TÔNG CẢNH LỤC
Thiền sư Diên Thọ
Tuệ Đăng & Hân Mẫn dịch

 

QUYỂN 94

Đại chỉ Tông Cảnh đã rõ ràng, trước tuy vấn đáp quyết nghi nhưng vẫn ngại khó tin. Bậc thượng căn vừa xem liền vào môn tổng trì, hàng trung hạ tuy nghiền ngẫm song vẫn ôm mối hoài nghi. Nay vì tín lực chưa sâu, hoài nghi chưa dứt nên lại dẫn ra 120 bản kinh Đại thừa, 120 pháp ngữ của chư Tổ, 60 trước tác của Thánh hiền đều là lời dạy vi diệu của 300 bản kinh luận, là lời giáo huấn chân thật của nhất Phật thừa, có thể gọi là nêu một chữ mà bao quát vô biên giáo hải, lập một lý mà thâu vô tận chân thuyên. Mỗi mỗi nêu tông giống như thấy khắp nơi Long cung, lớp lớp dẫn chứng như trực tiếp nghe nơi Linh Thứu khiến cho người ngủ trong mây, đứng trong tuyết tọa tham bậc tri thức, và khiến cho người thể cứu chân lý, thâm nhập đạo huyền đều vào viên tông, tìm đến tùng lâm của cổ Phật như được mặt trời chiếu sáng, giẫm lên cửa của Tổ sư như thấy cõi Tịnh thiên. Đại giác sáng tỏ thì ngay nhục nhãn mà viên thông Phật nhãn; nghi tình rỗng không thì ngay phàm tâm mà hiển hiện chân tâm, có thể nói là hiện biết pháp giới trong bàn tay liền đồng thân chứng, tìm xét diệu chỉ trong lòng. Kinh Đại Bát-nhã nói: “Tất cả Như Lai đồng ở một chỗ, tự tính thanh tịnh, thuộc về vô lậu giới”. Lại nói: “Chư Phật ba đời trụ mười phương cõi, vì các hữu tình tuyên nói chính pháp, không gì chẳng phải dụng; bản tính không là Phật nhãn, lìa bản tính không, không có phương tiện khác”.

Giải thích:

Bản tính không chính là tự tính thanh tịnh tâm bản tính tức tự tính không, là nghĩa thanh tịnh. Tâm này phàm Thánh vốn có, xưa nay thường vậy, chúng sinh chẳng biết, chư Phật nhân đây truyền trao, hàm linh hiện tại đầy đủ, Tổ sư truyền nhau tâm này, cho nên nói lìa đây không có phương tiện khác. Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm có bài tụng:

Ngôn từ diễn nói pháp
Tiểu trí vọng phân biệt
Thế nên sinh chướng ngại
Chẳng rõ nơi tự tâm
Chẳng thể rõ tự tâm
Làm sao biết chính đạo
Kẻ do điên đảo tưởng
Tăng trưởng các việc ác.

Kinh Đại Niết-bàn nói: “Tin nơi đạo nhị đế nhất thừa, không còn đường nào khác, làm cho chúng sinh chóng được giải thoát”.

Lại nói: “Đạo tuy không có sắc tượng để thấy, không cân lượng để biết mà thật ra có công dụng. Này thiện nam, như tâm chúng sinh tuy chẳng phải là sắc, chẳng dài, chẳng ngắn, chẳng thô, chẳng tế, chẳng buộc, chẳng mở, chẳng phải là thấy pháp mà cũng là có”.

Kinh Bảo Tích nói: “Tất cả pháp hư vọng như chiêm bao, vì chỉ có niệm”. Lại nói: “Tự là cồn bãi, tự là chỗ về; pháp là cồn bãi, pháp là chỗ về; không có cồn bãi khác, không có chỗ về khác”.

Giải thích: Luận Khởi Tín nói: “Pháp là tâm chúng sinh. Cho nên biết chỗ hướng đến đều là tâm, làm sao có chỗ về, trụ cảnh giới của chính mình không riêng có phương sở”. Kinh Pháp Hoa có bài kệ:

Chẳng thực hành pháp thượng trung hạ,
Hữu vi, vô vi, thực, bất thực,
Cũng chẳng phân biệt là nam, nữ
Chẳng được các pháp chẳng thấy biết.

Đây gọi là chỗ thực hành của Bồ-tát. Tất cả các pháp rỗng không, không thật có, không thường trụ, cũng không khởi diệt, đây là chỗ thân cận của bậc trí. Điên đảo phân biệt các pháp hữu vô là thật phi thật, là sinh phi sinh, nơi vắng vẻ tu nhiếp tâm mình an trụ bất động như núi Tu-di, quán tất cả pháp đều không thật có cũng như hư không không bền chắc, chẳng sinh, chẳng xuất, chẳng động, chẳng thoái, thường trụ nhất tướng, đây gọi là chỗ thân cận.

Giải thích: Nếu vào môn nhất tâm nhất tướng vẫn không có pháp thường trụ, làm sao có duyên sinh diệt, tự nhiên bất động như núi, tâm yên như biển, đây gọi là chỗ thực hành của Bồ-tát, nơi an trú của chư Phật. Cho nên kinh Hoa Nghiêm có bài tụng:

Pháp tính như hư không
Chư Phật trụ trong ấy.

Kinh Đại Tập nói: “Thế nào là Bồ-tát tu tâm niệm xứ ? Quán tâm tính này chẳng thấy nội nhập tâm, chẳng thấy ngoại nhập tâm, chẳng thấy nội ngoại nhập tâm, chẳng thấy tâm trong ấm, chẳng thấy tâm trong giới. Đã chẳng thấy như thế rồi lại tư duy: tâm và duyên là khác hay chẳng khác ? Nếu tâm khác duyên thì trong một lúc phải có hai tâm; nếu tâm là duyên thì không có thể hay quán tự tâm, cũng như đầu ngón tay không thể tự xúc chạm. Tâm cũng như thế, quán như thế rồi thấy tâm vô trụ, vô thường, biến đổi, chỗ sở duyên trừ diệt. Lại nói: “Chẳng thấy một pháp, tướng mạo một pháp, quang minh một pháp. Nếu thấy như thế gọi là chính kiến của Phật pháp”. Kinh Viên Giác nói: “Khi ấy Bà-già-bà thể nhập thần thông đại quang minh tạng tam-muội chính thọ. Tất cả Như Lai quang nghiêm trụ trì là giác địa thanh tịnh của các chúng sinh, thân tâm tịch diệt bình đẳng bản tế, viên mãn mười phương, bất nhị tùy thuận, nơi cảnh bất nhị hiện các tịnh độ”.

Lại nói: “Này thiện nam, các thứ huyễn hóa của tất cả chúng sinh đều sinh từ Như Lai viên giác diệu tâm, như hoa đốm có từ hư không, hoa đốm tuy diệt nhưng tính hư không chẳng hoại. Tâm huyễn hóa của chúng sinh trở lại theo huyễn diệt, các huyễn diệt sạch nhưng giác tâm bất động. Y huyễn nói giác cũng gọi là huyễn. Nếu nói có giác vẫn chưa lìa huyễn, nói không có giác cũng như thế, thế nên huyễn diệt gọi là bất động. Này thiện nam, tất cả Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp cần phải xa lìa tất cả cảnh giới huyễn hóa hư vọng; do vì nắm lấy tâm xa lìa nên tâm như huyễn cũng xa lìa; xa lìa là huyễn cũng lại xa lìa; xa lìa ly huyễn cũng lại xa lìa; được không chỗ lìa là trừ các huyễn, ví như cọ xát hai cây để lấy lửa, lửa phát cây hết, tro bay khói diệt. Lấy huyễn tu huyễn cũng lại như thế, các huyễn tuy hết nhưng chẳng vào đoạn diệt. Này thiện nam, biết huyễn liền lìa, chẳng có phương tiện; lìa huyễn liền giác, không có thứ lớp. Tất cả Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp y đây tu hành thì có thể vĩnh viễn xa lìa các huyễn”.

Giải thích: Biết huyễn liền lìa, chẳng có phương tiện, vì huyễn không có tướng cố định, tự tính thường lìa, lìa là không, tức là tất cả phàm Thánh vạn pháp cấu tịnh đều đồng huyễn như hư không thì cần gì tạo ra phương tiện mà muốn lìa. Lìa huyễn liền giác, không có thứ lớp, nghĩa là ngay lúc lìa toàn thành đại giác, tức ly tức giác bình đẳng nhất chiếu; đã không trước sau thì đâu có thứ lớp ?

Kinh Mật Nghiêm có bài kệ:

Tất cả việc thế gian
Ví như những sóng nắng
Bởi các tướng chẳng thật
Mà vọng phân biệt có
Giác do sở giác sinh
Sở giác nương năng giác
Lìa một thì không hai
Như ánh sáng và bóng
Không tâm cũng không cảnh
Năng lượng và sở lượng
Chỉ nương vào nhất tâm
Như thế mà phân biệt
Pháp năng tri sở tri
Chỉ nương tâm vọng cháp
Nếu biết sở tri không
Tâm là tự tính pháp
Sự khát ái của người
Vào trong đệ bát địa
Sẽ trở nên thanh tịnh
Cữu địa tu thiền định
Nước pháp rót trên đỉnh
Trở thành đấng Thế Tôn
Pháp thân là vô tận
Là cảnh giới của Phật
Rốt ráo như hư không
Tâm thức cũng như thế.

Lại nói: “Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng bảo đại chúng: Nhân giả, thức a-lại-da từ vô thỉ đến nay, do các nghiệp hý luận huân tập trói buộc nên luân hồi mãi chẳng dừng; như biển do gió dấy khởi các sóng thức, luôn sinh luôn diệt, chẳng đoạn chẳng thường mà chúng sinh chẳng tự giác biết, tùy theo tự thức mà hiện các cảnh giới. Nếu tự rõ biết như lửa đốt củi, liền bặt dứt vào địa vị vô lậu gọi là Thánh nhân”. Kinh Lăng Già nói: “Đệ nhất nghĩa đế chỉ là tâm, các tướng bên ngoài đều không có. Kẻ ngu phu chấp trước ác kiến lừa đối tự tha, chẳng thể thấy được chỗ trụ như thật của tất cả các pháp. Đại Tuệ, tất cả các pháp như thật nghĩa là liễu đạt duy tâm sở hiện”.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm ghi: “Phật bảo ngài Văn-thù và đại chúng: Mười phương Như Lai và các vị đại Bồ-tát ở trong tự trụ tam-ma-địa thì cái thấy, cái bị thấy và các tưởng tướng hoa đốm hư không, vốn không có gì. Cái thấy và cái bị thấy vốn là tâm tính bồ-đề nhiệm mầu trong sạch sáng suốt, làm sao trong đó lại còn có các nghĩa thị và phi thị ?

Này Văn-thù, nay ta hỏi ông, như ông đây là Văn-thù, nơi ông lại có cái tức là Văn-thù hay không phải Văn-thù ?

– Bạch Thế Tôn, đúng thế. Con đây thật là Văn-thù, nơi con không có cái gì tức là Văn-thù, vì sao ? Vì nếu có cái ấy thì thành ra hai Văn-thù, nhưng con hiện nay chẳng phải là không Văn-thù, trong đó thật không có hai tướng thị và phi thị.

Phật bảo: Tính thấy nhiệm mầu sáng suốt với các sắc, không cũng như vậy, vốn một tâm tính vô thượng bồ-đề, lầm nhận là sắc, không cùng với nghe, thấy như dụi con mắt thấy có hai mặt trăng, mặt trăng nào mới thật là mặt trăng, còn mặt trăng nào lại chẳng phải là mặt trăng. Này Văn-thù, chỉ có một mặt trăng thật, trong ấy tự không có cái gì thật là mặt trăng hay chẳng phải là mặt trăng. Vậy nên hiện nay, các ông phát minh các thứ xem thấy trần cảnh đều là vọng tưởng. Không thể ở trong đó chỉ ra các nghĩa thị và phi thị. Nhưng do tất cả đều là tâm tính nhiệm mầu sáng suốt nên có thể làm cho các ông ra ngoài các nghĩa “chỉ được” và “không chỉ được”.

Kinh Tứ Thập Nhị Chương nói: “Bậc sa-môn xuất gia dứt dục bỏ ái, biết nguồn tâm của mình, đạt bản lý của Phật, ngộ pháp vô vi, trong không sở đắc, ngoài không sở cầu, tâm chẳng hệ đạo, cũng chẳng kết nghiệp, vô niệm vô tác, phi tu phi chứng, chẳng trải qua các ngôi vị mà tự tôn kính tột cùng, gọi đó là đạo”.

Lời Phật dạy: “Thấy trời đất nghĩ đến vô thường, thấy thế giới nghĩ đến vô thường, thấy linh giác tức bồ-đề, tâm thức như thế đắc đạo rất nhanh”.

Kinh Kim Cang Tam-muội ghi: “Phật bảo: Như vậy tâm chúng sinh thật sự không có biệt cảnh, vì sao ? Vì tâm vốn thanh tịnh, vì lý không nhơ uế. Vì nhiễm trần nên gọi là ba cõi. Tâm của ba cõi gọi là biệt cảnh. Cảnh này hư vọng từ tâm hóa sinh. Nếu tâm không hư vọng thì không có biệt cảnh. Bồ-tát Đại Lực nói: Nếu tâm thanh tịnh các cảnh chẳng sinh, lúc tâm này thanh tịnh lẽ ra không có ba cõi. Phật bảo: Đúng thế, tâm Bồ-tát chẳng sinh cảnh, cảnh chẳng sinh tâm, vì sao ? Những cảnh được thấy chỉ là do tâm thấy, tâm chẳng huyễn hóa thì không chỗ thấy”.

Kinh Đại Phương Quảng Nhập Như Lai Trí Đức Bất Tư Nghì nói: “Thảy đều rõ biết thật tướng của các pháp tự tính bình đẳng như hư không”. Lại nói: “Trong một pháp rõ tất cả pháp, vô phân biệt trí thường hiện trước mắt”.

Giải thích: Một pháp chính là tự tâm, tâm này là tính bình đẳng của các pháp, trong tâm tính của mình rõ tất cả pháp có gì phân biệt.

Kinh Bất Tăng Bất Giảm nói: “Nghĩa thậm thâm là đệ nhất nghĩa đế, đệ nhất nghĩa đế là chúng sinh giới, chúng sinh giới là Như Lai tạng, Như Lai tạng là Pháp thân”.

Giải thích: Tâm là môn tổng trì của các pháp, là tính chân thật của muôn loài cho nên gọi là đệ nhất nghĩa đế. Tâm niệm tạp loạn nên gọi là chúng sinh. Giới của tâm này là chúng sinh giới, từ tính chân như khởi nên gọi là Như Lai. Không chỗ khuyết giảm gọi là tạng, hay tích tụ Hằng sa công đức nên gọi là pháp thân. Thế nên kinh Nhân Vương nói: “Một niệm ban đầu đầy đủ tám muôn bốn nghìn ba-la-mật”.

Kinh Tập Phước Đức Tam-muội nói: “Như vật báu lưu ly tùy theo chỗ xuất hiện mà chẳng mất bản tính của nó; cũng như thế nếu có Bồ-tát trụ tam-muội này thì người này dù tại gia cũng được gọi là xuất gia, chẳng mất thể tính pháp giới.

Giải thích: Vì thế ngộ tâm mới có thể đắc đạo, thấy tính gọi là xuất gia. Nếu thấy tính thì tại gia là xuất gia, nếu chẳng thấy tính thì xuất gia là tại gia, cho nên ngài A-nan khi chưa thấy tính tự sám hối: Thân tôi tuy xuất gia mà tâm chẳng vào đạo.

Kinh Phật Địa nói: “Nên biết pháp giới thanh tịnh ví như hư không, tuy trùm khắp các tướng mà chẳng thể nói có các tướng, thể chỉ có một vị. Cũng như thế pháp giới thanh tịnh của Như Lai tuy trùm khắp các tướng mà chẳng thể nói có các tướng, thể chỉ có một vị”.

Giải thích: Pháp giới thanh tịnh là pháp giới vô tạp của nhất tâm, vì pháp là giới đâu có bờ mé, trong tất cả sắc đều có tính hư không, huống là trong tất cả pháp đều có tính an lạc. Vì che dấu tính này nên tùy theo cảnh sở tri ứng với tình lượng hiện các cảnh giới. Nếu dùng không để rõ thì có không xuất hiện, nếu dùng sắc để rõ thì có sắc xuất hiện, chỉ cần tùy chỗ phát minh thì tùy chỗ xuất hiện, các cảnh xuất hiện đều do vọng tâm sinh, tướng nó chẳng thật có, chỉ là một vị chân tâm lặng lẽ bất động.

Kinh Bất Không Quyên Sách nói: “Trì chân ngôn là lấy tâm để quán tâm của chính mình, đối với tất cả chư Phật Như Lai sinh ra tôn diệu thù thắng”.

Kinh Bồ-tát Địa nói: “Người mê Thánh đạo chẳng biết lý đạo tự tâm sinh, chỉ thường làm khổ thân để cầu giải thoát, như con chó đuổi theo hòn đá chẳng biết tìm xuất xứ”. Do đó Luận Đại Trang Nghiêm giải thích: “Như sư tử bị người bắn liền đuổi theo người, con chó ngu si thì đuổi theo hòn đá ném mà chẳng biết tìm xuất xứ”. Sư tử dụ cho người trí tuệ biết tìm căn nguyên để diệt phiền não; con chó ngu si dụ cho ngoại đạo bị ngũ nhiệt đốt thân chẳng biết gốc tâm.

Kinh Pháp Tập ghi: “Hay biết tất cả chỉ là nhất tâm, gọi là tâm tự tại; trong bàn tay xuất hiện các trân bảo, cũng lấy hư không làm kho tàng, gọi là vật tự tại; tất cả nghiệp của thân khẩu ý lấy trí làm gốc, gọi là trí tự tại”.

Lại nói: “Quán Thế Âm bạch Phật: Nếu Bồ-tát thọ trì một pháp, tự nhiên tất cả Phật pháp như ở trong lòng tay, vì sao ? Vì một pháp này gọi là đại bi. Giải thích: Đây là đồng thể đại bi, vì bản tính của đại bi này bao trùm tất cả chúng sinh giới nên một trận mưa đều thấm nhuần tất cả cỏ cây, một niệm đều tế độ cả chính tà.

Kinh Đại Quán Đỉnh nói: “Tỳ-kheo Thiền Tư không có tưởng niệm khác, chỉ giữ lấy một pháp, sau đó mới thấy chân”. Giải thích: Một pháp là chủ của các trần không nương gá, tha duyên tự tuyệt, diệu tính hiển nhiên; chí đang quy nhất thì trí nào chẳng sáng, tìm dòng được nguồn thì nghi nào chẳng giải; ý chỉ toát yếu chẳng to lớn sao ?

Kinh Bảo Vân nói: “Trong tất cả các pháp tâm là đứng đầu; nếu biết tâm thì có thể biết được tất cả các pháp”.

Kinh Bát Chu Tam-muội có bài kệ:

Chư Phật từ tâm được giải thoát
Tâm vô cấu gọi là thanh tịnh
Năm đường trong sạch chẳng bị nhiễm
Thấu hiểu việc này thành đại đạo.

Giải thích: Năm đường do tâm, tâm thể thường tịnh, tuy ở khắp năm đường mà chẳng thọ sắc kia thì trôi nổi trong năm đường mà chẳng đọa lạc, ở nơi một tướng mà chẳng bay lên, mở ra pháp giới mà chẳng đầy khắp, vào vi trần mà chẳng co rút, vì bản tính của chân như nhất tâm thanh tịnh không tăng giảm. Bởi một pháp này có thể gồm thâu tất cả, cũng như tính ướt của một giọt trong chén cùng với nước trong bốn biển không khác; như hư không trong hạt cải không khác hư không ở mười phương, cho nên nói “trời được nhất để trong, đất được nhất để an, vạn vật được nhất để sinh, nay được nhất mà đạo thành”.

Lại nói: “Thánh nhân giữ thuần nhất làm khuôn mẫu cho thiên hạ”, Tông Cảnh này làm pháp thức cho thiền môn.

Kinh Đại Phương Đẳng Đà-la-ni ghi: “Xá-lợi-phất hỏi ngài Văn-thù: Sự thọ ký phải cầu nơi đâu ? Ngài Văn-thù đáp: Phải cầu nơi tính như như”.

Giải thích: Tính như như tức là tính chân tâm của tất cả chúng sinh. Kinh Tư Ích nói: “Chúng sinh như chính là lậu tận giải thoát như. Bởi tất cả pháp đều vào như, không có thể tính, tức là sự giải thoát của chư Phật cầu nơi tâm hành chúng sinh”.

Kinh Nhân Quả có bài kệ:

Tất cả tạo thiện ác
Đều từ tâm tưởng sinh
Thế nên chân xuất gia
Đều lấy tâm làm gốc.

Kinh Đại Pháp Cự Đà-la-ni ghi: “Phật bảo Tỳ-xá-khư: Như vậy sắc tướng mắt chẳng thể thấy, phải biết nó là cảnh giới của tâm thức, chỉ có ý biết, cho nên mắt không thể thấy. Này Tỳ-xá-khư, tâm ý của tất cả chúng sinh chẳng thể nói năng, chỉ có Phật mới biết”.

Kinh Tượng Pháp Quyết Nghi nói: “Hôm nay ngồi ở giữa vô số chúng thấy khác nhau; có người thấy Như Lai nhập niết-bàn; có người thấy Như Lai trụ thế một kiếp, hoặc giảm một kiếp, hoặc vô lượng kiếp; có người thấy Như Lai thân trượng sáu; có người thấy thân nhỏ; có người thấy thân lớn; có người thấy báo thân nơi Liên hoa tạng thế giới hải, hóa làm trăm nghìn ức Thích-ca Mâu-ni Phật thuyết pháp môn tâm địa; có người thấy pháp thân đồng với hư không không phân biệt, vô tướng; vô ngại, khắp đồng pháp giới; có người thấy nơi này núi rừng đất đá sỏi cát; có người thấy bảy báu; có người thấy nơi này là chỗ tu hành của chư Phật ba đời; có người thấy chỗ này là cảnh giới bất tư nghì của chư Phật.

Giải thích: Cho nên biết Phật không có tướng cố định, tùy thức mà tự phân biệt thô diệu; cảnh không có tướng khác, nhân tâm mà thấy ngắn dài, có thể gọi là hiện chứng pháp môn, lý quy Tông Cảnh.

Kinh Như Lai Hưng Hiển có bài kệ:

Tính sở hành chư Phật
Tất cả các chúng sinh
Đều ở trong tâm tính
Tướng khả tướng đồng tướng.

Kinh Hiện Bảo Tạng ghi: “Bồ-tát hỏi Văn-thù-sư-lợi: Vì lý do gì tất cả các pháp đều là Phật pháp ?

Ngài Văn-thù đáp: Như Phật trí giác biết.

Lại hỏi: Thế nào là Phật trí giác biết ?

Đáp: Vì hiểu tự tâm như”.

Kinh Tu Hành Từ Phận nói: “Tất cả các pháp thể tướng vi tế, thảy đều không tịch, phàm phu vì phân biệt sinh các cảnh giới; trong tự phân biệt trở lại tự trói buộc, cho đến chưa rõ tự tính của tâm. Lúc phân biệt thì như trong chiêm bao vọng chấp các cảnh, lại cần phải quán sát ba cõi đều là không, không chẳng ngại không ?

Kinh Nhập Lăng Già có bài kệ:

Khi ấy thần lực Phật
Hóa hiện ra thành núi
Cao lớn trăm ngàn tướng
Nghiêm sức đối Tu-di
Vô lượng ức hoa viên
Đều là các rừng báu
Hương thơm tỏa khắp nơi
Ngào ngạt chưa từng có
Trong mỗi mỗi núi báu
Đều hiện ra Phật thân
Cũng có La-bà-na
Chúng Dạ-xoa cùng trụ
Cõi nước Phật mười phương
Và nơi các Phật thân
Phật tử Dạ-xoa vương
Đều tụ họp núi này
Và thành Lăng-già này
Các chúng ở trong ấy
Thảy đều thấy tự thân
Vào trong hóa Lăng-già
Do thần lực Như Lai
Cũng giống Lăng-già kia
Các núi và lâm viên
Bảo trang nghiêm cũng thế
Phật trong mỗi mỗi núi
Có Đại Huệ thưa hỏi
Như Lai đều diễn nói
Pháp tự thân chứng đắc
Xuất trăm nghìn diệu thanh
Thuyết kinh pháp này xong
Phật và các Phật tử
Đều biến mất chẳng hiện
La-bà-na, Dạ-xoa
Bỗng nhiên thấy tự thân
Ở cung điện của mình
Chẳng còn thấy vật khác
Lại suy nghĩ thế này
Người thấy đó là ai
Ai là người thuyết pháp
Ai là người lắng nghe
Ta thấy được pháp gì
Mà có những việc ấy
Cõi nước chư Phật kia
Và thân các Như Lai
Sự vi diệu thế này
Nay đều đi về đâu
Là do chiêm bao nhớ
Hay là do huyễn tạo
Hay là thành ấp thật
Hay là thành Thát-bà
Hay là mắt nhặm thấy
Hay là sóng nắng khởi
Hoặc là gái đá sinh
Là ta thấy vòng lửa
Hay thấy vệt khói sáng
Chỗ thấy ta thế nào
Lại tự suy nghĩ sâu
Các pháp thể như thế
Chỉ cảnh giới tự tâm
Nội tâm hay chứng biết
Nhưng những kẻ phàm phu
Bị vô minh che chướng
Tâm hư vọng phân biệt
Nên chẳng thể giác biết
Năng kiến và sở kiến
Tất cả không thể được
Năng thuyết và sở thuyết
Như thế đều cũng không
Phật pháp thể chân thật
Chẳng có cũng chẳng không
Pháp tướng luôn như thế
Chỉ tự tâm phân biệt
Nếu thấy vật là thật
Người này chẳng thấy Phật
Chẳng trụ tâm phân biệt
Cũng chẳng thể thấy Phật
Chẳng thấy có các hành
Như thế gọi là Phật
Nếu hay thấy như thật
Người này thấy Như Lai
Người trí quán sâu xa
Tất cả các cảnh giới
Chuyển thân được diệu thân
Tức là Phật, Bồ-tát.

Kinh Hư Không Dựng Bồ-tát có bài kệ:

Tất cả các pháp tướng
Là chân thật vô tri
Nếu người trụ các ấm
Sáu căn đều che lấp.

Giải thích: Nên biết các pháp đều chân thật vô tri vô kiến, vừa có tri kiến liền rơi vào thức ấm thì nhất tâm chẳng thông, sáu căn che lấp trọn chẳng thể thấy “kiến của vô kiến”, biết “tri của vô tri”. Nếu thấy mà có thấy thì không thấy gì cả, nếu biết mà không biết thì biết tất cả. Do đó kinh Hiền Hộ nói: “Lúc Bồ-tát quán tứ niệm xứ, không pháp để thấy, không tiếng để nghe, vì không thấy nghe nên không có pháp để phân biệt, cũng không có pháp để tư duy mà không phải là mù điếc, chỉ là các pháp không thể thấy, vì chỉ một chân tâm thấy bên ngoài không có pháp”.

Kinh Bảo Tịnh ghi: “Bấy giờ Thế Tôn bảo Phạm Vương Diệu Âm: Tại sao hôm nay mắt ông cứ nhìn chăm chú cho đến đem vô tướng quán ta chăng ? Này thiện nam, có một pháp gọi là Phật chăng ? Có một vật gọi tên là gì ?”.

Giải thích: Nên biết danh và thể đều không, diệu chỉ ở nơi đây cho nên dứt quán mới thấy Như Lai. Quán hữu vô đều là hư vọng, chẳng vào Tông Cảnh đâu thể rõ chân Phật.

Kinh Thập Trụ Đoạn Kết nói: “Tất cả các pháp thường tự tồn tại, chúng sinh chẳng thông hiểu là phát khởi sự trang nghiêm. Pháp pháp tự sinh, pháp pháp tự diệt, pháp pháp chẳng sinh, pháp pháp chẳng diệt, pháp sinh pháp diệt tính chẳng dời đổi, đây là đạo của bậc đại sĩ Bồ-tát, chẳng phải là nơi phàm tục có thể đạt đến”. Giải thích: Tất cả các pháp thường tự tồn tại là chân tâm chẳng đổi, tính tướng hằng như. Chúng sinh chẳng thông hiểu là phát khởi sự trang nghiêm nghĩa là vì ngoại đạo chấp đoạn kiến, Tiểu thừa chứng vô thường; Bồ-tát vì đối trị phàm phu Tiểu thừa nên chẳng dẹp hữu vi thường tu phước nghiệp, chẳng trụ vô vi thâm nhập trí sâu, mở rộng trang nghiêm, phát khởi vạn hạnh, niệm niệm đây đủ mười ba-la-mật, nhổ gốc rễ đoạn thường ngoại đạo, ra khỏi rừng rậm tà kiến, nâng cao tấm thân lùn thấp thiên chân tiểu quả, vượt lên đáy hầm giải thoát. Do đó kinh Hoa Nghiêm nói: “Viễn Hành Địa thứ bảy phải tu mười thứ phương tiện tuệ thù thắng đạo, tuy có khác là tu tam-muội không, vô tướng, vô nguyện mà từ bi chẳng bỏ chúng sinh; tuy được pháp bình đẳng của chư Phật mà ưa thích cúng dường Phật; tuy nhập trí môn quán không mà siêng tu tập phước đức; tuy xa lìa ba cõi mà trang nghiêm ba cõi; tuy rốt ráo dứt sạch các lửa phiền não mà hay vì tất cả chúng sinh khởi diệt lửa phiền não tham, sân si; tuy biết các pháp như huyễn, như mộng, như bóng, như vang, như sóng nắng, như biến hóa, như trăng đáy nước, như bóng trong gương, tự tính không hai mà tuy tâm tạo vô lượng nghiệp sai biệt; tuy biết tất cả cõi nước như hư không mà hay đem diệu hạnh thanh tịnh trang nghiêm cõi Phật; tuy biết pháp thân chư Phật bản tính không thân mà đem tướng hảo trang nghiêm thân ấy; tuy biết âm thanh chư Phật tính không lặng lẽ không thể nói năng mà hay tùy tất cả chúng sinh phát ra những âm thanh thanh tịnh sai biệt; tuy tùy theo chư Phật rõ biết ba đời chỉ là một niệm mà thuận theo chúng sinh ý giải phân biệt; đem các thứ tướng, trải qua các thời, các kiếp số tu hành”.

Giải thích: Kinh nói: “Tuy khéo tu tam-muội không, vô tướng, vô nguyện”, là đối trị cái chấp có đuổi theo dục lạc của phàm phu; “mà từ bi chẳng bỏ chúng sinh”, là đối trị cái chấp trầm không sợ khổ của nhị thừa. Những cú nghĩa dưới đều giải thích như trên. Cho nên nói: “Thanh văn sợ khổ, Duyên giác không có lòng từ bi”, đây đều đánh mất hạnh tự lợi lợi tha của Bồ-tát.

Kinh Tu Chân Thiên Tử ghi: “Thiên tử Tu Chân hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi: Bồ-tát cầu đạo chẳng phải từ ba môn giải thoát sao ? Ngài Văn-thù đáp: Thiên tử, Bồ-tát chẳng có thể từ nơi không mà thành đạo, cũng chẳng có thể từ nơi vô tướng mà thành đạo, cũng chẳng có thể từ nơi vô nguyện mà thành đạo. Vì sao ? Vì ở trong ấy không có tâm ý thức, niệm niệm cũng không động. Người có tâm ý thức niệm niệm dao động là thành tựu đạo ấy.

Giải thích: Nếu bám lấy ba môn giải thoát để chứng đắc, tức là chìm nơi biển thực tế, trái với nguồn linh giác, bỏ tính theo không làm sao thành đại đạo ? Nếu trực liễu thần giải tâm tính, niệm niệm viên mãn quả bồ-đề, chẳng rơi vào tà vô đoạn kiến thì đâu có thể sa vào thật hữu thường kiến, chợt khởi ý đại dụng hiện tiền, vô đắc, phi thủ, phi xả, từ chân khởi hạnh, thể dụng thâu nhau, đem hạnh khế chân, khép mở đồng thời, đây gọi là tâm tâm hợp đạo, niệm niệm khế chân. Cho nên Hoàn Nguyên Quán nói: “Dụng như sóng khởi biển dậy, toàn chân thể để vận hành; thể như gương sạch, nước đứng lặng, nêu tùy duyên mà hội tịch. Đây là dụng chẳng lìa thể, dụng luôn dấy khởi; thể chẳng lìa dụng, thể thường lặng lẽ. Thể tuy lặng lẽ mà thường tại muôn duyên; dụng tuy dấy khởi mà hằng hợp nhất tế”.

Kinh Đại Phương Quảng Sư Tử Hống ghi: “Phật bảo Bồ-tát Điện Man: Này thiện nam, pháp chỉ có một chữ, đó là vô tự, vốn không có ngôn thuyết thì làm sao ngôn thuyết. Này thiện nam, nên biết không nói chính là chân thuyết.

Khi ấy, Bồ-tát Tịnh Thân nương vào thần lực Phật, bạch Phật: Bạch Thế Tôn, nếu không nói là chân thuyết thì im lặng đều là thuyết pháp. Phật bảo: Đúng thế thiện nam, như lời ông nói, không chỉ im lặng là thuyết pháp, chẳng im lặng cũng là thuyết pháp nhưng lại chẳng biết pháp.

– Bạch Thế Tôn, tại sao tất cả chúng sinh thuyết pháp mà chẳng biết pháp ?

– Này thiện nam, như người mù ở nơi ánh sáng mặt trời mà chẳng thấy mặt trời, người bên cạnh nói với họ nên mới biết có mặt trời. Như vậy các pháp đều vào pháp giới, pháp giới vô tự, lìa tính của văn tự, các chúng sinh chẳng thể tuyên nói”.

Giải thích: Người chưa thông đạt tông chỉ, y thông kiến giải, theo lời nói của người mà chuyển, vọng có nói năng, như người mù chẳng thấy ánh sáng mặt trời chỉ nghe người bên cạnh nói thì làm sao hiểu rõ cái thể của mặt trời. Nếu mắt sáng nhìn thấy trực tiếp liền biết vốn không có danh tự ngôn thuyết cho nên biết có lời nói thì tổn thương ý chỉ chẳng thông đạt pháp giới, thế nên kinh nói: “Như vậy các pháp đều là pháp giới, các pháp vô tự, lìa tính của văn tự”. Nếu có thể thâm đạt một chữ duy tâm pháp giới thì tự nhiên đường ngôn ngữ dứt, pháp nhĩ tri giải tình bặt thì làm sao trí vô biện chẳng thể cùng tận.

Triệu Luận nói: “Đức Thích-ca đóng cửa thất nơi Ma-kiệt, ngài Tịnh Danh im lặng nơi Tỳ-da, ngài Tu-bồ-đề không nói để hiển đạo, trời Thích Phạm không nghe mà rải hoa. Đây là chỗ thể nhập huyền vi, miệng lặng thinh đâu phải là không nói, vì chỗ biện biệt không thể nói”.

Kinh Phổ Siêu Tam-muội, phẩm Quyết Hồ Nghi ghi: “Khi ấy, vua A-xà-thế nói: Mong ngài Nhu Thủ giải quyết sự hồ nghi của tôi. Ngài Nhu Thủ đáp: Những điều nghi của đại vương Hằng hà sa chư Phật Thế Tôn chẳng thể giải quyết.

Bấy giờ vua tự biết không ai có thể cứu hộ bèn từ giường rơi xuống, như cây to bị đốn ngã trên đất. Ngài Đại Ca-diếp nói: Đại vương hãy an tâm chớ lo sợ, vì sao ? Đồng tử Nhu Thủ mặc áo giáp đại trí, dùng phương tiện khéo léo nói ra lời này, đại vương có thể tuần tự thưa hỏi. Khi ấy, vua liền đứng lên hỏi Nhu Thủ:

– Vì sao ngài tuyên nói Hằng hà sa chư Phật Thế Tôn chẳng thể quyết nghi cho tôi ?

Nhu Thù đáp:

– Ý đại vương thế nào ? Giả sử có người nói rằng tôi lấy bụi, tro, khói, mây, mù làm ô nhiễm hư không, có được chăng ?

– Không thể được.

– Đại vương có thể tẩy sạch hư không này có được chăng ?

– Không thể được.

Nhu Thủ bảo:

– Vì thế ta nói Hằng hà sa chư Phật Thế Tôn chẳng thể quyết nghi cho ông”.

Giải thích:

Vì tất cả chúng sinh chẳng rõ tự tính thanh tịnh tâm nên vọng sinh cấu tịnh mê ngộ rồi tự chìm đắm, bèn ở trong không nghi khởi nghi, trong chỗ không quyết cầu quyết. Nếu có thể thông đạt rõ ràng, chợt ý bặt tình tiêu liền thấy tất cả các pháp nhiễm tịnh đều đồng tính hư không. Nếu đã đạt tính hư không chẳng có nhiễm tịnh mới tỏ ngộ bản tâm chưa từng mê ngộ. Cho dù có nói lý vô sinh vô đắc đều là phương tiện tùy nghi nhất thời. Nếu vào Tông Cảnh diệu chỉ rõ ràng, còn không có nghi và vô nghi làm gì có quyết và chẳng quyết ?

Kinh Nguyệt Đăng Tam-muội có bài tụng:

Ví như có đồng nữ,
Nằm mơ thấy sinh con,
Sống mừng, chết buồn khổ,
Các pháp cũng như thế.
Như người uống rượu say
Thấy mặt đất quay cuồng
Thật ra chưa từng động
Các pháp cũng như thế.
Như trăng giữa hư không
Bóng hiện nơi ao trong
Chẳng phải trăng xuống nước
Các pháp cũng như thế.
Cầm gương soi mặt mình
Tượng gương chẳng thật có
Các pháp cũng như thế
Như người nơi hang núi
Ca khóc nói cười ồn
Tiếng vang không thật có
Các pháp cũng như thế.

Giải thích: Việc thấy nghe quay cuồng làm sao chân thật, cảnh giới vui buồn trong chiêm bao đều giả dối, bóng trong gương do đâu có, tiếng vang trong hang từ nơi nào đến ? Do đó kinh Nhập Lăng Già ghi: “Phật bảo vua Lăng-già: Ví như có người thấy hình tượng của mình trong gương, tự thấy bóng của mình trước ngọn đèn sáng, tự nghe tiếng vang trong hang núi liền sinh phân biệt mà khởi chấp trước. Việc này cũng thế, pháp và phi pháp chỉ là phân biệt; bởi phân biệt nên chẳng thể bỏ lìa, càng thêm tăng trưởng tất cả hư vọng, chẳng được tịch diệt”.

Tịch diệt gọi là nhất tâm, nhất tâm là tam-muội tối thắng, từ đây có thể sinh tự chứng Thánh trí, lấy Như Lai tạng làm cảnh giới.

Kinh Pháp Vương nói: “Nơi các pháp nếu nói cao thấp tức là tà thuyết, miệng sẽ bị nát, lưỡi sẽ bị rách, vì sao ? Vì tâm của tất cả chúng sinh cấu đồng một cấu, tịnh đồng một tịnh. Nếu chúng sinh cùng một bệnh thì phải cần một thứ thuốc. Nếu nói nhiều pháp tức là điên đảo, vì sao ? Vì vọng phân biệt chia chẻ pháp thiện ác, phá hoại tất cả pháp, vì theo cơ nói pháp đánh mất Phật đạo”.

Giải thích: Cùng một bệnh thì phải dùng một thứ thuốc, bởi nhất tâm là bệnh nên trở lại lấy nhất tâm làm thuốc, vì tâm sinh thì pháp sinh, tâm diệt thì pháp diệt. Nếu nói nhiều pháp tức là điên đảo nghĩa là nếu xét kỹ tự tâm còn không có một huống là nói nhiều, vì ngoài tâm thấy pháp liền thành điên đảo, như tâm điên cuồng thấy ma quỉ, con mắt bệnh thấy hoa đốm, trong không chấp có, đâu thành chân chính. Theo cơ nói pháp đánh mất Phật đạo nghĩa là chấp có liền có sớm trái đại chỉ còn nói nhiều pháp thật hoại chính tông. Như kinh Pháp Hoa nói: “Nếu có người rất ưa thích pháp cũng chẳng vì họ nói nhiều, vì tâm pháp sâu xa, chẳng phải nhiều, chẳng phải ít. Đã chẳng có thể nói nhiều, cũng chẳng có thể nói ít. Vì chẳng phải nhiều nên chẳng tăng, vì chẳng phải ít nên chẳng giảm, vì chẳng tăng nên chẳng sinh, vì chẳng giảm nên chẳng diệt”. Cho nên kinh Hoa Nghiêm có bài tụng:

Tất cả pháp chẳng sinh
Tất cả pháp chẳng diệt
Nếu hay hiểu như thế
Chư Phật thường hiện tiền.

Bồ-tát Dược Vương nói: “Tôi bỏ hai cánh tay ắt sẽ được thân vàng của Phật”. Hai cánh tay chính là hai pháp đoạn thường, nếu bỏ kiến chấp đoạn thường sinh diệt thì tâm Phật hiện tiền liền thành Phật thể, cho nên nói “ắt sẽ được thân vàng của Phật”.

Kinh Vô Nhai Tế Tổng Trì nói: “Trong một niệm có thể biết tất cả các pháp trong ba đời thảy đều bình đẳng, không gì chẳng thông đạt, người này trọn không có hạnh khác cũng không có niệm khác”.

Giải thích: Kinh Vô Nhai Tế Tổng Trì dùng tên gọi để nêu tông, nghĩa là chân tâm không bờ mé, tổng trì muôn pháp, thâu về một thể nên gọi là bình đẳng. Người thông đạt như thế trọn không có hạnh khác, vì biết ngoài tâm không có pháp để tạo sự sai biệt; cũng không có niệm khác, vì trong tâm không có pháp để khởi tư duy.

Do đó kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập Hồi Hướng ghi: “Lúc Bồ-tát ma-ha-tát hồi hướng như thế, mắt chẳng thấy cõi Phật bất tịnh, cũng chẳng thấy có chúng sinh dị tướng, vì tâm cảnh nhất như”.

Kinh Bất Thoái Chuyển Pháp Luân nói: “Khéo biết tất cả chúng sinh vô tướng đều đồng pháp giới chẳng phải thấy, chẳng phải chẳng thấy. Vì sao ? Vì pháp giới chính là tâm giới của tất cả chúng sinh, đây gọi là tín hạnh”.

Kinh Trì Thế nói: “Ba cõi chỉ là tâm ý thức, không hình tướng, không phương sở, chẳng ở trong pháp, chẳng ở ngoài pháp. Phàm phu bị hư vọng tương ưng xoay chuyển, ở trong thức ấm tham đắm ngã hoặc ngã sở”.

Kinh Anh Lạc ghi: “Phật nói: Hôm nay ta có mười bốn ức đại chúng, với miệng kim cang nói nghĩa quyết định. Này Phật tử, ngày xưa trong pháp hội của ta có một ức tám nghìn bậc đại sĩ vô cấu thông đạt cội nguồn của nhất tính; giác ngộ không hai, tất cả các pháp đều là một hợp tướng; từ pháp hội này họ tỏa ra mười phương nói kinh Anh Lạc”. Lại nói: “Hạnh từ tâm được, tâm tịnh đạo thành”. Kinh Tư Ích nói: “Thánh nhân không chỗ đoạn, phàm phu không chỗ sinh, đây là chẳng ngoài tướng của pháp tính bình đẳng”.

Giải thích: Bởi phàm phu mê chấp ngoài tâm có pháp vọng thấy pháp sinh. Thánh nhân thấy rõ ngoài tâm không pháp thì không pháp có thể sinh; rõ phàm không sinh thì Thánh không đoạn, đây là vào pháp môn nhất tâm bất nhị, cho nên nói chẳng ngoài tướng của pháp tính bình đẳng, vì không có một pháp ra ngoài pháp tính. Như kinh Hoa Nghiêm có bài tụng:

Pháp tính bao trùm khắp mọi nơi,
Tất cả chúng sinh và cõi nước
Ba đời nơi ấy đều không sót
Cũng không hình tướng có thể được.

Kinh Thắng Tích Bồ-tát Sở Giải Chư Pháp nói: “Pháp chỉ có một chữ, đó là vô tự, vốn không ngôn thuyết nên biết không nói đây là chân thuyết”.

Giải thích: Tâm là vua trong một chữ, gồm nhiếp tất cả giáo hải vô biên; tâm là mẹ của các Phật trí diễn bày chân thuyên vô tận. Nếu có thể phát minh quyết định tín nhập thì Như Lai thường chẳng thuyết pháp, đây gọi là đầy đủ đa văn, cũng là mong nghe ít hiểu nhiều nghĩa thú. Đây là ý nghĩa này. Cho nên Niết-bàn Sớ ghi: “Nghĩa Niết-bàn bao la vô tận, muốn nêu lên ý chỉ nhất tế đều nói về biển pháp tính, đó là nhất tâm”.

Kinh Pháp Cú có bài kệ:

Sum la và vạn tượng
Chỗ ấn của một pháp
Tại sao trong một pháp
Mà thấy có nhiều thứ.

Lại nói: “Tuy tụng nghìn chương cú nghĩa bất chính chẳng bằng một lần nghe điều cốt yếu để diệt trừ ý”.

Giải thích: Tuy tụng nghìn chương nghĩa là chỉ theo âm thanh chẳng biết chính nghĩa. Chẳng bằng một điều cốt yếu nghĩa là nếu rõ nhất tâm là cốt yếu của muôn pháp, đạt tông thì dứt ý, dứt ý thì cảnh không, vì muôn pháp thường hư dối theo ý sinh hình.

Kinh Bất Tư Nghì Quang Bồ-tát có bài kệ:

Tất cả pháp phi như
Đều trụ ở trong như
Đã biết rõ như thế
Không lỗi, không công đức.

Giải thích: Tất cả pháp phi như tức là ngoài tâm biến kế vọng chấp pháp vô thể. Nếu rõ vọng không thật thì tất cả các pháp đều trụ trong tâm nhất như. Biết rõ như thế thì ngoài giác không có pháp để đối đãi, vì nhiễm tịnh đều không.

Kinh Tư Ích nói: “Bồ-tát giáo hóa chúng sinh không có công đức, vì không có chỗ đối đãi. Nhân có lỗi lầm mới hiển công đức, vì chân tâm trùm khắp mọi nơi và không một pháp có thể gọi là lỗi lầm. Đã không có lỗi lầm bị đối trị, cũng không có công đức hay đối trị, hai thứ đều chẳng lập nên nói không lỗi, không công đức”.

Kinh Chư Pháp Vô Hành ghi: “Thiên tử Thiện Trụ bảo ngài Văn-thù: Nếu có người đến cầu xuất gia thì nên đáp thế nào ? Ngài Văn-thù nói: Nếu người chẳng phát tâm xuất gia thì nên dạy người ấy pháp xuất gia chân chính. Vì sao ? Nếu cầu xuất gia là cầu báo vị lai của ba cõi và năm dục. Người này chẳng thấy tâm nên chẳng chứng pháp, vì tâm vô vi nên chẳng phát tâm”.

Giải thích: Nếu chứng tự tâm là vào lý vô vi; nếu là lý vô vi thì không tâm để phát, đây là phát tâm chân chính, là chân thật xuất gia.

Kinh Pháp Hoa Tam-muội Quán nói: “Chúng sinh trong mười phương ba đời hoặc lớn, hoặc nhỏ, cho đến một khi xưng “Nam mô Phật, đều sẽ thành Phật. Chỉ có một đại thừa, không hai, không ba. Tất cả các pháp nhất tướng nhất môn đây gọi là tất cánh không tướng không sinh diệt, chỉ có đại thừa này không có hai thứ. Người tập quán này ngũ dục tự dứt, ngũ cái tự trừ, ngũ căn tăng trưởng, liền được thiền định”.

Giải thích: Một khi xưng “Nam mô Phật” đều sẽ thành Phật là nếu pháp giới hàm sinh tam thừa ngũ tính có thể quy mạng nhất tâm thì không gì chẳng thành Phật, vì lìa ngoài nhất tướng nhất môn của tự tâm không có pháp để quy y, không hai, không ba, tất cánh không tịch. Người quán như thế ngũ dục tự dứt, vì cảnh lục trần theo vọng niệm nên có; không niệm thì không cảnh, cần gì lại dứt, vì thế có thể chẳng dứt ngũ dục mà thanh tịnh các căn. Các căn đã thanh tịnh thì ngũ cái tự trừ, ngũ căn, ngũ lực tự nhiên tăng trưởng, không chỉ liền được thiền định mà cả lục độ vạn hạnh cũng đều thành tựu.

Kinh Kim Cang Tam-muội nói: “Không tâm bất động đầy đủ sáu ba-la-mật”. Tâm không thì tất cả đều không, nên nói chỉ có đại thừa này không có hai.

Kinh Tạp Tạng nói: “Vì thiện phước và ác họa đều đuổi theo việc làm, vang ứng tiếng, thiện ác như âm thanh, chẳng phải trời, rồng, quỉ thần trao truyền, chẳng phải tiên đức tạo ra. Tạo tác là tâm, thành tựu là thân khẩu”.

Phật nói kệ:

Tâm là gốc pháp
Tâm tôn tâm sử
Trong tâm nghĩ ác
Mới nói liền làm
Tội khổ đuổi theo
Như xe theo vết.
Tâm là gốc pháp
Tâm tôn tâm sử
Trong tâm nghĩ thiện
Mới nói liền làm
Phước lạc đuổi theo.
Như bóng theo hình.