LUẬN HIỂN DƯƠNG THÁNH GIÁO
Vô Trước Bồ-tát tạo luận
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 3

Phẩm 1-3: NHIẾP SỰ

Thông đạt có 7 thứ như trong kinh nói rộng: 1. Thông đạt chữ, nghĩa là không phân biệt 32 chữ, hiểu rõ như thật nghĩa của hành tướng, do trước đã khéo tu trị hành pháp tăng thượng nơi tâm. 2.Thông đạt tướng của chữ, nghĩa là có phân biệt tướng của các chữ đối với hình sư tử v.v…nên hiểu rõ như thật nghĩa của hành tướng, ngoài ra như trước đã nói. 3.Thông đạt năng thủ, nghĩa là đối với sở duyên tâm pháp tương ưng chỉ hiểu rõ tướng như thật, ngoài ra như trước đã nói. 4.Thông đạt sở thủ, nghĩa là trong tất cả cảnh giới các thức hiểu rõ như thật ảnh tướng duy thức, ngoài ra như trước đã nói. 5.Thông đạt sự trói buộc, nghĩa là hiểu rõ như thật tướng trói buộc và trói buộc thô nặng, ngoài ra như trước đã nói. 6.Thông đạt giải thoát, nghĩa là hiểu rõ như thật tướng giải thoát trói buộc và giải thoát thô nặng, ngoài ra như trước đã nói. 7.Thông đạt pháp tính, nghĩa là hiểu rõ như thật đối với sự trói buộc, giải thoát duyên khởi các hành từ đời vô thủy đến nay và pháp tính chân như vắng lặng của chúng vì trước đã khéo tu trị hành pháp tăng thượng nơi tâm.

Địa, nghĩa là 10 địa của Bồ-tát, như kinh nói rộng: 1.Cực hỷ địa, nghĩa là chư Bồ-tát trụ trong địa này, trước đã khéo tu trị hành pháp tăng thượng nơi tâm, nên siêu quá tất cả hiện quán của Thanh Văn Độc Giác, được các hiện quán của Bồ-tát. Chính vì chứng đắc vô thượng hiện quán nên các Đại Bồ-tát trong địa này trụ hỷ tăng thượng. Do đó địa này gọi là cực hỷ. 2.Ly cấu địa, nghĩa là chư Bồtát trụ trong địa này, trước khéo tu trị sơ địa hành, nên siêu quá tất cả Thanh Văn Độc Giác địa, chứng đắc cực tịnh diệu tích tụ Thi-la, đối trị tất cả cấu uế phạm giới vi tế. Do đó địa này gọi là ly cấu. 3.Phát quang địa, nghĩa là chư Bồ-tát trụ trong địa này, trước khéo tu trị địa thứ hai, siêu quá tất cả Thanh Văn Độc Giác địa, chứng đắc Tam-ma-địa tích tụ hết sức thanh tịnh, là y chỉ của ánh sáng đại trí. Do đó địa này gọi là phát quang, 4.Diệm tuệ địa, nghĩa là chư Bồ-tát trụ trong địa này, trước khéo tu trị địa thứ ba nên siêu quá tất cả Thanh Văn Độc Giác địa, chứng đắc cực tịnh, duyên các giác phần có thể thủ pháp cảnh tích tụ vi diệu tuệ, có khả năng hiện tiền thiêu đốt tất cả phiền não. Do đó địa này gọi là diệm tuệ. 5.Cực nan thắng địa, nghĩa là chư Bồ-tát trụ trong địa này, trước khéo tu trị địa thứ tư nên siêu quá tất cả Thanh Văn Độc Giác địa, chứng đắc cực tịnh, duyên đế lý biết các pháp tích tụ vi diệu tuệ, thành tựu chỗ khó thành, không trụ lưu chuyển tịch diệt Thánh đạo. Do đó địa này gọi là cực nan thắng. 6.Hiện tiền địa, nghĩa là chư Bồ-tát trụ trong địa này, trước khéo tu trị địa thứ năm nên siêu quá tất cả Thanh Văn Độc Giác địa, chứng đắc cực tịnh, duyên trí phi trí 2 thứ sở tác, chấm dứt sự lưu chuyển của các hành, pháp cảnh tích tụ vi diệu tuệ, phần nhiều có tướng tương tục tự nhiên, diệu trí hiện tiền. Do đó địa này gọi là hiện tiền. 7.Viễn hành địa, nghĩa là chư Bồ-tát trụ trong địa này trước khéo tu trị địa thứ sáu nên siêu quá tất cả Thanh Văn Độc Giác địa, chứng đắc cực tịnh vi diệu giải thoát tích tụ giải thoát trí kiến do đã từ lâu nhập vào các tướng giải thoát hiện hành. Do đó địa này gọi là viễn hành. 8.Bất động địa, nghĩa là chư Bồ-tát trụ trong địa này trước khéo tu trị địa thứ bảy nên siêu quá tất cả Thanh Văn Độc Giác địa, chưngs đắc cực tinh vi diệu giải thoát, tích tụ giải thoát trí kiến, giải thoát chướng tất cả tướng tự tại nên được vô công dụng y chỉ liên tục tự nhiên. Do đó địa này gọi là bất động. 9.Thiện tuệ địa, nghĩa là chư Bồ-tát trụ trong địa này trước khéo tu trị địa thứ tám nên siêu quá tất cả Thanh Văn Độc Giác địa, chsngs đắc cực tịnh vi diệu giải thoát, tích chứa giải thoát trí kiến giải thoát tất cả chướng vô ngại biện, y chỉ của tuệ rộng lớn không lỗi. Do đó địa này gọi là thiện tuệ. 10.Pháp vân địa, nghĩa là chư Bồ-tát trụ trong địa này trước khéo tu trị địa thứ chín nên siêu quá tất cả Thanh Văn Độc Giác địa, chứng đắc cực tịnh vi diệu giải thoát, tích chứa giải thoát trí kiến, giải thoát trí chướng phát khởi đại thần thông như mây, sở y của pháp thân viên mãn. Do đó địa này gọi là pháp vân.

Ba-la-mật-đa, là 10 Ba-la-mật-đa, như kinh nói rộng: Một, thí Ba-la-mật-đa, nghĩa là dựa vào tâm Bồ-đề, bi là đứng đầu, 10 thứ pháp hành giúp cho việc khéo tu trị, 7 thứ thông đạt làm kiên cố căn, hoặc nhân tư tài hoặc do chính pháp, hoặc do vô úy, gồm tính của 5 thứ công đức đại ngã: một không đắm trước nên xả, hai chẳng quán nên xả, không mất nên xả, bốn không phân biệt nên xả, năm hồi hướng nên xả. Do hạnh này mà chư Bồ-tát dùng các thức tư sinh thâu nhiếp các hữu tình, và do gần gũi nhiều tu tập khiến các tư lương kia viên mãn, sẽ thành quả vô thượng chính biến tri. Cũng giống như thí Ba-la-mật-đa, nên biết giới cho đến tuệ cũng như vậy. Chỗ sai khác trong này là thứ hai, giới Ba-la-mật-đa, nghĩa là hoặc nhân dứt lìa bất thiện, hoặc nhân nhiếp thụ thiện pháp, hoặc nhân luật nghi giới lợi ích hữu tình có tinh gồm thâu thân ngữ ý nghiệp. Do hạnh này chư Bồ-tát dùng sự không giận, không não hại thâu nhiếp các hữu tình. Thứ ba, nhẫn Ba-la-mật-đa, nghĩa là hoặc do có tính không giận, nhận chịu việc người không làm lợi ích, hoặc do có tính không loạn mà an tâm nhẫn chịu các khổ, hoặc do có tính chính tuệ mà thẩm xét các pháp. Do các hạnh nầy mà Bồ-tát dùng nhẫn chịu đựng tất cả việc không lợi ích và việc tổn hại để nhiếp hóa hữu tình. Thứ tư, cần Ba-la-mật-đa, nghĩa là hoặc nhân mặc áo giáp phát tâm, hoặc nhân phương tiện gia hành, hoặc nhân lợi ích hữu tình liên tục tâm thuần thục, tính dũng mãnh vì muốn dẫn sinh tất cả thiện căn, do hạnh này mà các Bồ-tát tuy chưa đè bẹp được các hoặc mà có thể một mặt chuyên tu các thiện. Thứ năm, tĩnh lự ba-la-mật-đa, nghĩa là hoặc nhân đối trị phiền não, hoặc nhân phát khởi công đức, hoặc nhân lợi ích hữu tình tâm trụ một duyên, do hạnh này mà các Bồ-tát đè bẹp được các phiền não khiến trụ pháp không hiện hành. Thứ sáu, tuệ Ba-la-mật-đa, nghĩa là hoặc nhân đối trị phiền não, hoặc nhân phát khởi công đức, hoặc nhân lợi ích hữu tình giản trạch các pháp, do hạnh này mà các Bồ-tát hằng vĩnh đoạn tất cả chủng tử phiền não chướng và sở tri chướng. Thứ bảy, thiện xảo Ba-la-mật-đa, nghĩa là các Bồ-tát dùng phương tiện này, hoặc do thuận, hoặc do nghích, hoặc do không đồng ý lạc, hoặc do làm ân báo ân, hoặc do bức bách, hoặc do thanh tịnh dùng 3 thứ lợi ích nhiếp hóa các hữu tình, đối với các chỗ thiện khiến tiếp thụ, khiến điều hợp, khiến an trụ, khiến thành lập. Thứ tám, nguyện Ba-la-mật-đa, nghĩa là trong các Bồ-tát tùy theo có một làm tính, vì phiền não giải đãi nhiều nên liền phát chính nguyện tu các thiện, khiến đời vị lai được tự tính dũng mãnh chính cần, phiền não mỏng nhẹ. Do nhân này nên trong các đời chỗ phát tâm cầu đều được quả như nguyện, đối với pháp tu thiện được sức vững mạnh. Thứ chín, lực Ba-la-mật-đa, nghĩa là các Bồ-tát do chỗ tu thiện pháp được sức vững mạnh, dựa vào sức này nên mau chóng phát khởi tĩnh lự Ba-la-mật-đa. Thứ mười, trí Ba-la-mật-đa, nghĩa là các Bồ-tát đối với Bồ-tát tạng tĩnh lự Ba-la-mật-đa thâu nhiếp thì trí dẫn phát thế gian tuệ. Dựa vào tuệ này mà các Bồ-tát mau chóng có thể phát khởi xuất thế gian vô phân biệt tuệ Ba-la-mật-đa không trụ nơi lưu chuyển tịch tịnh.

Như vậy 10 Ba-la-mật-đa, ở trong tất cả địa đều tu tập đầy đủ. Như tăng thượng thì thí Ba-la-mật-đa chỉ ở sơ địa. Còn thứ tự thì cho đến trí Ba-la-mật-đa ở địa thứ 10.

Tụng nói:

Bồ-tát hành nhiếp sự,

Và các đà-la-ni,

Các môn Tam-ma-địa,

Các vô lượng tác ý.

Luận nói: Bồ-tát hạnh, là 4 hạnh cùa Bồ-tát làm, như kinh nói: 1.Đáo bỉ ngạn, nghĩa là 10 Ba-la-mật-đa nói chung là việc làm đáo bỉ ngạn, đều là nghĩa xuất ly của Đại thừa. 2.Biến giác phần, nghĩa là 37 pháp Bồ-đề phần nói chung là biến giác phần, vì hiểu rõ như thật tất cả nghĩa sở tri. 3.Thần thông, nghĩa là 6 thần thông nói chung đều để dẫn dắt nhiếp hóa hữu tình khiến sinh cung kính vào trong nghĩa của thánh giáo. 4.Thành thục hữu tình , nghĩa là 4 nhiếp sự gòm lại nói chung là hạnh thành thục hữu tình. Nếu đã vào trong thánh giáo hóa độ giới hữu tình, dùng nghĩa 2 thứ tài pháp nhiếp thụ nên trong đây nhiếp thụ bằng tài gọi là trợ nhiếp thụ, tức phương tiện khiến thành thục, nhiếp thụ bằng pháp gọi là chính nhiếp thụ vì chuyển và tùy chuyển phương tiện khiến thành thục. Như vậy 4 nhiếp sự dựa vào 5 thứ nhiếp hạnh gọi là nhiếp sự. Năm nhiếp hạnh là: một khiến phụ đã nhiếp, hai khiến thụ thiện nhiếp, ba khiến khởi thiện chính cần nhiếp, bốn khiến thiện thành thục nhiếp, năm khiến thiện giải thoát nhiếp. Nhiếp sự, nghĩa là 4 nhiếp sự như kinh có nói rộng, nên biết an lập chúng như an lập hạnh thành thục hữu tình.

Đà-la-ni môn, nghĩa là vô lượng Đà-la-ni môn của chư Bồ-tát như kinh có nói rộng. Nếu muốn nói đại lược tướng của Đà-la-ni thì có nghĩa là chư Bồ-tát thành tựu tự loại, thông đạt nơi danh cú văn thân, như ý tự tại, được sức niệm trì các chủng loại như vậy, do niệm lực nên tùy trong một chữ mà có thể hiển thị, phân biệt khai diễn nghĩa của tất cả thứ nhiễm tịnh, nên gọi tên là Đà-la-ni môn.

Tam-ma-địa môn, nghĩa là vô lượng Tam-ma-địa môn của chư Bồ-tát, như kinh có nói rộng. Nếu muốn nói tóm lược thì có 8 thứ. Tức là sơ tĩnh lự cho đến phi tưởng phi phi tưởng xứ. Chư Bồ-tát Ma-ha-tát dựa vào mối mỗi Tam-ma-địa môn xuất sinh vô lượng Tam-ma-địa. Chư Thanh Văn Độc Giác không thông đat tên này. Các Tam-ma-địa này đều có thể thiết lập các việc do tất cả các Tam-mađịa tạo ra trong 10 phương thế giới, cho nên gọi tên là Tam-ma-địa môn. Vô lượng tác ý, là 5 vô lượng tác ý, như kinh có nói rộng.

Một là hữu tình vô lượng tác ý, nghĩa là chư Bồ-tát dùng hành pháp tăng thượng khéo tu trị vi diệu tác ý, tư duy 10 phương vô lượng thế giới thâu nhiếp tất cả hữu tình thế gian không thể nói hết tướng các thứ nghiệp báo sai biệt, hoặc một chân, 2 chân, 4 chân, nhiều chân, hoặc có sắc không sắc,hoặc có tưởng không có tưởng, chẳng phải có tưởng chẳng phải không tưởng, hoặc cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, hoặc na-lạc-ca, bàng sinh, quỷ, người, trời, hoặc sinh trứng, sinh nơi ẩm ướt, sinh thai, sinh hóa, đã tư duy rồi hiểu như thật. Như vậy là hữu tình chuyển, như vậy là hữu tình hoàn, như vậy là nhiễm ô, như vậy là thanh tịnh, như vậy là tà hạnh, như vậy là chính hạnh, vì các sai biệt như thế như thế nên có các dị thục sinh như thế như thế.

Hai là thế giới vô lượng tác ý, nghĩa là chư Bồ-tát cho đến tư duy cái tướng của khí thế gian trong 10 phương vô lượng thế giới, tư duy rồi như thật hiểu biết thế giới này nhiễm, thế giới này tịnh như thật hiểu biết đều như ảo hóa, chỉ là ảnh tượng hư vọng phân biệt, hư ngụy không thật, theo tướng lưu chuyển thành lập các thư hình mạo sai biệt như thành như hoại, hoặc hơn hoặc kém, hoặc thô hoặc tế, hoặc xa hoặc gần, hoặc phân tích cho đến cực vi, hoặc rộng hoặc sơ lược, hoặc nơi hiện hóa, hoặc nơi biến đổi, hoặc nơi xa gần, hoặc nơi ẩn dấu hoặc nơi hiển lộ, như vậy các việc mà được tự tại hiểu biết như thật.

Ba là pháp giới vô lượng tác ý, nghĩa là chư Bồ-tát cho đến tư duy cái tự tướng cộng tướng của tất cả các pháp trong 10 phương vô lượng thế giới tư duy rồi hiểu biết như thật pháp này là sắc, pháp này chẳng phải sắc, như sắc mà chẳng phải sắc, như vậy hữu kiến vô kiến, hữu đối vô đố, hữu lậu vô lậu, hữu vi vô vi, thiện bất thiện vô ký, có lỗi lầm không lỗi lầm, , Dục hệ, Sắc hệ, Vô sắc hệ, học vô học, phi học phi vô học, kiến đoạn tu đoạn vô đoạn, , chuyển pháp hoàn pháp nhiễm pháp tịnh pháp, lưu chuyển pháp tịch diệt pháp, dị sinh pháp hiền thanhd pháp, Thanh Văn pháp Độc Giác pháp Như Lai pháp, như vậy hiểu biết các pháp như thật.

Bốn là điều phục vô lượng tác ý, nghĩa là chư Bồ-tát cho đến tư duy sự hóa độ hữu tình trong 10 phương vô lượng thế giới các thứ hạnh, các thứ chủng tính, hoặc chủng tính Thanh Văn, chủng tính Độc Giác, chủng tính Như Lai, như vậy các chủng tính điều phục đã tư duy rồi hiểu biết như thật các đối tượng điều phục đây là căn yếu đây là căn trung bình, đây là lợi căn, đây là hạng thắng giải thấp kém, đây là hạng thắng giải rộng lớn, đây là tham hành tham A-thế-da, đây là sân hành sân A-thế-da, đây là si hành si A-thế-da, đây là đẳng phần hành đẳng phần A-thế-da, đây là thăng tiến A-thế-da, đây là không thăng tiến A-thế-da, đây là hiền thiện A-thế-da trần cấu mỏng manh, đây là tùy miên tăng thịnh, đây là tùy miên mông manh, đây là tùy miên cực nhỏ, đây là tùy miên suy tổn, đây là tùy miên không suy tổn, đây là tùy miên hoàn toàn, đây là tùy miên không hoàn toàn, đây nói rộng mới hiểu, đây nghe qua liền hiểu, đây phải đuổi bỏ mới điều phục, đây thì nhiếp thụ mới điều phục, đây thì dịu dàng mới điều phục, đây phải thô bạo mới điều phục, đây phải có thô có dịu mới điều phục, đây phải bỏ hay để lại mới điều phục, như vậy các trường hợp hiểu biết như thật.

Năm là phương tiện điều phục vô lượng tác ý, nghĩa là chư

Bồ-tát cho đến tư duy phương tiện điều phục hóa độ hữu tình trong 10 phương vô lượng thế giới, tư duy rồi hiểu biết như thật đây là do thuyết pháp bí mật mới có thể điều phục, đây là do thuyết háp hiển liễu mới có thể điều phục, đây là do phương tiện nhiếp thụ, đây là do phương tiện chiết phục, đây là phương tiện chuyển, đây là phương tiện tùy chuyển, đây nên tùy thuận, đây nên trái nghịch, đây nhân không đồng phần a-thế-da, đây nên làm ơn báo ơn, đây phải thị uy ra oai, đây nhân thanh tịnh, đây do hiển thị thần biến đặc biệt ly kỳ, đây do thị hiện ký biệt đặc biệt ly kỳ, đây do thị hiện day răn đặc biệt ly kỳ, đây do thị hiện các uy thế, đây do khéo khuyến dụ dạy dỗ, đây do tướng thô, đây do tướng dịu dàng, đây do tướng đều có thô và dịu dàng, đây do bỏ hoặc để, đây do nói sơ lược pháp yếu có thể khiến điều phục, đay do gỉng giải rộng pháp yếu mới khiến điều phục. Như vậy hiểu biết như thật các phương tiện. Lại nữa, Tụng nói:

Tướng chân như tác ý,

Tin hiểu không nghĩ bàn.

A-thế-da rộng lớn

Nên biết các tự số.

Luận nói: Tướng chân như tác ý, nghĩa là duyên 7 thứ biến mãn chân như tác, như kinh nói rộng:

1. Lưu chuyển chân như tác ý, nghĩa là chư Bồ-tát đã kiến đế dùng pháp hành tăng thượng khéo tu trị, khi tác ý đối với pháp nhiễm tịnh tư duy thật tính của các hành lưu chuyển từ vô thủy đến nay, tư duy rồi lìa kiến chấp không có nhân và kiến chấp nhân không bình đẳng.

2. Thật tướng chân như tác ý, nghĩa là như trước nói cho đến nhân của pháp nhiễm tịnh tư duy các pháp, tính vô ngã của chúng sinh và tính vô ngã của pháp. Đã tư duy rồi, tất cả các tác ý về thân kiến và các tướng tư duy phân biệt không hiện hành tác ý nữa.

3. Duy thức chân như tác ý, nghĩa là như trước đã nói, cho đến đối với sở y của pháp nhiễm tịnh tư duy tính duy thức của câc pháp. Đã tư duy rồi hiểu biết như thật chỉ tâm nhiễm nên chúng sinh nhiễm, chỉ do tâm tịnh nên chúng sinh tịnh.

4. An lập chân như tác ý, nghĩa là như trước đã nói cho đến tư duy khổ đế đối với thể của pháp nhiễm tịnh. Đã tư duy rồi muốn khiến hữu tình biết nên vì hữu tình giảng nói.

5. Tà hạnh chân như tác ý, nghĩa là như trước đã nói cho đến tư duy tập đế đối với nhân của pháp nhiễm ô. Đã tư duy rồi muốn khiến đoạn trừ nên vì hữu tình giảng nói.

6. Thanh tịnh chân như tác ý, nghĩa là như trước đã nói cho đến tư duy diệt đế đối với thể của pháp thanh tịnh. Đã tư duy rồi muốn khiến hữu tình chứng nên vì hữu tình giảng nói.

7. Chính hạnh chân như tác ý, nghĩa là như trước đã nói cho đến tư duy đạo đế đối với hạnh thanh tịnh. Đã tư duy rồi muốn khiến tu tập nên vì hữu tình giảng nói.

Tin hiểu không nghĩ bàn, nghĩa là chư Bồ-tát đã được tin hiểu đối với những chỗ khó tư duy, như kinh nói rộng. Nếu muốn nói sơ lược cái tướng của sự tin hiểu này, nghĩa là đối với cái nghĩa sở tri cực kỳ sâu xa, cảnh giới sở hành của chư Bồ-tát đã nhập địa và chư Như Lai, cùng với oai đức cực kỳ rộng lớn của chư Phật Bồ-tát, khởi tâm thuần thầnh ngay chính tin vào sự khó nghĩ bàn này, không phải toan vượt cảnh giới, đã thấu rõ rồi mới sinh tin hiểu.

A-thế-da rộng lớn, nghĩa là A-thế-da của đại ngã và A-thế-da rộng khắp. A-thế-da của đại ngã , nghĩa là chư Bồ-tát do hiểu được tự tha bình đẳng giải thoát nên vì các hữu tình đều được giải thoát, thanh tịnh tín dục. A-thế-da rộng khắp, nghĩa là chư Bồ-tát đối với lưu chuyển và tịch diệt được vô phân biệt bình đẳng giải thoát nên vì lợi ích hữu tình cả hai đều không trụ, thanh tịnh tín dục.

Nên biết các tự số, nghĩa là phải biết tự số của các thứ giác phần. Như vậy là đã nói xong. Nay sẽ nói về giác phần Bổ-đặcgià-la.

Tụng nói:

Tùy tín hành bảy thứ,

Và tám thứ nên biết.

Cùng với cực thất phản,

Có sáu thứ thoái pháp.

Luận nói: Phải biết có nhiều thứ Bổ-đặc-già-la. Nay trước tiên giải thích 7 thứ hiền thánh. Nghĩa là 7 thứ: tùy tín hành v.v… như trong kinh nói rộng.

1. Tùy tín hành, nghĩa là như có một tính là nhuyến căn thuần thục liên tục từ trước đến nay hằng tin hiểu. Do nhân duyên này, nay đối với các đế lý tùy theo đó mà tin hiểu hướng đến quán đế lý.

2. Tùy pháp hành, nghĩa là như có một tính là lợi căn thuần thục liên tục từ trước đến nay hằng trạch pháp. Do nhân duyên này, nay đối với các đế lý tùy theo đó mà trạch pháp hướng đến quán đế lý.

3. Tin hiểu, tức là tùy tín hành đã kiến thánh đế.

4. Kiến chí, tức tùy pháp hành đã kiến thánh đế.

5. Thân chứng, nghĩa là trong 8 giải thoát thân chứng cụ túc trụ, chưa được các lậu vô dư tận diệt.

6. Tuệ giải thoát, nghĩa là đã được tận điệt các lậu vô dư, chưa được 8 giải thoát thân chứng cụ túc trụ.

7. Câu giải thoát, nghĩa là đã được tận diệt các lậu vô dư và trong 8 giải thoát thân chứng cụ túc trụ.

Tám thứ , nghĩa là dự lưu quả hướng v.v…8 thứ, như kinh nói rộng:

1. Dự lưu hướng, nghĩa là như có một thuần thục liên tục siêu quá tất cả ngoại dị sinh địa, nhập chính tính ly sinh, nếu chưa chứng được quả sơ dự lưu sẽ không có trung yểu,

2. Dự lưu quả, nếu tùy thắng nhiếp hằng đoạn 3 kết, nếu toàn nhiếp hằng đoạn tất cả kiến sở đoạn hoặc, do thánh giả này đã kiến đế, nên trước tiên chứng được quả nghịch lưu hành.

3. Nhất lai hướng, nghĩa là như có một hoặc thế gian đạo đã bội ly Dục giới tham rồi hướng nhập chính tính ly sinh, hoặc quả dự lưu tu hạnh đối trị để đoạn các hoặc trung thượng phẩm của Dục giới.

4. Nhất lai quả, hoặc đã bội ly dục rồi, nhập chính tính ly sinh rồi sau mới chứng đắc hoặc quả dự lưu, tiến tới đoạn các hoặc trung thượng phẩm của Dục giới nên được. Tức dựa vào sự đoạn trừ này gọi là tham sân si mỏng manh của Dục giới. Điều này làm sao biết được? Nghĩa là khi khi so đo tính toán tác ý quan sát cảnh, tâm sinh xả không tập đối với hướng tâm, không tập đối với thú tâm, không tập đối với trước tâm. Nên biết là người này 3 độc mỏng manh.

5. Bất hoàn hướng, nghĩa là như có một hoặc thế gian đạo, trước lìa cái tham Dục giới, hướng nhập chính tính ly sinh, hoặc quả nhất lai, tiến tới tu đối trị đoạn các phiền não của Dục giới.

6. Bất hoàn quả, hoặc trước lìa Dục, nhập chính tính ly sinh, rồi sau chứng đắc hoặc quả nhất lai, đoạn hết tất cả phiền não cói Dục nên chứng đắc.

7. A-la-hán hướng, nghĩa là như có một người học đã kiến tích, tu hạnh đối trị để đoạn phiền não của phi tưởng phi phi tưởng địa.

8. A-la-hán quả, nghĩa là vĩnh viến đoạn trừ tất cả phiền não của bậc phi tưởng phi phi tưởng nên chứng đắc.

Cực thất phản v.v…, nghĩa là cực thất phản kiến lập 8 y sinh, như kinh có nói rộng:

1. Cực thất phản, tức quả dự lưu, do khéo tu tập thánh đạo nên ở nơi thiên thượng hay ở nơi nhân gian, hoặc hoặc trong thiên thượng nhân gian thụ sinh 7 lần rồi mới hết được các khổ.

2. Gia gia, tức quả dự lưu, do khéo tu tập thánh đạo, nên hoặc sinh thiên thượng hoặc sinh nhân gian, từ nhà này đến nhà khác được diệt hết các khổ.

3. Nhất gian, tức quả nhất lai, do khéo tu thánh đạo nên hoặc sinh thiên thượng ngay nơi đó chứng tịch diệt, hoặc sinh nhân gian ngay ở đó chứng tịch diệt.

4. Trung giân chứng tịch diệt, tức quả bất hoàn, đã đoạn căn bản sinh kết, chưa đoạn thú hướng sinh kết, do sức tu tập thượng phẩm thánh đạo nên sinh trong trung hữu liền chứng tịch diệt, hoặc không tiến đến một nơi sinh mà chứng tịch diệt, hoặc có tiến đến sinh xứ, chưa đến nơi sinh đã chứng tịch diệt.

5. Sinh chứng tịch diệt, tức quả bất hoàn do tu tập trung phẩm thánh đạo chưa đoạn 2 thứ sinh kết , tùy sinh vào một xứ ý sinh trong cõi trời, khi mới sinh liền chứng tịch diệt.

6. Vô hành chứng tịch diệt, tức thánh giả này hành một ít, tinh tiến một ít là chứng tịch diệt. Ngoảu ra tát cả đều như trước.

7. Hữu hành chứng tịch diệt, tức quả bất hoàn, do tu tập hạ phẩm thánh đạo nên chưa đoan 2 kết, tùy sinh một xứ ý sinh nơi cõi trời, tu hành nhiều và nhiều tinh tiến mới chứng tịch diệt.

8. Thượng lưu, tức quả bất hoàn, tùy sinh một xứ ý sinh nơi cõi trời, ở đó không thể hết được các lậu, còn phải sinh nơi các thân khác mới chứng tịch diệt.

Thoái pháp v.v… có 6, nghĩa là thoái pháp v.v… 6 quả vô học, như kinh có nói rộng:

1. Thoái pháp, nghĩa là thành tựu nhuyến căn như vậy, hoặc nghĩ tự hại hoặc không nghĩ tự hại, hoặc phóng dật hoặc không phóng dật đều có thể thoái lui mất hiednj pháp lạc trụ và c ông đức thế gian, không thể luyện căn không thể phát khởi công đức thắng phẩm.

2. Tư pháp, nghĩa là thành tựu nhuyến căn như vậy nếu nghĩ tự hại tức có thể không thoái lui, khi không nghĩ hại tức có thể thoái thất. Người này suy nghĩ như vầy: Thà khiến ta thắng các ma, không khiến các ma thắng ta. Suy nghĩ như vậy rồi mà nghĩ tự hại, đó cũng không thể luyện căn, không thể phát khởi công đức thắng phẩm.

3. Hộ pháp, nghĩa là thành tựu nhuyến căn như vậy, tuy không nghĩ tự hại, không phóng dật nên có thể không thoái mất. Nếu tâm phóng dật tức có thể thoái mất không thể luyện căn không thể phát khởi công đức thắng phẩm.

4. Trụ bất động, nghĩa là thành tựu nhuyến căn như vậy, tuy không nghĩ tự hại và hành phóng dật, nhưng đều không thoái lui không thể luyện căn không thể phát khởi công đức thắng phẩm.

5. Kham năng thông đạt, nghĩa là thành tựu nhuyến căn như vậy kham năng không thoái lui, có thể luyện các căn và có thể phát khởi công đức thắng phẩm.

6. Pháp bất động, nghĩa là từ trước đến nay tự tính thành tựu lợi căn. Người này đối với các thiện căn không bị các thoái pháp đã được làm cho dao động, cũng không vì phát thắng công đức và thượng luyện căn mà bị dao động, nên gọi là bất động pháp.

Tụng nói:

Nhuyến căn có bảy thứ,

Tại tục và xuất gia.

Thanh văn thừa có ba,

Cứu được, không cứu được.

Luận nói: Nhuyến căn có 7 thứ: Một là nhuyến căn, nghĩa là thành tựu tín v.v… 5 căn, hoặc tự tính mềm yếu hoặc chưa tăng trưởng, khi cầu thắng tiến, gia hành còn chậm lụt. Thứ hai là lợi căn, tức ngược lại với nhuyến căn. Thứ ba là tham hành, nghĩa là nơi kiếp trước tập tham dục đã lâu và không tu tập đối trị tham dục. Do nhân duyên đó trong đời này sinh nhằm cảnh giới khả ái thấp kém cũng tiếp tục khởi tham ái mãnh liệt, khó lìa khó chán, đối với việc tu tập thiện pháp thì gia hành chậm lụt. Giống như tham hành, thứ tư là sân hành, thứ năm là si hành cũng vậy. Trong đây chỗ khác nhau là tuy gặp cảnh đáng giận nhỏ mọn cũng liedn tiếp nổi giận dữ lớn, tuy gặp cảnh si mê thô cạn, cũng liên tục khởi ngu si quá quắc. Thứ sáu là phân hành, nghĩa là đời trước không tập thượng phẩm tham dục sân si, cho dẫu có tập nhưng đã tu tập pháp đối trị chúng. Do nhân duyên ấy, trong đời này gặp 3 thứ cảnh giới khả ái v.v… tùy phẩm loại mỗi cảnh khởi 3 thứ tham sân si phiền não trói buộc, không khó bỏ cũng không dễ lìa bỏ, không khó chán cũng không dễ chán, đối với pháp tu thiện không chậm không nhanh. Bảy là bạc trần hành, nghĩa là như có một trong các đời quá khứ tập tham dục sân si không lâu, nhưng đã tu tập pháp đối trị chúng. Do nhân duyên ấy, trong đời này tuy gặp cảnh giới thắng thượng khả ái v.v… mà có thể không tiếp tục nảy sinh tham sân si mạnh mẽ trói buộc, tuy có lúc khởi hạ phẩm, trung phẩm nhưng dễ lìa bỏ dễ chán bỏ, đối với việc tu thiện pháp thì gia hành nhanh chóng.

Tại tục, tức là người bạch y tại gia, thụ dụng ngũ dục, làm các nghề nghiệp ở đời để nuôi sống.

Xuất gia, tức là giữ tướng mạo oai nghi người xuất gia, bỏ cảnh tục thụ trì giới cấm, khất cầu thanh tịnh tự sống đúng như pháp.

Thanh Văn thừa v.v… có 3 là: 1.Thanh Văn thừa, nghĩa là trụ nơi pháp tính Thanh văn để khiến tự thân chứng tịch diệt, nên đã phát chính nguyện tu hạnh phương tiện. 2.Độc Giác thừa, nghĩa là trụ pháp tính Độc Giác để khiến tự thân chứng tịch diệt, nên không do thầy dạy, đã phát chính nguyện tu hạnh phương tiện. 3.Đại thừa, nghĩa là trụ pháp tính Đại thừa vì khiến mình và người chứng tịch diệt, nên không do thầy dạy, đã phát chính nguyện tu hạnh phương tiện.

Có thể cứu, nghĩa là có pháp tính 3 thừa tịch diệt.

Không thể cứu, nghĩa là không có pháp tính 3 thừa tịch diệt.

Tụng nói:

Nhập phương tiện có 9,

Sinh sai biệt nên 2.

Lại do các giới khác,

Thành ra 13 thứ.

Luận nói: Nhập phương tiện có 9, nghĩa là: 1.Đã nhập phương tiện, nghĩa là đối với Như Lai tựn giác, tự thuyết pháp Tì-nại-da được tịnh tín kiên cố, đã thụ Thi-la, đã nghe chính pháp, đã tăng trưởng xả, đã có chính kiến đúng đắn. 2.Chưa nhập phương tiện, tức ngược lại trên. 3.Có chướng, nghĩa là có 3 chướng ngại là phiền não chướng, nghiệp chướng và báo chướng, do chúng có khả năng làm chướng ngại việc tu tập thiện pháp. 4.Không có chướng, nghĩa là ngược lại trên. 5.Chưa thành thục, nghĩa là chưa được thiện căn giúp tâm duy trì liên tục, không thể hiện pháp chứng kiến đế lý, không được hiện pháp hạ trung thượng thừa chứng tịch diệt. 6.Đã thành thục, tức ngược lạib trên. 7.Cụ phược, tức dị sinh. 8.Không cụ phược, tức hữu học thành giả của 6 thứ trên, từ dự lưu quả cho đến thứ sáu A-la-hán hướng. 9.Không trói buộc, nghĩa là các vô học A-la-hán quả.

Sinh sai biệt nên 2, tức là một là nhân thú nghĩa là sinh vào loài người được làm người, hai là phi nhân thú nghĩa là sinh vào các loài khác như Na-lạc-ca bàng sinh và các quỷ thú trời rồng Dược-xoa, A-tố-lạc, Yết-lộ-đồ, Khẩn-nại-lạc, Mâu-hô-lạc-già v.v…

Lại nữa do các giới sai khác nên có 13 thứ là: 1.Dục giới dị sinh, nghĩa là sinh vào cõi Dục chưa kiến đế. 2.Dục giới hữu học, nghĩa là 6 thứ hữu học sinh vào cõi Dục đã kiến đạo đế, tức là từ dự lưu quả cho đến thứ 6 là A-la-hán hướng. 3.Dục giới vô học, nghĩa là A-la-hán quả sinh vào cõi Dục. 4.Sắc giới dị sinh, nghĩa là hạng chưa kiến đế sinh vào cõi Sắc. 5.Sắc giới hữu học, nghĩa là 2 thứ hữu học đã kiến thánh đế, một là bất hoàn quả, hai là A-la-hán hướng. 6.Sắc giới vô học, nghĩa là A-la-hán quả sinh vào cõi Sắc. 7.Vô sắc dị sinh, nghĩa là người sinh vào Vô sắc chưa kiến đế. 8.Vô sắc hữu học, nghĩa là 2 hạng hữu học đã kiến thánh đế sinh vào cõi Vô sắc, đó là bất hoàn quả và A-la-hán hướng. 9.Vô sắc vô hóc, nghĩa là A-la-hán quả sinh vào cõi Vô sắc. 10.Dục giới Độc Giác, nghĩa là trụ pháp tính Độc Giác, trong kiếp trước hoặc chưa kiến đế hoặc đã kiến đế nay sinh cõi Dục, không do thầy dạy mà do sức của nhân đời trước tu pháp giác phần mà chứng đắc, vĩnh viễn dứt hết các kết phược. Đây có 2 thứ: một là như con tê giác đi một mình, hai là Độc thắng đi theo đoàn. 11.Dục giới Bồ-tát, nghĩa là trụ pháp tính Bồ-tát sinh vào cõi Dục vì muốn mình và người chứng tịch diệt nên đã phát chính nguyện tu tập tất cả vô thượng Bồ-đề hành các phương tiện. 12.Sắc giới Bồ-tát, nghĩa là trụ pháp tính Bồ-tát sinh trong cói Sắc, xa lìa Vô sắc tu các tĩnh lự vì khiến mình và người chứng tịch diệt, nên đã phát chính nguyện tu tập tất cả vô thượng Bồđề hành các phương tiện. 13.Chư Phật Như Lai không thể nghĩ bàn, nghĩa là dựa vào tu tập, không trụ lưu chuyển, và cùng với tịch diệt vô phân biệt đạo, chứng đắc pháp thân giải thoát cộng hữu của Chư Phật, bao gồm chuyển y biến khắp 10 phương tất cả thế giới làm tất cả các việc lợi ích tất cả hữu tình không bao giờ dứt.

Như vậy là đã nói xong, nay sẽ nói đến quả Bổ-đặc-già-la.

Tụng nói:

Quả đoạn có 5 thứ,

Biến tri và thanh tịnh,

Tịnh quả giới Bồ-đề,

Vô học do tự số.

Luận nói: Quả đoạn có 5 thứ là:

1. Các triền đoạn, nghĩa là do 4 thứ đối trị nên xa lìa sự hiện hành của các phiền não trói buộc. Bốn đối trị là một là tán loạn đối trị, hai là hiển liễu đối trị, ba là luy liệt đối trị, bốn là tồi phục đối trị.

Tán loạn đối trị nghĩa là tu tập phương tiện trong 8 diệu pháp hành ở trước, hoặc tu tập phương tiện thiện pháp trong các định địa khác. Hiển liếu đối trị, nghĩa là tu tập phương tiện trong pháp hành thứ 9. Luy liệt đối trị, nghĩa là do thiện căn trước trợ giúp tâm, nên phiền não suy yếu. Tồi phục đối trị, nghĩa là do thế gian đạo, tùy sức chế phục chủng tử phiền não.

2. Tùy miên đoạn, nghĩa là do xuất thế gian đạo, tùy sức vính đoạn chủng tử phiền não.

3. Vĩnh tận tham đoạn, nghĩa là do vĩnh đoạn tùy miên hoặc nên tham phiền não đoạn.

Giống như vĩnh tận tham đoạn, thứ tư là vĩnh tận sân đoan và thứ năm là vĩnh tận si đoạn do kiến lực thông đạt cực tịnh thiện, các việc phiền não rốt ráo đoạn hết nên gọi là vĩnh tận đoạn.

Biến tri là có 9 biến tri. Các quả bao gồm y đoạn biến tri:

1. Dục hệ kiến, khổ tập đoạn phiền não đoạn biến tri, do 2 đế này ở trong hữu lậu.

2. Sắc Vô sắc hệ kiến, khổ và tập đoạn phiền não đoạn biến tri, do 2 cõi này ở trong định địa.

3. Dục hệ kiến, diệt đoạn phiền não đoạn biến tri, do vô lậu này ở trong vô vi.

4. Sắc Vô sắc hệ kiến, diệt đoạn phiền não đoạn biến tri, do định này ở trong địa tăng thượng.

5. Dục hệ kiến, đạo đoạn phiền não đoạn biến tri, do vô lậu này ở trong hữu vi.

6. Sắc Vô sắc hệ kiến, đạo đoạn phiền não đoạn biến tri, do định này ở trong địa tăng thượng.

7. Năm thuận hạ phần kết đoạn biến tri, do ra khỏi hạ giới.

8. Sắc tham tận biến tri, do ra khỏi trung giới.

9. Vô sắc tham tận biến tri, do ra khỏi diệu giới.

Thanh tịnh là 9 thứ thanh tịnh, như trong kinh nói rộng.

1. Thi-la thanh tịnh, nghĩa là như có một thiện trụ Thi-la và khéo thủ hộ biệt giải thoát giới, hành xử đầy đủ oai nghi đúng như pháp, trong một tội nhỏ thấy lo sợ lớn, thụ học học xứ.

2. Tâm thanh tịnh, nghĩa là như có một dựa vào giới thanh tịnh xa lìa dục pháp ác bất thiện, như trước đã nói sơ tĩnh lự, đệ nhị, đệ tam, đệ tứ tĩnh lự cụ túc trụ.

3. Kiến thanh tịnh, nghĩa là như có một đầy đủ tâm thanh tịnh trắng sạch không nhơ, lìa các phiền não được trụ bất động, vì muốn chứng đắc lậu tận trí nên quán sát các đế, hiểu rõ như thật đây là khổ thánh đế, đây là thánh đế diệt khổ, đây là hành đạo thánh đế hướng tới diệt khổ.

4. Độ nghi thanh tịnh, nghĩa là như có một dựa vào kiến thanh tịnh, đối với Phật pháp tăng không nghi hoặc.

5. Đạo phi đạo trí kiến thanh tịnh, nghĩa là như có một dựa vào độ nghi thanh tịnh được diệu trí kiến, chỉ có Phật nói, tăng hành đạo có thể xuất ly. Đây là thế nào? Nghĩa là có thể hết khổ và chứng khổ biên. Nếu là đạo do các ngoại đạo nói thì không thể hết khổ và chứng biên giới của sự khổ.

6. Hành trí kiến thanh tịnh, nghĩa là như có một dựa vào đạo phi đạo tri kiến, được diệu tri kiến, biết đạo xuất ly có hạ trung thượng. Hạ là cái khổ đi qua chậm. Trung là cái khổ đi qua mau cái vui đi qua chậm. Thượng là cái vui đi qua mau.

7. Hành đoạn trí kiến thanh tịnh, nghĩa là như có một dựa vào hành trí kiến thanh tịnh được diệu trí kiến cho rằng ta nên đoạn các hành hạ trung và phát khởi thượng diệu thánh hạnh.

8. Vô duyên tịch diệt thanh tịnh, nghĩa là như có một dựa vào hành đoạn trí kiến thanh tịnh, chứng đắc vô dư, các lậu hết vĩnh viễn.

9. Cõi nước thanh tịnh, nghĩa là Chư Phật có chung một cái quả công năng vô thượng có thể thị hiện cõi nước trang nghiêm cực kỳ thanh tịnh không thể nghĩ bàn các pháp cực kỳ thanh tịnh của Phật, Bồ-tát và quyến thuộc.

Tịnh, nghĩa là 4 chứng tịnh, như trong kinh có nói rộng: Một là Phật chứng tịnh, nghĩa là người đã kiến đế, tin đối với Như lại thiện trụ xuất thế gian và tin rằng sau sẽ được thiện trụ thế gian như Phật chứng tịnh. Giống như vậy, thứ hai là pháp chứng tịnh, thứ ba là tăng chứng tịnh cũng vậy. Bốn là thánh sở ái giới chứng tịnh, nghĩa là người đã kiến đế, đối với đã được quyết định, không làm luật nghi thánh sở ái giới, tin rằng thiện trụ xuất thế gian và tin rằng sau sẽ được thiện trụ thế gian.

Quả, là 4 quả Sa-môn, như kinh có nói rộng:

1. Dự lưu Sa-môn quả. Nếu trong tùy thắng thì 3 kết vĩnh đoạn là thân kiến, giới cấm thủ và nghi. Nếu toàn phần thì tất cả kiến đạo đoạn phiền não sẽ vĩnh viễn đoạn trừ. Do kia đoạn nên được quả dự lưu, pháp không đọa lạc, hoặc cực thất phẩn, hoặc là gia gia.

2. Nhất lai Sa-môn quả. Nếu trong tùy thắng thì 3 kết vĩnh đoạn là bạc tham sân si. Nếu toàn phần thì tất cả kiến đạo đoạn phiền não sẽ vĩnh viễn đoạn trừ, và Dục giới hệ tu đạo đoạn thượng phẩm trung phẩm phiền não vĩnh đoạn. Do kia đoạn nên được quả nhất lai, hoặc trở lại một lần.

3. Bất hoàn Sa-môn quả. Nếu là tùy thắng thì 5 thuận hạ phần kết vĩnh đoạn. Đó là thân kiến, giới cấm thủ, nghi, tham dục, sân nhuế. Nếu là toàn phần thì tất cả kiến đạo đoạn phiền não sẽ vĩnh viễn đoạn trừ, và Dục giới hệ tu đạo đoạn vĩnh đoạn, hoắc Sắc giới hệ phiền não vĩnh đoạn, hoặc Vô sắc giới một phần phiền não vĩnh đoạn. Do kia đoạn nên được quả bất hoàn, hoặc trung gian tịch diệt, hoặc sinh tịch diệt, hoặc vô hành tịch diệt, hoặc hữu hành tịch diệt, hoặc trở lại thượng lưu.

4. A-la-hán Sa-môn quả. Nếu là tùy bthắng thì tham dục, sân si vĩnh đoạn. Nếu toàn phần thì kiến tu đoạn tất cả phiền não vĩnh viễn đoạn trừ. Do kia đoạn nên được A-la-hán các lậu vĩnh tận. Cho đến nói rộng A-la-hán. Sáu hằng trụ pháp giới, nghĩa là 3 thứ giới, như trong kinh nói rộng: 1. Đoạn giới, nghĩa là đoạn kiến đạo đoạn các hành. 2. Ly giới, nghĩa là lìa tu đạo đoạn các hành. 3. Diệt giới, nghĩa là diệt sở y các hành.

Bồ-đề, có 3 thứ Bồ-đề, như kinh nói:

1. Thanh Văn Bồ-đề, là Thanh Văn thừa chuyển y sở đắc tịch diệt và hướng đến đạo tịch diệt.

2. Độc Giác Bồ-đề, là Độc Giác thừa chuyển y sở đắc tịch diệt và hướng đến đạo tịch diệt.

3. Vô thượng chính đẳng Bồ-đề, là Đại thừa chuyển y sở đắc tịch diệt và hướng đến đạo tịch diệt, và làm đạo an lạc lợi ích tất cảv hữu tình.

Vô học, là 10 pháp vô học. Như kinh nói:

Một là vô học chính kiến, nghĩa là A-la-hán đối với cái khổ tư duy khổ, cho đến đối với đạo tư duy đạo. vô lậu tác ý tương ưng trạch pháp cực giản trạch v.v… như trước đã nói. Giống như vô học chính kiến, như vậy cho đến thứ 8 là chính Tam-ma-địa cũng như trước. Chín là vô học chính giải thoát, nghĩa là lìa tất cả phiền não thô nặng, trên cái tâm vô học, lìa phiền não chướng, điều phục pháp kham nhiệm. Mười là vô học chính trí, nghĩa là A-la-hán tận trí và vô sinh trí.

Do tự số, nghĩa là như trước đã nói quả đều do tự số sai biệt.

Tụng nói:

Đoạn nhiều nhân nên đoạn,

Thiết lập đoạn đi theo.

Do tác ý y tu,

Va được thứ lớp đoạn.

Luận nói: Đoạn nhiều nhân nên đoạn, nghĩa là đoạn quả nhiều nhân nên phiền não đoạn, tức là có 4 thứ nhân đoạn các phiền não: 1. Sở y diệt. 2. Sở y chuyển. 3. Tri sở duyên. 4. Lạc sở duyên. Lại có 5 nhân đoạn các phiền não: 1. Biết thể của nó. 2. Biết sự của nó. 3. Biết lỗi của nó. 4. Tránh duyên của nó. 5. Tu pháp tác ý đốu trị nó. Lại có 4 nhân phiền não đã đoạn: 1. Y vô dư diệt. 2. Y vô dư chuyển. 3. Tu vô dư đối trị. 4. Giải thoát tâm vô dư.

Thiết lập đoạn đi theo, nghĩa là theo cảnh sở duyên đoạn các phiền não. Đối với các cảnh sở duyên, đoạn phiền não rồi thì không trói buộc, nên các pháp tương ưng cũng theo đó mà đoạn. Vị lai, hiện tại phiền não có thể đoạn, vĩnh hại thô nặng, nên gọi là phiền não đoạn. Do y, nghĩa là do y chỉ 7 y định nên đoạn các phiền não, tức là sơ tĩnh lự cho đến thứ y là vô sở hữu xứ.

Do tu, nghĩa là tu 4 niệm trụ và 4 chính đoạn cho đến tu tập 8 thánh đạo chi, nên đoạn phiền não.

Và được thứ lớp đoạn, là có 5 thứ lớp đoạn các phiền não: 1. Trước đoạn kiến đạo đoạn phiền não. 2. Sau đoạn tu đạo đoạn phiền não. 3. Trước dần dần điều phục các hiện phiền não. 4. Sau rồi vĩnh đoạn tất cả phiền não. 5.Cuối cùng vượt quá tất cả phiền não.

Tụng nói:

Đoạn sai biệt nên biết,

Và đoạn tướng lợi ích.

Như vậy theo chỗ nói,

Phải biết có nhiều thứ.

Luận nói: Đoạn sai biệt nên biết nhiều thứ, đó là các phiền não đoạn có nhiều thứ khác nhau, tức là có các triền đoạn, có tùy miên đoạn, có do thế gian đạo, có do xuất thế gian đạo, có do Thanh Văn thừa tác ý, có do Độc Giác thừa tác ý, có do Bồ-tát thừa tác ý, có tạm thời đoạn, có đoạn rốt ráo, nên biết phiền não đoạn diệt sai biệt nhiều như vậy.

Và phải biết đoạn tướng lợi ích có nhiều thứ, như kinh nói đó là không sa đọa chắc chắn đến Bồ-đề: đã đến chính pháp, sắp đến chính pháp, chứng hiểu chính pháp, được chứng tận nguồn, được chứng khắp tận nguồn, thánh trí kiến thành tựu, không còn chấp các pháp khổ lạc, tự tác tha tác và tự tha tác, và chẳng phải tự tha hai thứ cộng tác, cũng không còn chấp các khổ và vui, không còn có không nhân mà sinh, đoạn không còn mạng bàng sinh v.v…, vượt các học xứ không còn có thể khởi 5 nghiệp vô gián, không còn thỉnh cầu các thầy ngoại đạo, cũng không dùng họ làm ruông phúc chân thật, cũng không chiêm ngưỡng, quan sát dung nhan các Sa-môn Bà-la-môn tà chúng, không còn sinh nghi hoặc các pháp trong 3 đời, không còn có thụ báo thứ 8. Như vậy chứng đắc quả A-la-hán vĩnh viễn hết các lậu, đã làm các việc làm, việc làm đã xong được A-la-hán. Sáu pháp hằng trụ, như kinh nói là thành tựu 6 pháp tương tục trụ. Nếu mắt thấy sắc, tâm không buồn vui, xả niệm chính tri. Như vậy tai mũi lưỡi thân, nếu ý thức pháp, tâm không buồn vui, xả niệm chính tri, các hành vi là vì tự lợi ích, vì lợi ích người, vì lợi chúng sinh, vì an lạc chúng sinh, vì thương yêu thế gian, vì trời người được nghĩa lợi lạc, nên biết vĩnh đoạn phiền não có nhiều tướng lợi ích như vậy.

QUYỂN 3 HẾT