LUẬN HIỂN DƯƠNG THÁNH GIÁO
Vô Trước Bồ-tát tạo luận
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 16

Phẩm 6: THÀNH KHÔNG (tiếp)

Luận nói: Như vậy lý không là dựa vào tu nên chứng. Thế nào là tu?

Tụng nói:

Tu sai biệt 18,

Hoặc hữu độc vô độc,

Đối trị 5 thứ chấp,

Sơ lược có 2 thứ.

Luận nói: Tu tướng sai biệt có 18 thứ: 1. Thanh Văn tương ưng tác ý tu. Nghĩa là có một là Thanh Văn trụ Thanh Văn trụ Thanh Văn pháp tính, hoặc chưa nhập chính tính vô sinh, hoặc đã nhập chính tính vô sinh, chỉ quán tự lợi không quán lợi tha, dựa vào an lập đế tác ý môn nhập lý chân như, tự nội duyên hữu phân lượng pháp, khởi yểm ly vô dục giải thoát hạnh, để hết tự ái tác ý tu tập, gọi là Thanh Văn tương ưng tác ý tu.

1. Bồ-tát tác ý tu. Nghĩa là như một là Bồ-tát trụ Bồ-tát pháp tính, hoặc chưa nhập chính tính vô sinh, hoặc đã nhập chính tính vô sinh, quán tự tha đều lợi, dựa vào an lập phi an lập đế tác ý môn nhập lý chân như, tự nội duyên vô phân lượng pháp đại bi tăng thượng nên khởi lợi tha, nhiếp thụ phương tiện hạnh đi vào vô thượng tích vì muốn hết tự tha ái tác ý tu tập, gọi là Bồ-tát tác ý tu.

2. Ảnh tượng tác ý tu. Nghĩa là hoặc tư duy có phân biệt ảnh tượng của Tì-bát-xá-na phẩm, Tam-ma-địa sở hành bản cảnh giới pháp đồng phần, hoặc lại tư duy ảnh tượng không phân biệt của Xama-tha phẩm, Tam-ma-địa sở hành bản cảnh giới pháp đồng phần. Tu tập như vậy gọi là ảnh tượng tác ý tu.

3. Sự cứu cánh tác ý tu. Nghĩa là tư duy các pháp hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong hoặc ngoài, hoặc thô hoặc tế, hoặc xa hoặc gần. Hoặc lại tư duy các pháp chân như hết các sở hữu, như các sở hữu. Tu tập như vậy gọi là sự cứu cánh tác ý tu.

4. Sự thành tựu tu. Nghĩa là đã chứng đắc căn bản tĩnh lự và thế xuất thế Tam-ma-bát-để. Tu tập như vậy gọi là sự thành tựu tu.

5. Đắc tu. Nghĩa là như có một dựa vào sơ tĩnh lự, hoặc tu tập vô thường tưởng, hoặc cho đến tu tập tử tưởng, người này không hiện ra trước các thiện tưởng, hoặc thuộc tự địa, hoặc thuộc hạ địa, hoặc dẫn đến các công đức thế gian xuất thế gian, tất cả đều tu tập khiến chuyển tăng thanh tịnh mạnh mẽ bén nhạy sẽ được sinh khởi, chứng được pháp kia, tự tại thành tựu gọi là đắc tu.

6. Tập tu. Nghĩa là như có một hiện tiền tư duy các pháp kia, khởi vô thường v.v… có các thiện tưởng, và hiện tu tập các thiên pháp khác. Tu tập như vậy gọi là tập tu.

7. Khiển trừ tu. Nghĩa là như có một tư duy Tam-ma-địa hiện hành tướng ảnh tượng, nên khiển trừ tính tướng căn bản các pháp khiến không hiện trở lại, dựa vào nguyên lý dùng cây nêm tháo cây nêm. Như có người dùng cây nêm nhỏ mà tháo lấy cây nêm lớn. Hoặc dùng thân an khiển trừ thân thô nặng như trước đã nói, gọi là khiển trừ tu.

8. Đối trị tu. Nghĩa là tư duy tu tập yếm hoại đối trị, đoạn đối trị, trì đối trị, viễn phần đối trị, gọi là đối trị tu. Trong đó do văn, tư sinh đạo là yếm hoại đối trị. Xuất thế gian đạo là đoạn đối trị. Quả kia chuyển y là trì đối trị. Thế gian tu tuệ đạo là viến phần đối trị.

9. Thân tu. 11. Giới tu. 12. Tâm tu. 13. Tuệ tu. Theo tuần tự dựa vào căn, phòng hộ tu tập 3 học. Như vậy gọi là thân v.v… tu tính.

10. Thiểu phần tu. Nghĩa là tư duy các pháp khởi vô thường v.v… mỗi một thiện tưởng và tu các thiểu phân thiện pháp khác, gọi là thiểu phần tu.

11. Biến hành tu. Nghĩa là tư duy tất cả pháp là một vị chân như. Tu tập như vậy gọi là biến hành tu.

12. Hữu động tu. Nghĩa là khi siêng năng phương tiện tu vô tướng, khoảng giữa khởi tu các hữu tướng. Đó gọi là hữu động tu.

13. Công hạnh tu. Nghĩa là khi siêng năng phương tiện tu vô tướng, do công dụng hạnh không gián đoạn thiếu sót, khởi tu vô tướng, gọi là công hạnh tu.

14. Thành mãn tu. Nghĩa là hoặc dựa vào Thanh Văn thừa, hoặc dựa vào Độc Giác thừa, hoặc dựa vào Đại thừa, tất cả chỗ dựa đều đã chuyển được tất cả pháp tự tại. Tu tập hư vậy gọi là thành mãn tu.

Như vậy các pháp tu lược có 2 thứ là tu có độc và tu không độc, vì chấp ngã ngã sở, xen tạp và không xen tạp.

Lại nữa phải biết các pháp tu này đối trị 5 thứ tà chấp: 1. Chúng sinh tà chấp. 2. Pháp tà chấp. 3. Tổn giảm tà chấp. 4. Sai biệt tà chấp. 5. Biến dị tà chấp.

Chúng sinh tà chấp nghĩa là đối với các uẩn chấp có hữu tình, tác giả, thụ giả. Pháp tà chấp nghĩa là như ngôn thuyết, chấp có sắc v.v…, tự thể sai biệt. Tổn giảm tà chấp nghĩa là chấp các pháp tướng không. Sai biệt tà chấp nghĩa là chấp các pháp ngã, vô ngã v.v… có thể tính khác biệt. Biến dị tà chấp nghĩa là chấp các pháp trước thật có ngã sau thành vô ngã.

Lại nữa các pháp tu này lược có 2 thứ là thế gian tu và xuất thế gian tu.

Lại nữa, tụng nói:

Tu quả cần phải biết,

Công đức Tam-bồ-đề.

Tính y chỉ chuyển y,

Sở tác sự thành tựu.

Luận nói: Do tu không, nên chứng đắc diệu quả. Nghĩa là y chỉ chuyển y chứng Tam-bồ-đề và được vô tránh nguyện trí, vô ngại giải v.v… vô lượng công đức và các việc làm đều viên mãn thành tựu. Nghĩa là chuyển y cứu cánh thành tựu viên mãn.

Phẩm 7: THÀNH VÔ TÍNH

Luận nói: Lại nữa, trong Phẩm thành không, đã thành lập chúng sinh vô ngã, chứ chẳng phải pháp vô ngã. Nay để thành lập pháp vô ngã nên nói thành vô tính.

Tụng nói:

Phải biết 3 tự tính,

Đầu: Biến kế sở chấp,

Tiếp: Y tha khởi tính,

Sau cùng: Viên thành thật.

Luận nói: Phải biết vô tính không lìa tự tính, cho nên trước nói nghĩa của 3 tự tính. Như vậy là mật ý làm hiển thị 3 thứ vô tính. Nói 3 tự tính là biến kế sở chấp tự tính, y tha khởi tự tính, viên thành thật tự tính. Biến kế sở chấp nghĩa là các pháp do ngôn thuyết mà chấp tự thể. Y tha khởi nghĩa là các pháp do nhân duyên mà sinh tự thể. Viên thành thật nghĩa là tự thể các pháp là chân như.

Tụng nói:

Phải biết 3 vô tính,

Không lìa 3 tự tính.

Do tướng vô, sinh vô,

Và thắng nghĩa vô tính.

Luận nói: Như vậy 3 thứ tự tính là do 3 không tự tính, nên nói 3 vô tính: 1. Tướng vô tính, tức là biến kế sở chấp tự tính, vì thể tướng của tự tính này là không. 2. Sinh vô tính, tức y tha khởi tự tính, vì tự tính này duyên sức mà sinh không phải tự nhiên sinh. Thắng nghĩa vô tính, tức viên thành thật tự tính, vì thể cuả tự tính này có nghĩa thù thắng. Lại nữa các pháp là vô tính, nên đã nói 3 thứ tự tính và tướng của 3 vô tính.

Nay sẽ hiển thị sự thành lập đạo lý. Làm sao biết biến kế sở chấp đều là tướng không tự thể?

Tụng nói:

Không gồm trong 5 việc,

Ngoài ra lại cũng không.

Vì tên chuyển theo nghĩa,

Cả hai khách của nhau.

Luận nói: Tự tướng của biến kế sở chấp là không. Bởi vì sao? Vì không gồm trong 5 việc. Trừ 5 việc, ngoài ra cũng không có. Những gì là 5? Một là tướng, hai là tên, ba là phân biệt, bốn là chân như, năm là chính trí.

Hỏi: Nếu tướng của biến kế sở chấp là không có tự thể thì làm sao có thể khởi biến kế chấp?

Đáp: Vì do tên chuyển theo nghĩa. Nghĩa là tùy theo giả danh kia mà lưu chuyển trong nghĩa. Người ngu ở thế gian chấp có danh nghĩa, quyết định tướng, gọi là tự tính chân thật.

Hỏi: Làm sao biết đó là tà chấp?

Đáp: Vì cả hai là khách của nhau. Sở dĩ vì sao? Bởi danh đối với nghĩa không gọi là thể, nên nói là khách. Nghĩa cũng như danh, vì vô sở hữu, nên nói nó là khách. Làm sao biết?

Tụng nói:

Nơi tên trước không biết,

Nhiều tên, không nhất định.

Với có nghĩa, vô nghĩa,

Chuyển thành nghĩa phi lý.

Luận nói: Nếu tự thể của nghĩa là có như tên gọi thì trước khi có tên thì cái biết đối với nghĩa phải đã có trước. Lại nữa vì tên gọi có nhiều, nên một nghĩa phải có nhiều thứ tự thể. Lại nữa tên gọi không nhất định, nên tự thể của nghĩa cũng phải bất định. Bởi vì sao? Vì ngay nơi một tên này cũng lập ra các nghĩa khác. Lại nữa, cái tên này là từ nơi có nghĩa chuyển hay từ vô nghĩa chuyển? Nếu từ có nghĩa chuyển thì không đúng lý., tức như trước đã nói vì 3 nhân duyên. Nếu từ vô nghĩa chuyển, tức như trước đã nói cả hai làm khách cho nhau mà thành tựu đạo lý. Lại nữa, nếu chấp nghĩa, là thật có, do tên làm rõ như đén chiếu sắc, là không đúng lý. Bởi vì sao?

Tụng nói:

Vì thủ đã lập tên,

Ngoài ra không năng thủ.

Như chúng sinh tà chấp,

Tăng ích làm điên đảo.

Luận nói: Trước thủ nghĩa rồi, sau mới lập tên, chẳng phải chưa thủ nghĩa mà có thể lập danh tự. Đã thủ đắc nghĩa lại còn phải làm hiển rõ là không hợp lý. Lại nữa, tức do nơi tên này, ngoài ra chưa rõ thì không thủđắc nghĩa. Đèn chiếu rõ vật tức không phải như vậy. Chẳng phải do đèn này những cái khác không thể chiếu rõ vật. Lại nữa, không nên chấp nghĩa khác tên khác. Do chỉ dựa nơi tên mà khởi chấp nghĩa. Ví như chỉ có các hành từ vô thủy lưu chuyển tự tính phàm phu, do sức tập nhiều, nên tự tha tương tục, khởi chúng sinh tà chấp. Như vậy trong đêm dài quán tập ngôn thuyết, huân tu nơi tâm nên do phương tiện này khởi vọng biến kế chấp có các pháp. Pháp tà chấp này giống như chúng sinh vọng tăng ích, nên phải biết là điên đảo. Điên đảo như vậy làm sao cùng các pháp tạp nhiễm lần lượt sinh khởi?

Tụng nói:

Do huân khởi y tha,

Dựa đây sinh điên đảo.

Như vậy duyên lẫn nhau,

Lần lượt sinh liên tục.

Luận nói: Do sức huân tập của điên đảo này, sau dựa vào quả khác tự tính được sinh. Lại nữa dựa vào quả này sau lại sinh pháp chấp điên đảo. Như vậy 2 pháp làm duyên cho nhau, sinh tử lần lượt nối nhau không dứt.

Đã nói xong đạo lý thành lập. Nay sẽ hiển thị tự tính và sai biệt của biến kế sở chấp.

Tụng nói:

Tự tính và sai biệt,

Có giác ngộ, tùy miên.

Gia hành là biến kế,

Lại phải biết 5 thứ.

Luận nói: Do có 6 thứ biến kế sai biệt nên tự tính của biến kế sở chấp cũng có 6 thứ. Những gì là 6 thứ biến kế? 1. Tự tính biến kế, nghĩa là chấp khắp cả sắc v.v… là thật có tự tướng. 2. Sai biệt biến kế, là chấp khắp tất cả sắc v.v…là chắc chắn thật có các tướng sai biệt có sắc không sắc, có thấy không thấy v.v… 3. Giác ngộ biến kế, là có chấp khắp tất cả danh ngôn thiện. 4. Tùy miên biến kế, là có chấp khắp tất cả danh ngôn bất thiện. 5. Gia hành biến kế. Đây lại có 5 thứ: 1. Tham ái gia hành. 2. Sân nhuế gia hành. 3. Hợp hội gia hành. 4. Biệt ly gia hành. 5. Tùy xả gia hành. 6. Danh biến kế. Đây lại có 2 thứ: 1. Văn tự khởi. 2.Phi văn tự khởi. Phi văn tự khởi là như có kế chấp đây là vật gì? Vật này là thế nào? Vật này là cái gì? Vật này là sao? Văn tự khởi là như có kế chấp đây là vật này, vật này như vậy, hoặc sắc hoặc cho đến thức, hoặc hữu vi hoặc vô vi, hoặc thường hoặc vô thường, hoặc thiện hoặc bất thiện, hoăch vô ký v.v…

Lại nữa, phải biết biến kế sở chấp tự tính lại do 5 thứ biến kế.

Những gì lả 5? 1. Y danh biến kế nghĩa tự tính. 2. Y nghĩa biến kế danh tự tính. 3. Y danh biến kế danh tự tính. 4. Y nghĩa biến kế nghĩa tự tính. 5. Y 2 biến kế 2 tự tính.

Y danh biến kế nghĩa tự tính, là như có kế chấp vật này đã gọi là sắc, ắt phải chắc có sắc thể chân thật, vật này đã gọi là thụ, tưởng, hành, thức, ắt phải chắc chắn có thụ, tưởng, hành, thức thể tính chân thật.

Y nghĩa biến kế danh tự tính, là như có kế chấp vật này tên là sắc, không tên sắc, vật này tên là thụ, tưởng, hành, thức, là không phải tên là thụ, tưởng, hành, thức.

Y danh biến kế danh tự tính, là như có kế chấp không rõ cái thể của vật chỉ biết nhân biệt các tên của sắc, không rõ cái thể của vật chỉ biết phân biệt tên các thứ thụ, tưởng, hành, thức.

Y nghĩa biến kế nghĩa tự tính, là như có kế chấp không rõ tên của sắc, chỉ phân biệt các thứ thể của sắc, không rõ tên của thụ, tưởng, hành, thức chỉ ở nơi thụ, tưởng, hành, thức phân biệt các thứ thể tính.

Y 2 biến kế 2 tự tính, là như có kế chấp vật này là thể tính của sắc gọi đó là sắc, vật này là thể tính của thụ, tưởng, hành, thức gọi là thụ, tưởng, hành, thức.

Đã nói tự tính sai biệt của biến kế sở chấp. Biến kế sở chấp này là do vọng phân biệt sinh ra. Nay sẽ nói về phân biệt sai biệt.

Tụng nói:

Phân biệt có 8 thứ,

Có thể sinh 3 việc.

Còn thể của phân biệt,

Hai cõi tâm tâm pháp.

Luận nói: Tám thứ phân biệt có thể sinh 3 việc. Những gì là 3?

1. Việc phân biệt hý luận dựa vào duyên. 2. Việc kiến chấp ngã mạn. 3. Việc tham ái v.v…

Tám thứ phân biệt là: 1. Tự tính phân biệt. Nghĩa là đối với sắc v.v… tưởng sự phân biệt sắc v.v… có tự tính. 2. Sai biệt phân biệt. Nghiĩa là ở nơi sắc v.v… tưởng sự khởi các phân biệt cái này có sắc, cái này không có sắc, cái này có thấy, cái này không thấy, cái này có đối cái này không có đối, vô lượng sai biệt như vậy lấy tự tính phân biệt làm sở y nên phân biệt ra các nghĩa sai biệt. 3. Tổng chấp phân biệt. Nghĩa là ở nơi sắc v.v… tưởng sự lập ra ngã và hữu tình mạng, sinh v.v… giả tưởng lập các phân biệt, do nơi tích tụ nhiều pháp chấp chung làm nhân phân biệt chuyển. Lại nữa tưởng sự đối với nhà cửa, quân lính rừng cây v.v…và đối với ẩm thực, y phục, xe cộ v.v… lập ra giả tưởng có nhà cửa, từ thiết lập dẫn đến tìm kiếm suy tư. 4. Ngã phân biệt. Nghĩa là nếu sự hữu lậu có thủ, tập nhiều lần qua thời gian lâu ngã chấp tích tụ lại, do nhiều lần tập tà chấp, từ kiến xứ sự bị duyên khởi lên hư vọng phân biệt. 5. Ngã sở phân biệt. Nghĩa là nếu sự hữu lậu có thủ, tập nhiều lần qua thời gian lâu cái chấp ngã sở tụ tập, do nhiều lần tập tà chấp từ kiến xứ sự bị duyên khởi lên hư vọng phân biệt. 6. Ái phân biệt. Nghĩa là phân biệt duyên các sự cảnh tịnh diệu thích ý. 7. Bất ái phân biệt. Nghĩa là phân biệt duyên các sự cảnh không tịnh diệu không thích ý. 8. Ái bất ái câu tương vi phân biệt. Nghĩa là cái phân biệt đều lìa duyên sự cảnh tịnh bất tịnh, thích ý không thích ý.

Như vậy lược nói 2 có thứ, là phân biệt tự thể và phân biệt sở y sở duyên sự. Trong đây tựi tính phân biệt, sai biệt phân biệt, tổng chấp phân biệt, 3 phân biệt này có thể sinh phân biệt hý luận sở y sự, phân biệt hý luận sở duyên sự. Nghĩa là sắc v.v… tưởng sự làm y, duyên, nên gồm trong danh tưởng ngôn thuyết, danh tưởng ngôn thuyết hiển thị sự vô nghĩa của phân biệt. Ngay trong cái sự này phân biệt kế chấp có vô lượng vô số rất nhiều sai biệt. Trong đây ngã phân biệt, ngã sở phân biệt, 2 phân biệt này có thể sinh các kiến chấp căn bản và mạn căn bản thân kiến và có thể sinh các mạn căn bản ngã mạn. Trong đây ái phân biệt, bất ái phân biệt, câu tương vi phân biệt, nếu như thích hợp thì sinh tham sân si. Cho nên 8 thứ phân biệt này là khởi từ 3 thứ sự này. Nếu muốn nói sơ lược thể tính của phân biệt, là nói các tâm tâm pháp của 3 cõi.

Lại nữa tụng nói:

Do 2 phược trói buộc,

Chấp chặt 2 tự tính.

Nên giải thoát 2 phược,

Là vô đắc vô kiến.

Luận nói: Khi khởi các phân biệt như nói ở trước tức bị 2 phược trói buộc. Đó là tướng phược và thô trọng phược. Do 2 trói buộc này mà chấp 2 tự tính là chấp y tha khởi tự tính và biến kế sở chấp tự tính. Cho nên giải thoát 2 thứ trói buộc này rồi thì đối với 2 tự tính chính là không có sở đắc và không có chỗ thấy. Sở dĩ vì sao? Vì tự tính của biến kế sở chấp là hoàn toàn không, nên không thể có tự tính y tha khởi. Tuy vậy lại là không thủ tướng nên không có chỗ thấy.

Như vậy là đã thành lập tự tính biến kế sở chấp rồi. Vì để thành lập tự tính y tha khởi, nên sẽ nói đạo lý của sự thành lập.

Tụng nói:

Giả có nhân sở y,

Nếu khác, hoại, 2 thứ.

Vì tạp nhiễm có được,

Nên biết có y tha.

Luận nói: Không nên nói các pháp chỉ là giả có. Bởi vì sao? Vì giả pháp ắt có nhân sở y, chẳng phải không thật vật mà giả pháp thành lập. Nếu khác đây, tức là không thật vật nên giả cũng là không. Cho nên phải phá hoại 2 pháp. Hai pháp hoại nên pháp tạp nhiễm phải là không thể được, bởi pháp tạp nhiễm hiện có thể có được. Phải biết chắc chắn có tự tính y tha khởi. Lại nữa tự tính của y tha khởi này có tướng mạo như thế nào?

Tụng nói:

Tường thô trọng làm thể,

Lại duyên sinh cho nhau.

Chẳng phải tự nhiên có,

Nên nói: sinh vô tính.

Luận nói: Tự tính của y tha khởi này lấy tướng và thô trọng làm thể. Vì sao nói là y tha khởi? Bởi 2 thứ này vì duyên lẫn nhau mà được sinh. Nghĩa là tướng vì duyên mà khởi thô trọng. Thô trọng vì duyên lại có thể sinh ra tướng.

Nếu vậy vì sao gọi là sinh vô tính? Nghĩa là do sức duyên mà sinh không phải tự nhiên sinh. Lại nữa tự tính y tha khởi này quyết định là hữu hay quyết định là vô?

Tụng nói:

Chẳng quyết định hữu vô,

Mọi thứ đều như vậy.

Thông giả thật, 2 tính,

Thế tục nói là hữu.

Luận nói: Tự tính y tha khởi không phải như cái gì thiết lập ra mà quyết định là hữu, cũng chẳng phải quyết định tất cả là không. Cho nên tất cả mọi thứ chẳng phải có chẳng phải không. Nhưng tất cả mọi thứ đều có thể ngôn thuyết. Nghĩa là có không, cũng có cũng không, chẳng có chẳng không.

Hỏi: Tự tính của y tha khởi này là thật có hay là giả có?

Đáp: Phải biết tính này thông cả giả có và thật có.

Hỏi: Là do thế tục nên có hay là do thắng nghĩa mà có?

Đáp: Phải biết là do thế tục nên gọi đó là có.

Lại nữa tụng nói:

Nói là ngã và pháp,

Đều là nói thế tục.

Còn chân lý thắng nghĩa,

Gọi là 7 chân như.

Luận nói: Thế tục đế là đã nói rõ tác dụng của ngã pháp, như nói trong phẩm Nhiếp tịnh nghĩa. Thắng nghĩa đế là 7 thứ chân như, như đã nói trong phẩm Nhiếp sự.

Lại nữa tụng nói:

Tự tính viên thành thật,

Hai nghĩa trí tối thắng.

Không có các hý luận,

Xa lìa tính một, khác.

Luận nói: Thắng nghĩa đế này, phải biết đó là tự tính viên thành thật.

Hỏi: Vì nhân duyên gì 7 thứ chân như gọi là thắng nghĩa đế?

Đáp: Vì do hiện hành 2 trí tối thắng là trí xuất thế gian và trí thế gian hậu đắc này. Do thắng nghĩa này không hý luận nên chẳng phải các trí cảnh khác. Lại nữa thắng nghĩa này không hý luận nên đối với pháp có tướng lìa tính một tính khác. Bởi vì sao? Vì chân như này đối với pháp có tướng, không thể nói là khác, cũng chẳng phải không khác.

Lại nữa tụng nói:

Sở duyên của thanh tịnh,

Thường không có biến đổi.

Tính thiện và tính lạc,

Tất cả đều thành tựu.

Luận nói: Do thắng nghĩa đế lìa tính một tính khác nên phải biết tức là thanh tịnh duyên tính. Bởi vì sao? Vì duyên cảnh này được tâm thanh tịnh. Phải biết cũng là thường, vì trong mọi lúc tính không biến đổi. Lại nữa do thanh tịnh duyên, nên phải biết là thiện. Vì là thường, nên phải biết là lạc.

Lại nữa tụng nói:

Thật thắng nghĩa vô tính,

Vì hý luận, ngã không.

Y tha không tướng ấy,

Đây thắng nghĩa vô tính.

Luận nói: Tự tính của viên thành thật là do thắng nghĩa vô tính nên nói là vô tính. Bởi vì sao? Do tự tính này tức là thắng nghĩa cũng là vô tính. Do tính không hý luận ngã pháp cho nên viên thành thật tự tính là thắng nghiã, và tính không hý luận nên nói là thắng nghĩa vô tính. Nên biết rằng nơi y tha khởi tự tính, do khác tướng nên cũmh được kiến lập là thắng nghĩa vô tính. Bởi vì sao? Vì tính vô thắng nghĩa. Lại nữa như trước đã nói có 5 thứ tướng. Nghĩa là tướng năng thuyên, tướng sở thuyên, 2 tướng này thuộc về tướng. Tướng chấp trước, tướng không chấp trước lại có 3 tướng. Nghĩa là tướng biến kế sở chấp, tướng y tha khởi, tướng viên thành thật. Lả 5 trong 3 hay 3 trong 5?

Tụng nói:

Nên biết y 3 tướng,

Thiết lập 5 thứ tướng.

Nếu như kia thích hợp,

Riêng biệt có 5 nghiệp.

Luận nói: Phải biết rằng dựa vào 3 tự tướng thiết lập ra 5 tướng. Sở dĩ vì sao? Thứ nhất và thứ 2 dựa vào 3 tự tướng. Thứ 3 dựa vào biến kế sở chấp tướng. Thứ 4 dựa vào y tha khởi tướng. Thứ 5 dựa vào viên thành thật tướng. Lại nữa 3 tự tính mỗi một tự tính đều có 5 nghiệp, như đã nói trong phẩm Nhiếp tịnh nghĩa. Lại nữa trong phẩm Thành không ở trước ngăn ngừa chúng sinh chấp, nay trong phẩm này là ngăn ngừa pháp chấp. Hai thứ chấp này là cái gì theo cái gì mà sinh?

Tụng nói:

Pháp chấp nên người ngu

Khởi chúng sinh chấp kia.

Kia trừ, giác pháp tính,

Giác pháp, ngã chấp dứt.

Luận nói: Do pháp chấp nên người ngu ở thế gian khởi chúng sinh chấp. Trừ trói buộc hiện khởi của chúng sinh chấp nên giác ngộ thật tính của pháp. Giác ngộ pháp tính nên pháp chấp vĩnh đoạn. Phải biết rằng khi pháp chấp đoạn cũng đoạn chúng sinh chấp tùy miên. Lại nữa, đối với cái gì chưa đoạn mà thành tạp nhiễm, đối với cái gì đoạn diệt được thành thanh tịnh?

Tụng nói:

Trước chấp nơi y tha,

Huân tập thành tạp nhiễm.

Không chấp, viên thành thật,

Huân tập thành thanh tịnh.

Tạp nhiễm tính hữu lậu,

Thanh tịnh thì vô lậu.

Phải biết chuyển y này,

Hai thứ không nghĩ bàn.

Luận nói: Đối với y tha khởi tự tính, trước tiên là chấp tự tính, khởi huân tập thành tạp nhiễm. Phải biết viên thành thật tự tính vì không chấp trước, nên khởi huân tập thì thành thanh tịnh. Tạp nhiễm tức là tính hữu lậu. Thanh tịnh thì tính vô lậu. Phải biết tính vô lậu này tức là tướng chuyển y. Lại nữa chuyển y này là không thể nghĩ bàn và có 2 thứ. Thế nào là không thể nghĩ bàn?

Tụng nói:

Chân thật và tự thể,

Tịch tĩnh và công đức.

Tất cả không nghĩ bàn,

Phải biết do 4 lý.

Luận nói: Chuyển y như vậy không thể nghĩ bàn là do 4 đạo lý: 1. Do chân thật. Tức là thường. 2. Do tự thể. Tức là chẳng phải có sắc chẳng phải không sắc v.v… 3. Do tịch tĩnh. Tức là trụ nơi vắng lặng. 4. Do công đức. Tức là chuyển y này có uy đức. Lại nữa chuyển y này không thể nghĩ bàn là do 4 thứ đạo lý mới được chứng đắc. Đó là 4 thứ chính hành, 4 thứ tầm tư, 4 trí như thật, 4 thứ cảnh sự.

Những gì là 4? 1. Biến mãn cảnh. 2. Tịnh hành cảnh. 3. Thiện xảo cảnh. 4. Tịnh hoặc cảnh. Trong đây, biến mãn cảnh lại có 4 thứ: 1. Ảnh tượng có phân biệt. 2. Ảnh tượng không phân biệt. 3. Sự cứu cánh. 4. Chỗ làm thành tựu. Ảnh tượng có phân biệt là sở tri sự, đồng phần, Tam-ma-địa sở hành cảnh Tì-bát-xá-na. Ảnh tượng không phân biệt là sở tri sự, đồng phần, Tam-ma-địa sở hành cảnh Xa-ma-tha. Sự cứu cánh là hết cả sở hữu tính và như sở hữu tính. Chỗ làm thành tựu là chuyển y và dựa vào trí vô phân biệt này.

Tịnh hành cảnh có 5 thứ: 1. Bất tịnh. 2. Từ bi. 3. Duyên khởi. 4. Cảnh giới sai biệt. 5. Niệm hơi thở ra vào.

Thiện xảo cảnh có 5 thứ là: uẩn thiện xảo, giới thiện xảo, xứ thiện xảo, duyên khởi thiện xảo, xứ phi xứ thiện xảo.

Tịnh hoặc cảnh là thế gian đạo có 2 hạ địa thô tính và thượng địa tĩnh tính, xuất thế gian đạo có 4 thánh đế. Lịa nữa như trước đã nói có 2 thứ chuyển y. Những gì là 2? Nghĩa là Thanh Văn, Bồ-tát chuyển y khác nhau.

Tụng nói:

Thanh Văn có 2 thứ,

Đến tịch, đến Bồ-đề.

Y chỉ biến hóa thân,

Đến vô thượng chính giác.

Các Thanh Văn chuyển y,

Chán lìa do tu được.

Bồ-tát phương tiện tu,

Y chỉ trí không hai.

Vì không trụ sinh diệt,

Chư Phật trí vô thượng.

Lợi lạc các hữu tình,

Không nghĩ bàn, không hai.

Luận nói: Có 2 thứ chuyển y của Thanh Văn: 1. Đến tịch diệt. 2. Đến Bồ-đề.

Hỏi: Thanh Văn vô học, vĩnh viễn hết hậu hữu, làm sao có thể chứng A-nậu-đa-la Tam-mỉệu Tam-bồ-đề?

Đáp: Do trụ vào biến hóa thân có thể chứng Bồ-đề chứ không phải thân nghiệp báo. Lại nữa sự chuyển y của Thanh Văn là lấy sự nghịch lưu chuyển tu mà được. Chuyển y của Bồ-tát thì dùng phương tiện tu và y chỉ nơi trí không hai nên được. Thế nào là dùng phương tiện tu? Nghĩa là do không gián đoạn đạt pháp tính, sở duyên lớn, phát khởi siêng năng tinh tiến hơn cả, đoái tưởng hữu tình hiểu rõ các hạnh. Thế nào là y chỉ trí không hai? Nghĩa là không trụ vào lưu chuyển hay tịch diệt. Bất chấp lưu chuyển nên đoái tưởng các hữu tình. Do nhân duyên này phải biết Phật trí là tối thắng vô thượng. Sở dĩ vì sao? Vì trí các hữu tình thì hoặc trụ lưu chuyển, hoặc trụ tịch diệt cho nên chẳng phải vô thượng. Lại nữa các Phật trí lợi ích an lạc tất cả hữu tình, thành tựu viên mãn tự lợi lợi tha nên là tối thắng vô thượng. Các trí hữu tình thì hoặc chỉ tự lợi, hoặc không lợi đồng đều nên chẳng phải vô thượng. Do nhân này nên trí tuệ chư Phật là không thể nghĩ bàn, vì có thể không trụ nhị biên mà làm tất cả các việc lợi ích chúng sinh. Lại nữa không có hai, nghĩa là Bát-niết-bàn và không Niết-bàn v.v… tính không hai.

Phẩm 8 – 1: THÀNH HIỆN QUÁN

Luận nói: Lại nữa, như vậy chính cần đã hiểu rõ vô thường, khổ, không, vô ngã rồi thì quán gì?

Tụng nói:

Phải biết hiện phải quán,

Có hạ trung thượng phẩm.

Hữu lậ và vô lậu,

Vị kiến, vị thụ, khắp.

Luận nói: Vì hiện quán sát muốn biết các việc thuộc hạ trung thượng phẩm trói buộc trong 3 cói Dục, Sắc, Vô sắc. Hữu lậu là gồm trong khổ tập đế. Vô lậu là gồm trong tăng thượng diệt đạo đế. Vị kiến là gồm trong 4 đế. Vị thụ là gồm trong diệt đạo. Biến khắp là pháp trí, chủng loại trí biến hành khắp các cảnh giới hiện thấy hoặc không hiện thấy. Lại nữa lấy gì làm hiện quán?

Tụng nói:

Thắng trí xuất thế gian,

Trừ được kiến sở đoạn.

Chứng đắc vô phân biệt,

Chỉ dựa vào tĩnh lự.

Luận nói: Xuất thế gian trí có thể làm hiện quán, chẳng phải thế gian trí làm chỗ đoạn kiến. Đoạn hoặc chỉ là kiến đạo chẳng phải tu đạo.

Hỏi: Kia lấy gì làm sở y?

Đáp: Chỉ dựa vào tĩnh lự, không dựa vào Vô sắc.

Lại nữa, hiện quán nơi nào?

Tụng nói:

Cực khổ chẳng ác thú,

Cực vui chẳng 2 trên.

Người trời ở cõi Dục,

Phật xuất thế hiện quán.

Luận nói: Trong ác thú không khởi hiện quán, vì sự thụ khổ hằng theo với sự rất lo buồn, không thể chứng được Tam-ma-địa. Cõi Sắc và Vô sắc cũng không hiện quán vì nhiều vui thích, ít nhàm chán. Vì vậy 2 cõi và 3 thú không khởi hiện quán. Chỉ có 1 cõi Dục và người, trời 2 thú có Phật ra đời có thể khởi hiện quán.

Lại nữa, ai có thể khởi hiện quán?

Tụng nói:

Chưa ly dục, bội ly,

Và người đã ly dục,

Độc nhất chứng chính giác,

Tối thắng ngã sở sinh.

Luận nói: Có 5 thứ Bổ-đặc-già-la có thể nhập hiện quán, hoặc không nhập vì vô ngã. Những gì là 5? 1. Người chưa ly dục. 2. Người bội ly dục. 3. Người đã ly dục. 4. Độc Giác. 5. Bồ-tát. Làm sso biết được chỉ có tâm có thể nhập hiện quán, chẳng phải ngã có thể nhập hiện quán?

Tụng nói:

Ngã chẳng phải trí nhân,

Chẳng phải cảnh tự thủ.

Chẳng phải tự hiện quán,

Vì chấp ái tự ngã.

Vô thường có cảnh giới,

Đợi duyên trí sinh khởi.

Đoạn các thô nặng 3,

Nên y tâm hiện quán.

Luận nói: Nếu chấp có ngã có thể nhập hiện quán là không đúng đạo lý. Bởi vì sao? Ngã là nhân của trí là không hợp lý. Nếu lìa trí, tự nhiên không thể thủ. Sở dĩ vì sao? Nếu ngã có thể làm nhân của trí, tức là vô thường. Hoặc phải trí là thường hữu. Nếu ngã tự có thể thủ cảnh giới, thì trước khi trí chứ sinh cũng phải có thể thủ. Lại nữa nếu chấp ngã có thể nhập hiện quán, thì ngã này cũng phải tự quán ngã tính. Nếu như vậy thì phải không có giải thoát bởi duyên chấp ngã và khởi ái. Sở dĩ vì sao? Không có thủ ngã, không khởi ngã chấp và ngã ái thì nếu nói dựa vào tâm có thể nhập hiện quán là có lý. Bởi vì sao? Vì tâm là vô thường, có cảnh đợi duyên mới sinh trí. Lại nữa y chỉ nơi tâm, hoặc thô trọng, hoặc ngã chấp và ngã ái đều có thể đoạn diệt. Sở dĩ vì sao? Vì tâm vô thường, là nhân sinh trí, có sở duyên nên cùng với trí đồng thời thủ cảnh giới. Đợi các duyên nên trí không thường hữu. Lại nữa tâm là chỗ sở y của thô trọng nên tính lìa ngã. Nếu chứng biến trí, tức có thể xa lìa thô trọng mà sinh, hằng trừ ngã chấp và ngã ái.

Thế nào là tuần tự có thể nhập hiện quán?

Tụng nói:

Đã thành thục tương tục,

Hoặc được nghe chính pháp.

Tự nhiên cực như lý,

Tác ý nên hiện quán.

Buộc niệm nơi sở duyên,

Tinh cần, tu tĩnh định.

Tăng thượng sức thiện căn,

Chứng thánh giác đạo phần.

Luận nói: Người tu hiện quán trước phải tự thành thục tương tục rồi, hoặc lại nghe chính pháp gọi là Thanh Văn thừa, hoặc lại tự nhiên gọi là Bồ-tát và Độc Giác. Nơi nội tâm của mình tác ý cực thiện nên có thể nhập hiện quán. Tiếp đến buộc niệm nơi sở duyên, nghĩa là 4 niệm trụ. Tinh cần, là 4 chính đoạn. Tu tĩnh định, là 4 thần túc. Tăng thượng thiện căn, là trước chứng đắc tăng thượng tư lương, tín v.v… Sức thiện căn, là kia sở trị các chướng bất tín v.v… không thể xen tạp. Chứng thánh giác phần, là y nơi kia nên chứng biến giác chi. Chứng thánh đạo phần, là chứng 8 thánh đạo chi. Như vậy tuần tự được nhập hiện quán.

Lại nữa, như thế nào mới nói là chính nhập hiện quán?

Tụng nói:

Từ đó nhập kiến đạo,

Khởi chính kiến vô lậu,

Vĩnh viễn đoạn 3 kết,

Tức là chứng hiện quán.

Luận nói: Từ trước đã tu như lý tác ý nên nơi kiến đạo vị được sinh chính kiến xuất thế gian. Do chính kiến nên 3 kết vĩnh đoạn. Nghĩa là Tát-ca-da kiến, giới cấm thủ và nghi đều nơi vị đó đã nhập hiện quán. Nhưng trong vị này tất cả pháp tạp nhiễm ác thú đều trừ bỏ hết.

Vì sao chỉ nói 3 kết vĩnh đoạn?

Tụng nói:

Tuy ác thú tạp nhiễm,

Chấp là khởi hoặc đoạn,

Cảnh, kiến, đạo sư v.v..

Tùy sinh gồm trong 3.

Luận nói: Do tát-ca-da kiến mê lầm với cảnh. Do giới cám thủ mê lầm với kiến. Do nghi kia nên đối với Phật, vị đạo sư nói chính pháp và tăng chính hạnh mà sinh mê hoặc. Cho nên tùy theo cường độ chỉ nói vĩnh đoạn 3 kết.

Lại nữa, hiện quán có tướng mạo như thế nào?

Tụng nói:

Do trí thể gian trước,

Lựa chọn đế cứu cânh.

Với đế không gia hành,

Quyết định sinh khởi tướng.

Trí cảnh hòa hợp tướng,

Với sở tri cứu cánh,

Phải biết đế hiện quán,

Nơi 10 thứ quyết định.

Luận nói: Do trí thế gian trước, nghĩa là do từ nghe mà sinh trí, cho đến thế gian đệ nhất pháp trí. Lựa chọn đế cứu cánh, nghĩa là đã ở nơi các đế cứu cánh, lựa chọn nơi đế không gia hành. Quyết định sinh khởi tướng, nghĩa là ở trong chỗ quán sát các đế cảnh không do dụng công gia hành mà tướng quyết định sinh khởi, đó là tướng hiện quán. Lại nữa trí quyết định này với tướng hòa hợp của cảnh, cứu cánh đến sở tri. Sở dĩ vì sao? Vì trừ đây ra không có cảnh nào khác có thể tìm cầu. Cho nên quán này gọi là hiện quán. Phải biết quyết định tướng này lị có 10 thứ.

Những gì là 10?

Tụng nói:

Tính ngã không có 3,

Bất diệt không có 2.

Vô phân biệt, vô bố,

Trong tự đoạn quyết định.

Luận nói: Mười thứ quyết định là: 1. Trong chúng sinh, vô trung quyết định. 2. Trong biến kế sở chấp tự tính, vô trung quyết định. 3. Trong vô ngã, hữu. 4. Trong tướng, hữu. 5. Trong thô trọng, hữu. Trong đậy đều quyết định. 6. Trong bất diệt, trung quyết định. Nghĩa là hoặc không cho nên bất diệt. Nghĩa là chúng sinh ngã và pháp ngã hoặc có nên bất diệt. Tức là 2 vô ngã. 7. Trong không 2, trung quyết định. Nghĩa là pháp và pháp không, không có sai biệt. 8. Trong không vô phân biệt quyết định. 9. Trong pháp tính vô bố quyết định. Nghĩa là những người ngu ở trong các tính này sinh các sợ hãi, người trí đối với đây không sợ hãi nên quyết định. 10. Trong tự tại có thể đoạn quyết định. Nghĩa là ta không phục tùng tha nhân cầu đoạn phương tiện cho nên quyết định.

Lại nữa, hiện quán như vậy tuần tự tu tập như thế nào?

Tụng nói:

Phát khởi chứng đẳng lưu,

Thành mãn tuần tự 4.

Lại nữa, pháp trụ trí…

Tuần tự có 8 thứ.

Luận nói: Tuần tự của hiện quán có 4, hoặc 8, hoặc 7.

Những gì là 4? 1. Phát khởi. Nghĩa là từ nghe sinh trí, cho đến thế đệ nhất pháp. 2. Chứng đắc. tức là kiến đạo. 3. Đẳng lưu. Tức tu đạo. 4. Thành mãn. Tức cứu cánh đạo.

Thế nào là 8? Nghĩa là pháp trụ trí, cho đến thiện thanh tịnh trí, như trước đã nói.

Thế nào là 7 thứ?

Tụng nói:

Vô hối trụ sở duyên,

Thấy cảnh giới như thật.

Đạo sở y vô hoặc,

Thuần sai biệt hành đoạn.

Luận nói: Bảy thứ tuần tự là Thi-la tịnh cho đến hành đoạn trí kiến tịnh. Do Thi-la thanh tịnh cho nên không biến đổi không hối. Do không hối nên tâm định trụ nơi cảnh. Do tâm định nên đối với cảnh sở tri thấy được như thật. Tiếp đến nơi trí như thật kiến đạo y chỉ Phật pháp tăng bảo, xa lìa nghi hoặc được 4 trí chứng tịnh câu sinh. Tiếp đến đối với chỗ chứng của đức Thiện Thệ nói ra, được trí quyết định. Nghĩa là chỉ trong Phật pháp có thanh tịnh thuần khiết, thoát ly đường khổ, không có ở các pháp khác. Tiếp đến ở trong đạo này được trí hành sai biệt. Nghĩa là cái khổ đi qua chậm, là cái lạc hạ phẩm, đi qua nhanh là thượng phẩm. Còn 2 hành kia là trung phẩm. Tiếp đến y vào thượng phẩm chính hành, đối với các đoạn diệt sinh thắng trí kiến.

Lại nữa, 7 thứ thanh tịnh của Thi-la này nếu nói sơ lược thì gồm trong 3 học, và cũng là gồm trong 3 tịnh.

Thế nào là 3 tinh?

Tụng nói:

Phải biết gồm 3 tịnh,

Giới tịnh và tâm tịnh.

Cảnh giới y chỉ đạo,

Là nói tuệ thanh tịnh.

Luận nói: Ba thứ tịnh là giới tịnh tâm tịnh tuệ tịnh. Trong tuệ thanh tịnh lại có 3 thứ: 1. Nơi cảnh giới. 2. Nơi đạo y chỉ. 3. Nơi thể của đạo. Trong đạo thể lại có 3 thứ là thuần, sai biệt và đoạn. Lại nữa, trong các tuần tự như vậy, lấy tuần tự nào nhập hiện quán?

Tụng nói:

Biết nhân duyên của thân …,

Khéo đạt trong 3 đời.

Tiếp hiểu rõ 4 khổ,

Và cả đến 8 khổ.

Luận nói: Trước ở trong 4 niệm trụ vị phải khéo hiểu rõ thân, thụ, tâm pháp 4 thứ nhân duyên. Nghĩa là do tập họp cái ăn mà thân tập họp, xúc tập họp nên thụ tập họp, danh sắc tập họp nên thức tập họp, tác ý tập họp nên pháp tập họp. Tiếp đến nên hiểu biết rõ thân này v.v… trong 3 đời. Nghĩa là tập pháp tùy quán trong đời vị lai, diệt pháp tùy quán trong đời quá khứ, tập diệt pháp tùy quán trong đời hiện tại. Tiếp đến phải hiểu rõ ngay nơi thân này v.v… có 4 khổ là thụ trọng đảm khổ, địa vị biến đổi khổ, thô trọng khổ, và sinh tử khổ. Bởi pháp thiện bất thiện làm nhân có thể cảm cái khổ sinh tử lưu chuyển. Cho nên biết rõ sinh tử 2 khổ tức là biết rõ pháp khổ. Từ đó không ngừng quán các đế. Cho nên trước hiểu rõ 8 thứ khổ là sinh khổ cho đến lược nói 5 thủ uẩn khổ.

Lại nữa tụng nói:

Từ chính quán đế này,

Khởi 16 hành trí.

Để trị 4 điên đảo,

Và sở y của sau.

Luận nói: Sau khi biết 8 khổ, tiếp chính quán sát 4 thứ đế lý, khởi 16 hành trí. Trước là chỗ y chỉ của sau. Nghĩa là để đối trị 4 điên đảo, nên khởi 4 hành khổ đế: 1. Vì đối trị thường điên đảo nên khởi vô thường hành. 2. Vì đối trị lạc tịnh điên đảo nên khởi khổ hành. 3. Vì đối trị ngã điên đảo nên khởi không hành. 4. Vì đối trị đây khởi vô ngã hành. Sở dĩ vì sao? Vì lìa các hành ra các ngã đều không, tức các thể của hành chẳng phải tính ngã. Tiếp đến nơi thường, lạc, tịnh, ngã 4 ái tập đế khởi nhân tập sinh duyên 4 hành. Tiếp đến nơi đây đoạn diệt đế khởi diệt tĩnh diệu lìa 4 hành. Tiếp đến nơi đây có thể chứng đạo đế khởi đạo như hành xuất 4 hành.

Lại nữa tụng nói:

Từ đây chuyển tu tập,

Nơi tâm đều chán lìa.

Đế, giản trạch, quyết định,

Cứu cánh giác sinh khởi.

Luận nói: Từ 16 hành trí, sau lại chuyển tu tập. Trước duyên tự tâm, tổng yếm tâm trí sinh, đây gọi là noãn. Từ đây trở lên, đế giản trạch trí sinh, đây gọi là đỉnh. Từ đây trở lên quyết định giác trí sinh, đây gọi là nhãn. Lại từ đây trở lên cứu cánh giác trí sinh, đây gọi là thế đệ nhất pháp.

QUYỂN 16 HẾT