TÔNG CẢNH LỤC
Thiền sư Diên Thọ
Tuệ Đăng & Hân Mẫn dịch

 

QUYỂN 99

Tạo luận giải kinh là gián tiếp trình bày ý Phật, hoặc pháp thân đại sĩ thùy tích xiển dương môn trợ hóa, hoặc bậc cao nhân đắc chỉ y giáo triển khai việc pháp thí, cho đến nghĩa sớ, chương sao, minh quyết, tán tự tương ưng với Tông Cảnh đều đã dẫn chứng. Thế nên ngôn luận của chúng sinh là chỗ lưu xuất của pháp giới; kinh thư của ngoại đạo là lời nói của chư Phật.

Luận Đại Trí Độ ghi: “Luận về pháp vào trong Phật tâm chỉ là một tịch diệt. Một môn tam-muội nhiếp vô lượng tam-muội, như nắm một chéo áo là được cả chiếc áo, cũng như tóm được con ong chúa thì thu nhiếp cả bầy ong”.

Lại có bài tụng:

Tướng Phật pháp tuy không
Cũng lại chẳng đoạn diệt
Tuy sinh cũng chẳng thường
Các hạnh nghiệp chẳng mất
Các pháp như cây chuối
Tất cả từ tâm sinh
Nếu biết pháp không thật
Tâm này cũng lại không.

Luận Tỳ-bà-sa nói: “Trưởng giả Thiện Giác vì ông Na-già nói bốn quyển kinh Vi-đà: Nếu người tâm sinh mà chẳng khởi, nếu người tâm khởi mà chẳng diệt, tâm khởi mà khởi, tâm diệt mà diệt”.

Lại nói: “Nếu lìa sự phát tâm ban đầu thì chẳng thành đạo vô thượng”. Do đó nói tất cả công đức đều do tâm ban đầu”.

Luận Nhiếp Đại Thừa nói:

Hỏi: Vì sao thức chấp lấy thức này làm cảnh ?

Đáp: Không có pháp hay nắm lấy pháp khác, tuy chẳng thể nắm lấy thức này, biến sinh hiển hiện như trần, ví như nhờ mắt thấy mặt cho rằng mình thấy được hình ảnh mình, hình ảnh này hiển hiện tương tự gương mặt khác”.

Luận Hiển Dương nói: “Do năng lực sở y sở duyên mà được kiến lập. Do năng lực sở y nghĩa là lập nhãn thức cho đến ý thức; do năng lực sở duyên nghĩa là lập sắc thức, thanh thức, hương thức cho đến khổ thức lạc thức”.

Luận Phát Bồ-đề Tâm nói: “Quá khứ đã diệt, vị lai chưa đến, hiện tại chẳng trụ. Tuy quán tâm, tâm số pháp sinh diệt tán hoại như thế mà thường chẳng bỏ tu tập thiện căn trợ giúp pháp bồ-đề, đây gọi là phương tiện quán ba đời của Bồ-tát”.

Đại Thừa A-tỳ-đạt-ma Tạp Tập Luận nói: “Các pháp trong khế kinh như lý tác ý pháp tam-ma-địa, nương vào chỉ để định tâm, tư duy biết ảnh tượng trong định, thấy ảnh tượng này không khác định tâm, y vào ảnh tượng này xả bỏ cái tưởng ngoại cảnh, chỉ có định quán sát cái bóng của tự tướng. Khi ấy Bồ-tát rõ biết các pháp chỉ là tự tâm, bên trong trụ tâm ấy biết tất cả các cảnh giới sở thủ đều không có thật. Vì không có sở thủ nên tất cả năng thủ cũng chẳng phải chân thật. Kế đó biết rõ năng thủ chăng có, nên bên trong xa lìa hai thứ tự tính sở đắc, chứng vô sở đắc. Y theo đạo lý này, đức Phật khéo tuyên bài kệ:

Bồ-tát y tĩnh định
Thấy bóng do tâm hiện
Xa lìa tưởng ngoại trần
Chỉ định quán tự tưởng
Trong an tâm như thế
Biết sở thủ không có
Kế quán năng thủ không
Sau cùng hai vô đắc.

Y là chuyển y, xa lìa tất cả thô trọng được chuyển y thanh tịnh”.

Luận Thập Nhị Môn có bài kệ:

Các pháp do duyên sinh
Đều không có tự tính
Nếu không có tự tính
Làm sao có pháp ấy ?

Giải thích: Nên biết muôn pháp từ tâm sinh đều không có tự tính; tâm sở y còn không, làm sao có pháp năng y ?

Luận Nhập Đại Thừa nói: “Nếu lìa chúng sinh thì không có đắc đạo bồ-đề, từ chúng sinh giới sinh ra bồ-đề của tất cả chư Phật”. Như tôn giả Long Thọ nói kệ:

Chẳng từ hư không có
Cũng chẳng từ đất sinh
Chỉ từ trong phiền não
Mà chứng thành bồ-đề.

Cho nên biết từ tâm chứng đạo, chẳng nhờ duyên khác, hay thành trí vô sư và trí tự nhiên”.

Luận Câu Xá nói: “Những gì do mắt thấy gọi là sở kiến; những gì nghe được từ người khác gọi là sở văn; những gì do tự tâm vận dụng suy nghĩ gọi là sở giác; những gì tự lãnh thọ và tự chứng nghiệm gọi là sở tri”.

Luận Phật Địa nói: “Hiện tại thấy hư không tuy tương ưng với các sắc tướng nhưng không có các sắc tướng, như khói, sương mù cùng tương ưng với hư không. Thấy hư không có các thứ tướng là do sức phân biệt hư vọng. Chỉ thấy các tướng như khói v.v… chẳng phải thấy hư không, vì tính hư không chẳng thể thấy. Cho đến tâm tịnh pháp giới lìa danh ngôn nên tất cả danh ngôn đều dùng những gì do phân biệt sinh khởi làm cảnh, nhưng các giáo pháp cũng chẳng vứt bỏ, vì là nguyên nhân linh động chứng pháp giới. Như thấy chữ viết hiểu được nghĩa, bởi giáo pháp này là chỗ lưu xuất từ lòng đại bi của Như Lai, có thể uyển chuyển nói cái nghĩa ly ngôn thuyết, như dùng các màu sắc vẽ hư không, thật là hi hữu. Nếu đem ngôn thuyết để nói cái nghĩa ly ngôn thuyết thì lại vượt hơn nữa”.

Luận Bát-nhã ghi: “Ngài Tu-bồ-đề nói Như Lai không nói nghĩa này thế nào ? Không phải chỉ có Như Lai nói không có một pháp, đó là đức Phật chỉ thuật lại những lời dạy của cổ Phật chẳng phải tự mình chế tác”.

Giải thích: Cho nên biết pháp này Phật quá khứ đã nói, Phật hiện tại đang nói, Phật vị lai sẽ nói. Do đó lúc một đức Phật nói, mười phương chư Phật đồng chứng, cho đến trí tuệ cõi nước chân tục phàm Thánh đều đồng không hai, vì cùng chung nhất tâm trọn không có ý chỉ khác, như phẩm Phật Bất Tư Nghì trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Này Phật tử, chư Phật Thế Tôn thực hành pháp tự tại có mười thứ không hai. Những gì là mười ? Đó là tất cả chư Phật đều hay khéo nói những lời thọ ký quyết định không hai; tất cả chư Phật đều hay tùy thuận tâm niệm chúng sinh khiến họ vừa ý quyết định không hai; tất cả chư Phật đều hay hiện biết tất cả các pháp diễn nói nghĩa ấy quyết định không hai; tất cả chư Phật đều đầy đủ trí tuệ của chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai quyết định không hai; tất cả chư Phật đều biết tất cả sát-na ba đời là một sát-na quyết định không hai; tất cả chư Phật đều biết tất cả cõi Phật ba đời vào một chỗ Phật quyết định không hai; tất cả chư Phật đều biết tất cả Phật ngữ ba đời là một Phật ngữ quyết định không hai; tất cả chư Phật đều biết tất cả ba đời cùng với tất cả chúng sinh được giáo hóa thể tính bình đẳng quyết định không hai; tất cả chư Phật đều biết thế pháp và Phật pháp tính không sai biệt quyết định không hai; tất cả chư Phật đều biết tất cả thiện căn của chư Phật đồng một thiện căn quyết định không hai”.

Tín Tâm Minh nói: “Gấp rút tương ưng, chỉ nói bất nhị, có thể tin chắc, dứt hẳn hoài nghi”, thì văn Tông Cảnh truyền mãi không dứt.

Luận Quảng Bách nói: “Các tâm, tâm pháp như giác tuệ v.v… chẳng tùy theo các pháp thật có chuyển biến mà chỉ từy theo thế lực các duyên do chủng tử tập quán thành thục và tâm hiển hiện biến sinh các cảnh giới sai biệt, các ngoại đạo tuy theo tự tâm của mình biến sinh các thứ tính tướng của các pháp. Nếu tính tướng của các pháp là thật có thì đâu có thể tùy tâm chuyển biến như thế. Những người có trí chẳng chấp nhận các pháp hiện tại có sinh, vì hẳn chẳng từ hai đời quá khứ vị lai và không có đời thứ ba có thể sinh, diệt ắt tùy sinh, sinh đã chẳng có thì diệt cũng quyết định không. Cho đến hạnh ba đời đều là đối đãi lập ra như dài ngắn v.v… đâu có thật tính.

Lại có bài tụng:

Trong nhãn không sắc thức.
Trong thức không sắc nhãn
Trong sắc không hai thứ
Đâu thể thấy được sắc.

Y tha khởi tính chính là tâm tâm pháp lúc theo duyên khởi biến tợ các thứ tướng gọi là các trần nên biết có tâm và tâm pháp. Chỉ cần không có các trần ngoài tâm. Làm sao quyết định biết ? Vì các pháp chỉ có thức. Phật bảo ngài Thiện Hiện: “Không có một chút vật thật để nương”.

Luận Bảo Tạng nói: “Trong trời đất vũ trụ có một vật báu ẩn nơi hình sơn, biết vật linh chiếu sáng trong ngoài rỗng rang, tịch mịch khó thấy, gọi đó là huyền huyền, khéo lấy ra từ hạt bụi, dụng ở giữa hư vô, đoan hóa bất động, độc mà vô song, thanh xuất diệu hương, sắc lộ vẻ hoa, quán tận cùng không chỗ nương gá gọi là không không, chỉ để lại tiếng mà chẳng thấy hình, chỉ lưu lại công lao mà chẳng thấy dung mạo, u hiển chiếu sáng vật lý huyền thông, sum la bảo ấn, vạn tượng chân tông; cho đến vật báu ấy rực rỡ chiếu sáng mười phương, ẩn tịch không vật, ứng hiện rõ ràng, ứng thanh, ứng sắc, ứng âm, ứng dương, vật ấy vô căn, diệu dụng thường còn, liếc mắt chẳng thấy, nghiêng tai chẳng nghe. Gốc của nó là minh, hóa của nó là hình, hành vi của nó là Thánh, tác dụng của nó là linh, có thể gọi là chân tinh của đại đạo. Tính của nó rất linh, là nguyên nhân của vạn hữu, lặng lẽ thường trụ, cùng đạo đồng luân. Cho nên kinh nói: “Tùy tâm tịnh thì cõi Phật tịnh”, vạn pháp tự tại gọi là Thánh”.

Luận Thích Ma-ha-diễn nói: “Tất cả các pháp một tâm lượng không có pháp ngoài tâm; vì không có pháp ngoài tâm nên pháp nhất tâm đâu thể chướng ngại pháp nhất tâm, pháp nhất tâm đâu thể giải thoát pháp nhất tâm, không có chướng ngại, không có giải thoát. Pháp nhất tâm, nhất tức là tâm, tâm tức là nhất, không nhất riêng tâm, không tâm riêng nhất, tất cả các pháp bình đẳng một vị, nhất tướng vô tướng tạo ra một biển tâm địa quang minh”.

Luận Bảo Sinh có bài kệ:

Mỉm cười hàng phục đại ma quân.
Minh trí giác liễu trừ các dục
Đối với đại thừa hay khéo trụ
Biết rõ nguồn ái chỉ tự tâm.

Luận Bảo Tính có bài kệ:

Hư không trùm tất cả
Rỗng không vô phân biệt
Tự tính không cấu tâm
Cùng khắp vô phân biệt.

Luận Kim Cang Tam-muội nói: “Tất cả tâm tướng xưa nay không gốc, vốn không bản xứ, không tịch vô sinh. Nếu tâm vô sinh liền vào không tịch, tâm địa không tịch thì được tâm không. Này thiện nam, tâm vô tướng không tâm không ngã, tất cả pháp tướng cũng lại như thế. Tất cả tâm tướng lấy chủng tử làm gốc, tìm cầu chủng tử gốc này trọn không thể được. Nếu là hiện tại thì cùng chung với quả không có gốc ngọn sai khác như hai sừng của con trâu. Nếu là quá khứ thì không thể làm nhân, vì không có thể tính như sừng thỏ. Đạo lý như thế xưa nay pháp nhĩ nên nói xưa nay không gốc. Lại tâm sinh diệt sinh hẳn phải nương vào bản xứ, bản xứ đã không thì chẳng có sinh. Phải biết tâm tướng xưa nay không sinh nên nói không tịch vô sinh. Chỗ vào không tịch tức là nhất tâm, tất cả chỗ nương tựa gọi là địa, nên nói liền vào tâm địa không tịch”.

Luận Phân Biệt Công Đức nói: “Sa môn theo phái Hữu luận tu các thiền quán ở trong gò mả hoặc dưới cội cây. Lúc ở trong gò mả sa-môn tu quán tử thi, ban đêm thấy ngạ quỉ đánh một tử thi liền hỏi:

– Vì sao ông đánh tử thi ?

– Vì tử thi này làm tôi khốn khổ nên tôi đánh nó.

Đạo nhân nói:

– Tại sao chẳng đánh tâm ông, đánh tử thi có ích gì ?

Một lát sau có một vị trời rải hoa mạn-đà-la lên một tử thi, sa-môn hỏi:

– Vì sao ngài rải hoa lên tử thi ?

– Nhờ tử thi này mà tôi được sinh lên trời, tử thi này chính là thiện hữu của tôi cho nên tôi rải hoa để báo ân ngày trước.

Đạo nhân đáp:

– Vì sao chẳng rải hoa trong tâm ông mà lại rải hoa cho tử thi. Gốc của thiện ác đều do tâm, nay ngài bỏ gốc theo ngọn sao ?”

Luận Tư Ích nói: “Chẳng thấy tất cả các pháp là tướng bồ-đề, chẳng chứng một pháp mà chứng các pháp cho nên nói là Ứng Cúng, Chính Biến Tri.

Luận Kim Cang nói: “Trong giáo ví tinh tú là chỗ rọi lại của mặt trời, có mà chẳng hiện, tâm pháp năng hiện cũng như thế.” Giải thích: Có hai cách giải: Một là nếu mê tâm là cảnh, như mặt trời chiếu sáng làm chói mắt nên khi vào nhà không thể thấy vật; như người bị ngoại cảnh làm thay đổi, không thấy tự tâm. Hai là nếu ngộ cảnh là tâm thì muôn pháp như tinh tú, nhất tâm như ánh sáng mặt trời, lúc ánh sáng tâm chiếu soi khắp nơi thì các pháp không thật có”.

Luận Pháp Tính nói: “Hãy nghe bậc tiên giác nói: Thể không vào tịch trước tiên phải thấy pháp, suy tìm cội nguồn của pháp; cần phải được tính, được tính thì chiếu bản, chiếu bản thì đạt tự nhiên, đạt tự nhiên thì thấy duyên khởi, thấy duyên khởi thì thấy pháp. Xét tận cùng nguồn gốc ắt còn chỗ trọng yếu. Chỗ trọng yếu tại nơi dụng chỉ là tâm pháp. Tâm pháp là tinh túy của thần minh, là đan dược của tình thức. Sự vận chuyển của nó đầy khắp vạn hạnh, sự cảm vật của nó hội thông các loài; nói chung thì không gì chẳng tồn tại”.

Luận Hiển Tính nói: “Một niệm thấy tính, thấy tính là bản thể của phàm Thánh, bao trùm tất cả mà chẳng bị tất cả khuynh động, tại nhiễm chẳng nhiễm mà hay rõ nhiễm, tại tịnh chẳng tịnh mà hay rõ tịnh. Tính nó chẳng ở nơi tất cả pháp mà đầy khắp tất cả pháp. Nếu quán một pháp thì chẳng thấy tính, nếu chẳng quán một pháp cũng chẳng thấy tính, tính của nó chẳng ở nơi quán hay chẳng quán. Ở trong một thân chúng sinh thấy tâm tính thì trong một hạt bụi thấy tất cả chúng sinh. Lúc thấy tâm tính thì tất cả hạt bụi thảy đều thấy, vì tính bao gồm phàm Thánh thiện ác. Nơi phàm thấu Thánh, nơi Thánh thấu phàm, tướng thiện ác thấu bản tính tự như thế, vì tất cả pháp đều chẳng thể nắm lấy, đều chẳng thể xả bỏ. Tính tướng tự như thế. Vì tự tính thanh tịnh nên trọn ngày nói mà chẳng nói, trọn ngày nghe mà chẳng nghe, trọn ngày thấy mà chẳng thấy, trọn ngày biết mà chẳng biết, đều chẳng phải là chỗ an lập của phàm Thánh, cho nên kinh nói: “Ta xuất thế hay không xuất thế pháp này vẫn vậy.”

Luận Hiển Tông nói: “Diệu chỉ nhất thừa của thiền môn lấy vô niệm làm tông, vô trụ làm gốc, chân không làm thể, diệu hữu làm dụng. Chân như vô niệm, chẳng phải niệm tưởng có thể biết. Thật tướng vô sinh, sắc tâm đâu có thể thấy. Chân như vô niệm, niệm là niệm chân như. Thật tướng vô sinh, sinh là sinh thật tướng. Vô trụ mà trụ niết-bàn thường trụ. Vô tu mà tu đến bờ kia. Như như bất động động dụng vô cùng, niệm niệm vô cầu thường cầu vô niệm, dụng mà thường không, không mà thường dụng, dụng mà chẳng có tức là chân không, không mà chẳng không tức là diệu hữu. Diệu hữu là ma-ha bát-nhã, chân không là niết-bàn thanh tịnh. Bát-nhã vô kiến hay thấy niết-bàn, niết-bàn vô sinh hay sinh bát-nhã. Chư Tổ ở Ấn Độ cùng truyền tâm vô trụ này, đều nói tri kiến Như Lai.”

Luận Hiển Chính ghi: “Hỏi: Nhằm hiển bày nghĩa gì gọi là hiển chính ? Đáp: Nhằm hiển bày tâm thể thanh tịnh vô sinh bản nguyên của tất cả chúng sinh, tức là tính chân thật của chư Phật. Vì sao ? Tất cả muôn pháp tâm là gốc. Nhưng tâm tính ấy đều không chỗ nương tựa, thể tự viên dung chẳng ngại muôn pháp. Tuy ứng hiện muôn pháp mà tính tự thường chân, vô trụ, vô y, chẳng thể thủ xả.”

Kinh Thắng Thiên Vương nói: “Tâm tính thanh tịnh là gốc của các pháp, tự tính không gốc. Phiền não hư vọng đều từ tà niệm điên đảo sinh, phải biết tâm này chính là đệ nhất nghĩa đế tối thắng thanh tịnh, là chỗ chứng tri của tất cả chư Phật.

Hỏi: Quyết định lấy pháp gì làm tâm thể ?

Đáp: Chẳng nên tìm cầu cái thể cố định của tâm, vì sao ? Tâm chẳng phải sở duyên vì không vô tướng; cũng chẳng phải năng sở, vì dứt đối đãi; thể nó chẳng nhiễm, vì tính thường tịnh; chẳng hợp tan vì tự tính lìa; chẳng ngại duyên khởi vì tính hư dung; chẳng thể nói bày vì danh tự rỗng; chư pháp hư tịnh, vì tướng duyên lìa; linh chiếu chẳng dứt, vì tác dụng vô tận; quả báo chẳng đồng, vì tạo nghiệp sai khác; nhân quả rõ ràng, vì chẳng đoạn tuyệt; cũng chẳng phải chân thật, vì nghiệp tính như huyễn; lại chẳng đoạn tuyệt vì hiện thi vi; cũng chẳng thể nắm lấy vì rốt ráo không; các pháp bình đẳng vì nhất tướng như; trí cảnh không khác vì lìa phân biệt; muôn pháp là không vì tính vô sinh. Thế nên tất cả phân biệt chẳng lìa tự tâm, tất cả cảnh giới chẳng lìa danh tướng. Nếu rõ muôn pháp mà chẳng rõ tự tâm thì phân biệt không do đâu có thể dứt. Kinh Lăng Già nói: “Nếu tâm kia diệt sạch vô thừa và thừa, không có thừa được kiến lập ta nói là nhất thừa”. Tâm kia chính là tâm do chấp tướng mà được. Nhất thừa là tâm vô sinh thanh tịnh lìa tướng. Tâm này hay bao gồm chuyên chở tất cả các pháp nên gọi là nhất thừa”.

Pháp Uyển Châu Lâm nói: “Chặn dòng nước chẳng bằng lấp đầu nguồn; kích động nước sôi chẳng bằng dập tắt lửa, vì sao ? Nguồn tuôn ra nước, chưa lấp nguồn thì nước chẳng dừng; lửa đun nước sôi, lửa chưa dập tắt thì nước còn sôi. Cho nên có người lấp nguồn, chẳng ngăn dòng mà tự cạn; có người dập lửa, chẳng kích động mà nước chẳng còn sôi. Vì vậy biết tâm là nguồn, cẳnh là dòng, chẳng xét nét nguồn tâm, chỉ theo các pháp chuyển. Ý như lửa, sự như nước sôi; chẳng chế phục ý địa của mình, chỉ trôi theo cảnh giới, đây là mất gốc quên nguồn, tùy dòng theo ngọn, nếu có thể đốn minh ý địa, trực liễu tâm nguyên, chẳng cầu thoát khỏi các trần, chẳng trói buộc nơi một pháp, đây gọi là xét ngọn gặp gốc, tìm dòng được nguồn thì không công mà tự xong, không làm mà tự thành, hiển bày nhất tâm này muôn pháp như gương”.

Luận Quy Tâm nói: “Luận về tâm tính, nếu nói riêng biệt thì mỗi mỗi chúng sinh và Phật đều lấy pháp giới làm thân, mỗi mỗi trong thai bà Ma-da cũng như thế, rộng hẹp đều bình đẳng chẳng ngăn ngại nhau; nếu nói tổng quát, mỗi mỗi chúng sinh và Phật cùng ở trong thai, mười phương chư Như Lai đồng chung một pháp thân, cùng ẩn, cùng hiển, cùng tồn, cùng đoạt, trùng trùng hiển hiện lẫn nhau đều là pháp thân bất tư nghì, lúc nói chẳng thêm, lúc không nói chẳng giảm, biển tính như thế, đâu thể nói tận hay bất tận ?”

Lục Diệu Môn nói: “Đây vì bậc đại căn khéo biết pháp yếu, chẳng do thứ lớp, huyền chiếu cội nguồn các pháp, đó là tâm chúng sinh. Tất cả pháp do tâm khởi, nếu hay phản quán tâm tính chẳng được nguồn tâm liền biết muôn pháp đều không có cội gốc”.

Đốn Giáo Ngũ Vị Môn nói: “Thứ nhất là biết tâm, nói là tâm, thấy là tâm, nghe là tâm, giác là tâm, tri là tâm. Đây là điều giác ngộ thứ nhất, mỗi mỗi có thể biết, như cho đa tâm là nhất tâm, nhất tâm có thể bao trùm mọi nơi. Thứ hai là biết thân đồng như vô tình, thân chẳng biết đau đớn tốt xấu, tất cả đều là tâm, chẳng liên can đến thân. Tâm có thể làm thành con người hay súc sinh, tâm có thể tạo ra cá, chim. Thứ ba là phá thân tứ đại, thân tức là hư không, hư không tức là vô sinh, hư không không có trong ngoài khoảng giữa, lìa tất cả tướng. Thứ tư là phá ngũ ấm, nếu có sắc ấm thì bốn ấm kia chẳng hư, sắc ấm nếu không thì bốn ấm kia nào có ? Thứ năm là thấy tính thành Phật lặng lẽ thường trụ”.

Bài tựa kinh Thập Trụ nói: “Do linh chiếu nên gọi chung là nhất tâm; vì sở duyên nên gọi chung là nhất pháp. Nếu tên gọi theo số biến hóa thì mênh mông không bờ mé; bao gồm tâm pháp thì chưa bắt đầu chẳng phải hai”.

Bài tựa luận Thập Nhị Môn nói: “Luận về tâm, muốn cùng nguồn tâm phải tận chí lý; nếu nhất lý chẳng tận thì các loài phức tạp có sự trái ngược nhau; nhất nguyên chẳng cùng thì các đường tẻ chằng chịt có dấu sai biệt. Dấu sai biệt chẳng mất, sự trái ngược chẳng trừ, đây là mối lo của bậc đại sĩ.”

Bài tựa luận Bát-nhã Đăng nói: “Ban đầu vạn vật phi hữu, nhất tâm như huyễn; vì tâm như huyễn nên tuy động mà luôn tịch; vì vật phi hữu nên tuy khởi mà không sinh; thế nên Thánh nhân nói tâm như huyễn, xét vật phi hữu, rõ vật phi vật thì vật vật tính không; biết tâm vô tâm thì tâm tâm thể tịch. Bậc đạt quán được chỗ hội quy mà quên chỗ nương gá; đối với sự hí luận phân biệt chẳng đợi khiển mà tự trừ. Không được quán môn, chẳng nhờ tu mà đã nhập. Thanh thản thay, chẳng ra, chẳng vào, không trụ, không nương”.

Luận Hoa Nghiêm nói: “Như biển pháp tính có tính đức trong sạch mà hay ảnh hiện núi bảy báu, biển tâm chúng sinh ảnh hiện lục đạo tứ sinh, hiển hiện rõ ràng núi, sông, đất liền, sắc, không, sáng, tối v.v…”

Luận Duyên Sinh nói: “Nguyên là nhất tâm tích tụ thành ba cõi. Phàm thì mê mà khởi vọng, Thánh thì ngộ để thông chân.”

Bài kệ của Đà-la-ni tam-muội pháp môn nói:

Pháp này cao vòi vọi
Dường như núi Tu-di
Pháp này biển bao la
Các nguồn đều quy về
Pháp này sáng chói nhất
Như trăng giữa tinh tú
Pháp này như đèn sáng
Pháp này như mặt đất
Nâng đỡ khắp mười phương
Pháp này mẹ các pháp
Sinh ra các giống Phật.

Pháp Hoa Diễn Bí nói: “Sự lý viên dung là các sự xứng lý mà khắp, lấy lý chân như làm lò lửa, hòa hợp mọi sự làm người thợ giỏi, sắt cứng nước lòng không có sai biệt. Nếu khai quyền hiển thật tất cả duy tâm, trước tiên cũng lấy sự hòa hợp làm gốc, sự sự vô ngại. Trùng trùng xen chiếu như báo thân chịu khổ ở địa ngục đều tự đầy khắp, sự việc kì lạ khó nghĩ vốn tự như thế. Phật Phật tự giác, chúng sinh chẳng biết. Đây là biết tâm chúng sinh tức Phật trí, là sự huyền diệu vào tâm thành quán”.

Pháp Hoa Huyền Tán Sớ nói: “Như trong kinh nói nhất thời túc là duy thức thời. Người nghe, kẻ nói trên tâm thức biến thành tướng trạng ba thời mà khởi, là hiện tại tùy tâm phần hạn biến thành dài ngắn, sự việc chấm dứt gọi chung là nhất thời. Như chiêm bao thấy có nhiều đời, khi thức dậy biết là duy tâm không có cảnh thật. Người nghe tâm biến ra ba đời cũng thế, dù là sở duyên của ý. Bất tương ưng hành uẩn thuộc về pháp giới, pháp xứ.

Đây nói nhất thời, một là bất định theo sát-na, hai là bất định theo tương tục, ba là bất định theo bốn thời, sáu thời, tám thời, mười hai thời, bốn là bất định theo thời hạn số năm sau khi thành đạo. Chỉ vì người nghe căn tính thành thục cảm Phật nói ra, người nói từ bi ứng cơ mà nói. Việc nói nghe dứt hẳn gọi là nhất thời.

– Bất định theo sát-na nghĩa là người nghe pháp căn khí chậm lụt, tuy nói ít mà hiểu nhiều; hoặc nói nhiều mà người nghe chậm hiểu; trong sát-na vẫn chưa thể hiểu nên chẳng phải sát-na.

– Bất định theo tương tục nghĩa là như người nói được đà-la-ni, nói nghĩa một chữ mà hiểu tất cả; hoặc người nghe được tịnh nhĩ ý, nghe một chữ liền hiểu tất cả, nên chẳng phải tương tục. Bởi trong pháp hội người nghe căn cơ có lợi, có độn; với thần lực Như Lai có thể kéo dài niệm ngắn làm nhiều kiếp, hoặc có thể thu ngắn nhiều kiếp làm niệm ngắn, vì cũng bất định. Nói chung y cứ người nói, người nghe rốt ráo gọi là thời.

– Bất định theo bốn thời, sáu thời, tám thời, mười hai thời nghĩa là một mặt trời, một mặt trăng chiếu soi bốn thiên hạ, dài ngắn, nóng lạnh, gần xa, ngày đêm, các phương chẳng nhất định, vì luôn cùng hai thiên hạ khởi dụng. Lại nữa, trừ các cõi dưới, chư thiên trở lên không có bốn thời và tám thời, gần giống các cõi trên các phương lưu thông, vì nếu nói bốn thời v.v… lưu hành chẳng khắp.

– Bất định theo thời hạn số năm sau khi thành đạo, nghĩa là phàm Thánh trong tam thừa thấy báo thân và hóa thân Phật niên kỷ dài ngắn từ khi thành đạo, đến nay chẳng đồng.

Giải thích: Nói về sự bất định ở trên y cứ sát-na thời, tương tục thời, bốn thời, sáu thời, tám thời, mười hai thời và thời hạn số năm sau khi thành đạo, gọi là nhất thời, nghĩa là vì dài ngắn bất định, trước sau không chứng cứ, chỉ nói nhất thời của duy tâm để làm định lượng thì không có lỗi, sự lý tương đương. Đã mất tình trần lấy bỏ, lại dứt cái kiến chấp đoạn thường, không chỉ nhất thời hiểu rõ duy thức mà thật sự muôn nghĩa đều trở về nhất tâm thì xứng với giáo tông, hòa hợp bí chỉ, có thể mở ra chính kiến, dứt sạch hoài nghi. Do đó kinh nói: “Tất cả các pháp lấy thật tế làm định lượng”; lại nói: “Chỉ lấy đại thừa làm giải thoát khiến được nhất thiết chủng trí”, cho nên biết chỉ nói đại thừa không có lỗi.

Nói đại thừa chính là thừa của nhất tâm. Thừa là nghĩa chuyên chở. Nếu luận về nghĩa chuyên chở đâu có gì vượt hơn tâm! Lại người chẳng biết tâm, nếu nghe pháp xem kinh chỉ theo danh tướng chẳng được ý chỉ kinh. Như ngài Tăng Nhai nói: “Hiện tại nghe lời kinh câu câu tương ưng với tâm”. Lại Thích Pháp Thông nhân nghe pháp sư Tuệ Mẫn thuyết pháp tự tâm được rỗng rang không còn phiền lụy, cho đến thấy tất cả cảnh giới cũng như thế. Nếu chẳng quán tâm thì đều theo vật chuyển.

Thế nên Đại Thừa Nhập Đạo An Tâm Pháp ghi: “Nếu cho có phải là phải, thì có chỗ nào chẳng phải, nếu cho chẳng phải là phải thì không chỗ nào chẳng phải. Một môn trí tuệ vào trong trăm nghìn môn trí tuệ, thấy cây trụ liền có cái hiểu về cây trụ, được tướng cây trụ mà chẳng có cái hiểu về cây trụ. Quán tâm là pháp cây trụ, không có tướng cây trụ, thế nên thấy cây trụ liền được pháp cây trụ, tất cả hình sắc cũng như thế”.

Kinh Hoa Nghiêm có bài tụng:

Tất cả pháp thế gian
Chỉ lấy tâm làm chủ
Theo hiểu chấp các tướng
Điên đảo chẳng như thật.

Lại cổ nhân nói: “Các loài trong lục đạo từ môn này sinh ra trải qua nghìn kiếp mà chẳng trở lại. Thật là đau đớn!”. Đây là biết do tâm được đạo, như ra ngoài phải nhờ cửa, có gì phải nghi ?

Bách Pháp Sao nói: “Theo đại thừa, tất cả đều do tâm biến ra, nên lìa ngoài tâm không có pháp, tức là muôn thứ tạo tác đều chẳng lìa tâm, nghìn lời nói đâu vượt ngoài tâm”.

Bài tựa trong Pháp Giới Quán nói: “Pháp giới là bản thể của thân tâm tất cả chúng sinh, từ xưa đến nay linh minh thấu suốt rộng lớn rỗng lặng, chỉ là cảnh nhất chân mà thôi, không có hình mạo mà đầy khắp đại thiên, không có bờ mé mà bao gồm vạn hữu, chiếu sáng nơi tâm mục mà chẳng thể thấy tướng, sáng sủa nơi sắc trần mà chẳng thể phân lý, chẳng phải mắt tuệ thấu pháp, trí sáng lìa niệm, chẳng thể thấy sự linh thông của tự tâm. Ở nơi đây xứng pháp giới tính nói kinh Hoa Nghiêm khiến cho tất cả chúng sinh từ trong thân được thấy trí tuệ rộng lớn của Như Lai mà chứng pháp giới. Cho đến nơi Phật thân một mảy lông trùm khắp tất cả, thế giới cũng thế, chúng sinh cũng thế, trần trần cũng thế, niệm niệm cũng thế, pháp pháp cũng thế, không có một pháp nhất định có tự thể độc lập.”

Truyện Đề-bà ghi: “Bồ-tát Đề-bà học rộng hiểu nhiều, biện tài tuyệt luân, nổi tiếng Thiên Trúc, được các nước suy tôn, ngài hổ thẹn vì cho rằng mình chẳng cùng tận, chỉ vì người chẳng được người tin lời nói của mình nên ngài buồn lòng. Bấy giờ trong nước ấy có thờ hình tượng đại thiên thần bằng vàng ròng cao hai trượng hiệu là Đại Tự Tại Thiên, ai có cầu nguyện điều gì đều được như ý. Đề-bà đến đền thờ xin vào bái kiến, chủ đền nói:

– Tượng thần rất linh, không ai dám nhìn thẳng vào mặt thần, và còn khiến cho người lui ra sau thất thủ một trăm ngày, vì vậy ông chỉ đứng ngoài cửa cầu nguyện cần gì vào bái kiến.

Đề-bà nói:

– Nếu linh thiêng hẳn như lời ông nói thì phải cho tôi gặp mặt. Nếu không thì tôi bái kiến làm gì ?

Người thời ấy làm lạ chí khí và nể phục sự minh chính của ngài nên đi theo vào đền, số người đông đến nghìn muôn. Khi Đề-bà vào đền, tượng thần nhấp nháy đôi mắt nhìn ngài hằn hộc, Đề-bà hỏi:

– Thiên thần linh thiêng, sao lại nhỏ mọn thế ? Cần phải đem tinh linh cảm người, trí đức phục vật chớ đâu phải đem con mắt vàng ròng lấp lánh pha lê để mê hoặc người.

Nói xong, ngài trèo lên thang gỡ con mắt của tượng thần. Khi ấy, những người nhìn thấy đều có ý hoài nghi: “Đại Tự Tại Thiên sao lại bị một bà-la-môn nhỏ bé làm cho khốn khổ, sao không đem thật lý khuất phục lời nói kia ?” Đề-bà báo cho mọi người biết: “Thần minh xa vời nên đem việc gần gũi để thử tôi, tôi được tâm của thần nên từ đống vàng này sinh ra pha lê khiến cho các ông biết thần chẳng nhờ chất, tinh chẳng gá hình, tôi đã chẳng coi thường, thần cũng chẳng nhục”.

Nói xong ngài bước ra khỏi đền, đêm ấy ngài đi tìm cầu những đồ cúng dường, đến sáng sớm hôm sau dâng cúng thiên thần. Danh tiếng của Đề-bà càng lớn lại càng thêm trí tuệ khế hợp với sự phát ngôn, những lời nói ra đều ứng nghiệm, trong một đêm cúng dường đầy đủ những thức ăn ngon lành. Đại Tự Tại Thiên hiện thân bằng xương thịt cao khoảng bốn trượng, mắt trái lõm sâu, đi đến chỗ ngồi, lướt nhìn các thức ăn liền khen chưa từng có và ca ngợi hết lời đức độ của ngài: “Người ta được hình tôi, ngài được tâm tôi Ngài dùng tâm cúng, người ta đem phẩm vật dâng; người biết cung kính tôi là ngài, còn kẻ nể sợ mà hùa theo tôi là người. Những vật ngài cúng đều là thiện mỹ. Chỉ cần vô ngã là có thể thấy thức cúng dường hảo hạng”.

Đe-bà nói: “Thần xét tâm tôi, tôi chỉ có tuân theo mệnh ngài”.

Thần nói: “Tôi khuyết con mắt trái, ngài có thể cho tôi không”.

Đề-bà nói: “Kính như mệnh trời”.

Nói rồi ngài liền móc mắt trái dâng cho. Do thần lực của thiên thần nên ngài móc mắt từ sáng đến chiều không ngừng con số lên đến vài muôn con mắt mà vẫn bình thường. Thiên thần khen ngợi: “Hay thay, đây là sự bố thí thật cao thượng. Ngài muốn cầu nguyện gì ắt sẽ được như ý”.

Đề-bà nói: “Tôi mong tâm sáng suốt chẳng nhờ bên ngoài, chỉ hận bao kẻ kém cỏi mờ mịt chẳng biết tin nhận lời tôi, thần ban cho tôi nguyện vọng khiến cho lời nói của tôi chẳng hư dối, chỉ việc này không có điều gì khác”.

Thần nói: “Quả nhiên là khó khăn”.

Khi ấy, Đề-bà lui ra đi đến chùa thọ pháp xuất gia cắt tóc mặc pháp phục, đi chu du hoằng hóa các kinh đô cõi Thiên Trúc, tại ngã tư đường ngồi trên tòa cao luận thuyết về ba vấn đề: trong tất cả các Thánh, đức Phật là bậc nhất; trong tất cả các pháp, Phật pháp là bậc nhất; trong tất cả người cứu thế gian, chư Tăng của Phật giáo là bậc nhất. Nếu có luận sĩ trong tám phương phá được lời này tôi sẽ tự chặt đầu chịu khuất phục. Vì sao ? Lập luận không sáng tỏ là ngu si, tôi không cần cái đầu ngu si nên chặt bỏ không gì đáng tiếc. Luận sĩ tám phương nghe nói thế liền đến tụ hội lập thệ rằng: “Nếu chúng tôi bị thua cũng sẽ chặt đầu, đầu ngu si cũng chẳng tiếc rẻ”. Đề-bà nói: “Pháp tu của tôi là lấy lòng nhân cứu giúp muôn loài, do đó nếu các ông thua, tôi sẽ cắt râu tóc các ông cho làm đệ tử, chẳng chặt đầu làm gì”. Đặt ra yêu cầu này rồi, ngài riêng soạn bộ Danh lý kiến vô phương luận để cùng nhau tranh luận. Đối với người tình trí hời hợt thì chỉ một lời ngài liền khuất phục, còn người tình trí sâu xa thì tối đa hai ngày cũng giơ tay đầu hàng, thế là họ đều xuống tóc. Như vậy ngày ngày vương gia gởi tặng y bát trọn ba tháng ngài độ được hơn mười vạn người”.

Giải thích: Mong tâm sáng suốt chẳng nhờ bên ngoài nghĩa là xem xét lời như thế thì người nào đến mà chẳng theo cho nên đức độ cảm động minh thần, đục lấy con mắt của Đại Tự Tại Thiên, hòa hợp ý người, độ mười vạn ngoại đạo, đúng là lương y cứu thế, diệu thuật độ người. Nếu chẳng được ý chỉ này bi nguyện làm sao thành, đây là tận cùng ý nghĩa tự lợi lợi tha.

Thiên Thai Vô Lượng Thọ Phật Sớ nói: “Y cứ một chữ mà nói”, Thích Luận ghi: “Sở hành như sở thuyết”, sở thuyết là giáo, như là lý, hành là hạnh, Phật là pháp thân, quán là bát-nhã, vô lượng thọ là giải thoát, nên biết tức một đạt ba, tức ba đạt một; trong một hiểu vô lượng, trong vô lượng hiểu một. Trên một chữ đạt vô lượng nghĩa, huống là các chữ, hay một đề tài, hay một bài kinh, hay tất cả kinh ? Cho nên kinh nói: “Nếu nghe danh tự một đề kinh sẽ được công đức vô hạn; nếu chẳng hiểu như trên đâu thể được công đức vô hạn”.

Giải thích: Nếu chẳng quy về nhất tâm để hiểu thì làm sao được vô hạn công đức ? Vì nhất tâm đầy đủ vô lượng công đức. Nếu lìa tâm thì sự thấy biết chẳng viên mãn, đều trở thành tà kiến điên đảo, dù cho đủ hạnh môn cũng đều thành phần hạn.

Khởi Tín Sớ ghi: “Chân tâm bao la, bặt cả ngôn ngữ hình tượng nơi nơm lưới, bát ngát tĩnh lặng; mất cảnh trí nơi năng sở, chẳng sinh chẳng diệt, bốn tướng chẳng dời đổi không đến không đi; ba thuở chẳng thay đổi, chỉ lấy vô trụ làm tính, phân chia tùy tông phái, theo mê ngộ có lên xuống, tùy nhân duyên mà khởi diệt. Tuy ồn ào náo nhiệt mà chưa động tâm nguyên; dù lặng lẽ chiếu soi mà chưa từng trái nghiệp quả, vì thế khiến cho chẳng biến đổi tính mà duyên khởi, nhiễm tịnh hằng phân; chẳng bỏ duyên mà tức chân, phàm Thánh nhất tri. Nó cũng như làn sóng chẳng khác sự lay động của nước nên ngay nơi nước để nói về sóng. Nước chẳng khác tính ướt của động nên ngay nơi sóng để rõ nước, đây là động tĩnh xen suốt, chân tục dung nhau, sinh tử niết-bàn đều như nhau”.

An Lạc Tập nói: “Hỏi: Do đâu một năng lực niệm Phật có thể diệt tất cả nghiệp chướng ? Đáp như kinh nói: “Như có người dùng gân sư tử làm dây đàn, âm thanh phát ra, tất cả dây đàn khác đều dứt bặt. Nếu người thực hành niệm Phật tam-muội trong tâm bồ-đề thì tất cả phiền não, tất cả nghiệp chướng thảy đều đoạn diệt. Cũng thế, như có người vất sữa của bò, dê, lừa, ngựa đổ chung vào trong một chiếc bình, nếu chỉ nhỏ một giọt sữa sư tử vào trong ấy thì tất cả các sữa kia đều biến thành nước trong. Nếu người chỉ thực hành niệm Phật tam-muội trong tâm bồ-đề thì vượt qua tất cả ác ma và các chướng không khó”.

Luận Bảo Tạng nói: “Thật đây chẳng phải kia, thật kia chẳng phải đây như dấu chim, nét vẽ trên hư không kỳ đặc xuất hiện là nhằm phá kia đây. Các pháp như huyễn, tợ dấu chim, nét vẽ trong hư không đều từ tâm sinh xuất hiện một cách lạ lùng”.

Lại nói: “Quang siêu nhật nguyệt, đức vượt thái hư, vạn vật vô tác, tất cả vô danh, chuyển biến trời đất, tự tại ngang dọc, vạn vật chẳng thể tự lập, đều do con người đặt tên, đều từ tâm sinh chuyển biến trời đất. Rõ biết tất cả đều duy tâm thì muôn pháp không liên can đến thần minh, liền hướng đến tự do, tự tại ngang dọc”.

Thiên Thai Niết-bàn Sớ ghi: “Phiền não nhất thời với thân nghĩa là ngoại trừ sự nhất thời cố chấp kia, nếu giải thích về nhất thời thì đây là trước sau mà nhất thời, nhất thời mà trước sau, chỉ là trong nghĩa nhất thời nói có trước sau, tức phiền não là trước, thân là sau. Vì sao ? Nhân quả không hai, sắc tâm nhất thể, ba đạo ba đức không trái nhất niệm, năm ấm năm thoát lý đồng sát-na, quí tại phá chấp, chấp đã hết thì tính đồng hư không, hư không không có trước sau, như ngọn đuốc và ánh sáng đồng có một lượt, phải nhờ ngọn đuốc mới có ánh sáng, phiền não với thân cũng thế, cho nên biết trước sau nhất tâm, nhất tâm trước sau. Hiểu như thế có gì sai biệt, chỉ e ngoài tâm chấp lấy pháp mà tự sai khác”.

Nhiếp Cảnh Quy Tâm Chân Không Quán của hòa thượng Đỗ Thuận ghi: “Các pháp trong ba cõi chỉ là nhất tâm, ngoài tâm không một pháp để được nên nói là quy tâm. Tất cả phân biệt chỉ do tự tâm, không có cảnh ngoài tâm có thể cùng tâm làm duyên. Vì sao ? Bởi tâm chẳng khởi, ngoại cảnh vốn không. Luận nói: “Do nương vào duy thức nên cảnh vốn vô thể, vì nghĩa chân không thành lập”. Vì trần không có nên bản thức chẳng sinh, do đây mới biết do tâm hiện cảnh, do cảnh hiển tâm, tâm chẳng đến cảnh, cảnh chẳng vào tâm, thường tu tập quán này, trí tuệ sâu xa”.

Bài tựa Duy Thức nói: “Cảnh lìa tâm có khả năng diệt, trần của thức ắt tồn tại; danh mang số chợt hiển, tên gọi duy thức rõ ràng, cho nên được ý chỉ nhất tâm thì truyền mãi chẳng dứt, ngọn đèn bát thức sáng rỡ vô tận”.