm làm thể của “ngã”. Chấp “ngã” là nói lên tướng phiền não. Lại nói: “Ngã” có bốn màu như đỏ, trắng v.v…. Lại nói: “ngã” như châu ngọc, như ánh lửa đèn, đều lấy tướng ấm làm tướng. Cho nên, nay trách:

Không riêng thấy tướng của “ngã” làm cho “khác” với tướng của ấm, không nên trở lại dùng tướng ấm làm tướng của “ngã”.

Hỏi: “Vì sao kẻ chấp “ngã” lại chấp tướng ấm làm tướng của ngã?”

Đáp: “Vì ấm thuộc hữu vi. Kẻ chấp “ngã” nghe nói dùng tướng hữu vi để chứng “ngã”. Vô vi không có tướng mạo, không được nêu lên để chứng ngã.

“Nếu không có “ngã”, là phần thứ hai, nói “pháp” vô ngã, cũng là “pháp không”. Trước kia, mượn ấm để trừ “ngã”. Nay, ở đây mượn “ngã” để loại trừ ấm.

Hỏi: “Luận Trí Độ nói Đại, Tiểu thừa đủ cả hai trí vô ngã. Quyển mười tám chép: “Luận chủ dẫn kinh Tiểu thừa chép: “Thế nào là già bệnh?” Nghĩa là “pháp không”. Ai già, bệnh, chết? Nghĩa là “nhân không”, trong khi đó, kinh Lăng-già, Nhiếp luận v.v… thì nói Tiểu thừa

chỉ được “nhân không”. Vậy, làm sao hiểu được?” Đáp: “Tiểu thừa có hai hạng:

1/ Chậm lụt

2/ Nhạy bén

Hạng căn cơ nhạy bén, có đủ hai “không”. Người căn cơ chậm lụt

chỉ được “nhân không”, tức Tỳ-đàm, Thành Thật.

2/ Tiểu thừa thường nói “nhân không”, ít nói “pháp không”. Đại thừa thường nói “pháp không”, ít nói “nhân không”, lấy ít theo nhiều để luận, nên Lăng-già chỉ nói “người không”.

3/ Tiểu thừa được “người không” cùng tận, vì đều biết rốt ráo vô ngã, nên nói được, “người không”, còn được “pháp không” chưa cùng tận. Không biết pháp bản tánh là “không”, không biết ba cõi, trong, ngoài là “pháp không”. Vì thế, nên không nói Thanh văn được “pháp không”.

Vì diệt “ngã”, ngã sở v.v… trở xuống, là phần thứ hai, nói về bẩm thọ giáo được lợi ích lại chia làm hai: trước nói được lợi ích của hai trí vô ngã, kế là được lợi ích của hai Niết-bàn, trước là ích nhân, kế là ích quả; trước là ích trí, sau ích đoạn; trước là được Đạo, sau là chứng Diệt. Lại trước là công đức hữu vi, là công đức vô vi, cũng là hai giải thoát vô vi. Tông chỉ của Thanh văn, chủ yếu không ngoài hai pháp này.

Phần đầu lại chia làm hai:

1/ Chính là nói được trí Vô ngã 2/ Khen pháp khen “người” Đầu tiên, như văn.

“Được trí vô ngã v.v… trở xuống, là chương thứ hai, khen “pháp khen người.

Nửa kệ trên, là khen “pháp”.

Nửa kệ dưới, là khen khen người.

Trong ngoài, “ngã”, “ngã sở” v.v… trở xuống, là phần thứ hai, nói được quả của hai Niết-bàn. Nhờ tu nhân của trí hai vô ngã, nên được quả của hai Niết-bàn, vì là đại tông của nghĩa Thanh văn.

Văn chia làm hai:

1/ Bài kệ đầu, nói về vô dư

2/ Bài kệ tiếp theo, nói về hữu dư

Y theo trình tự tu hành, trước được hữu dư, kế được vô dư. Nay, trước nói về vô dư, sau, sẽ nói về hữu dư. Gồm có hai nghĩa:

1/ Nay, là môn Thuyết. Trước nói về phần sâu sắc chung, để cho họ kính mến mong cầu.

2/ Cách hành văn liền lạc, đã nói tiêu diệt “ngã”, “ngã sở” tức được vô dư.

Nửa kệ trên, là nhắc lại trước, “ngã”, “ngã sở” trong ngoài: “ngã” là trong sở” là bên ngoài. Lại, “ngã” “tức” ấm là bên trong; “ngã” lìa là bên ngoài. Sở cũng có hai thứ:

Năm ấm là “sở” bên trong, bình, áo là “sở” bên ngoài.

Các thọ thì là diệt: “ngã”, “ngã sở” là “phiền não kiến”, thọ là sử ái chấp mắc, cũng đầu tiên là kiến đế, tiếp theo là tư duy. Vì các kiến diệt, nên các thọ liền diệt. Vì kiến ái diệt, nên báo thân là diệt. Trước là kiến diệt nên ái diệt, thọ diệt thì thân diệt. Đây là nhân diệt, nên quả diệt. Vì nghiệp phiền não diệt, nên phần thứ hai, nói về Niết-bàn hữu dư.

Nửa kệ trên, chính là nói về kiết nghiệp diệt.

Nửa kệ dưới, giải thích lý do diệt, vì phiền não nghiệp luống dối, không thật, nếu thể ngộ được rốt ráo “không”, thì hí luận liền diệt. Hỏi: “Có mấy thứ hữu Dư, Vô dư?” Đáp: “Tóm tắt có ba thứ:

1/ Hữu Dư, Vô dư của Tiểu thừa

2/ Hữu Dư, Vô dư của Đại thừa

3/ Đại, Tiểu thừa hợp nói Hữu Dư, Vô dư Hữu Dư, Vô dư của Tiểu thừa:

1/ “Sự ràng buộc của hạt giống đã hết, gọi là Hữu dư, vì sự ràng buộc của hạt giống vẫn còn hệ lụy, nên gọi Hữu dư.”

Luận Sư Tăng Triệu nói: “Dấu vết thừa chưa hết, duyên thừa chưa hết, nên gọi là Hữu dư. Nếu bỏ đi báo thân, không còn hệ lụy thừa, thì gọi Hữu dư. Tiếp theo, nói: “Cắt đứt hạt giống ràng buộc hết, vì được vô vi chưa đủ, nên vô vi vẫn còn hữu vi, vì được Vô vi chưa đủ, nên Vô vi vẫn còn Hữu dư, gọi là Hữu dư. Nếu diệt báo thân, thì vì Vô vi liền đủ, nên gọi là Vô dư.

Hữu Dư, Vô dư của Đại thừa. Nghĩa là diệt năm trụ phiền não, gọi là Hữu dư. Báo của hai tử mất, gọi là Vô dư. Nhưng Tiểu thừa được hai Niết-bàn có trước, sau, Đại thừa thì được Niết-bàn cùng một lúc. Năm trụ “Hoặc” đã hết, hai tử bị ngã. Hơn nữa, Tiểu thừa trước được Hữu dư, sau được Vô dư. Đại thừa trước được Vô dư, tức là pháp thân. Sau khởi hai thân ứng, Hóa, gọi là Hữu dư.

Lại nữa, Đại thừa y cứ ba thân, nói về ba Niết-bàn: Pháp thân là Niết-bàn Vô dư; hai thân ứng, Hóa, gọi là Niết-bàn Hữu dư. Đều căn cứ ba thân, là Niết-bàn Vô trú xứ. Vì pháp thân, nên không ở lại sinh tử. Hai thân Ứng, Hóa không lại Niết-bàn vì hai thân đó đều cùng diệt hai chấp mắc, gọi Niết-bàn Vô trú xứ.

Các dẫn chứng trên đây đều xuất xứ từ phẩm Ba Thân trong kinh Kim Quang Minh bảy quyển.

Nhiếp Đại thừa nói bốn Niết-bàn, ba Niết-bàn như trên. Kế là, nói

bản tánh thanh tịnh, gọi là Niết-bàn.

Đại, Tiểu thừa nói về hữu Dư, Vô dư. Nghĩa là Hữu Dư, vô dư của Tiểu thừa, đều là Hữu dư. Hữu Dư, Vô dư của Đại thừa, đều là Vô dư, là ý của kinh Thắng-man.

Chư Phật hoặc nói “ngã” v.v… trở xuống, là phần thứ hai, nói về Bồ-tát quán.

Hỏi: “Vì sao trước nói Thanh văn quán, sau nói Bồ-tát quán?”

Đáp: “Vì muốn nói từ cạn đến sâu, nên trước Tiểu, sau Đại. Hơn nữa, vì muốn bỏ Tiểu về Đại, nên trước nói Tiểu, sau nói Đại.”

Hỏi: “Đại, Tiểu quán có khác nhau?”

Đáp: “Thanh văn quán vì sao cạn, lấy “ngã” làm phương tiện, “vô ngã” làm chân thật. Trong đây, nói “ngã” và “vô ngã” đều là phương tiện, không phải “ngã”, “vô ngã” mới là chân thật, tức là quán của Bồtát rất sâu sắc. Đã lấy “ngã”, “vô ngã” làm phương tiện, nên Thanh văn so với Bồ-tát thì Thanh văn là quán phương tiện, còn Bồ-tát quán là chân thật, tức là kinh Pháp Hoa nói: “Chỉ có một sự thật này, thứ hai khác thì không phải chân.” Văn kia hợp nhau, tức thì, nếu người Đại thừa lấy hai “ngã” làm phương tiện, vô ngã làm chân thật, thì vẫn là Thanh văn quán mà thôi!

Lại nữa, vì vốn được Đại, nên Tiểu thành. Đã không được Đại cũng không thành Tiểu, nên kẻ có đối tượng chứng đắc, chấp chặt hai vô ngã, thì sẽ thành Kiến chấp luống dối! Lại, Bồ-tát cho “ngã”, “vô ngã” đều là phương tiện, chẳng phải “ngã”, “vô ngã” mới là thật. Người có sở đắc chấp vô ngã, đều là được phương tiện mà thôi. Đã không được “thật”, cũng không được “quyền”, tóm lại, người có đối tượng chứng đắc chấp hai vô ngã. Đại, Tiểu không thâu nhiếp “quyền”, “thật”, không nhận lấy, vì “ngã”, “vô ngã” đã là phương tiện. Ba tánh, ba vô tánh là phương tiện; không phải ba tánh, không phải ba vô tánh, mới là chân thật. Tất cả đều lệ theo đây.

Hỏi: “Vì sao biết được trước là Thanh văn quán, sau là Bồ-tát quán?”

Đáp: “Chính là vì lời nói phân biệt cạn, sâu đủ để chứng minh, cho nên biết như thế.” Vả lại, người Thanh văn tu nhân của quán vô ngã với mong muốn sẽ được quả của hai Niết-bàn, chỉ là nghĩa tự độ.”

Trên đây, chính là nói pháp này, nên biết là quán của Thanh văn. Nay, chương này sẽ nói Bồ-tát không có cách nào hóa độ chúng sinh với đủ tất cả môn giáo, nên biết là Bồ-tát quán.

Lại, v.v… trở xuống, là là phần văn xuôi, Thanh Mục giải thích Bồ-tát quán, vì dẫn kinh Đại Phẩm: “Bồ-tát có “ngã”, cũng không phải hạnh; “vô ngã” cũng không phải hạnh; bởi lẽ văn xuôi này tự tạo ra dẫn

chứng này, chứ không phải giảng giả có ý xuyên tạc.” Văn, chia làm hai:

1/ Ba bài kệ nói pháp sở quán của Bồ-tát

2/ Ba bài kệ nói về tướng “người” được lợi ích của Bồ-tát – Trong pháp Thanh văn trên, cũng tạo ra hai chương này:

1/ Giáo “người” vô ngã

2/ Giáo “pháp” vô ngã, tức là song giáo.

Sau, nói hai lợi ích của trí đoạn. Nay, trong Đại thừa, trước cũng nói về hai giáo, sau nói về song ích. Ba bài kệ được chia làm hai:

1/ Bài kệ đầu, nêu hai thứ môn chương: phương tiện, thật tướng.

2/ Hai bài kệ giải thích về hai môn chương

Trước hết, nửa bài kệ trên, nêu môn chương phương tiện, nửa bài kệ dưới, nêu môn chương thật tướng.

Hỏi: “Vì sao trước nói về phương tiện của “ngã”, “vô ngã” ư?”

Đáp: “Chính đối với Thanh văn lấy “ngã” làm phương tiện, “vô ngã” làm chân thật, như lý “không” vô ngã của mười sáu đế của tỳđàm . Lại, như phái Thành Thật nói: “Thế đế có “ngã”, Đệ nhất đế “vô ngã”. Cho nên, nay nói: nếu “ngã”, “vô ngã” của Thanh văn so với Bồtát đều là phương tiện thì nay nói thường, lạc cũng là phương tiện. Như thế, ba thừa, nhất thừa, vạn nghĩa đều giống nhau.

Nửa kệ trên, là nói về hai môn chương chân thật, tức là không phải “ngã”, “vô ngã”, cũng không phải thường, vô thường, không phải ba, không phải một v.v…, vạn nghĩa đều giống nhau.

Nửa bài kệ trên là nói Thế đế, nửa bài kệ dưới là Đệ nhất nghĩa đế, nửa bài kệ trên là ba tất-đàn, nửa bài kệ dưới là tất-đàn Đệ nhất nghĩa, cũng được nửa bài kệ trên là hai đế chân, tục.

Luận Trí Độ nói: “Vì thế giới nhân v.v…, cho nên “có”; vì đệ nhất nghĩa, cho nên “không”. Vì thế, nên biết lấy “ngã” làm thế đế, “vô ngã” làm chân đế.

Nửa bài kệ dưới nói: “không phải “ngã”, “vô ngã”, tức là nhất thật đế Trung đạo. Lại, nửa kệ trên, gọi là “pháp môn bán tự”, nửa kệ dưới, rốt ráo chính là “mãn tự”.

Nếu luận đầy đủ mãn, nghĩa là hai nửa bài kệ trên, dưới đều là bán tự. Không phải “ngã”, “vô ngã”, “ngã”, và “vô ngã” đầy đủ, mới viên mãn, gọi là mãn tự.

Lại, nửa bài kệ trên, tức là môn giáo; nửa bài kệ dưới, gọi là lý. Y

kệ thường bao gồm, không thể một đường mà nhận lấy hết được.

“Thật tướng các pháp v.v… trở xuống, là phần thứ hai, hai bài kệ giải thích về môn chương.”

Bài kệ đầu, theo gần, giải thích môn chương thật tướng. Bài kệ thứ hai, giải thích môn chương phương tiện.

Lại, trước nói về phương tiện nhập thật tướng, nên trước nói phương tiện, sau nói thật tướng. Nay, từ thật tướng khởi phương tiện, nên trước thật tướng, sau phương tiện.

“Thật tướng các pháp nhắc lại: nửa dưới của kệ trước, nêu môn chương thật tướng.”

“Tâm hành, ngôn ngữ đoạn v.v… trở xuống, là giải thích nghĩa thật tướng.”

Đầu tiên, y cứ môn Pháp thuyết để giải thích thật tướng. Về thời gian, vì siêu việt bốn quan điểm, nên tâm của bốn quan điểm mất. Về không gian, vì dứt trăm phi”, nên tâm của “trăm phi” dứt trừ. Ở tâm đã thế, về ngôn ngữ cũng thế. Ngôn ngữ của bốn quan điểm không thể nói, thuyết “trăm phi”. Không thể nói, lại, không phải chỉ thật tướng không thể nói, mà chính vì lời nói cũng là thật tướng, nên dù nói mà không có nói, cho nên Thiên nữ gạn hỏi Thân tử rằng: “Ông chỉ biết thật tướng không có lời nói, mà vẫn chưa thể ngộ được lời nói tức là thật tướng”.

Vì thế, lời nói khắp mười phương, mà thường là bốn tuyệt.

Hỏi: “Vì sao như thế?”

Đáp: “Nếu lời nói có “tự thể”, tức là vốn có, thì gọi là thường, mà đã là “thường” thì không thể nói. Nay, nhân duyên lời nói, mà vì lời nói không có tự thể, nên không có lời nói, vì dù nói, nhưng tức xưa nay không nói.

Phẩm Nghiệp nói: “Các nghiệp vốn bất sinh, vì không có tánh nhất định, lẽ ra cũng phải nói là các lời nói vốn không có lời nói, bởi vì chúng không có tánh nhất định. Ở lời nói đã thế, tâm hành cũng thế.

1/ Thật tướng dứt bốn quan điểm, tâm của bốn quan điểm không thể duyên.

2/ “Tức” duyên là thật tướng, dù “duyên” khắp vạn pháp, nhưng cũng thường là bốn tuyệt.

“Không có sinh, cũng không có diệt”: Nửa bài kệ dưới, y cứ môn thí dụ để nói. Vì bốn sinh không thể sinh, nên gọi không có sinh (vô sinh). Vì sức đeo mang không thể diệt, nên gọi là không có diệt. Lại, trên đã nói “lời nói đoạn, tâm diệt”, nghĩa là lời nói của bốn quan điểm vốn không sinh, nay cũng không diệt, chẳng phải là có lời nói của bốn quan điểm sinh ra, rồi sau đó diệt.

Lời nói đã thế, tâm cũng thế, vắng lặng như Niết-bàn: kẻ mê “hoặc” đều cho rằng, sinh tử “có” sinh diệt, Niết-bàn “không” sinh diệt. Vì thế, nên mượn Niết-bàn dụ cho sanh tử, ông cho rằng sanh tử như Niết-bàn của ông, nên nói: “vắng lặng như Niết-bàn”.

Nay, nói về thật tướng không đồng với lý Chân đế của phương Nam, Ba-nhã thật tướng của cõi nước phương Bắc, cũng khác với Lê-da của Cựu Địa luận, thức A-ma-la của vãn Nhiếp luận Đại thừa.

Những quan niệm như thế, cũng đồng với chấp “ngã” của Độc tử có lý tồn tại.

Nay, chỉ luận về “sắc” là thật tướng, như giả gọi “sắc” chẳng thể “có”, chẳng thể “không”, với bốn quan điểm tìm kiếm “sắc” không thể được, nên “sắc” tức là thật tướng.

Luận Trí Độ Bốn mươi hai quyển giải thích: “Thế nào là sắc tướng? Thức tướng là sao? Không có sở hữu” là tướng của “sắc”, không có cái có là tướng của thọ, tưởng, hành, thức.

Lại, Thiên chủ khen lời của Tu Bồ-đề nói: “Không hoại giả danh mà nói thật tướng, nên biết giả danh rõ ràng mà tức là thật tướng.

“Tất cả thật, chẳng phải thật v.v… trở xuống, là phần thứ hai, giải thích về môn chương phương tiện ở trước.”

Hỏi: “Trước kia, đã dùng hai thứ “ngã”, và “vô ngã” làm phương tiện, nay sao lại dùng thật, không thật, để giải thích phương tiện, lại ở trước dùng hai lớp ngã, vô ngã làm phương tiện chẳng phải “ngã”, chẳng phải “vô ngã” làm thật. Nay, sao lại lấy bốn quan điểm thật, không thật để giải thích phương tiện trước?”

Đáp: “Tôi đã nghe nhiều năm, và giảng nói cũng nhiều năm, nhưng vẫn chưa thấy văn phù hợp nào có thể giải thích về ý này. Nay tôi sẽ dùng phần ít nhận thức để phân biệt triết lý sau:

Trước kia, đã nói “ngã”, “vô ngã” là phương tiện: đây là đối với Nhị thừa, lấy vô ngã, vô thật ngã làm phương tiện, nên nói Nhị thừa hoặc “quyền” hoặc “thật”, đối với Bồ-tát, đều trở thành phương tiện, không phải “ngã”, không phải “vô ngã”, mới là chân thật.

Nay, trong đây luận về chân thật: trên nói thật tướng các pháp Tâm hành, ngôn ngữ đều đoạn. Đây là nói về thật tướng mà Bồ-tát đã thể ngộ, thì dứt hẳn bốn quan điểm. Dù thật tướng dứt hẳn lời nói của bốn quan điểm, phải nhờ lời của bốn quan điểm thì mới được ngộ nhập thật tướng, nên lấy dứt bốn quan điểm làm thật, dùng bốn quan điểm làm phương tiện, giải thích này thật sự khế hợp với chỉ thú của văn.

Hỏi: “Vì sao dùng bốn quan điểm làm phương tiện, dứt hẳn bốn quan điểm làm chân lý?”

Đáp: “Vì muốn nhiếp hết tất cả lý giáo, luận về giáo, không ngoài bốn quan điểm, thì bốn quan điểm gồm nhiếp hết tất cả ngôn giáo. Luận về lý cùng cực thì là bốn tuyệt nên dùng bốn tuyệt để nói về lý cùng cực, dù là một chương luận nhiếp chung tất cả sự viên, lý giáo của Phật pháp.

Hỏi: “Vì sao trên đã lấy “ngã”, “vô ngã” làm phương tiện, nay lại dùng thật, không thật làm phương tiện?”

Đáp: “Vì muốn bảo cho ta biết thật tướng là “thể”, “thể” lại không hai, nên trước nói thật tướng, rồi lại nhắc lại thật tướng, để giải thích về thật tướng, chỉ bày phương tiện là dụng, dụng có nhiều môn, vì lẽ đó, nên trước, đã chỉ bày “ngã”, “vô ngã” là phương tiện, nay, biểu thị thật, không thật là phương tiện.”

Hỏi: “Vì sao trên đã lấy “ngã”, “vô ngã” làm phương tiện, nay, lại nói thật, không thật là phương tiện ư?”

Đáp: “Vì trên, người Thanh văn lấy “ngã” làm phương tiện, “vô ngã” làm thật, dùng “pháp” làm phương tiện, “không có pháp” làm chân thật. Trên, đối với Thanh văn, nói “ngã”, “vô ngã” đều là phương tiện, không phải “ngã”, “vô ngã” là chân thật. Nay, cũng đối với Thanh văn, “có pháp”, không” pháp đều là phương tiện, không phải pháp, chẳng phải không phải pháp là chân thật. Cho nên, nay nói thật, không thật.

Văn, chia làm hai:

1/ Ba quan điểm đầu, chính thức nói về phương tiện.

2/ Quan điểm thứ tư, tổng kết ý giáo.

Bốn quan điểm trong đây, vì Bồ-tát ba căn, mà nói tất cả thật, tất cả không thật là vì hóa độ người căn cơ bực trung, dụ như nghĩa của Khai Thiện: “Sinh tử, Niết-bàn, đều là thế đế hư giả, gọi là không thật; nhập Đệ nhất nghĩa không phải sinh tử, Niết-bàn, gọi đó là thật.”

Quan điểm thứ hai: “vừa thật, vừa không thật”, nhằm hóa độ người căn cơ bực hạ, như nghĩa của Trang Nghiêm: “Vì sinh tử là hư giả, nên không thật; vì Niết-bàn không phải hư giả, nên là thật.”

Quan điểm thứ ba: “chẳng phải thật, chẳng phải không thật, vì Bồ-tát căn cơ bực thượng, mà nói sinh tử, Niết-bàn, chưa từng là thật, cũng chưa từng không thật. Sự chứng đắc của bộ này là ý sở học của Long thọ hiện nay.

Nếu ba quan điểm này đẩy lùi được trình tự của chứng bệnh thì:

người căn cơ bực hạ nói rằng: “sinh tử, không thật, Niết-bàn là thật người trung căn nói rằng sanh tử, Niết-bàn này tất cả không thật không phải sinh tử, không phải Niết-bàn, tất cả là thật. Người căn cơ bậc thượng nói: “Không phải cá thể, không phải sinh tử, không phải thật của Niếtbàn; cũng chẳng phải không thật của sinh tử, Niết-bàn.

Lại, quan điểm thứ nhất là nghĩa của Nhất Thuyết bộ cho rằng: “sinh tử, Niết-bàn đều là hư giả, nên nói Nhất thuyết.”

Quan điểm thứ hai là nghĩa của Xuất thế thuyết bộ, cho rằng:

“Pháp thế gian sinh tử từ nhân không chân thật sinh, nên gọi là thật.”

Lại, đem văn này so với học giả của Nhiếp Đại thừa v.v… thì có đủ hai môn này, phân biệt hai tánh, y tha, đây gọi là không thật; phân biệt vô tướng y tha vô sinh, gọi là tánh chân thật, tức là đồng với nghĩa của người căn cơ bực hạ.

Nếu cho ba tánh là không thật, thì lý của ba “vô tánh” gọi là chân thật, là nghĩa của người căn bực trung, vì Luận kia không nói “không phải ba tánh, không phải ba vô tánh”, nên không có nghĩa của người căn cơ bực thượng.

Y của Thiên thân là sẽ có, mà người học vì không bẩm thọ phong cách của Long thọ, nên đến nỗi phải thiếu sót một quan điểm của tông chỉ u huyền này!.

“Đây gọi là pháp của Chư Phật”: là phần thứ hai, kết ý giáo của bốn quan điểm. Nếu nhờ bốn môn này mà ngộ nhập lý dứt bốn, thì bốn thứ này gọi là pháp Phật, cũng bốn thứ làm môn, nếu bảo thủ bốn quan điểm kia, thì không thể nhân bốn thể ngộ không có bốn, mỗi thứ chấp sinh ra sự hiểu biết thì bốn quan điểm này không phải là pháp Phật, cũng không được gọi là môn, bởi bốn quan điểm đó không đều nhập lý.

Nếu vậy, theo phong cách của Long thọ, bốn quan điểm này của học giả bốn luân đều là công dụng tinh xảo của phương tiện của thời nay. Theo nghĩa xưa, thì chỉ được một nhánh trong phương tiện dụng. Lại không biết “một” này là phương tiện, mà chấp “quyền” là thật, rất đáng thương hại lắm thay!

Người khác nói: “Tỳ-đàm thấy “có” được đạo, Thành thật thấy “không” có đắc đạo.”

Nay, nói có hiểu biết về “không”, “hữu” đều không được đạo, mà cần phải nhờ “không”, “hữu” thể ngộ thật tướng, thì mới có thể được đạo. Vì thế, nên dưới đây nói: “Người được thật tướng, có người ba thừa.”

Hỏi: “Người ba thừa đồng hiểu thật tướng, đâu có khác? Nhị thừa thấy thật tướng từng phần. Bồ-tát thì hiểu tường tận cội nguồn của thật tướng các pháp.”là không rỗng, như lỗ chân lông là không. Bồ-tát thấy như mười phương trống không.”

Hỏi: “Ở chỗ nào trong kinh có văn của ba phương tiện này?”

Đáp: “Ở phẩm Như Hóa trong kinh Đại Phẩm nói: “Vì Bồ-tát mới phát ý nói sinh diệt như biến hóa, không sinh, không diệt không như biến hóa.” Đây là nghĩa của người căn cơ bực hạ. Vì Bồ-tát phát tâm lâu, nói sinh diệt, không sinh diệt đều như biến hóa. Đây là nghĩa của người căn cơ bực trung.”

Lại nói: “Bồ-tát không thực hành chân thật, không thực hành pháp “không” chân thật, đây là nghĩa của người căn cơ bực thượng.”

Hỏi: “Luận Trí Độ cũng dẫn bài kệ này để giải thích Tất-đàn Đệ nhất nghĩa. Tất-đàn Đệ nhất nghĩa đã dứt bặt bốn quan điểm, sao lại đem bốn quan điểm để giải thích Tất-đàn Đệ nhất nghĩa?”

Đáp: “Vì Sư luận Trí độ cũng không khéo thông suốt. Nay điều đã nóinói như nghĩa đã giải thích ở trước: “Bốn quan điểm này là môn, nhân bốn môn này nhập lý Đệ nhất nghĩa không có lời nói, nên dùng bốn quan điểm để giải thích về không có bốn.”

Hỏi: “Vì sao dùng bốn quan điểm để giải thích không có bốn?”

Đáp: “Đạo của bốn quan điểm, ở đây không thể nói. Vì hễ biện luận, phát ngôn, thì có bốn quan điểm, phải nhờ lời nói của bốn quan điểm để được hiển bày không có lời nói, như nhân ngón tay được mặt trăng. Hơn nữa, không phải chỉ nhờ lời nói của bốn quan điểm mà được hiển bày không có lời nói, tức còn cần phải biết bốn quan điểm này xưa nay không có bốn, gọi là dứt bốn quan điểm. Lý của đối tượng được giải thích dứt lời nói, vì lời nói thuyên giải lý thường dứt, nên Thiên nữ quở trách Thân tử rằng: “Ông mới biết giải thoát không có lời nói, mà chưa thể ngộ được lời nói tức giải thoát. Nay, cũng vậy. Không phải chỉ lý dứt ở bốn, mà tức lời nói cũng dứt bốn. Lại nói: “Đã dứt bốn, tức là dứt lời nói bốn thường, chứ cho rằng, lý dứt bốn, có lý tồn tại mà không thể nói. Cho nên, lời nói của Văn thù thường dứt khoát. Sự im lặng của Tịnh danh là thường nói. Ở lời nói đã thế, tâm hành cũng thế. Lý của đối tượng dứt, tâm dứt, tức tâm dứt lý thường dứt. Phải hiểu sâu sắc ý này, có thể dùng để hiểu kinh Phương Đẳng.”

Hỏi: “Vì sao văn này trước nói về căn bực trung, tiếp theo, căn cơ bực hạ, sau nói về căn cơ bực thượng?”

Đáp: “Ba căn, thật sự phải thích ứng theo trình tự, nhưng trong đây nói trình tự của bốn quan điểm, không nói trình tự của ba căn.”

Hỏi: “Vì ba người có hai căn, hay là một người có ba căn ư?”

Đáp: “Đủ cả hai nghĩa này.”

Một người có ba: Từ hạ nhập trung, trung chuyển thành thượng.

“Tự biết, không tùy người khác”: là phần thứ hai, chỉ bày được hiểu tướng của người. Trước đã nói về phương tiện thật, đó là lý, giáo.

Nay, nói bẩm thọ giáo, thể ngộ lý, nên phát sinh hai tuệ.”

Hỏi: “Vì sao nói được hiểu tướng người?”

Đáp: “Vì soạn luận là phản ánh kinh Đại thừa Ba-nhã nói pháp mà Bồ-tát thực hành, cũng nói được hiểu tướng người, nên kinh Đại phẩm nói: “Muốn sân, si dứt trừ là dáng mạo của tánh tướng. Luận giải thích rằng: Ba độc dứt là ngộ tướng người của Ba-nhã. Đến phẩm Trí nói về người thực hành Ba-nhã có năm thứ tướng:

1/ Đối với các pháp không chấp.

2/ Không bị sáu tệ sai khiến

3/ Thực hành đủ sáu độ

4/ Không dùng ngữ của người khác làm yếu tố vững chắc

5/ Nghe Ba-nhã, tin ưa, không nhàm chán

Không dùng ngữ của người khác làm yếu tố vững chắc. Nghĩa là nói rộng các thứ pháp mà tâm không giao động.

Lại, kinh Đại phẩm căn cư hai thứ môn để nói Ba-nhã:

1/ Y cứ môn pháp để nói Ba-nhã

2/ Y cứ môn “người” để nói Ba-nhã

Nay, cũng thế. Trên, đã y cứ môn “pháp” để nói về thật tướng, phương tiện, nay y cứ môn người để nói thật tướng phương tiện.

Y cứ ba bài kệ, chia làm hai khác nhau.

1/ Hai kệ trước, là nói được lợi ích của hai trí: thật, và phương tiện.

2/ Một kệ tiếp theo, nói được lợi ích của Đại Niết-bàn Trung đạo.

Sở dĩ nói hai phần khác nhau này là vì đối với Thanh văn ở trước, đầu tiên, Thanh văn nói về sanh “không” pháp không, Kế là, bẩm thọ giáo được trí “không” vô ngã và lợi ích của hai Niết-bàn.

Nay, Bồ-tát cũng thế. Trước là nói về lý dứt của bốn quan điểm. Vì bẩm giáo ngộ lý, nên cũng được hai lợi ích, nghĩa là hai trí “quyền” “thật” và đại Niết-bàn. Hai trí “quyền”, “thật” là nhân đại Niết-bàn là quả. Và hai trí “quyền” “thật” chính là không có đức nào không tròn. Quả của đại Niết-bàn, nghĩa là hệ lụy đều vắng lặng. Hệ lụy đều vắng

lặng, không thể là “có”. Đức đều tròn đầy chẳng thể là “không”, tức là đã bẩm thọ Trung đạo, phát sinh chánh quán.

Lại, trước đã nói hai trí, tức là quả Bổ đề. Sau, nói về Đại Niếtbàn nghĩa là quả của quả. Không chia ra hai giáo Thanh văn, Bồ-tát và ích lợi của hai người Đại, Tiểu nghĩa là đều mất ý văn này.

Tự biết không theo người khác. Nghĩa là dù thiên ma, ngoại đạo có hai não loạn bằng hình, tiếng, nhưng vẫn không thể nào can hệ. Kinh Hoa Nghiêm chép rằng: “Có pháp đã nghe, liền tự mở mang, hiểu biết, được thể ngộ không do người khác.”

Vắng lặng không có hí luận: “Không có sinh tử để bỏ không có Niết-bàn để nhận lấy, nên gọi là vắng lặng. Lìa hai thứ hí luận ái, và kiến, gọi không có hí luận.

Không có vô phân biệt khác, đã không có hai thứ hí luận thì biết pháp không có sự khác nhau giữa “có” “không”, tâm “không” vô phân biệt, vì tâm “không” vô phân biệt, nên không có tâm bên trong. Vì pháp không có tướng khác của có, không, nên chẳng có số bên ngoài. Kia, đây đã vắng lặng, bao la, rộng lớn, quân bình, gọi là thật tướng.

“Nếu pháp từ duyên sinh trở xuống” v.v…, là phần thứ hai, nói về được ích của Tuệ phương tiện.

Trên, đã hiểu rõ sinh diệt, không có sinh diệt. Nay đã thể ngộ không có sinh diệt, tức là thế đế. Dù thế đế có vạn hóa bất đồng, nhưng nhân, quả là rễ của lập tín, gốc của các pháp, nên nói nghiêng lệch.

Nửa bài kệ trên, nói về nhân duyên, nhân quả không phải “một” không phải “khác”, như nắm tay, ngón tay không đồng, không thể nói là “một”. Lại, vì không có hai “thể”, nên không thể nói “khác”. Vì thế, nên nói rằng: “Nếu pháp từ duyên sinh, thì không “tức”, không khác với nhân, chính là phá hai bộ “một”, “khác” của Tăng-khư, Vệ thế, cũng loại trừ hai tông một, khác của Thượng tọa bộ, Đại chúng bộ.

Nửa bài kệ dưới, là nói nhân duyên, nhân quả lìa “đoạn” “thường”. Nhân quả “một” tức là “thường”, “khác” tức là “đoạn”.

Thật tướng nói trong đây, vì là “thật” của thế đế, vì tục đã gọi đế, nên gọi là “thật”, khác với “thật” ở trên.

Lại, có thể hiểu nhân quả không “thường”, không “đoạn”, không “một”, không “khác”, đó gọi là “thật”, nếu khác với đây, gọi là luống dối.

“Không phải một”, cũng không phải “khác” trở xuống v.v…, là phần thứ hai, nói được ích của quả Niết-bàn.

Nửa bài kệ trên, pháp thuyết, đây là nói không phải “một”, không phải “khác”, khác với không “một”, không “khác” trên. Vì không phải “một”, không phải “khác” trên y cứ nhân quả của thế đế, nói không phải “một”, không phải “khác”. Nay, nói Niết-bàn, của Trung đạo không “một”, không “khác” không “thường”, không đoạn, không thấy sự khác nhau của sinh tử sáu đường, cũng không thấy Niết-bàn “diệt” với sáu đường là “một”. Vì không phải “một” nên không “thường”, vì không phải “khác”, nên không “đoạn”.

Nửa kệ dưới, là nêu thí thuyết, nói Niết-bàn như cam lộ cõi trời. Vì thế gian được cam lộ, nên không có già, bệnh, chết. Niết-bàn thật tướng là vị cam lộ chân thật. Người uống vị này, phiền lụy đều vắng, đức đều tròn.

“Nếu Phật không ra đời v.v… trở xuống, là trên đây, đã nói ích lợi của hai giáo Thanh văn, Bồ-tát. Nay, một chương này, nói về Duyên giác được ích.

Sở dĩ chỉ nói được ích mà không nói về giáo, là vì Duyên giác tự nhiên ngộ đạo, không bẩm thọ giáo. Thanh văn, Bồ-tát đã đồng bẩm thọ giáo, tức là được xếp vào một loại để nói. Nay, vì Duyên giác không bẩm thọ giáo của Phật, nên sẽ nói riêng sau. Hỏi: Vì sao nói Duyên giác được lợi ích?

Đáp: “Nay, vì hiển thị luận này, ý là để phá tà, trình bày thật tướng. Sở dĩ luận này nhằm mục đích đã phá tà, hiển bày thật tướng, là vì muốn cho người ba thừa đều được nhiêu ích. Lại, vì nghĩa khuyến tín bởi người không tin luận này phá tà, hiển chánh, chẳng những không được ích của Đại thừa, mà cũng mất đi lợi ích của Tiểu thừa.

Nửa bài kệ trên, nói về thời gian Phật xuất thế. Phật trước đã ra đi, Phật sau chưa xuất hiện, người Bích-Chi đã ra đời trong khoảng thời gian này.

Hoa Nghiêm chép rằng: “Trước khi Bồ-tát sắp hạ sinh đã dùng đạo nhãn quan sát trong thế giới Đại thiên có Bích-Chi Phật phát ra ánh sáng soi chiếu cả cõi nước. Nếu người nào giác biết, thì được diệt độ, kẻ không giác biết, sẽ luống mê đắm ở phương khác, đồng phát khởi với văn này.”

Hỏi: “Vì sao người kia không gập Phật?”

Đáp: “Vì người kia tự cảm thấy tủi hổ cho tiếng nghe từ thầy, cách Phật đạo xa vời, bởi vì trong hai cái đồ đựng đầy, nên ra đời không có Phật.”

Hỏi: “Bích-Chi đã không gặp thầy, vậy trong khoảng thời gian nào họ bỏ Tiểu về Đại?”

Đáp: “Việc này đã có nói trong Pháp Hoa Huyền Nghĩa. Nay, nói tóm tắt bốn trường hợp:

1/ Người chứng quả Duyên giác đã không gặp Phật, ở ngoài ba cõi, nghe kinh Pháp Hoa, bỏ ba về một

2/ Người có nhân Duyên giác và ba quả Thanh văn, ở trong ba cõi, nghe kinh Pháp Hoa, bỏ Tiểu về Đại.

3/ Người A-la-hán, nếu gặp Phật, nghe kinh Pháp Hoa, nhập đạo trong giới nội. Nếu không được gặp Phật, sinh ngoài ba cõi, nghe kinh Pháp Hoa, mới thọ Nhất thừa.

4/ Người Nhị thừa tăng thượng mạn, theo Tiểu, bỏ Đại, ở trong, ngoài giới, đều không nhập Nhất thừa.

Hỏi: “Kiếp sơ, sau kiếp, Duyên giác ra đời vào thời kỳ nào?”

Đáp: “Tạp Tâm rằng: “Sơ kiếp, vua chuyển luân mạt kiếp, Đức

Phật ra đời, giữa hai thời gian này là Duyên giác xuất thế.” Hỏi: “Có bao nhiêu hạng Bích-Chi?” Đáp: “Tóm tắt có năm hạng:

1/ Bích-Chi bản thừa, nghĩa là tu hành một trăm kiếp, cho đến nhanh nhất là bốn đời thành đạo.

2/ Bích-Chi thối tâm Bồ-đề. Luận Trí Độ nói: “Hoặc Bồ-tát đã chứng Tứ đế, thành Bích-chi Phật.

3/ Bích-Chi Thanh văn, như người Sơ quả. Trong lần sinh thứ bảy, nếu không gặp Phật pháp, sẽ trở thành Tiểu Bích-Chi, không bằng ngài Thân tử.

Hỏi: “Người này là tại gia hay xuất gia?”

Đáp: “Luận Câu-Xá chép rằng: “Đến xuất gia trong pháp ngoại đạo, mặc cà-sa vỏ cây.” Lại nói: “Đi đến trời Tịnh cư trong rừng, núi, đều bố thí hết pháp phục của mình.”

4/ Có sừng tê giác, dụ Bích-Chi, một mình tự ra đời là Đại BíchChi.

5/ Có Bích-Chi bộ hành, cũng có quyến thuộc, bộ đảng.

Hỏi: “Bích-Chi có nhiều vị cùng xuất thế hay không?”

Đáp: “Kinh rằng: “Có năm trăm vị Bích-Chi xuất thế cùng lúc có nhân duyên riêng, không nói đủ (các nghĩa ủy khúc, như Pháp Hoa Huyền Chương dùng để biện luận).

Văn xuôi giải thích Thanh văn, Bồ-tát, Duyên Giác tức là ba danh từ khác nhau, trong giáo Thanh văn lại có hai:

1/ Giải thích giáo hai vô ngã

2/ “Tu tập tám Thánh đạo v.v… trở xuống, là giải thích được lợi

ích. Giải thích hai vô ngã, tức hai. Giải thích về “nhân vô ngã, được chia làm ba:

1/ Nhắc lại cả hai “ngã”

2/ Phá cả hai “ngã”

3/ Kết luận không có hai “ngã”

Nếu năm ấm là thần, nghĩa là cặp thứ hai, phá hai “ngã”, tức là hai pháp khác nhau.

Phá ngã “tức” ấm được chia làm bốn:

1/ Chính giải thích, như bài kệ giữa, và dưới.

2/ Dẫn kệ để chứng minh

3/ “Vì sao v.v… trở xuống, là giải thích.” Trong giải thích lại có hai:

1/ Dùng hai tướng sinh, diệt để xét nghiệm “thể” của pháp năm ấm là vô thường.

2/ “Như năm ấm vô thường v.v… trở xuống, là phần thứ hai, nói về hai tướng sinh, diệt cũng là vô thường.”

Sở dĩ nói hai tướng vô thường, gồm có hai nghĩa:

1/ Vì muốn chỉ bày rõ tướng chủ thể, tướng đối tượng của năm ấm đều là vô thường, vì thần và năm ấm là một, nên thần cũng vô thường. 2/ Muốn phá dị bộ: như Tỳ-bà-xà-đề nói tướng sanh diệt là thường, Đàm-ma-quật nói tướng diệt là thường.

Vì thế, nay nói hai tướng sinh, diệt cũng là vô thường.

“Nếu thần là năm ấm v.v… trở xuống, là phần thứ tư, tổng kết.”

“Nếu lìa năm ấm v.v… trở xuống, là phần thứ hai, phá “ngã” lìa ấm, cũng chia làm bốn:

1/ Chính là phá

2/ “Như trong kệ nói v.v… trở xuống, là phần thứ hai, dẫn bài kệ, để chứng minh.”

3/ “Mà lìa năm ấm v.v… trở xuống, là giải thích.” Theo văn này, gồm có năm cách phá:

1/ Trách tướng để phá

2/ Nếu cho rằng thần như hư không, v.v… trở xuống là phần thứ hai lấy ý để phá, trước tìm tướng thần không thể được, ngoại đạo nói: thần như hư không, không có tướng mạo, nên không có tướng, mà có thần. Vì thế, nên nay phá hư không.

3/ Nếu cho rằng vì tin, nên v.v… trở xuống, là phá người ngoài lấy niềm tin để chứng minh có thần. Trước, trách tướng, phá không có thần trong pháp hữu vi; tiếp theo, lấy ý để phá pháp hư không chẳng có thần, tức là phầm Điên Đảo nói rằng: “Cái có” của pháp ta do “không”, sự này sau cùng không thành.

Người ngoài nói: “Dù là không, có tìm kiếm thần không được, mà sau cùng, tin có thần.” Vì thế, nên nay phá niềm tin của họ.

Văn chia làm bốn:

1/ Nhắc lại nghĩa của người ngoài, việc này không đúng, v.v… trở xuống là

2/ Bác bỏ chung

“Vì sao v.v… trở xuống, là phần thứ ba, giải thích sự sai quấy.” Văn lại được chia làm hai:

1/ Nêu bốn lối tin. “Thần này trong tất cả đức tin v.v… trở xuống, là phần thứ hai, giải thích bốn tin không có thần.”

Trong việc hiện tại cũng không có v.v… trở xuống, là giải thích về hiện sự thứ nhất đáng tin. Đã không có trong việc hiện tại thì không cần giải thích.

Trong so sánh biết cũng “không” v.v… trở xuống, là phần thứ hai, giải thích “không” thần trong so sánh biết. Lại chia làm hai phần khác nhau:

1/ Lược nói “không có thần” trong so sánh biết.

“Nếu có ba thứ so sánh biết v.v… trở xuống, là phần thứ hai, nói rộng “không” thần trong so sánh biết, tức chia ra ba phần khác nhau:

1/ Nêu ba thứ so sánh biết:

“Như vốn v.v… trở xuống, là phần thứ hai, giải thích ba thứ so sánh biết.”

Trong phần giải thích thứ hai, đầu tiên, mượn thí dụ con người, mặt trời để biểu thị tướng mạo so sánh.

“Khổ, vui như thế v.v… trở xuống, là người ngoài nêu tướng chung so sánh biết để chứng minh rằng có thần.”

“Như thấy nhân dân nương tựa vua v.v… trở xuống, là dẫn chứng giống nhau.”

“Vụ việc này đều không đúng v.v… trở xuống, là phần thứ ba, giải thích không có thần trong so sánh biết, chỉ giải thích “không có thần” trong so sánh biết “tướng chung” thứ ba, không giải thích hai so sánh còn lại.”

Hỏi: Trong đây “Phá so sánh biết “tướng chung” có khác gì với Bách luận?”

Đáp: “Bách luận thừa nhận người kia đã so sánh con người với mặt trời, chứ không nhìn nhận việc nương tựa vua, khổ, vui, hay biết, cũng dựa vào thần.”

Văn luận này phá thẳng: trước hết, nói “người” hợp với “pháp” đi, sau, thấy “người”, thì biết “đi”, việc này thì được thừa nhận. Không có trước thấy, thần hợp với “biết” sau, thấy “biết”, tức có thần, đây là đả phá.

Cũng “không” thần trong lời mà Bậc thánh đã nói v.v… trở xuống, là phần thứ tư, giải thích về tin không có thần, tóm tắt không giải thích “không” thần trong thí dụ thứ ba.

“Cho nên, đối với bốn tín v.v… trở xuống, là phần thứ tư, tổng kết bốn niềm tin không có thần.”

“Lại nữa, trong phẩm phá căn v.v… trở xuống, là phá thứ tư trong năm phá, chỉ cho phá trước. Lại mắt thất pháp thô, v.v… trở xuống là thứ năm, nêu so sánh để phá.”

“Cho nên, biết vô ngã v.v… trở xuống, là phần thứ tư kết không có “ngã” trong “ngã” lìa ấm. Văn này lệ thuộc cả hai:

1/ Kết không có “ngã” trong lìa ấm ở trước.

2/ Tổng kết “tức”, “lìa” cả hai thứ đều không có ngã.

Vì muốn phát khởi pháp vô ngã nên trước là kết “người” vô ngã. Vì có ngã cho nên v.v… trở xuống, là giải thích pháp vô ngã thứ hai

“Tu tập tám phần Thánh đạo v.v… trở xuống, là thứ hai, giải thích bẩm thọ giáo hai vô ngã, về sau được ích.

Trong phần được lợi ích, vốn chia ra hai phần khác nhau:

1/ Nói được ích của trí hai vô ngã

2/ Nói được ích của hai Niết-bàn

Nay, hai pháp này tức là hai phần khác nhau, là trong ích hai vô ngã được chia làm hai.

Trước hết, chính là nói được trí vô ngã, tiếp theo, là khen “pháp”, khen người.

Nay, trước giải thích phần đầu:

Vô ngã của Tiểu thừa là ở chỗ kiến đế; tám Thánh đạo cũng ở trong Kiến đế, nên nay nói rằng: “Tu tập tám Thánh đạo, diệt “ngã”, “ngã sở”, được trí vô ngã.

“Nhân vô ngã” của Đại thừa ở thập trụ, xuất xứ Nhiếp luận.

Lại, không có “ngã”, “ngã sở”, trong Đệ nhất nghĩa cũng không thể được, nghĩa là trước nói “không có ngã”, “ngã sở” trong thế đế nay nói trong nghĩa bậc nhất cũng không có ngã, ngã sở nên ba pháp ấn nói: “tất cả pháp không có “ngã” đắc, không có “ngã”, “ngã sở”, nghĩa là giải thích môn khen pháp thứ hai. Trước, giải thích nửa bài trên, khen pháp.

“Người phàm phu v.v… trở xuống, là giải thích nửa kệ dưới khen người.”

Đầu tiên, là nêu phàm phu không thể thấy, kế là khen Bậc thánh có thể thấy.

“Ngã”, “ngã sở” trong, ngoài v.v… trở xuống, là phần thứ hai, giải thích được lợi ích của hai Niết-bàn. Trước hết, giải thích về vô dư.

Hỏi rằng: “ v.v… trở xuống, là giải thích hữu dư.”

Trong phần giải thích Hữu dư, trước là giải thích nửa kệ trước.

“Các phiền não này v.v… trở xuống, là giải thích nửa dưới của bài kệ trước.”

“Pháp thật tướng như thế v.v… trở xuống, là văn này kết trước, sinh sau. Kết pháp Thanh văn trước, sinh pháp Bồ-tát sau.”

“Chư Phật dùng Nhất thiết trí v.v… trở xuống, là giải thích pháp

Bồ-tát thứ hai.”

Giải thích pháp Bồ-tát được chia làm hai:

Trước, nói về giáo lý của Bồ-tát. Tiếp theo, nói được lợi ích. Nay, giải thích hai lý, giáo này.

Giải thích lý, giáo được chia làm hai:

Trước, giải thích nêu hai môn chương.

Tiếp theo, giải thích môn chương.

Giải thích nêu môn chương, trước là giải thích nửa bài kệ trên, được chia làm hai:

1/ Nói về nội trí của Phật quán sát “duyên”.

“Các thứ vì nói v.v… trở xuống, là phần thứ hai, nói về thuyết giáo đến duyên.”

Phần đầu, lại chia làm ba: Nêu, giải thích, kết.

Nói chung, về thuyết “ngã”, “vô ngã”.

“Nếu tâm chưa thành thục v.v… trở xuống, là thứ hai giải thích riêng về ngã, vô ngã. Trước hết là nói, Phật vì hai người phàm, Thánh nói không có “ngã”. Lại có Bố thí v.v… trở xuống, kế là vì hai người phàm thánh nói vô ngã. Lúc sinh, không sinh, đây là nói không từ “ngã” sinh, nên nói không sinh, chứ không phải là nói pháp “không”.

Hỏi: “Vì phàm phu nói “ngã”, “vô ngã” sẽ có ích lợi gì cho phàm phu? Vì bậc Thánh nói ngã, vô ngã đối với bậc Thánh có lợi ích gì?

Đáp: “Vì làm cho Thánh truyền pháp lợi ích cho con người, như Phật bảo A nan nên đặt câu: “Ta nghe như thế này.” Như Phật vì Bậc thánh, sao cho truyền giáo vô ngã.Cho nên, trong bài kệ nói v.v… trở xuống, là phần thứ ba, tổng kết.”

“Nếu ở trong chân thật v.v… trở xuống, là giải thích môn chương chân thật thứ hai. Lại chia thành bốn phần khác nhau:

1/ Chính thức giải thích:

Hỏi rằng: “ v.v… trở xuống, là phần thứ hai, người Tiểu thừa hỏi: “Người Tỳ-đàm nói: “Vô ngã” là thật. Vì thế tục giả gọi, nên nói có “ngã”, Luận Thành Thật cũng vậy, nên nói rằng: “Trong thế đế có “ngã”, Đệ nhất nghĩa “không” “ngã”, Thế đế vô ngã, đệ nhất nghĩa có ngã, đó là tà kiến đây gọi là chánh kiến. Người Đại thừa có đối tượng chứng đắc chấp hai “vô ngã” cho là thật, cũng đồng với câu hỏi này, nên Đại thừa có chứng đắc, sau cùng là Tiểu thừa. Nay, đã nói rằng: “Nếu ở trong thật tướng, không nói là tướng của “ngã”, chẳng phải “ngã”, nên biết “vô ngã” chưa phải là cùng cực.”

Đáp rằng: “ v.v… trở xuống, là phần thứ ba, phá chấp của người Tiểu thừa:

“Như thuyết trong Ba-nhã nói v.v… trở xuống, là phần thứ ba, dẫn Đại thừa làm chứng:

Hỏi rằng: “ v.v… trở xuống, là đây là giải thích thứ hai, giải thích bài kệ của môn chương. Trước, giải thích về môn chương thật tướng; tiếp theo, giải thích môn chương phương tiện.

Trong giải thích về môn chương thật tướng, trước giải thích pháp thuyết của nửa kệ trên; tiếp theo, giải thích thí thuyết của nửa kệ dưới.

Phần đầu có hai lượt hỏi đáp được chia làm hai:

Một lượt hỏi đáp trước sinh khởi ý sau của nửa bài kệ trên. Một lượt hỏi đáp tiếp theo, phân biệt nghĩa tâm hành diệt. Trong phần hỏi, dễ hiểu.

Đáp rằng: “ v.v… trở xuống, là có ba nghĩa nói tâm bậc Thánh cũng diệt:

1/ Niết-bàn gọi là diệt, vì diệt tâm Thánh hướng đến Niết-bàn nên cũng gọi là diệt.

2/ Dẫn ví dụ giải thích, đầu tiên, nêu “không định”; tiếp theo, là nêu “diệt định”. “Không định” là tâm “không”. Diệt định là nói về tâm “diệt”.

“Lại, cũng chung quy Niết-bàn v.v… trở xuống, là nghĩa thứ ba, tức là chung quy về “không” của kinh Pháp Hoa, nên tâm Thánh cũng diệt.”

Hỏi: “Đây là những tâm Thánh nào?”

Đáp: “Tâm Thánh của Tiểu thừa vô lậu hữu vi cũng diệt.”

“Thật tướng các pháp v.v… trở xuống, là giải thích thí thuyết của nửa kệ dưới. Đầu tiên, chính thức giải thích, tiếp theo, hỏi, đáp, phân biệt rất dễ hiểu.

Hỏi: “Nếu Phật không nói “ngã”, chẳng phải “ngã” v.v… trở xuống, là giải thích môn chương phương tiện thứ hai.

Trong đó chia làm hai:

1/ Đầu tiên, một lượt hỏi đáp, giải thích ba câu trước.

2/ Tiếp theo, một lượt hỏi đáp, giải thích câu thứ tư

Câu hỏi đầu sinh khởi ý sau. Ý hỏi rằng: “Thật tướng đã dứt hẳn nói năng, làm sao khiến con người biết về thật tướng?

Trong phần đáp được chia làm ba:

1/ Sinh khởi chung ý của bốn quan điểm

2/ Nêu môn chương của bốn quan điểm 3/ Giải thích bốn quan điểm Sinh khởi chung ý sau có hai thứ:

1/ Nói Phật có vô lượng phương tiện.

2/ Các pháp không có tướng quyết định

Vì nhân duyên này có thể được nói về bốn quan điểm.

“Vì chúng sinh nên v.v… trở xuống, là phần thứ hai, nêu bốn môn chương.”

Tất cả thật v.v… trở xuống, là phần thứ ba, giải thích bốn môn chương: Trước, là giải thích môn chương tất cả thật, tất cả không thật, tức thành hai phần khác nhau.

“Tất cả thật, không thật v.v… trở xuống, là giải thích quan điểm thứ ba.”

Chúng sinh có ba phẩm:

Hỏi: “Vì sao không bảo sơ tức là ba căn, mà chia ra ở bốn quan điểm? Đến quan điểm thứ ba mới biện biệt về ba căn ư?”

Đáp: “Nay, vì muốn dựa vào trình tự của bốn câu bài kệ, nên giải thích theo trình tự, chỉ câu thứ ba trái với hai câu trước, nên dùng ba căn để giải thích, nói không trái nhau, tức là tất-đàn các các vị nhân. Nếu y theo ở môn giáo thì lẽ ra là trái nhau, vì cho là con người không đồng, nên không trái nhau, tức một bài kệ rưỡi này đủ bốn tất-đàn, vì ba căn không đồng, tức các các. Chữa trị bệnh của ba căn là đối trị. Bốn quan điểm này là thế đế, tức thế giới tất-đàn. Nhờ bốn mà ngộ không bốn, nghĩa là Đệ nhất nghĩa. Bốn tất-đàn chung cho mười hai bộ kinh, tám vạn pháp tạng. Nay, một bài kệ rưỡi cũng vậy.

“Chẳng phải thật, chẳng phải không thật: giải thích quan điểm thứ tư:

Hỏi rằng: “ v.v… trở xuống, là giải thích quan điểm thứ tư trong bài kệ, đó gọi là pháp của Chư Phật.”

Hỏi: “Biết Phật v.v… trở xuống, là đây là chương thứ hai, giải thích về Bồ-tát được lợi ích .” Văn, chia làm hai:

1/ Trước, giải thích được ích của hai trí 2/ Sau, là giải thích được ích của đoạn.

Phần đầu, lại có hai: trước hỏi; tiếp theo, là đáp.

Trong phần hỏi, lại chia làm hai: 1/ Lãnh hội pháp của bốn quan điểm trước. 2/ Lại được thật tướng: Thế nào là câu hỏi thứ hai. Trong câu hỏi sau được chia làm hai:

Câu hỏi đầu, được hiểu tướng người.

Lại, thật tướng thế nào? là hỏi về pháp nội chứng của người, tức phát khởi hai văn của kệ, nên sinh ra hai câu hỏi này.

Đáp rằng: “ v.v… trở xuống, là đáp hai câu hỏi kia, tức là hai biệt.”

Đáp câu hỏi thứ nhất, giải thích một câu bài kệ, tự biết không theo người khác.

“Trong đây, không có pháp để chấp v.v… trở xuống, là giải thích ba câu dưới của kệ.” Đáp câu hỏi thứ hai, đại khác giải thích ba nghĩa:

1/ Giải thích nghĩa vắng lặng

“Vì tướng vắng lặng, nên v.v… trở xuống, là giải thích quan điểm không hí luận.”

2/ “Vì hí luận “không” v.v… trở xuống, là giải thích “không” “khác”, hai câu dưới, là giải thích vô phân biệt.

Hỏi rằng: “ v.v… trở xuống, là giải thích được ích của trí phương tiện. Trước hỏi, tiếp theo đáp.”

Trong phần hỏi, lập ra hai câu hỏi về “đoạn”, “thường”, muốn phát khởi không đoạn, không thường về sau.

Văn trong phần đáp văn chia làm hai:

1/ Chỉ dùng môn Đệ nhất nghĩa trước để đáp: Trong Đệ nhất nghĩa không có “đoạn”, “thường”.

2/ “Được thật tướng v.v… trở xuống, là phần thứ hai, y cứ môn thế đế để đáp.”

Trong tất cả câu đáp, đều không ngoài hai đế. Và, chỉ bày rõ hai đế đều lìa “đoạn”, “thường”, đều là Trung đạo.

Văn đáp chính là, giải thích bản kệ.

Hỏi: “Nếu hiểu như thế v.v… trở xuống, là phần thứ hai, giải thích về được lợi ích của Niết-bàn. Trước hỏi, tiếp theo đáp.

Trong phần đáp, trước là giải thích về pháp thuyết của nửa bài kệ trên được Niết-bàn thường, lạc, nghĩa là hỏi: “Trước đã nói về Niết-bàn rồi, sao nay lại nói nữa?”

Đáp: “Vì trước là Niết-bàn hữu Dư, Vô dư của Tiểu thừa, nay là Đại Niết-bàn thường, lạc, ngã, tịnh của Bồ-tát. Nếu không tạo ra hai giáo của Thanh văn, Bồ-tát để phân biệt văn này thì sẽ trở nên rất phiền toái. Chính vì cho nên người giảng nói ở thời đại sau phải y theo.

“Cho nên nói v.v… trở xuống, là giải thích về Niết-bàn của dụ thuyết trong nửa kệ dưới.”

“Phật nói thật tướng có ba thứ v.v… trở xuống, là giải thích đoạn thứ ba, nói về Duyên giác được lợi ích.” Văn, chia làm hai:

1/ Nêu chung ba thứ:

“Nếu sinh đại bi”, là giải thích pháp Bồ-tát thứ hai ở trên. “Nếu Phật không xuất thế”, là giải thích lợi ích của pháp Duyên giác thứ ba, là Thanh Mục chia bài kệ thành ba.”

Hỏi: “Ba căn đều nhập thật tướng, thì sao lại khác?”

Đáp: “Nhị thừa tùy phần nhập thật tướng, Bồ-tát thì cùng tận căn nguyên.”

 

PHẨM THỜI THỨ MƯỜI CHÍN

Sở dĩ có phẩm này là vì có hai mươi mốt phẩm được chia làm ba chương:

Chương thứ nhất, gồm mười bảy phẩm phá sạch tình mê, hiển bày thật tướng Trung đạo.

Chương thứ hai, là phẩm pháp, đã phá mê chấp, đã sáng tỏ thật tướng, nên ba thừa được lợi ích.

Chương thứ ba, từ đây về sau, phá lại tình mê, nói lại thật tướng, sao cho môn đồ chưa ngộ, nhờ phá mà được hiểu rõ. Người đã hiểu, quán hạnh càng thêm sáng suốt, nên có một chương này.

Hai là, chư Phật, Bồ-tát nói kinh, soạn luận, gồm có ba môn:

1/ Môn chánh nói

2/ Môn khen ngợi

3/ Khen ngợi rồi, lại nói

Hai môn trên đã nói xong, Thính giả đã nghe khen ngợi, cảm thấy vui vẻ, tâm lãnh hội ưa muốn được nghe, cho nên, Luận chủ lại nói lại.

Hỏi: “Vì sao tiếp theo sau phẩm Pháp là phẩm Phá Thời ư?”

Đáp: “1/ Phẩm trên đã quán pháp. Nay, kế là phẩm phá Thời pháp đối nhau.

2/ Từ đầu luận đến đây dù chỗ nào luận cũng đều quán pháp, mà lập riêng một chương, gọi là phẩm Quán Pháp, dù trong mỗi phẩm đều phá thời, nhưng nay cũng lập riêng một phẩm để xét nghiệm về thời gian.

3/ Bài kệ sau cùng của phẩm Pháp chép rằng: “Phật trước đã qua, Phật sau chưa ra đời, người Bích-Chi đã ra đời trong khoảng thời gian này.”

Đã có ba thời gian, kẻ mê lầm bèn chấp, cho nên phá.

Hỏi: “Hai Môn quán phẩm có gì khác nhau không?”

Đáp: “Phẩm pháp thường y cứ ở nhân thành môn, nói về quán hạnh của ba thừa, nên đầu tiên, đã tìm năm ấm là “một”, là “khác” với người giả không thể được, là Thanh văn quán. Nếu không thấy “ngã”, không phải “ngã” là quán của Đại thừa.

Nay, phẩm này chính là y cứ môn “tương đãi” để nói về thật tướng. Tìm pháp “một” “khác” của thời gian ba đời đối đãi nhau không thể được, tức hiển bày thật tướng, nên ngườiba thừa thấy thật tướng, tức là được đạo.

Hỏi: “Nếu không có ba đời và người ba thừa, thì vì sao phẩm trên lại nói là “có” ư?”

Đáp: “Nói ba của không ba là vì muốn cho chúng sinh đều thể ngộ ba của không ba, mà vì chấp mắc bèn tạo ra ba, nên có ba hiểu biết, cho nên phải phá.

Lại, trên đã nói ba không ba, nay sẽ nói không ba của ba, thành lập lẫn nhau.

Nói về thời gian, ngoại đạo có hai sư:

1/ “Thể của thời gian là thường, chỉ vì vạn vật tạo ra liễu nhân”, vì không sinh ra các pháp, nên không phải là nhân của sinh. Tiếp theo, nói: “Có riêng “thể” của thời gian là pháp vô thường, có thể vì vạn hóa làm nhân để sinh ra sát, nên bài kệ rằng:

“Thời đến, chúng sinh đến

Thời đi thì diệt nhanh

Cho nên thời là nhân.”

Trong Phật pháp cũng có hai sư:

1/ Bộ Thí dụ nói rằng: “Có riêng “thể” của thời gian, không phải sắc, tâm, thể là thường, mà pháp là vô thường, chỉ có pháp vận hành trong thời gian này, như con người đi từ phòng này đến phòng khác, như vật từ đồ đựng này để qua đồ đựng khác.”

Bà-sa nói: “Vì dừng ở đây để nói về pháp, tức là pháp thời gian vô thường, tức thời gian vô thường. Phân tích nhân pháp giả gọi thời gian, lìa pháp ra, không có thời gian riêng. Thời gian ba đời dù không có tự “thể” riêng, nhưng pháp trong thời gian thì quyết định chẳng phải không có.”

Trong bộ Tát-bà-đa, có bốn đại sự lập ra ba đời không đồng:

1/ Khác nhau: tức là người Cù-sa nói nghĩa chín đời, mỗi đời gồm có hai. Như người mặc áo ba màu: xanh, trắng, đen, một sắc là chính, hai sắc là phụ. Như vị lai có ba đời:

1/ Chánh là vị lai, phụ nghĩa quá khứ, hiện tại. Hiện tại v.v… cũng vậy.

2/ Việc khác nhau: tức Đạt-ma-đa-la, chỉ một pháp làm thành ba đời: một pháp là “có”, mà sự là khác, như vàng ròng chưa làm ra dụng cụ, gọi là vị lai; đang chế tạo ra đồ đựng là hiện tại, mà “thể” của vàng là “có”.

3/ Thời gian khác, tức đều phải khít khao, như pháp có ba đời: đón, đưa, đang trông đợi không đồng là ba đời. Chẳng hạn như nay là hiện tại, hôm qua đối với hôm nay là vị lai, với ngày mai là quá khứ. “Đang” là hiện tại, “từng” là vị lai, “sẽ” là quá khứ. Đang là quá khứ, từng là vị lai, từng là hiện tại. Đang là vị lai, sẽ là hiện tại, sẽ là quá khứ.

4/ Dị khác. Tức là nghĩa người của Phật đà, cũng có ba nghĩa là ba đời, mười sát na không có nhất định. Như sát na thứ nhất là hiện tại, chín sát na còn lại là vị lai, chưa quá khứ. Sát na thứ hai là hiện tại, sát na thứ nhất là quá khứ, tám sát na còn lại là vị lai. Như thế, sát na thứ mười là hiện tại, chín sát na trước là quá khứ, không có thời vị lai. Nay, cho là ba đời rất lộn xộn. Nay, tìm kiếm chung về thời gian này không thể được, nên nói phẩm Phá Thời.

Phẩm này được chia làm hai phần:

1/ Lập

2/ Phá

Trong phần lập, được chia làm hai: Đầu tiên, lập có thời gian thượng, trung, hạ “một” “khác” v.v…. Tiếp theo, lập có pháp.

Hỏi: “Phẩm trên chưa nói ba đời, người ngoài chấp có ba đời. Vì sao lập ra pháp thượng, trung, hạ và “một” “khác” ư?”

Đáp: “Trên, đã nói người ba thừa được lợi ích, tức là chấp nghĩa thượng, trung, hạ. Đối với cái khác của ba thừa, nói về pháp Nhất thừa, nên lại chấp “một” “khác”. Kinh Đại Phẩm nói: “Các pháp như trung, không phải chỉ không có ba thừa “khác” nhau, mà cũng không có một Bồ-tát thừa độc nhất. Nay, muốn giải thích kinh không có “một”, không có ba, nhằm phá tan lý chấp nhất định có ba, một của người ngoài.

Chính vì thế, nên nay nói thượng, trung, hạ và “một” “khác”. Trong phần đáp, có sáu kệ, chia làm hai chương:

1/ Bốn kệ đầu, y cứ môn Đối đãi, không đối đãi để phá.

2/ Hai kệ tiếp theo, y cứ môn thể, tướng để phá.

Phần đầu lại có hai:

A/ Ba kệ rưỡi trước, y cứ môn đối đãi, không đối đãi để phá thời gian.

B/ Nửa kệ tiếp theo, là phá pháp.

Ba kệ rưỡi được chia làm hai:

1/ Ba kệ đầu, y cứ đối đãi với quá khứ, không đối đãi với quá khứ, không có hai thời. Nửa kệ tiếp theo, là so sánh phá hai thời còn lại.

Ba bài kệ được chia làm hai:

A/ Hai bài kệ đầu, y cứ môn đối đãi nhau để phá.

B/ Một bài kệ tiếp theo, y cứ môn không đối đãi để phá.

Hai kệ đầu tức hai: bài kệ trước nói đối đãi với nhau thì tồn tại.

Bài kệ tiếp theo, nói không tồn tại nhau, thì không đối đãi nhau.

Nửa trên của kệ đầu, là nhắc lại nửa kệ dưới, phá. Ý phá rằng: “Pháp có tự thể, thì không nhờ nhân cái khác, nhờ cái khác mà có, thì không có tự thể. Nếu không có tự thể thì ở trong cái khác đó.

Văn xuôi được chia làm bốn:

1/ Nhắc lại nghĩa ngoài, thì nhắc lại nửa trên của kệ, tức trung, hạ, của thời quá khứ, vấn nạn thứ hai, là nhắc lại nửa dưới của kệ.

“Vì sao? v.v… trở xuống, là phần thứ ba, giải thích vấn nạn.

Căn cứ trong phần vấn nạn đầu có năm:

1/ Nói đối đãi nhau, thì có tồn tại với nhau.

2/ Nói nếu tồn tại với nhau, thì đồng gọi là quá khứ.

3/ Nếu đồng gọi quá khứ, thì không có hai thời

4/ Nếu không có hai thời, thì cũng không có quá khứ, vì không có vị lai để làm nhân, nên không có quá khứ.

Như thế, sinh tử, Niết-bàn đối đãi nhau, cũng tạo ra năm vấn nạn trong đây.

Hỏi: “Đèn sáng một thời gian, có thể được chỗ đèn có sánh sáng, còn trước, sau ba đời, đâu được đem so sánh?”

Đáp: “Dù rằng một thời gian trước, sau không đồng, nhưng vì nhân nhau không khác, nên được có lời trách cứ này.”

“Cho nên, thuyết trước, nói v.v… trở xuống, là phần thứ tư, kết sai lầm, văn còn lại dễ hiểu.”

“Nếu cho rằng trong thời quá khứ v.v… trở xuống, là sinh ra bài kệ thứ hai, nói không tồn tại nhau thì không được đối đãi.”

Nửa trên của kệ, là nhắc lại nửa kệ dưới, phá, ý phá rằng: “Nếu không tồn tại với nhau, mà đều tự có “thể” thì đâu nhờ làm nhân cho nhau, như nghĩa dài, ngắn, của người khác đã thành, thì cần gì phải đối đãi?”

Hỏi: “Nếu không nhân nhau v.v… trở xuống, là sinh ra bài kệ thứ ba, phá không đối đãi nhau.”

Hỏi: “Phá đối đãi, không đối đãi là nghĩa gì?”

Đáp: “Đối đãi là nghĩa nhân duyên, không đối đãi là nghĩa tự tánh. Tất cả nghĩa đều không ngoài hai nghĩa này. Đã phá đối đãi nhau là nói Trung đạo đệ nhất nghĩa, phá không đối đãi nhau là nói Trung đạo của thế đế.

Lại nữa, đối đãi là đối đãi nhau; không đối đãi là nghĩa dứt đối đãi. Như mười tám “không” là “không” đối đãi nhau; “không” riêng một mình là “không” chẳng đối đãi nhau. Nếu vậy, phá đối đãi nhau là nói Trung đạo đệ nhất nghĩa, phá dứt hết đối đãi là nói Trung đạo phi chân, phi tục.”

Câu trên trong phần đáp là nhắc lại; ba câu dưới, là phá, ý phá rằng: “Trên đây, vì ông tự nói đối đãi nhau, nên có chẳng đối đãi thì sẽ “vô”. Nếu vậy, nay đã chẳng có đối đãi thì sẽ chẳng có hai thời gian. Dùng quá khứ, hiện tại mà bỏ đi, gọi là quá khứ. Nếu hiện tại không đối đãi với quá khứ, thì làm sao có hiện tại ư?”

Vì nghĩa như thế, nên nửa kệ thứ hai là so sánh phá hai thời. Ba bài kệ trước, y cứ môn đối đãi với quá khứ, không đối đãi với quá khứ, để phá không có hai thời. Nay, lại nắm lấy vị lai, hiện tại để làm đầu mối, lẽ ra cũng đều có ba bài kệ, gồm có chín bài kệ.

Nửa bài kệ dưới, chương thứ hai, tiếp theo, so sánh phá pháp ấy.

Người khác nói rằng: “Khúc gỗ một trượng có hai lý dài, ngắn, so với hai tượng thì ngắn, so với năm thước thì dài. Nay hỏi: “Do có lý này nên không cần hình tướng. Nếu không có lý này, thì dù hình cũng không xuất hiện.”

Lại, nếu cần dài, mới biết là có ngắn, thì lẽ ra cũng phải cần hình mới có lý dài, ngắn. Nếu lý tự có, thì việc dài, ngắn cũng tự có.

Hỏi: “Như có năm, tháng, ngày giờ v.v… trở xuống, là sinh ra phần thứ hai, y cứ thể, tướng để phá lẫn nhau. Trước hỏi, tiếp theo đáp. Hai môn đối đãi, không đối đãi ở trên, đã trách không có thời. Người ngoài không đáp được , chỉ nêu vị việc mắt hiện thấy để hỏi Luận chủ rằng:

“Nếu không có thời gian, thì làm sao có năm, tháng v.v… ư? Nay, đã có năm, tháng v.v… thì biết rằng phải có thời gian.” Nhiếp luận đã y cứ năm thứ để nói thời gian:

1/ Thời gian ngày

2/ Thời gian tháng

3/ Thời gian năm

4/ Thời gian vận hành

5/ Thời gian song song

Vì sáng tối khác nhau, nên lấy ngày, đêm làm con số, gọi là thời gian ban ngày. Vì có sự khác nhau giữa tối, sáng nên chia làm hai nửa tháng. Hai nửa tháng, gọi chung thì việc trăng khuyết trăng, đầy được thành lập, nên có thời gian tháng. Mười hai tháng chia làm ba phân: một phân có hai thời gian, một thời gian có hai tháng, nên nói thời gian năm. Về ban ngày thì sáu tháng, từ phía Nam mặt trời vận hành đến phía bắc, nên lấy sáu tháng làm một thời gian vận hành. Cứ năm năm, năm tháng, năm ngày thì có hai lần nhuần, cho là một cặp, nên nói là thời gian song song. Tiếp theo, là có thời gian một tiểu kiếp, mười chín tiểu kiếp là thời gian Trung kiếp, tám mươi tiểu kiếp thành thời gian của một đại kiếp. Tiểu thừa có sáu mươi số, Đại thừa tám mươi số, là một tăng-kỳ.

Hỏi: “Bao lâu là thời gian một khoảnh khắc?”

Đáp: “Luận Trí Độ nói: “Một búng ngón tay có sáu mươi lần sinh, diệt”. Khang Tăng Hội nói: “Một cái búng tay có một trăm chín mươi lần chuyển. Luật Tăng-kỳ chép: hai mươi niệm, gọi là một nháy mắt, hai mươi lần nháy mắt gọi một lần búng ngón tay; hai mươi búng ngón tay gọi một la phả; hai mươi la phả gọi một khoảnh khắc.” Hai bài kệ trong phần đáp, được chia làm hai:

1/ Kệ đầu nói: “Vì thể của thời gian không thật có nên tướng không có.”

2/ Kệ thứ hai nói: “Vì tướng của thời gian là không nên thời gian cũng không.”

Nửa bài kệ trên, nói thời gian không có tự thể. Nửa kệ dưới nói vì thể là không, nên tướng là không. Nếu quá khứ cũng dừng lại thì là hiện tại, không gọi quá khứ. Nếu quá khứ không dừng lại thì mất tự tướng, mà mất tự tướng thì không có tự thể của thời gian, tức là không có quá khứ. Đồng với “quá khứ trong quá khứ” của Bách luận: không gọi là quá khứ. Vị lai cũng thế, nếu vị lai chưa có, thì là “không”, không thì chẳng có thời gian. Nếu vị lai đã có thì là hiện tại, cũng không có vị lai.

Hai môn trước đã trách không có quá khứ: vì “quá khứ” không, nên hai thời gian còn lại cũng không.

Lại nữa, nếu “thể” của thời gian dừng lại thì thường, là một niệm không có năm, tháng. Đã không có năm, tháng, cũng không có một niệm. Nếu thời gian không ngừng lại, thì mỗi niệm đều diệt, đều không có nối tiếp nhau, đâu có số năm? Ông vốn tích giờ thành ngày, tích ngày thành tháng, tích tháng thành năm. Do đó, nếu một ngày diệt thì sẽ có “sau”, không có “trước”, làm sao tích ngày thành tháng? Nếu ngày không diệt, thì chỉ có một ngày, tức là có trước, không có sau, đâu còn được tích ngày thành tháng? Vì thế, nên dừng lại, không dừng lại đều không thể.

Nghĩa khác nói: “Mười kiếp là một niệm”, đây là trí lực của Phật như vậy. Nay, hỏi nếu thật sự có thời gian dài, ngắn, thì làm sao được như thế? Nếu dùng Phật lực làm cho dài, ngắn tự tại, thì lẽ ra cũng do oai lực Phật, nên sắc được là tâm? Lại hỏi: “Nếu thời gian là thường, thường thì không có ba đời? thời gian vô thường, niệm niệm sinh diệt, cũng không có ba đời?” lại thường nói: “Niệm đầu của vô minh chưa có bốn trụ địa, để gọi là ban đầu. Đã chưa có sau, thì đâu được có ban đầu? Nếu chưa có sau, mà gọi là đầu, thì cũng có thể gọi là sau. Lại, nếu không có sau, mà gọi là ban đầu thì là ban đầu tự nhiên, lại nếu không có sau, mà có đầu, thì lẽ ra cũng không có ban đầu, có sau?

Nửa trên của bài kệ thứ hai, nói do vật mà có thời gian, thì vật thể là “thể” của thời gian.

Nửa bài kệ dưới nói vì vật là không, nên thời gian không, như do các vật như hoa quả v.v… mà biết được thời gian mùa xuân, thu. Các vật như hoa quả v.v… vì đã dùng nhiều cách phá trên đây, nên không có vật. Vì không có vật thể, nên thời gian là “không”.

Ông hỏi: “Thời gian, và pháp đối đãi nhau, tức là không làm “thể” lẫn nhau? lại hỏi: “Thời gian không có tự “thể” riêng, ý thức “duyên” lẽ ra không được, lẽ ra cũng không phải là pháp trần, mà ý thức duyên thì được. Lại là pháp trần, thì lẽ ra có tự thể riêng? Nếu không có tự “thể” thì không có thời gian. Lại, nếu hiện tại đối đãi với vị lai, thì lẽ ra tồn tại lẫn nhau, nếu không thể tồn tại lẫn nhau, thì không thể đối đãi!