LUẬN HIỂN DƯƠNG THÁNH GIÁO
Vô Trước Bồ-tát tạo luận
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 17

Phẩm 8 tiếp: THÀNH HIỆN QUÁN

Luận nói: Như vậy đã được noãn v.v… các thiện căn, phải biết từ đây là nhập hiện quán.

Tụng nói:

Từ đây không gia hành,

Giải thoát trí 3 tâm.

Một trăm và 12,

Đoạn phiền não gồm 10.

Luận nói: Từ đây liên tục không có gia hành, giải thoát kiến đạo sở đoạn tùy miên 3 tâm trí sinh: 1. Trí khiển trừ hữu tình giả duyên bên trong. 2. Trí khiển trừ các pháp giả duyên bên trong. 3. Trí khiển trừ khắp tất cả hữu tình các pháp giả duyên. Trong đây 2 cái trước là pháp trí. Cái thứ 3 là chủng loại trí. Như vậy 3 trí có thể đoạn 112 phiền não. Như vậy phiền não gồm trong 10 thứ. Một trăm mười hai phiền não là Dục giới kiến khổ đế v.v… phải đoạn đều có 10 thứ. Sắc, Vố sắc giới kiến khổ đế v.v… phải đoạn đều có 9 thứ., nghĩa là đều trừ sân. Như vậy là 112 phiền não.

Những gì gồm trong 10 phiền não? Nghĩa là 5 kiến tự tính và 5 phi kiến tự tính, như trước đã nói.

Lại nữa tụng nói:

Đây chứng Bồ-đề phần,

Sáu thứ tịnh trí tướng.

Vì hành không phân biệt,

Tùy chỗ làm thiết lập.

Luận nói: Phải biết tằng trí này là chân thật chứng giác phần chứ không phải địa vị phương tiện, và cũng là 6 thứ thanh tịnh trí tướng. Tức là pháp trí tướng, chủng loại trí tướng, khổ trí tướng, tập trí tướng, diệt trí tướng, đạo trí tướng. Trí này không phân biệt nên chỉ tùy theo sở tác mà thiết lập tướng mạo của 6 trí, chứ không do hành sai biệt mà thiết lập 6 thứ.

Lại nữa tụng nói:

Bồ-tát ở vị này,

Trước tu sức thắng nhân.

Nơi tự tha thân khổ,

Khởi tâm tính bình đẳng.

Luận nói: Chư Bồ-tát ở trong địa vị hiện quán, do trước tu tập sức thắng tư lương, nên trong cái khổ tương tục của tự tha khởi 5 thứ tâm bình đẳng. Đó là tâm thô trọng bình đẳng, tâm vô ngã bình đẳng, tâm đoạn tinh tiến bình đẳng, tâm không ái vị tinh tiến bình đẳng, tâm tất cả Bồ-tát hiện quán bình đẳng.

Lại nữa tụng nói:

Đại ngã ý lạc này,

Tự tính là vô đắc.

Phải biết quảng ý lạc,

Hai tính không phân biệt.

Luận nói: Phải biết tâm tính bình đẳng này tức là Đại ngã A-thếda và Quảng đại A-thế-da. Nơi biến kế sở chấp tự tính, nó là vô sở đắc cho nên đối với tội lỗi hay công đức của 2 tính hữu lậu vô lậu cũng vô sở đắc vì không phân biệt.

Lại nữa tụng nói:

Tiếp trên 16 hành,

Trí thanh tịnh thế gian.

Vì đối trị giới địa,

Cứu cánh sự thành tựu.

Luận nói: Từ đế hiện quán này trở lên, trong tu đạo có 16 hành, sinh thế xuất thế thanh tịnh trí. Nghĩa là nơi Dục hệ khổ đế sinh 2 trí: 1. Hiện quán thẩm sát trí. 2. Hiện quán quyết định trí. Nơi Sắc, Vô sắc hệ khổ đế cũng có 2 trí như vậy. Giống như nơi khổ đế có 4 trí, nơi tập, diệt, đạo đế mỗi thứ cũng có 4 trí. Nếu sở đắc của Thanh Văn v.v…là đối trị tạp nhiễm của 3 cõi Dục, Sắc , Vô sắc, thì sở đắc của chư Bồ-tát là đối trị 10 thứ địa chướng. Như vậy là các tác sự thành tựu cứu cánh, tức chuyển y cứu cánh cũng là hiện quán trí cứu cánh, cũng gọi là cứu cánh hiện quán.

Lại nữa tụng nói:

Sai biệt hiện quán này,

Có 6 hoặc 18.

Tướng thắng lợi rất nhiều,

Tùy theo kinh luận nói.

Luận nói: Sai biệt của hiện quán có 6 thứ: 1. Tư hiện quán. 2. Tín hiện quán. 3. Giới hiện quán. 4. Hiện quán trí đế hiện quán. 5. Hiện quán biên trí đế hiện quán. 6. Cứu cánh hiện quán.

Hỏi: Tư hiện quán lấy gì làm thể?

Đáp: Lấy tuệ do thượng phẩm tư sinh ra làm thể, hoặc Bồ-đề phần pháp câu hành với nó làm thể.

Hỏi: Tín hiện quán lấy gì làm thể?

Đáp: Lấy thượng phẩm thế xuất thế duyên Tam Bảo tịnh tín làm thể, hoặc Bồ-đề phần pháp câu hành với nó làm thể.

Hỏi: Giới hiện quán lấy gì làm thể?

Đáp: Lấy nghiệp thân ngữ v.v… thánh sở ái làm thể, hoặc Bồđề phần pháp câu hành với nó làm thể.

Hỏi: Hiện quán biên trí đế hiện quán lấy gì làm thể?

Đáp: Lấy duyên an lập đế thánh tuệ làm thể, hoặc Bồ-đề phần pháp câu hành với nó làm thể.

Hỏi: Cứu cánh hiện quán lấy gì làm thể?

Đáp: Lấy tận trí, vô sinh trí v.v…làm thể, hoặc Bồ-đề phần pháp câu hành với nó làm thể.

Lại nữa, sai biệt hiện quán này có 18 thứ. Đó là văn sở sinh trí hiện quán, tư sở sinh trí hiện quán, tu sở sinh trí hiện quán, thuận quyết trạch phần trí hiện quán, kiến đạo hiện quán, tu đạo hiện quán, cứu cánh đạo hiện quán, bất thiện thanh tịnh thế tục trí hiện quán, thiện thanh tịnh thế tục trí hiện quán, thắng nghĩa trí hiện quán, bất thiện thanh tịnh hạnh hữu phân biệt trí hiện quán, thiện thanh tịnh hạnh hữu phân biệt trí hiện quán, thiện thanh tịnh hạnh vô phân biệt trí hiện quán, thành sở tác tiền hành trí hiện quán, thành sở tác trí hiện quán, thành sở tác hẩuntí hiện quán, Thanh Văn đẳng trí hiện quán, Bồ-tát đẳng trí hiện quán.

Lại nữa, tướng mạo, thắng lợi của các hiện quán như vậy, tùy theo các kinh luận có nhiều thứ.

Hỏi: Tư hiện quán có tướng mạo như thế nào?

Đáp: Nếu có người thành tựu tư hiện quán thì có thể hiểu rõ đúng đắn các hành là vô thường, các hành là khổ, các pháp là vô ngã, Niết-bàn là tịch tĩnh. Tuy trụ ở địa vị phàm phu mà đã có thể quyết định như vậy hiểu rõ tất cả Sa-môn, Bà-la-môn, chư thiên ma phạm và các thế gian, quyết định không thể như pháp dẫn đoạt.

Hỏi: Tín hiện quán có tướng mạo như thế nào?

Đáp: Nếu có người thành tựu tín hiện quán, hoặc ở địa vị phàm phu hoặc trụ địa vị phi phàm phu, nếu ở hiện pháp hay hiện hậu pháp đều không tuyên nói. Trong các chúng khác có Đại sư khác, có tăng giỏi thuyết pháp có chính hạnh khác.

Hỏi: Giới hiện quán có tướng mạo như thế nào?

Đáp: Nếu có người thành tựu giới hiện quán, cho đến súc sinh hoàn toàn không cố hại mạng và không cùng làm tà hạnh, không vọng ngữ, không uống rượu gạo, rượu hoa quả, rượu nho, buông thả rượu chè.

Hỏi: Hiện quán trí đế hiện quán có tướng mạo như thế nào?

Đáp: Nếu có người thành tựu hiện quán trí đế hiện quán thì hoàn toàn không dựa vào dị kiến khởi tạo nghiệp và khởi nghi hoặc đối với tự mình đã chứng và nhiễm trước tất cả những nơi sinh xứ chấp là tướng tốt mà được thanh tịnh, phỉ báng 3 thừa tạo nghiệp ác thú. Huống chi lại có thể khởi hại cha hại mẹ v.v… các nghiệp vô gián, cho đến hoàn toàn không sinh Đệ bát hữu.

Hỏi: Hiện quán biến trí đế hiện quán có tướng mạo như thế nào?

Đáp: Nếu có người thành tựu hiện quán biên trí đế hiện quán thì đối với chỗ chứng của mình nếu có ai vấn nạn đều không sợ sệt.

Hỏi: Cứu cánh hiện quán có tướng mạo như thế nào?

Đáp: Nếu có người thành tựu cứu cánh hiện quán thì hoàn toàn không sa vào 5 chỗ phạm, hoàn toàn không cố hại mạng chúng sinh và không cho mà lấy, tập cận dâm dật, pháp phi Phạm hạnh, cố nói vọng ngữ, chứa để tiền bạc các vật thụ dụng các dục. Lại nữa hoàn toàn không sợ sệt không thể ký luận các việc, hoàn toàn không chấp tự tác khổ lạc, tha tác khổ lạc, tự tha tác khổ lạc, phi tự phi tha tác vô nhân sinh khổ lạc. Các việc như vậy gọi là hiện quán tướng mạo. Phải biết đây tức là hiện quán thắng lợi, tùy theo kinh tùy theo luận như trước đã nói.

Phẩm 9: THÀNH DU-GIÀ

Luận nói: Trước nói Bồ-tát ở trong vị này trước tu sức nhân v.v… Thế nào là sức nhân trước?

Tụng nói:

Bát-nhã độ Du-già,

Đẳng chí, vô phân biệt,

Nhất thiết, nhất thiết chủng,

Vì vô hữu phân biệt.

Luận nói: Y chỉ Tam-ma-bát-để phát khởi Bát-nhã Ba-la-mậtđa Du-già thắng hạnh. Ngay chính tuệ này có thể đến bờ kia. Đó là Đại Bồ-đề tối thắng phương tiện, nên gọi là Du-già. Đây y chỉ đẳng chí vô hữu phân biệt vì trong nhất thiết pháp và nhất thiết chủng không phân biệt.

Thế nào là nhất thiết và nhất thiết chủng? Tụng nói:

Nhất thiết, nhất thiết chủng,

Tam tướng với tam luân,

Gọi là tướng nhiễm tịnh,

Và câu phi 2 thứ.

Luận nói: Nhất thiết tức là tam luân: 1. Cảnh sở tri. 2. Trí năng tri. 3. Người năng tri. Nhất thiết chủng, tức tam tướng: 1. Danh tướng. 2. Nhiễm tịnh. 3. Đều không phải. Danh là giả lập v.v… 12 thứ. Danh tướng, là tự tướng và cộng tướng. Nhiễm là pháp nhiễm ô. Tịnh là các thiện pháp. Đều không phải, là pháp vô phú vô ký. Lại nữa, như vậy là đã nói không phân biệt, vậy nơi những pháp nào nói là không phân biệt?

Tụng nói:

Nơi pháp và pháp không,

Không 2 thứ hý luận.

Không phân biệt vô cùng,

Trên đây không hợp lý.

Luận nói: Pháp và pháp không đều không có 2 thứ hý luận nên gọi là vô phân biệt. Thế nào là 2? Là có và không. Bởi vì sao? Sắc chẳng phải là có, vì tướng biến kế sở chấp là không. Cũng chẳng phải là không, vì nó mượn chỗ dựa mà có. Sắc không, cũng chẳng phải có, vì tướng biến kế sở chấp không hiển thị. Cũng chẳng phải là không, vì các pháp vô ngã có hiển thị. Giống như với sắc, sắc không,tất cả pháp và tất cả pháp không, cũng như vậy. Chẳng phải tách rời các pháp và pháp không ra ngoài mà lại có được các cảnh khác. Cho nên chỉ nói 2 vô phân biệt, phi vô phân biệt. Lại vô phân biệt có vô cùng lỗi, vì trên đây không có cảnh sở tri nữa.

Lại nữa tụng nói:

Nếu đều không sở thủ,

Không tuệ cũng không độ.

Đều thành thủ ly ngôn,

Vì thuận phi vô dụng.

Luận nói: Nay nếu không có 2 thứ phân biệt tức không có thủ. Đều không thủ, nên thể của tuệ còn không, huống chi là đáo bỉ ngạn. Cho nên ắt phải có thủ tướng ly ngôn. Do cái thủ này nên tuệ và đáo bỉ ngạn cả 2 đều thành tựu. Sở dĩ vì sao? Bởi thánh tuệ này tuy không thủ như nói tính tướng, mà thủ cái tính tướng ly ngôn.

Hỏi: Nếu thánh tuệ này không thủ tính tướng như nói, thì sự tuyên thuyết chính pháp không có chỗ dùng đến.

Đáp: Không như vậy. Đó là vì tùy thuận. Sở dĩ vì sao? Vì muốn tùy thuận thủ tướng ly ngôn. Cho nên Như Lai tuyên thuyết chính pháp.

Phẩm 10: THÀNH BẤT TƯ NGHỊ

Phải trước tư duy rồi mới nhập hiện quán. Cho nên phải lìa chỗ bất khả tư nghị, phương tiện tư duy. Thế nào là chỗ bất khả tư nghị?

Tụng nói:

Chín việc bất tư nghị,

Do y chỉ 5 chỗ.

Vì có 5 thứ nhân,

Đức, thất đều 3 thứ.

Luận nói: Có 9 việc bất khả tư nghị: 1. Ngã. 2. Hữu tình. 3. Thế giới. 4. Nghiệp báo. 5. Cảnh giới người tĩnh lự. 6. Cảnh giới chư Phật. 7. Mười bốn việc không thể ghi nhận. 8. Phi chính pháp. 9. Chỗ dẫn xuất tâu nhập tất cả phiền não. Nếu tư duy 9 việc như vậy, chắc chắn phải dựa vào 6 chỗ mới khởi tư duy: 1. Thấy. 2. Nhẫn. 3. Suy tìm. 4. Lợi dưỡng. 5. Tán loạn. Dựa vào chỗ thấy, tư duy ngã và hữu tình. Dựa vào chỗ nhẫn, tư duy thế giới. Dựa vào suy tìm, tư duy nghiệp báo cảnh giới của người tĩnh lự, cảnh giới chư Phật và 14 thứ không thể ghi nhận. Dựa vào lợi dưỡng, tư duy phi chính pháp. Dựa vào tán loạn, tư duy chỗ dẫn xuất và thâu nhiếp tất cả phiền não.

Hỏi: Vì nhân duyên gì 9 việc này là không nên nghĩ bàn?

Đáp: Có 5 nhân duyên: 1. Vì ngã và hữu tình không có tự tướng, không nên nghĩ bàn. 2. Thế giới là tướng hiện thành, không nên nghĩ bàn. 3. Nghiệp báo và 2 cảnh giới là tướng rất sâu, không nên nghĩ bàn. 4. Việc không thể ghi nhận là tướng không nhất định, không nên nghĩ bàn. 5. Phi chính pháp và chõi dẫn xuất thâu nhiếp các phiền não có thể dẫn đến tướng vô nghĩa , không nên nghĩ bàn. Nếu có nghĩ bàn những việc như vậy, phải biết sẽ dẫn đến 3 thứ sai lầm: 1. Sai lầm khởi loạn tâm. 2. Sai lầm sinh phi phúc. 3. Sai lầm bất thiện. Nếu không nghĩ bàn có thể dẫn đến 3 thứ công đức ngược lại trên.

Lại nữa tụng nói:

Không tư nghị không ghi,

Phải biết do 4 nhân.

Không nhất định, rất sâu,

Dẫn vô nghĩa tướng trụ.

Luận nói: Lại nữa nếu lược nói là do 4 thứ nhân tự mình không nên tư duy đối với những việc không thể nghĩ bàn, cũng không nên ghi nhận vì người khác: 1. Ngã và hữu tình có hoặc không, không nhất định, nên không thể tư duy, không thể ghi nhận. Nghiệp báo và 2 cảnh giới đều rất sâu, nên không thể tư duy, không thể ghi nhận. 3. Thế giới không thể ghi nhận, phi chính pháp, là chỗ dẫn xuất và thâu nhiếp tất cả phiền não, dẫn đến vô nghĩa, nên không thể tư duy, không thể ghi nhận. 4. Chân như đối với hành v.v… các pháp, không tức không ly, tướng của nó an trụ tự nhiên, nên không thể tư duy, không thể ghi nhận.

Lại nữa tụng nói:

Không nghĩ ngã có không,

Vì thành 2 lỗi lầm.

Với người cũng 2 lỗi,

Không nên nghĩ một, khác.

Luận nói: Không nên tư duy cí ta là có hay không. Bởi vì sao? Vì thành 2 lỗi. Nếu nghĩ là có, tức nơi nghĩa phi thật hữu khởi lỗi chấp tăng ích. Nếu nghĩ là không, tức nơi nghĩa giả hữu khởi lỗi chấp tổn giảm. Đối voái hữu tình khác nếu chấp là một hay là khác cũng thành 2 lỗi. Nếu chấp là một thì lỗi hữu tình nhiều. Nếu chấp là khác thì lỗi chẳng phải 6 chỗ.

Lại nữa tụng nói:

Hai tuy không y kiến,

Thành nên không nên nghĩ.

Không nghĩ sinh như vậy,

Vì 3 lỗi đi theo.

Luận nói: Hữu tình thế giới, khí thế giới, 2 thứ này tuy không y vào kiến, cũng không nên tư duy. Bởi vì sao? Vì đời đều rõ biết là tướng hiện thành.

Hỏi: Vì sao không suy nghĩ việc này sinh như vậy hay chẳng phải không như vậy ư?

Đáp: Nếu suy nghĩ như vậy, hoặc nói tức như vậy, hoặc nói khác như vậy, hoặc nói không như vậy, 3 lỗi này sẽ đi theo.

Lại nữa tụng nói:

Thiện thú và ác thú,

Hai tác giả không định.

Quá khứ thiện ác nghiệp,

Xứ sự … khó nghĩ bàn.

Luận nói: Trong nghiệp báo không nên nghĩ bàn. Hành giả tu phúc nhất định đến cõi thiện. Người làm ác nhất định đến cõi ác. Vì không quyết định. Lại nữa tịnh và bất tịnh nghiệp đời quá khứ, nào nơi chốn, nào sự việc nào tác nhân nào quả báo v.v… không thể nghĩ bàn.

Lại nữa tụng nói:

Chân như tính vô lậu,

Thành sở tác nghĩa lợi.

Người tĩnh lự, Như Lai,

Không ví, vì tự tại.

Luận nói: Người tĩnh lự và Phật trong 2 thứ cảnh giới chân như và tính vô lậu đều không thể nghĩ bàn. Lại nữa nghĩa lợi thành sở tác của chư Phật, nghĩa là những việc làm lợi ích chúng sinh cũng không thể nghĩ bàn. Bởi vì sao? Vì không có thí dụ nào ví dụ được. Tất cả thế gian không có một chút nào có thể sánh ví với 2 thứ cảnh giới rất sâu. Lại nữa, vì tự tại nên chư Như Lai v.v… do nội chứng, được tâm tự tại nên khởi làm các việc trong thế gian đều có tất cả tác dụng. Nếu tách rời nhân duyên hòa hợp sẽ không thấy.

Lại nữa tụng nói:

Những điều ngoại đạo nói,

Dẫn đến không nghĩa lợi.

Phi lý xa 4 chỗ,

Vô ký không nên nghĩ.

Luận nói: Tất cả không nên ghi nhận không nên nghĩ bàn, vì tà thuyết do ngoại đạo nói, vì có thể dẫn đến những điều không có nghĩa lợi, vì không đúng chính lý, vì xa lìa 4 nơi chính tư duy. Đó là nơi nhân tư duy, nơi quả tư duy, nơi tạp nhiễm tư duy và nơi thanh tịnh tư duy. Lại nữa, như trước đã nói, nếu tư duy sẽ có 3 lỗi. Vì sao có?

Tụng nói:

Phi xứ siêng dụng công,

Hủy báng nơi đại nghĩa.

Không tu thanh tịnh thiện,

Nên thành ra 3 lỗi.

Luận nói: Do nơi phi xứ mà siêng năng dụng công nên khởi tâm loạn lỗi lầm. Do đối với người được tĩnh lự và Phật Thế Tôn mà hủy báng công đức tối thắng nên sinh tội lỗi không phúc. Do không phát khởi thiện pháp thanh tịnh nên có tội lỗi bất không được điều thiện.

Lại nữa tụng nói:

Xa lìa không nghĩ bàn,

Nghĩ chỗ có thể nghĩ,

Đủ 8 thứ công đức,

Nên tư duy đúng lý.

Luận nói: Do nơi không thể nghĩ bàn mà cưỡng nghĩ bàn thì có những lỗi như vậy, nên phải xa lìa. Ở nơi nào có thể nghĩ bàn thì như lý nghĩ bàn. Nếu tư duy như vậy thì đủ 8 công đức. Những gì là 8? Nghĩa là có thể khéo hiểu rõ ám thuyết đại thuyết, tư duy dựa vào nghĩa không dựa vào văn tự, dùng một ít tịnh tín tịnh giải, dùng một ít tuệ quán quán sát, kiên cố tư duy, tư duy thẩm xét đế lý, thường siêng năng tư duy, trong tư duy khéo đạt tới cứu cánh không giải đãi thoái lui.

Lại nữa tụng nói:

Những điều chư Phật nói,

Biết khắp cả không trái.

Vì 5 nhân 2 duyên,

Nơi đây không nên nghĩ.

Luận nói: Do 5 nhân nên ở nơi chỗ không thể nghĩ bàn, không nên ưa thích nghĩ bàn. Nghĩa là những điều chư Phật nói, và trong 4 đế, biết khắp đoạn, chứng, tu không trái nhau. Lại nữa lược do 2 nhân, là giáo và chứng. Giáo là những điều Phật nói. Chứng là biết khắp các khổ v.v…

Phẩm 11 – 1: NHIẾP THẮNG QUYẾT TRẠCH

Luận nói: Như vậy đã phương tiện tư duy xa lìa chỗ không thể nghĩ bàn. Trong 9 việc phải lấy 10 tướng phát khởi các thứ quyết trạch tối thắng. Những gì là 10?

Tụng nói:

Số, tướng, biệt, hữu, xứ,

Biên tế với sinh khởi,

Tưởng, thiện xảo, nhiếp v.v…

Thắng quyết trạch các việc.

Luận nói: 10 tướng là: 1. Số. 2. Tướng. 3. Sai biệt. 4. Hữu tính. 5. Xứ sở. 6. Biên tế. 7. Sinh khởi. 8. Tưởng. 9. Thiện xảo. 10. Nhiếp. Trong đây số, là số của sắc, có 15 thứ như vậy.

Tướng, là tướng giả lập, tướng chính nó, tướng chung. Trong đây, sự cũng gọi là tướng, vì là sở tướng. Danh cũng gọi là tướng. Tương ưng cũng gọi là tướng, vì đều là công cụ của năng tướng. Như cùng tương ưng với lửa làm cho biết có nóng. Như vậy chúng sinh, cũng gọi là tướng, vì là tướng ai đó. Thủ cũng gọi là tướng, vì là thể của năng tướng.

Sai biệt, là những sai khác có sắc không sắc, có thấy không thấy v.v…

Hữu tính, là giả hữu tính, thật hữu tính, thắng nghĩa hữu tính.

Xứ sở là như tứ đại lần lữa cùng với tạo sắc đồng trụ một chỗ. Lại nữa sắc tâm đồng một chỗ. Lại nữa thân y vào Dục giới, tâm y vào Sắc giới v.v…lần lữa an trụ.

Biên tế là như sắc, đến Sắc giới cùng với cực vi đó là biên tế. Lạc thụ cho đến đệ tam tĩnh lự, đó là biên tế. v.v…

Sinh khởi, là do nhân duyên như vậy, pháp sinh như vậy, như dẫn sức sinh v.v…

Tưởng, là câu mê hoặc v.v…

Thiện xảo, là uẩn thiện xảo v.v…

Nhiếp v.v…, là hoặc bao gồm, hoặc tương ưng, hoặc dựa vào, hoặc duyên, hoặc vấn luận. Như vậy vấn luận lại có nhiều thứ. Nghĩa là một hàng thuận câu trước, thuận câu sau, tứ cú, vô sự cú. Nếu có thể hiểu rõ như vậy, gọi là khéo vấn ký. Lại nữa, trong tất cả các việc phải khởi nhiều thứ quyết trạch tối thắng. Nay sẽ nói trước về tâm sự quyết trạch.

Tụng nói:

Tâm tính có 2 thứ,

Dị thục cùng với chuyển.

Trước thức A-lại-da,

Chủng tử 2 nên biết.

Luận nói: Lược nói tâm tính có 2 thứ: 1. Dị thục tâm. 2. Chuyển tâm. Dị thục tâm tức là A-lại-da thức, cũng gọi là Nhất thiết chủng thức. Phải biết đây lại có 2 thứ : 1.Chứng thành. 2. Kiến lập. Thế nào là chứng thành?

Tụng nói:

Chấp thụ, sơ, minh liễu,

Chủng tử, nghiệp, thân thụ.

Vô tâm định, mạng chung,

Không đều không hợp lý.

Luận nói: Do 8 thứ tướng chứng minh A-lại-da thức quyết định là có. Nghĩa là nếu không có A-lại-da thức thì sẽ không có y chỉ chấp thụ, chắc chắn sẽ không có tối sơ sinh khởi, sẽ không có sinh khởi minh liễu, sẽ không có chủng tử các pháp, sẽ không có 4 thứ nghiệp dụng, sẽ không có các thứ thân thụ, sẽ không có 2 vô tâm định, sẽ không có thức khi mạng chung.

Hỏi: Vì sao nếu không có thức A-lại-da thì không thể có y chỉ chấp thụ?

Đáp: Vì do 5 nhân. Những gì là 5? Nghĩa là thức A-lại-da lấy các hành nghiệp tạo đời trước làm nhân. Nhãn v.v… các chuyển thức lấy các duyên trong đời hiện tại khởi nhân. Như kinh nói căn và cảnh giới, sức tác ý nên sinh các chuyển thức, cho đến nói rộng đó là nhân ban đầu. Lại nữa 6 thức thân có thể có tính thiện hoặc bất thiện, đó là nhân thứ hai. Lại nữa 6 thức thân không thể là một loại dị thục vô ký, đó là nhân thứ ba. Lại nữa 6 thức thân đều y chuyển riêng biệt. Nếu dựa nơi kia, dựa nơi thức kia, tức chỗ dựa kia phải có chấp thụ, những cái không chấp thụ khác là không hợp lý. Dù cho rằng năng chấp cũng không hợp lý, vì thức xa lìa , đó gọi là nhân thứ tư. Lại nữa chỗ dựa phải có lỗi thành thường chấp thụ. Sở dĩ vì sao? Nhãn thức có khi chuyển có khi không chuyển. Các thức khác cũng vậy, đó là nhân thứ năm.

Như vậy nhân của nghiệp trước và nhân của duyên hiện tại sinh ra, nên có thể là thiện hoặc bất thiện, không thể có một loại được, vì chỗ dựa riêng biệt, vì có lỗi thường chấp thụ nên không hợp lý.

Hỏi: Vì sao không có tối sơ sinh khởi?

Đáp: Có chỗ khó nói. Nếu có thức A-lại-da thì phải có 2 thức đồng thời sinh khởi. Phải bảo cho kia biết rằng ở nơi không lỗi mà ông vọng sinh tưởng có lỗi, vì chấp nhận có 2 thức đồng thời chuyển. Sở dĩ vì sao? Nghĩa là giả như có đồng thời muốn thấy cho đến muốn nhận biết, tùy một thức riêng biệt sinh khởi trước là không hợp lý. Bởi vì sao?

Bấy giờ khi tác ý không có sai biệt, căn và cảnh giới không hoại hiện tiền thì vì nhân duyên gì mà thức không cùng chuyển? Hỏi vì cớ gì không thể sinh khởi minh liễu?

Đáp: Nếu có định chấp là thức không cùng sinh với nhãn v.v… thức đồng hành một cảnh thì không thể có ý thức minh liễu. Sở dĩ vì sao? Nếu khi duyên cảnh quá khứ, sinh khởi nghĩ nhớ, bấy giờ cái ý thức không rõ ràng hiện hành ra trước, không phải nơi hiện cảnh ý thức hiện hành mà có tướng không rõ ràng như vậy. Cho nên phải chấp nhận có các thức cùng chuyển. Hoặc phải chấp nhận cái ý thức thứ 6 có tính không minh liễu. Như thế là có lỗi.

Hỏi: Vì sao không thể có chủng tử?

Đáp: Vì 6 chuyển thức thân đều khác biệt. Sở dĩ vì sao? Sáu chuyển thức này từ thiện vô gián sinh tính bất thiện, bất thiện vô gián lại sinh tính thiện. Từ 2 vô gián sinh tính vô ký. Liệt giới vô gián sinh trung giới, trung giới vô gián sinh diệu giới. Như vậy diệu giới vô gián cho đến sinh liệt giới, hữu lậu vô gián sinh vô lậu, vô lậu vô gián sinh hữu lậu, thế gian vô gián sinh xuất thế, xuất thế vô gián sinh thế gian, chẳng phải tướng như vậy làm thể của chủng tử mới đúng đạo lý. Lại nữa các thức kia gián đoạn thời gian lâu, tương tục đã lâu lưu chuyển không dứt, cho nên chuyển thức có thể duy trì chủng tử là không hợp lý.

Hỏi: Vì sao không thể có các nghiệp?

Đáp: Nếu không có các thức đồng thời sinh khởi các nghiệp cùng chuyển thì không hợp lý. Sở dĩ vì sao? Nếu lược nói thì có 4 thứ nghiệp: 1. Khí liễu biệt nghiệp. 2. Y liễu biệt nghiệp. 3. Ngã liễu biệt nghiệp. 4. Cảnh liễu biệt nghiệp. Như vậy 4 thứ liễu biệt nghiệp dụng mỗi sát-na đều có thể hiện khởi, không phải ở nơi một thức trong một sát-na có những nghiệp dụng sai biệt như vậy. Cho nên phải có các thức cùng khởi.

Hỏi: Vì sao nếu không có thức A-lại-da thì không thể có thân thụ?

Đáp: Nghĩa là như có một, hoặc tư duy như lý, hoặc tư duy không như lý, có chỗ suy tìm hoặc tâm trong định hoặc không ở trong định, thân thụ sinh khởi rất nhiều chẳng phải một, nếu không có thức này thì không thể có được. Như vậy thân thụ đã có hiện khởi cho nên chắc chắn có thức A-lại-da.

Hỏi: Vì sao nếu không có thức A-lại-da, không thể có các vô tâm định?

Đáp: Như Bạc-già-phạm nói nhập vô tưởng định và diệt tận định, phải biết rằng lúc bấy giờ thức không rời thân. Nếu không có thức này, lúc ấy thức phải rời thân. Nếu thức lìa thân thì phải bỏ mạng chứ không phải ở trong định.

Hỏi: Vì sao nếu không có thức A-lại-da thì lúc mạng chung không thể có thức?

Đáp: Như có một người lúc lâm chung, hoặc từ phần trên của thân thức dần rời bỏ dần có cảm xúc lạnh phát ra, hoặc từ phần dưới của thân không phải ý thức kia có lúc không chuyển. Cho nên biết chỉ có thức A-lại-da có thể chấp trì thân. Thức này nếu rời bỏ thân phần kia thì có cảm xúc lạnh, thân không cảm giác nhưng ý thức thì không vậy. Cho nên nếu không có thức này là không đúng. Như vậy là đã nói đạo lý chứng minh có thức A-lại-da. Thế nào là kiến lập?

Tụng nói:

Sở duyên cảnh, tương ưng,

Tính hai nhân cùng nhau.

Với thức … cùng lưu chuyển,

Tạp nhiễm ô, hoàn diệt.

Luận nói: Lược nói thức này do 5 thứ tướng kiến lập: 1. Tướng sở duyên cảnh. 2. Tướng tương ưng. 3. Tướng làm nhân cho nhau. 4. Tướng cùng chuyển. 5. Tướng tạp nhiễm hoàn diệt. Phải biết 4 tướng trước kiến lập tướng lưu chuyển, tạp nhiếm, hoàn diệt. Một thứ kiến lập hoàn diệt.

Hỏi: Tướng sở duyên cảnh kiến lập như thế nào?

Đáp: Nếu lược nói thì thức này do liễu biệt 2 thứ cảnh sở duyên mà chuyển: 1. Do liễu biệt chấp thụ bên trong. 2. Do liễu biệt tướng khí vô phân biệt bên ngoài. Liễu biệt chấp thụ bên trong là liễu biệt biến kế sở chấp tự tính, vọng chấp tập khí và các sắc căn cùng chỗ sở y của căn. Nghĩa là ở cõi hữu sắc hoặc cõi vô sắc, chỉ có vọng chấp tập khí chấp thụ. Liễu biệt tướng khí vô phân biệt bên ngoài là liễu biệt y chỉ, duyên thức A-lại-da chấp thụ bên trong, nên tất cả mọi lúc tướng khí thế giới không gián đoạn. Ví như lúc ngọn đèn cháy, trong chấp dầu thắp, ngoài phát ánh sáng. Như vậy, cái lý thức A-lại-da bên trong duyên cảnh chấp thụ, bên ngoài duyên cảnh khí thế giới mà sinh khởi cũng như thế.

Lại nữa, thức này duyên cảnh vi tế, người thông tuệ ở đời khó hiểu rõ được. Lại nữa, thức này duyên cảnh không lúc nào bỏ, không thay đổi, từ sát-na ban đầu chấp thụ cho đến khi mạng chung chỉ hoàn toàn có một thứ liễu biệt mà lưu chuyển. Lại nữa thức này mỗi niệm mỗi niệm sinh diệt trong cảnh sở duyên. Phải biết lưu chuyển liên tục trong mỗi sát-na chẳng phải thường, chẳng phải một. Lại nữa thức này trong cõi Dục duyên cảnh chấp thụ nhỏ hẹp, trong cõi Sắc duyên cảnh chấp thụ rộng lớn, trong cõi Vô sắc, trong không vô biên xứ, thức vô biên xứ, duyên vô lượng cảnh chấp thụ, trong vô sở hữu xứ duyên cảnh chấp thụ vi tế, trong phi tưởng phi phi tưởng xứ duyên cảnh chấp thụ cực vi tế. Như vậy liễu biệt 2 thứ cảnh sở duyên, cảnh sở duyên vi tế liễu biệt, tương tự liễu biệt, sát-na liễu biệt, liễu biệt cảnh sở duyên chấp thụ nhỏ hẹp, liễu biệt cảnh sở duyên chấp thụ rộng lớn, liễu biệt cảnh sở duyên chấp thụ vô lượng, liễu biệt cảnh sở duyên chấp thụ vi tế, liễu biệt cảnh sở duyên chấp thụ cực vi tế, đó gọi là kiến lập tướng cảnh sở duyên của thức A-lại-da.

Hỏi: Tướng của tương ưng chuyển kiến lập như thế nào?

Đáp: Thức A-lại-da này luôn luôn tương ưng với 5 thứ tâm pháp của biến hành. Đó là tác ý, xúc, thụ, tưởng, tư. Như vậy 5 pháp cũng gồm trong dị thục, cực kỳ vi tế, người thông tuệ ở đời cũng khó rõ được. Như vậy tâm pháp cũng thường là một loại duyên cảnh mà chuyển. Lại nữa tương ưng thụ của thức này thuộc vô ký tính hoàn toàn không khổ không lạc. Phải biết hành tướng các tâm sở pháp khác cũng vậy. Như vậy, tương ưng với các tâm pháp biến hành, tương ưng với một loại dị thục, tương ưng với tối cực vi tế, luôn luôn tương ưng với một loại duyên cảnh mà khởi, tương ưng với không khổ không lạc, tương ưng với hoàn toàn vô ký, đó là kiến lập tướng tương ưng chuyển của thức A-lại-da.

Hỏi: Thức A-lại-da với chuyển thức làm nhân cho nhau, tướng ấy kiến lập như thế nào?

Đáp: Thức A-lại-da và chuyển thức là 2 thứ nhân: Một là chủng tử sinh nhân, hai là sở y chỉ nhân. Chủng tử sinh nhân, nghĩa là khi có các chuyển thức thiện, bất thiện, vô ký sinh khởi, tất cả đều nhân chủng tử của thức A-lại-da mà sinh. Sờ y chỉ nhân, nghĩa là do thức A-lại-da chấp sắc căn làm y chỉ, nên 5 thức thân chuyển, không phải không chấp thụ. Lại nữa, do có thức này nên mới có ý căn. Do ý căn làm y chỉ nên mới sinh ý thức. Ví như y chỉ vào nhãn v.v… 5 thứ sắc căn mà 5 thức thân chuyển, không thể không có 5 căn. Ý thức cũng vậy, không thể không có ý căn. Lại nữa, chuyển thức với thức A-lại-da là 2 thứ nhân. Một là vì ở trong hiện pháp nó nuôi lớn chủng tử của nó. Hai là ở trong các pháp sau này nó có thể thâu giữ, nuôi dưỡng chủng tử của nó. Nói ở trong hiện pháp, nuôi lớn chủng tử của nó, nghĩa là tùy y chỉ vào thức A-lại-da mà khi các chuyển thức thiện bất thiện vô ký sinh khởi, nơi một y chỉ đồng sinh đồng diệt, như vậy huân tập vào thức này. Do đó là nhân duyên mà sau các chuyển thức thiện bất thiện vô ký chuyển, rồi lại chuyển tăng thượng, chuyển một cách hừng hực, rồi minh liễu mà được sinh khởi. Nói ở trong các pháp về sau có thể thâu giữ, nuôi dưỡng chủng tử của nó, nghĩa là nó huân tập chủng loại có thể dẫn đến vị lai, tức là thức A-lại-da dị thục này. Như vậy làm nhân chủng tử, nhân y chỉ, nuôi lớn chủng tử, thâu giữ nuôi dưỡng chủng tử, đó gọi là kiến lập tướng làm nhân cho nhau của thức A-lại-da và các chuyển thức.

Hỏi: Các thức cùng chuyển, tướng ấy kiến lập như thế nào?

Đáp: Thức A-lại-da hoặc có khi trong một lúc chỉ cùng khởi với một chuyển thức là ý căn. Sở dĩ vì sao? Bởi ý căn này là hành tướng cao nhất, thường cùng tương ưng với ngã kiến, ngã mạn v.v… Hoặc có tâm vị hoặc không tâm vị, thường cùng thức này sinh khởi. Lại nữa, ý căn này hằng duyên thức A-lại-da làm cảnh giới của nó bằng hành tướng cao cử ngã chấp và mạn mà khởi. Lại nữa, thức này trong một lúc cùng khởi với 2 chuyển thức là ý và ý thức, trong một lúc cùng khởi với 3 chuyển thức là 5 thức thân tùy một thức khi khởi thì 2 cái trước và một cái này, trong một lúc hoặc cùng khởi với 4 chuyển thức nghĩa là 5 thức thân tùy 2 thức khi khởi thì 2 cái trước và 2 cái này. Như vậy trong một lúc hoặc cho đến cùng khởi với 7 chuyển thức. Nghĩa là 5 thức thân khi hòa hợp khởi thì 2 trước và 5 này. Lại nữa trước nói ý thức dựa vào y ô nhiễm mà sinh, khi ý chưa diệt thì bị tướng liễu biệt trói buộc không được giải thoát. Nếu ý diệt rồi thì giải thoát tướng trói buộc. Lại nữa ý thức này có thể duyên tha cảnh và duyên tự cảnh. Duyên tha cảnh nghĩa là hoặc duyên chung hoặc duyên riêng cảnh của 5 thức thân. Duyên tự cảnh nghĩa là duyên cảnh pháp.

Lại nữa, thức A-lại-da hoặc trong một lúc cùng chuyển với khổ thụ, lạc thụ, bất khổ bất lạc thụ. Sự cảm thụ này tương ưng cùng chuyển thức, dựa vào chuyển thức khởi, từ chủng tử thức này sinh.

Lại nữa trong cõi người, hoặc trong cõi trời có dục ràng buộc, và trong một phần cõi quỷ súc, câu sinh bất khổ bất lạc thụ tương ưng với chuyển thức thân khổ lạc bất khổ bất lạc kia, thụ xen tạp liên tục nhất thời cùng chuyển.

Lại nữa ở trong cõi địa ngục, bị cái khác che mất, bất khổ bất lạc thụ tương ưng với chuyển thức kia cái thụ thuần không không xen tạp liên tục cùng chuyển. Phải biết cái thụ này vì bị che mất nên khó biết cái tướng của nó, như ở địa ngục hoàn toàn cùng chuyển với khổ thụ. Như vậy ở bậc dưới 3 tĩnh lự hoàn toàn cùng chuyển với lạc thụ. Ở bậc tĩnh lự thứ tư cho đến trong bậc hữu đỉnh hoàn toàn cùng chuyển với bất khổ bất lạc thụ.

Lại nữa, thức A-lại-da trong một lúc hoặc tương ưng với các tâm pháp thiện bất thiện vô ký của chuyển thức cùng chuyển. Như vậy thức A-lại-da cùng các chuyển thức một lúc cùng chuyển, cũng cùng chuyển với khách thụ và khách thiện bất thiện vô ký tâm pháp, nhưng không nên nói là tương ưng với nó. Bởi vì sao? Bởi không chuyển đồng một duyên với nó. Cũng giống như nhãn thức với mắt, tuy cùng chuyển nhưng không tương ưng. Đây cũng vậy. Bởi vì pháp ấy có một chút tương tự nên được ví dụ. Phải biết đạo lý của ví dụ là như vậy.

Lại như các tâm pháp, thể và nghĩa của tâm pháp tuy không sai biệt nhưng khác nhau nên một thân cùng chuyển không trái nhau. Như vậy thức này cùng các chuyển thức cùng chuyển cũng không trái nhau. Lại như dòng nước xiết có nhiều sóng cùng khởi mà không trái nhau. Lại như một tấm kính trong sạch nhiều ảnh tượng đồng thời hiện khởi mà không trái nhau. Như vậy y chỉ thức A-lại-da có nhiều chuyển thức cùng khởi cũng không trái chống nhau. Lại như một nhãn thức, trong một lúc, trong một sự cảnh, chỉ nhận lấy một loại không sắc tướng khác, hoặc trong một lúc chợt nhận lấy không phải một mà nhiều thứ sắc tướng. Như nhãn thức đối với sắc, như vậy cho đến thân thức đối với xúc, trong một lúc, một sự cảnh, hóặc nhận lấy một tướng, hoặc chợt nhận lấy nhiều thứ cảnh tướng, cũng như vậy ý thức phân biệt, trong một lúc, hoặc nhận lấy một cảnh hoặc chợt nhận lấy nhiều cảnh giới, phải biết cũng không trái chống nhau.

Lại nữa, như trước đã nói ý căn thường cùng thức này cùng chuyển, trong một lúc, cho đến chưa đoạn dứt, nó hằng cùng sinh một cách tự nhiên 4 thứ phiền não tương ưng. Đố là Tát-ca-da kiến, ngã mạn, ngã ái, vô minh. Bốn phiền não này hoặc định địa hoặc bất định địa nó hằng hiện hành mà không trái chống với thiện v.v…, tính nó là hữu phú vô ký.

Như vậy cái tướng cùng chuyển với chuyển thức, cùng chuyển với các thụ, cùng chuyển với thiện v.v…, đó gọi là kiến lập cái tướng cùng chuyển của thức A-lại-da.

Hỏi: Tướng tạp nhiễm hoàn diệt của thức A-lại-da kiến lập như thế nào?

Đáp: Nếu lược nói thức A-lại-da thì nó là căn bản của tất cả pháp tạp nhiễm. Sở dĩ vì sao? Thức A-lại-da này cũng là căn bản sinh khởi hữu tình thế gian, vì có thể sinh các căn, nơi sở y của các căn và các chuyển thức v.v…, cũng là căn bản sinh khởi khí thế gian, vì có thể sinh khí thế gian. Lại nữa thức này cũng là căn bản cho tất cả hữu tình sinh khởi lẫn nhau, vì nó làm duyên tăng thượng lẫn nhau cho tất cả hữu tình. Sở dĩ vì sao? Không có một chúng sinh nào đối với các chúng sinh khác khi thấy nghe v.v.. . mà không thụ dụng các cảm thụ khổ lạc của chúng khởi. Do nghĩa này mà biết chúng sinh giới làm duyên tăng thượng lẫn nhau.

Lại nữa thức A-lại-da có đủ tất cả chủng tử, nên là thể của khổ đế trong đời hiện tại, là sinh nhân của khổ đế trong đời vị lai, cũng là sinh nhân của tập đế trong đời hiện tại. Như vậy vì là căn bản sinh hữu tình thế gian, là căn bản sinh khí thế gian, là thể của khổ đế đời hiện tại, là có thể sinh khổ đế vị lai, là có thể sinh tập đế hiện tại, cho nên biết rằng thức A-lại-da là căn bản tất cả tạp nhiễm.

Lại nữa thức A-lại-da có nhiếp trì chủng tử thiện căn của thuận giải thoát phần và thuận quyết trạch phần v.v… Đây chẳng phải nhân tập đế, mà do thiện căn của thuận giải thoát phần v.v…trái nghịch với lưu chuyển, bao nhiêu thiện căn các thế gian nhân đây sinh cho nên chuyển thành thanh tịnh sáng suốt. Sở dĩ vì sao? Vì do duyên này những chủng tử tự loại được nhiếp thụ chuyển thành có công năng, chuyển thành có thế lực, tăng trưởng chủng tử mà được thành lập. Do chủng tử này, các thiện pháp kia chuyển sinh thanh tịnh sáng suốt, lại còn có khả năng cảm quả dị thục khả ái tăng thượng đời sau.

Lại nữa y vào thức A-lại-da nhất thiết chủng tử này, Bạc-giàphạm nói: “Nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới, cho đến ý giới, pháp giới, ý thức giới là vì do trong thức A-lại-da có nhiều thứ giới.” Lại như trong kinh nói thí dụ quả cây ác-xoa tụ lại, do ở trong thức A-lạida chẳng phải chỉ có một giới. Cho nên biết rằng thức A-lại-da căn bản của tạp nhiễm này, do tu tập thiện pháp liền được chuyển diệt.

Lại nữa, tu tập thiện pháp này, nếu các phàm phu duyên chuyển thức làm cảnh tác ý, nên phương tiện trụ tâm làm dục, nhập sơ đế hiện quán cho nên chẳng phải người chưa kiến đế, ở trong các đế chưa được pháp nhãn mà có thể thông đạt thức A-lại-da nhất thiết chủng tử. Người chưa kiến đế này tu hạnh như vậy rồi hoặc nhập Thanh Văn chính tính ly sinh, hoặc nhập Bồ-tát chính tính ly sinh, thông đạt tất cả pháp giới rồi cũng có thể thông đạt thức A-lại-da. Lúc bấy giờ quán chung tất cả tạp nhiễm riêng biệt bên trong, lại hiểu rõ tự thân, ngoài thì bị trói buộc bởi các trói buộc về tướng, trong thì bị trói buộc bởi các trói buộc thô trọng.

Lại người tu quán hành này, do thức A-lại-da là gồm các hành giới tất cả hý luận cho nên sơ lược các hành trong thức A-lại-da tổng quát là một khối, một đống, một nhóm. Đã tụ họp làm một rồi, do duyên chân như cảnh trí, tu tập nhiều tu tập nên sở y chỉ chuyển, chuyển y không gián đoạn. Phải biết đã đoạn thức A-lại-da, do đây đoạn nên đã đoạn tất cả tạp nhiễm.

Lại nữa chuyển y này do bởi mâu thuẫn nên có thể đối trị thức A-lại-da. Lại nữa, thể của thức A-lại-da là vô thường, có tính thủ, thụ. Còn chuyển y là thường, không có tính thủ, thụ. Bởi duyên cảnh chân như nên có thể chuyển thánh đạo. Lại nữa, thức A-lại-da thô trọng, tùy theo chuyển y, cứu cánh xa lìa tất cả thô trọng. Lại nữa, thức A-lại-da là sinh nhân của phiền não, thánh đạo là bất sinh nhân. Chuyển y là bất sinh nhân của phiền não, thánh đạo là sinh nhân. Đó là kiến lập thể của nhân , chẳng phải thể của sinh nhân.

Lại nữa, thức A-lại-da khiến cho không được tự tại trong pháp thiện, tịnh, vô ký. Chuyển y thì khiến được đạt tự tại trong tất cả pháp thiện, tịnh, vô ký.

Lại nữa, tướng đoạn diệt của thức A-lại-da này nghĩa là chính thức A-lại-da này đoạn diệt nên liền bỏ 2 thứ thủ, tuy thân trụ mà giống như biến hóa. Sở dĩ vì sao? Vì đoạn nhân khổ của vị lai hậu hữu, nên liền bỏ cái thủ của vị lai hậu hữu, ở trong hiện pháp đoạn nhân của tất cả phiền não, nên liền bỏ cái thủ của hiện pháp tất cả tạp nhiễm sở y, lìa xa tất cả thô trọng, nên chỉ có mạng duyên tạm trụ. Do có như vậy nên trong kinh Phật nói bấy giờ chỉ thụ thân biên tế thụ, mạng biên tế thụ, nói rộng cho đến tất cả chỗ thụ trong hiện pháp rốt ráo diệt hết.

Như vậy kiến lập căn bản của tạp nhiễm, thông đạt tu tập tác ý, kiến lập chuyển y, đó gọi là kiến lập tướng tạp nhiễm hoàn diệt của thức A-lại-da.

Như vậy do đạo lý thắng nghĩa kiến lập tâm ý thức rồi. Tùy chỗ nói đạo lý cho nên trong 3 cõi, tất cả tâm ý thức, tất cả đạo lý tạp nhiễm và đạo lý thanh tịnh tùy theo đó hiển rõ. Nếu ở những nơi khác hiển thị đạo lý tâm ý thức, đó là do chỗ hóa độ hữu tình sai biệt. Cho nên căn cứ vào cái tuệ hữu tình được hóa độ mà nói phương tiện khiến chúng dễ nhập vào đạo pháp.

Hỏi: Nếu thành tựu thức A-lại-da, cũng thành tựu chuyển thức chăng, thành tựu chuyển thức cũng thành tựu thức A-lại-da chăng?

Đáp: Câu hỏi này nên trà lời làm 4 câu: Nghĩa là hoặc thành tựu thức A-lại-da, chẳng phải chuyển thức. Tức là người ngủ say, người ngất xỉu, người nhập định vô tưởng, người nhập định diệt tận, người sinh trời vô tưởng. Hoặc có thành tựu chuyển thức, chẳng phải thức A-lại-da. Tức như trụ hữu tâm vị A-la-hán, Độc Giác, Bồ-tát không thoái chuyển và Như Lai. Hoặc có trường hợp thành tựu cả hai. Tức là những người trụ hữu tâm vị khác. Hoặc có trường hợp đều không thành tựu. Tức như A-la-hán, Độc Giác, Bồ-tát không thoái chuyển và Như Lai nhập diệt tận định nếu ở trong vô dư y Niết-bàn giới.

QUYỂN 17 HẾT