LUẬN HIỂN DƯƠNG THÁNH GIÁO
Vô Trước Bồ-tát tạo luận
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 20

Phẩm 11 – 4: NHIẾP THẮNG QUYẾT TRẠCH

Như vậy đã nói xong về giác phần quyết trạch. Nay sẽ nói đến Bổ-đặc-già-la thắng quyết trạch.

Tụng nói:

Do các căn sai biệt,

Kiến lập 5 chỉ 2.

Phải biết giả thiết 5,

Ba việc thành viên mãn.

Luận nói: Phải biết do sai biệt của các căn nên kiến lập 5 thứ chỉ có 2. Như trong kinh nói:” Do duyên chỉ 2 căn nên chỉ có thể biết 2 tác ý, duyên chỉ 2 tác ý nên chỉ biết 2 tu, duyên chỉ 2 tu nên chỉ biết 2 hành, duyên chỉ 2 hành nên chỉ biết 2 Bổ-đặc-già-la.” Hành, nghĩa là tập khí do tu dẫn đến. Lại nữa, nên biết giả thiết Bổ-đặc-già-la do 5 thứ nhân: 1. Do chủng tính, nghĩa là có thể cứu không thể cứu. 2. Do xu hướng vào, tức là Thanh Văn thừa v.v… 3. Do học, tức hữu học vô học. 4. Do đạt được, nghĩa là trụ 4 quả và 3 hướng. 5. Do lỗi lầm, công đức, nghĩa là có chướng, không chướng, đủ trói buộc, không đủ trói buộc.

Lại do 3 việc nên kiến lập 3 thành mãn: 1. Căn mãn, tức pháp bất động. 2. Định mãn, tức được diệt định. 3. Quả mãn, tức A-la-hán.

Như vậy đã nói xong nghĩa quyết trạch của Bổ-đặc-già-la. Nay sẽ nói đến nghĩa quyết trạch của quả sự.

Tụng nói:

Chứng chuyển y không khởi,

Hai nhân quả không thoái.

Ba nhân nên đoạn thường,

Ba quả 3 nhân ký.

Luận nói: Do chứng chuyển y nên các phiền não không khởi. Phải biết chuyển y được gọi là đoạn. Lại do 2 thứ nhân nên quả không thoái mất. Nghĩa là nếu chưa vĩnh viễn hại chủng tử phiền não mà chứng A-la-hán là không đúng đạo lý. Nếu đã vĩnh viễn hại chủng tử phiền não, tức là ứng với phiền não chắc chắn định không sinh vì không có nhân của chủng tử. Lại nữa, vì 3 nhân duyên nên đoạn là tính của thường: 1. Vì không hý luận nên hiện thấy hý luận là tính vô thường. 2. Vì chân như thanh tịnh hiển hiện nên giống như tính điều nhu của vàng ròng. 3. Tính của phiền não không sinh, vì trước sau không khác. Lại nữa, 3 thứ quả là do 3 thứ nhân nên Như Lai ký biệt: 1. Chứng tịnh ký biệt. Nghĩa là quả dự lưu vì do kiến đạo, được 4 chứng tịnh. 2. Hỷ xứ ký biệt. Nghĩa là quả nhất lai vì sắp được căn bản định đã được một ít hoan hỷ. 3. Tùy niệm ký biệt. Nghĩa là quả bất hoàn vì đã được căn bản định, hiện thấy chư thiên chúng cùng Phạm chúng cùng luận bàn tùy niệm sở cầu, công đức của tự thừa chưa viên mãn.

Như vậy đã nói xong về quyết trạch quả sự. Nay sẽ nói đến công đức quyết trạch.

Tụng nói:

Kiến lập các công đức,

Do 17 tăng thượng.

Sai biệt kia vô biên,

Vì sở trị, trị chướng.

Luận nói: Phải biết do 17 thứ sức tăng thượng nên kiến lập công đức:

1. Do thương xót hữu tình tăng thượng, tức 4 vô lượng.

2. Do 6 chướng tịnh tăng thượng, tức giải thoát thắng xứ biến xứ. Trong đây giải thoát là phương tiện, do dư nên thành mãn. Sáu chướng tịnh là: 1. Biến hóa, chướng thanh tịnh, do 2 giải thoát trước. 2. Trụ tối cực hiện pháp lạc, chướng thanh tịnh, do giải thoát thứ 3 tịnh cùng bất tịnh đều hiển hiện thanh tịnh. 3. Vãng hoàn, chướng thanh tịnh, do giải thoát thứ 4. 4. Dẫn vô tránh v.v…thánh công đức, chướng thanh tịnh, do giải thoát thứ 5. 5. Các lậu và hữu, chướng thanh tịnh, do giải thoát thứ 6, thứ 7. 6. Trụ tối cực tịch tĩnh, chướng thanh tịnh. Phải biết do giải thoát thứ 8.

3. Do biết thời vãng tăng thượng, tức công đức vô tránh.

4. Do quán sát sở tri tăng thượng, tức là nguyện trí.

5. Do ngôn giáo tăng thượng, tức vô ngại giải.

6. Do 6 chỗ thiện xảo tăng thượng, tức 6 thần thông. Sáu chỗ thiện xảo là: 1. Dẫn nhiếp thiện xảo. 2. Thẩm thính ngôn ngữ thiện xảo. Do sự khéo léo này, dùng ngôn ngữ của đối phương bẻ gãy luận nạn của họ mà vì nói chính pháp. 3. Dục giải tùy miên thiện xảo. 4. Đến thiện xảo. 5. Đi thiện xảo. 6. Giải thoát thiện xảo.

7. Do tín tăng thượng khác, tức các tướng hảo.

8. Do 3 chướng thanh tịnh tăng thượng, tức 4 thứ biến thanh tịnh. Ba chướng là sở y chướng, sở duyên chướng, tâm trí chướng.

9. Do tất cả vấn ký tăng thượng, tức các sức.

10. Do xô dẹp tất cả luận khác tăng thượng, tức các vô úy.

11. Do sự thống nhiếp chúng, không thiên vị tăng thượng, tức các bất hộ.

12. Do có khả năng nhiếp hóa đồ chúng tăng thượng, tức các niệm trụ.

13. Do trong mọi lúc hiển hiện tất cả trí sở tác tăng thượng, tức vĩnh viễn nhổ bỏ tập khí.

14. Do chỗ hóa độ không quá thời tăng thượng, tức pháp không quên mất.

15. Do ngày đêm 6 lần quán sát thế gian tăng thượng, tức đại bi.

16. Do siêu quá Thanh Văn, Độc Giác tăng thượng, tức các bất cộng Phật pháp.

17. Do thành các sở tác của Như Lai tăng thượng, tức nhất thiết chủng diệu trí.

Lại nữa, các công đức này đối tríở trị chướng sai biệt, nên phải biết vô biên sai biệt.

Lại nữa tụng nói:

Tư duy nghĩa vui khổ,

Tác ý và an trụ.

Gian nan cùng tướng mạo,

Đặc thù phi đặc thù.

Luận nói: Các công đức kia dù sở đối trị hay năng đối trị đều phải tư duy. Tư duy như thế nào? Nghĩa là hoặc nghĩa, hoặc vui, hoặc khổ, hoặc tác ý, hoặc an trụ, hoặc gian nan, hoặc tướng mạo, hoặc đặc thù phi đặc thù.

Trong đây tư duy nghĩa, nghĩa là nghĩa của tuệ đáo bỉ ngạn gồm thâu các câu. Có 5 thứ làm nghĩa: 1. Nghĩa, vì nơi người nói khởi cung kính. 2. Nghĩa, vì thâu nhiếp chúng. 3. Nghĩa, vì khởi tôn trọng đối với ngôn giáo. 4. Nghĩa, vì tự thuật sự. 5. Nghĩa, vì nơi nghĩa chân thật dạy khởi làm nhiều nghĩa.

Lại nữa, tất cả pháp có 3 thứ nghĩa, là nghĩa có thể tăng ích, nghĩa được tăng ích, và nghĩa của pháp tính. Cũng như sắc có 3 nghĩa, là sắc có thể tăng ích, sắc được tăng ích, và sắc pháp tính. Phải biết tất cả mọi nơi như vậy.

Lại có tam luân lý thú nghĩa tuyên tuyết các pháp. Nghĩa là dựa vào lý thú của thế tục đế có người tuyên thuyết, công cụ tuyên thuyết, tác nghiệp tuyên thuyết. Giống như người thí, hành thí, người thụ vật thí. Nghĩa là người làm việc thí do hành thí này và người thụ vật thí. Phải biết tất cả mọi nơi như vậy.

Lại có 4 thứ nghĩa của lý thú ngôn giáo: 1. Sai biệt lý thú ngôn giáo. 2. Kiến lập lý thú ngôn giáo. 3. Vô dị lý thú ngôn giáo. 4. Vô tác dụng lý thú ngôn giáo.

Trong đây sai biệt lý thú, nghĩa là sắc cho đến nhất thiết chủng trí, tính sai biệt.

Kiến lập lý thú, là 5 thứ kiến lập: 1. Thú nhập kiến lập. 2. Giáo thụ kiến lập. 3. Học kiến lập. 4. Chứng đắc kiến lập. 5. Tội lỗi công đức kiến lập.

Vô dị lý thú có 6 thứ: 1. Hữu phi hữu không khác. Nghĩa là sắc với tính sắc không. Phải biết tất cả mọi nơi như vậy. 2. Không khác lẫn nhau. Nghĩa là các uẩn tương vọng lẫn nhau. Phải biết tất cả mọi nơi như vậy. 3. Đời không khác. Nghĩa là trong đời trước quán giữa và đời sau. Phải biết tất cả mọi nơi như vậy. 4. Bổ-đạc-già-la không khác. Nghĩa là các hữu tình lần lượt tương vọng nhau. 5. Chướng trị không khác. Nghĩa là thường vô thường cho đến lưu chuyển tịch diệt. 6. Văn tự không khác. Nghĩa là danh thân v.v…

Vô tác dụng lý thú, là tam luân thanh tịnh. Tùy ở các nơi không có tác giả chân thật có thể có, không có tác cụ cũng không tác nghiệp, không có Bổ-đặc-già-la có thể nói, không có pháp được nói, không có Bổ-đặc-già-la có thể học, không có pháp được học, không có Bổđặc-già-la năng chứng, không có pháp được chứng, không có Bổđặc-già-la có thể trụ nơi tội lỗi với công đức, cũng không chỗ trụ, không thủ, không pháp. Tất cả như vậy.

Lại có 2 thứ vô lượng nghĩa: 1. Phát khởi vấn luận vô lượng. 2. Hồi hướng vô sở đắc vô lượng.

Lại vì đối trị 3 thứ xứ sở, nói không nên trụ nơi nghĩa của sắc, cho đến không nên trụ ở nghĩa tất cả pháp. Ba thứ xứ sở là: 1. Xứ sở chấp trước. 2. Xứ sở tùy chuyển. 3. Xứ sở hý luận tuệ hành.

Lại có 3 thứ nghĩa vô tướng: 1. Vô thể vô tướng. 2. Phi bỉ thể vô tướng. 3. Không hiển hiện vô tướng. Giống như vô tướng, như vậy không tính, không tự thể, không sinh, không diệt, không chỗ chấp trước, không chỗ làm, không chỗ nhiếp thụ cũng thế.

Lại có 3 thứ nghĩa có sở đắc: 1. Sự có sở đắc. 2. Có sở đắc cái có sở đắc. 3. Không sở đắc cái có sở đắc. Giống như có sở đắc, có chấp trước, làm, hý luận, thủ, kiến, kế chấp cũng như vậy.

Lại có 3 thứ nghĩa có sở đắc: 1. Tự thể có sở đắc. 2. Không xa lìa, có sở đắc. 3. Không suy tư phân tích, có sở đắc. Lại có 3 thứ nghĩa không sở đắc: 1. Tự thể không sở đắc. 2. Xa lìa, không sở đắc. 3. Suy tư phân tích, không sở đắc. Giống như không sở đắc, không chấp trước, không làm, không hý luận, không thủ, không kiến, không kế chấp cũng như vậy. Lại có 3 thứ nghĩa không sở đắc: 1. Hữu tính, không sở đắc. 2. Thể ấy, không sở đắc. 3. Không hiển hiện, không sở đắc. Không sở đắc, là suy tìm các pháp không thấy có tự tính, không phải tất cả mọi thứ đều không sở đắc, nhưng nơi tự tính biến kế sở chấp khi không có sở đắc cũng không quán tự tướng y tha của nó.

Lại nữa kinh nói: “Không sở đắc, tương ưng, là nếu không sở đắc kia có tương ưng không? Nên lập 4 câu. Hoặc không sở đắc, chẳng tương ưng, nghĩa là như có người đối với sự nghiệp rộng lớn đều không sở đắc. Hoặc có tương ưng, chẳng phải không sở đắc, nghĩa là do thế gian đạo tu các thiện pháp. Hoặc không sở đắc cũng tương ưng, nghĩa là do xuất thế gian đạo tu các thiện pháp. Hoặc chẳng phải không sở đắc cũng chẳng phải tương ưng, nghĩa là pháp nhiễm ô và pháp vô ký hiện tiền.”

Lại có 5 thứ nghĩa bất chính thủ, là Bổ-đặc-già-la bất chính thủ, pháp bất chính thủ, biến dị bất chính thủ, tổn giảm bất chính thủ, sai biệt bất chính thủ.

Lại có 4 thứ nghĩa ngôn giáo: 1. Ngôn định ý bất định. 2. Ý định ngôn bất định. 3. Ngôn ý đều định. 4. Ngôn ý đều bất định.

Lại có 2 thứ nghĩa sở đối trị: 1. Giải thoát môn sở đối trị. Nghĩa là phân biệt tướng nguyện. 2. Đáo bỉ ngạn sở đối trị. Nghĩa là keo kiệt, phạm giới, giận tức, biếng nhác, tán loạn, ác tuệ.

Lại có 2 thứ nghĩa sở đối trị không. Nghĩa là 16 thứ tà tưởng hiện hành và 14 thứ tướng trói buộc.

Lại có 2 thứ nghĩa hành đáo bỉ ngạn. Nghĩa là hành thế gian có sở đắc và hành xuất thế gian vô sở đắc. Lại nữa hành thế gian đáo bỉ ngạn chỉ là tương tự không phải chân thật. Giống như tương tự, có độc, có chướng, không phương tiện cũng như vậy. Phải biết hành xuất thế gian đáo bỉ ngạn trái ngược với đây.

Lại nữa nếu lược nói nghĩa của tự thể tuệ đáo bỉ ngạn thì phải biết do 3 thứ tướng: 1. Tướng sở y. 2. Tướng sở duyên. 3. Hành tướng. Tướng sở y, là tâm Bồ-đề. Tướng sở duyên, là sắc v.v… các pháp. Hành tướng có 2 thứ, là thế gian và xuất thế gian. Thế gian hành, là vô thường, khổ, không, vô ngã, như bệnh, như ung nhọt v.v… các hành. Xuất thế gian hành, là không sở đắc tương ưng hành. Lại có nghĩa của 3 thứ Ba-la-mật-đa khéo tích tập tu: 1. Dùng nhất thiết trí tính tương ưng tác ý cùng tất cả hữu tình cùng hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. 2. Dùng các Ba-la-mật-đa an trụ thật tế. 3. Ở nơi thật tế mà không tác chứng.

Lại nữa, như nói tâm này là không thể nghĩ bàn. Vì nhân duyên gì không thể nghĩ bàn? Nghĩa là do sở y này, do sở duyên này khiến tâm an trụ. Đây đều vô tính. Cho nên nếu là vô tính tức là thanh tịnh cũng không thể nghĩ bàn. Cái không thể nghĩ bàn này vì hoặc là hữu tính hoặc là vô tính và cùng với tâm kia hoặc là khác tính, hoặc là không khác tính.

Lại nữa, tất cả hành tướng hý luận là vì 3 nhân duyên khiến tâm lưu chuyển: 1. Do gần gũi. 2. Do nhân duyên. 3. Do kiến lập. Vì gần gũi, là khi được báo thì giữ lấy sở y. Vì sở duyên, là lãnh thụ các thứ cảnh giới và khởi làm các thứ gia hành. Vì kiến lập, là từ vô thủy đến nay huân tập vọng tưởng.

Lại có 4 thứ nghĩa phân biệt: 1. Có phân biệt. 2. Không phân biệt. 3. Hai phân biệt. 4. Không hai phân biệt.

Lại có 4 thứ nghĩa không phân biệt: 1. Ngu si không phân biệt. 2. Phi tình không phân biệt. 3.Không tác dụng không phân biệt. 4. Pháp tính không phân biệt.

Lại có 2 thứ nghĩa ngôn giáo là ngôn giáo thế tục và ngôn giáo thắng nghĩa. Ngôn giáo thế tục là sai biệt kiến lập 2 thứ lý thú. Ngôn giáo thắng nghĩa là 2 thứ lý thú không khác và không tác dụng.

Lại nữa, trong thắng nghĩa đế không thể tuyên thuyết, phải biết trong ngôn thuyết có 3 thứ tướng: 1. Tướng của tướng. 2. Tướng tạp nhiễm. 3. tướng thanh tịnh.

Lại do 3 thứ tướng biến tri hiện quán các pháp. Ba thứ tướng là: 1. Giả lập. 2. Liễu biệt. 3. Kia chỉ có lượng. Chư Bồ-tát v.v… lấy gì làm vui? Nhiếp ích chúng sinh làm vui. Lấy gì làm khổ? Chúng sinh tổn não làm khổ. Lấy gì làm tác ý? Tư duy việc lợi ích tất cả chúng sinh làm tác ý. Lấy gì làm trụ? Lấy không chỗ phân biệt làm trụ.

Lại nữa, Bồ-tát Ma-ha-tát có 12 việc gian nan, Bồ-tát thông duệ cần phải biết rõ: 1. Đối với chúng sinh trái vượt pháp thức, phạt hay bỏ đó là việc khó khăn của Bồ-tát. 2. Phương tiện hiện làm việc khổ bức não, phòng hộ tự tâm khiến không khởi phiền não đó là việc khó khăn của Bồ-tát. 3. Vô lượng chúng sinh hiện tiền tìm cầu, hiện tại sở hữu các tài vật phi pháp đó là việc khó khăn của Bồ-tát. 4. Bồ-tát chỉ có một thân, vô lượng chúng sinh có việc cần làm, đồng hiện tiền xin giúp đỡ đó là việc khó khăn của Bồ-tát. 5. Ở nơi phóng dật, như nơi khả ái diệu định ở thế gian hay như sinh cõi trời khiến tâm thuận hợp đó là việc khó khăn của Bồ-tát. 6. Thường muốn làm hết các việc lợi ích chúng sinh mà không năng lực đó là việc khó khăn của Bồ-tát. 7. Với chúng sinh ngu si đần độn cang cường xảo trá, muốn vì chúng nói pháp khiến bỏ tính ấy đó là việc khó khăn của Bồ-tát. 8. Thường ở nơi sinh tử thấy tội lỗi lớn nhưng vì lợi chúng sinh mà không nỡ bỏ đó là việc khó khăn của Bồ-tát. 9. Chưa chứng tăng thượng thanh tịnh ý lạc, phần nhiều bị thất niệm mạng chung đó là việc khó khăn của Bồ-tát. 10. Chưa chứng tăng thượng thanh tịnh lạc, có người đến cầu xin điều mình ái trọng nhất, đó là việc khó khăn của Bồ-tát. 11. Nhiều hạng chúng sinh có ý kiến khác nhau, thích muốn khác nhau hiện có mặt, dạy bảo chúng xả bỏ đó là việc khó khăn của Bồ-tát. 12. Thường thực hành hạnh hết sức không phóng dật mà không đoạn hết tất cả phiền não, đó là việc khó khăn của Bồ-tát.

Nếu các Bồ-tát gặp những việc khó khăn như vậy phải quán sát cân nhắc nặng nhẹ mà lập phương tiện thích hợp, hoặc phải chon lựa Bổ-đặc-già-la, hoặc phải gắng sức nhiếp thụ tùy chuyên nhân duyên, hoặc phát nguyện, hoặc chế ngự tâm không nao núng, hoặc phải trụ tâm quán sát mãnh liệt sắc bén không sinh chán nản mà tự chịu yên. Hoặc từ bi nên tâm sinh buông bỏ, hay là nên phát khởi tinh tiến mãnh liệt, hoặc tư duy khéo dùng phương tiện. Như vậy khéo léo đối trị đúng đắn, Bồ-tát Ma-ha-tát tuy gặp những việc khó khăn trước mặt như vậy có thể thoát khỏi mà không khiếp sợ.

Lại nữa, có 5 tướng Bồ-tát chân thật, do thành tựu đây mà nhập vào số Bồ-tát. Những gì là 5? Nghĩa là thương yêu chúng sinh thường nói lời ái ngữ, việc là dũng mãnh quả quyết, đưa tay ra ơn bố thí, khéo phân tích nghĩa lý sâu xa khúc chiết. Thương yêu có 2 chủng tính: 1. Lạc dục. 2. Chính hạnh. Nói lạc dục, nghĩa là Bồ-tát đối với chúng sinh khởi ý lợi ích và ý an lạc. Nói chính hạnh, nghĩa là các Bồ-tát ở nơi chúng sinh nếu chúng có những dục lạc gì thì tùy sức, tùy khả năng, dùng thân ngữ nghiệp mà nhiếp hóa chúng, thế gọi là thương yêu. Ái ngữ là vui vẻ an ủi dỗ dành, ban trải ân đức. Đó gọi là Bồ-tát thường nói ái ngữ cho chúng sinh. Chỗ làm dũng mãnh quả quyết, nghĩa là mạnh dạn không khiếp sợ, thành tựu thắng lực. Đó gọi là chỗ làm mạnh mẽ quả quyết của Bồ-tát. Đưa tay ra ơn bố thí, nghĩa là các Bồ-tát làm việc bố thí rộng lớn, bố thí không nhiễm trước. Đó gọi là đưa tay huệ thí. Nếu các Bồtát khéo phát khởi được 4 hiểu biết không trở ngại, trí phương tiện đúng đắn, đó gọi là Bồ-tát có thể mổ xẻ phân tích chi tiết nghĩa sâu xa của tự thể.

Lại nữa có 5 tướng đắc thù và 5 tướng phi đặc thù của Bồ-tát, như đã nói trong phẩm Nhiếp tịnh ở trước.

Lại nữa, trong việc công đức, nay sẽ nói đến y chỉ thắng quyết trạch của Đại thừa.

Tụng nói:

Như Lai nói chủng tính,

Nhều Phật với một thừa.

Năm thứ và 10 thứ,

Sáu sáu thứ đạo lý.

Luận nói: Sự sai biệt chủng tính, ngôn giáo Đại thừa là Như Lai nói. Trong một thời gian có nhiều Phật ra đời và tính nhất thừa, thứ tự có 5 thứ, 10 thứ, 6 thứ 6 thứ đạo lý cần phải biết.

Hỏi: Thế nào là 5 thứ đạo lý của chủng tính sai biệt?

Đáp: Nghĩa là vì có sự sai biệt của tất cả cõi, nên hữu tình không có căn là không đúng lý, thí dụ đồng loại là không đúng lý, thí dụ khác loại là không đúng lý, chỉ đời hiện tại chẳng phải pháp Niết-bàn là không đúng lý.

Thế nào là tất cả cõi có sai biệt? Nghĩa là Phật nói các hữu tình giới có nhiều thứ, không phải có một hữu tình giới. Có cõi hữu tình hạ liệt hoặc thắng diệu. Có cõi hữu tình của chủng tính Thanh Văn thừa v.v… Bát-niết-bàn. Có cõi hữu tình của chủng tính không Bátniết-bàn.

Hữu tình không căn, không đúng lý là thế nào? Nghĩa là không thể nói do đạo lý này mà cũng phải có hữu tình không căn. Bởi vì sao? Không căn là như ngoại địa v.v… chẳng phải hữu tình.

Thí dụ đồng loại không đúng lý là thế nào? Nghĩa là không nên nói như chủng loại Sát-đế-lị, phi Sát-đế-lị v.v… có thể chuyển, và thú tính Na-lạc-ca, phi Na-lạc-ca v.v… có thể chuyển. Như vậy chủng tính Bát-niết-bàn, không Bát-niết-bàn cũng phải có thể chuyển. Bởi vì sao? sát-đế-lị và na-lạc-ca v.v… đầy đủ tất cả chủng loại giới tính và các thú giới tính. Còn 2 thứ chủng tính Bát-niết-bàn và không Bát-niết-bàn là mâu thuẫn nhau. Cho nên nếu nó không có các giới tính, nó sẽ rốt ráo không thể chuyển. Vì vậy nên thí dụ đồng loại là không đúng đạo lý.

Thí dụ khác loại không đúng lý là thế nào? Nghĩa là không thể nói như một nơi nào đó hoặc trước có các thứ chủng tính vật loại như vàng, bạc, đồng, sắt, muối v.v… sau lậi không có, hoặc trước không sau có. Như vậy chủng tính của pháp Bát-niết-bàn cũng phải trước có sau không, hoặc trước không sau có. Bởi vì sao? Nếu có lý này thì thuận giải thoát phần phải không có quả. Cho nên thí dụ khác loại cũng không đúng lý.

Chỉ đời hiện tại chẳng phải pháp Bát-niết-bàn là không đúng lý, thế là thế nào? Nghĩa là không nên nói trong đời hiện tại tuy chẳng phải pháp Bát-niết-bàn, nhưng trong các đời khác lại có thể chuyển làm pháp Bát-niết-bàn. Bởi vì sao? Vì không có pháp chủng tính Bát-niết-bàn. Nếu trong đời này hoàn toàn chưa chứa nhóm thiện căn giải thoát phần thì làm sao đời sau có thể Bát-niết-bàn? Cho nên chắc chắn có hữu tình chẳng phải chủng tính Bát-niết-bàn.

Hỏi: Làm sao biết Đại thừa ngôn giáo là Phật nói?

Đáp: Do 10 nhân: 1. Vì trước không ký biệt. 2. Vì nay không thể biết. 3. Vì có nhiều chỗ làm. 4. Vì chướng rất nặng. 5. Vì chẳng phải cảnh giới tầm tứ. Nếu không trước nghe không thể tìm tòi suy đạc được. Cho nên nếu bảo rằng ai khác nói, là không đúng lý. 6. Vì chứng Đại giác. Nếu chưa thành Phật mà nói là Phật dạy là không đúng đạo lý. 7. Vì không có lỗi lầm của thừa thứ 3. 8. Nếu đây không có thì thành lỗi không có nhất thiết trí. 9. Vì duyên đây làm cảnh, như lý tư duy đối trị tất cả các phiền não. 10. Không nên nói vì lấy ý kia.

Hỏi: Làm sao biết được trong cùng một thời có nhiều Như Lai xuất hiện ra đời?

Đáp: Do 6 nhân: 1. Vì có vô lượng hữu tình cùng một lúc phát đại nguyện hiện đã đạt được. 2. Vì có vô lượng hữu tình đồng tu phương tiện Bồ-đề tư lương hiện đã đạt được. 3. Vì chướng ngại nhau là không đúng lý. 4. Vì Bồ-đề tư lương đồng thời viên mãn cùng xuất thế gian là đúng đạo lý. 5. Vì tuần tự xuất hiện là không đúng lý. 6. Vì cuối cùng không thành là không đúng lý.

Hỏi: Vì lý do gì Như Lai tuyên nói nhất thừa?

Đáp: Do 6 nhân: 1. Đứng về tướng không sai biệt mà nói các pháp. 2. Đứng về hành tướng không phân biệt mà nói. 3. Vì chúng sinh vô ngã và pháp vô ngã bình đẳng. 4. Vì giải thoát bình đẳng, vì cầu sai biệt hữu sự, hư vọng, phân biệt, phiền não, đối trị sở duyên pháp tính không mâu thuẫn nhau. 5. Vì khéo trụ biến hóa. 6. Vì hành cứu cánh.

Lại nữa tụng nói:

Chư Phật diệu công năng,

Quả kia cõi thanh tịnh.

Giải thoát và pháp thân,

Đẳng, bất tư, vô thượng.

Luận nói: Tất cả Như Lai đối với tất cả việc làm công năng bình đẳng. Lại quả của công năng kia, cõi nước Phật thanh tịnh, giải thoát thân và pháp thân tất cả chư Phật đều bình đẳng, đều không thể nghĩ bàn và đều vô thượng.

Lại nữa tụng nói:

Tuy không dùng gia hành,

Trước do nguyện lực dẫn.

Y vô vi phát khởi,

Chỗ làm không 2 tướng.

Luận nói: Y chỉ vô vi pháp thân, tuy không dụng công gia hành mà do sức bản nguyện dắt dẫn nên phát khởi tự nhiên tất cả Phật sự Như Lai làm ra. Ví như hành giả từ diệt định khởi. Lại phải biết các Phật sự khởi lên là tướng vô tận, không phải tướng sinh tử cũng không phải tướng Niết-bàn.

Thế nào là tạng Tố-đát-lãm? Thế nào là tạng Tì-nại-da? Thế nào là tạng Ma-đát-lí-ca?

Tụng nói:

Tuyên thuyết các sự pháp,

Biệt giải thoát phân biệt.

Các pháp tướng 11,

Là tạng kinh, luật, bản.

Luận nói: Chư Phật Thế Tôn chỉ dựa vào nhiếp sự làm rõ các pháp. Đó gọi là tạng Tố-đát-lãm.

Hỏi: Những gì là nhiếp sự?

Đáp: Là 4 sự, 9 sự, 29 sự. Những gì là 4 sự? Là văn sự, quy thú sự, học sự, Bồ-đề sự. Chín sự là: 1. Việc giả lập hữu tình. 2. Việc hữu tình thụ dụng. 3. Việc hữu tình thụ sinh. 4. Việc hữu tình sinh rồi trụ. 5. Việc hữu tình nhiễm ô thanh tịnh. 6. Việc các sai biệt của hữu tình. 7. Việc người năng thuyết. 8. Việc pháp sở thuyết. 9. Việc chúng hội. Hai mươi chín sự là trong Kinh Biến Nhiếp Cửu Sự , Phẩm tạp nhiễm nói có 4 sự: 1. Việc gồm các hành. 2. Việc ngay nơi đây tuần tự chuyển. 3. Việc ngay nơi đây lập chúng sinh tưởng, sau chuyển nhân. 4. Việc ngay nơi đây kiến lập pháp , sau chuyển nhân. Lại theo Phẩm thanh tịnh nói có 25 sự: 1. Việc an trụ cảnh sở duyên. 2. Việc cần cù nơi đây. 3. Việc tâm an trụ. 4. Việc trụ hiện pháp lạc. 5. Việc sở duyên phương tiện thoát tất cả khổ. 6. Việc biến tri. Đây có 3 thứ, là điên đảo y xứ biến tri, y hữu tình tưởng nơi ngoài hữu tình tà hạnh y xứ biến tri, trong lìa tăng thượng mạn y xứ biến tri. 7. Việc tu y xứ. 8. Việc tác chứng. 9. Việc tu tập. 10. Việc kiên cố. 11. Việc hành tướng. 12. Việc sở duyên. 13. Việc khéo léo quán đoạn chưa đoạn. 14. Việc tán loạn. 15. Việc không tán loạn. 16. Việc y xứ không tán loạn. 17. Việc không xa lìa phương tiện tu tập không mệt mỏi. 18. Việc tu tập thắng lợi. 19. Việc kiên cố này. 20. Việc Phẩm nhiếp hiền thánh. 21. Việc xa lìa Phẩm nhiếp hiền thánh. 22. Việc thông đạt chân thật. 23. Việc chứng Niết-bàn. 24. Việc khéo nói pháp luật được chính kiến thế gian vượt quá tất cả ngoại chính kiến. 25. Việc không tu tập thoái giảm này. Đây là do khéo nói pháp luật mà không tu tập nên gọi là thoái giảm chứ không do lỗi tà kiến.

Lại nữa Phật Thế Tôn vì các Thanh Văn và các Bồ-tát nói biệt giải thoát và rộng phân biệt pháp biệt giải thoát tương ưng. Đó gọi là tạng Tì-nại-da. Trong đây do 7 tướng gồm thâu biệt giải thoát của Bồ-tát: 1. Tuyên thuyết thụ trì quỹ tắc. 2. Tuyên thuyết về Ba-la-xàdĩ-ca. 3. Tuyên thuyết về hủy phạm. 4. Tuyên thuyết về thể tính của hủy phạm. 5. Tuyên thuyết về thể tính không phạm. 6. Tuyên thuyết về xuất sở hủy phạm. 7. Tuyên thuyết về việc xả luật nghi.

Lại nữa Phật Thế Tôn dùng 11 tướng làm rõ phân biệt khai thị các pháp. Đó gọi là tạng Ma-đát-lí-ca. Những gì là 11 tướng? 1. Tướng thế tục đế. 2. Tướng thắng nghĩa đế. 3. Tướng sở duyên pháp Bồ-đề phần. 4. Tướng hành đây. 5. Tướng tự thể đây. 6 Tướng được quả đây. 7. Tướng hiển rõ lãnh thụ đây. 8. Tướng pháp chướng ngại đây. 9. Tướng pháp tùy thuận đây. 10. Tướng lỗi lầm đây. 11. Tướng ngợi khen đây.

Tướng thế tục, là tuyên thuyết Bổ-đặc-già-la, tuyên thuyết biến kế sở chấp tự tính, tuyên thuyết tướng tác dụng, nghiệp cụ v.v… các pháp. Tướng thắng nghĩa, là tuyên thuyết 7 tướng chân như pháp Bồđề phần. Tướng sở duyên, là tuyên thuyết tất cả các thứ sở tri.

Tướng hành đây, là tuyên thuyết 8 quan sát hành. Những gì là 8? 1. Quán sát đế hành. 2. Quán sát kiến lập hành. 3. Quán sát tội lỗi hành. 4. Quán sát công đức hành. 5. Quán sát lý thú hành. 6. Quán sát lưu chuyển hành. 7. Quán sát đạo lý hành. 8. Quán sát rộng, sơ lược hành. Đế, là chân như. Kiến lập, là hoặc kiến lập Bổ-đặc-già-la, hoặc kiến lập biến kế sở chấp tự tính, hoặc kiến lập hoàn toàn phân biệt phản vấn trí ký luận, hoặc kiến lập ẩn mật hiển liễu ký luận. Tội lỗi, là Phật nói các pháp tạp nhiễm không phải một mà có nhiều thứ tội lỗi sai biệt. Công đức, là như Phật nói các pháp thanh tịnh không phải một mà có nhiều thứ thắng lợi sai biệt. Lý thú, là có 6 thứ lý thú như đã nói trong Phẩm nhiếp sự. Lưu chuyển, là 3 đời, 3 tướng hữu vi và 4 duyên. Đạo lý, là 4 thứ đạo lý: 1. Quán đãi đạo lý. 2. Tác dụng đạo lý. 3. Chứng thành đạo lý. 4. Pháp nhĩ đạo lý. Nếu do các nhân các duyên mà các hành sinh khởi và tùy hiển mà nói, đó là quán đãi đạo lý. Nếu do các nhân các duyên mà hoặc chứng đắc hoặc thành mãn các pháp, nếu chúng đã sinh có thể khởi nghiệp dụng thì đó gọi là tác dụng đạo lý. Nếu do các nhân các duyên mà nghĩa lập ra, nói ra, nêu ra được thành lập được hiểu đúng, đó gọi là chứng thành đạo lý. Đây lại có 2 thứ: một, thanh tịnh, hai, không thanh tịnh. Thanh tịnh là do 5 thứ tướng, không thanh tịnh do 7 thứ tướng. Năm thứ tướng thanh tịnh là: 1. Tướng do hiện lượng được. 2. Tướng do y chỉ hiện lượng được. 3. Tướng dẫn thí dụ tự loại. 4. Tướng thành tựu. 5. Tướng khéo thanh tịnh ngôn giáo. Trong đây tính vô thường của tất cả các hành, tính khổ của tất cả các hành, tính vô ngã của tất cả pháp đều do hiện lượng thế gian được. Những loại như vậy đều gọi là tướng sở đắc của hiện lượng. Nếu tính sát-na của tất cả hành, tính hiện hữu đời sau, tính tịnh bất tịnh không hoại mất thì đây là sở đắc dựa vào hiện lượng thô vô thường, là sở đắc dựa vào hiện lượng các thứ nghiệp sai biệt của hữu tình, và là sở đắc dựa vào hiện lượng nghiệp tịnh bất tịnh của hữu tình khổ vui. Do hiện lượng sở đắc này so với pháp không hiện thấy, nên gọi đó là tướng sở đắc do dựa vào hiện lượng. Nếu các hành ở trong ngoài dẫn tất cả thế gian đều biết đều được tướng sinh diệt, dẫn tất cả thế gian đều biết đều được tướng khổ như sinh v.v…, dẫn tất cả thế gian đều biết đều được tướng không tự tại, và trong ngoại sự dẫn tất cả thế gian đều biết đều được tướng hưng thịnh suy hoại, những loại như vậy gọi là tướng dẫn tự loại thí dụ. tức là tướng sở đắc của hiện lượng và tướng thí dụ của dẫn tự loại. Hai cái này nơi chỗ thành lập nó hoàn toàn quyết định, nên gọi là tướng thành tựu. Nếu các ngôn giáo là những điều tất cả người trí nói, như nói Niết-bàn tịch tĩnh, những loại như vậy gọi là khéo nói tướng ngôn giáo thanh tịnh. Trong đây có 5 thứ tướng có thể biểu thị chân thật của tất cả người trí. Những gì là 5? 1. Nếu có tất cả người trí xuất hiện thế gian thì chính thật tiếng tăm lưu bố thế giới. 2. Đủ 32 tướng đại trượng phu. 3. Thành tựu 10 sức, đoạn dứt lưới nghi các hữu tình. 4. Tự xưng đầy đủ 4 không sợ hãi, không bị tất cả luận nạn khác làm cho khuất phục, lại có thể xô bẹp tất cả ngoại luận. 5. Đối với pháp luật có thể đạt được 8 chi Thánh đạo và 4 quả Sa-môn v.v…Xuất hiện như vậy, tướng tốt như vậy, đoạn nghi như vậy, lập phá như vậy đạo quả như vậy, do 5 tướng đây biểu thị chân thật tất cả người trí. Như vậy trong đạo lý chứng thành là do hiện lượng, do tỷ lượng, do thí dụ, do thảnh tựu, do chí giáo lượng. Do đó, 5 tướng gọi là thanh tịnh. Bảy tướng không thanh tịnh là: 1. Tướng sở đắc do phần dư đồng loại khác. 2. Tướng sở đắc do phần dư các khác loại. 3. Tướng sở đắc do tất cả đồng loại. 4. Tướng sở đắc do tất cá khác loại. 5. Tướng dẫn thí dụ khác loại. 6. Tướng không thành tựu. 7. Tướng ngôn giáo không thanh tịnh. Nếu tất cả pháp ý thức sở thức tính, đó là tướng sở đắc của tất cả đồng loại. Hoặc tướng mạo, hoặc tự thể, hoặc nghiệp, hoặc pháp, hoặc nhân, hoặc quả v.v… tướng đồng dị, hoặc tùy một phần lại có tướng đồng dị lẫn nhau, đó là tướng sở đắc của phần dư đồng dị loại. Hoặc quyết định tướng khác nhau, đó gọi là tướng sở đắc của tất cả khác loại. Nếu thí dụ có tướng sở đắc của phần dư đồng loại, và có tướng sở đắc của tất cả khác loại, do tướng này nơi thành lập nghĩa không quyết định nên gọi là tướng không thành tựu. Nếu thí dụ có tướng sở đắc của phần dư khác loại , và tướng sở đắc của tất cả đồng loại, do tướng này nơi thành lập nghĩa không quyết định nên cũng gọi là tướng không thành tựu. Do không thành tựu nên gọi là quán đạo lý không thanh tịnh. Vì quán này không thanh tịnh nên không nên tu tập. Tướng ngôn giáo không thanh tịnh, nghĩa là các ngôn giáo mà tự tính không thanh tịnh. Pháp nhĩ đạo lý, nghĩa là Như Lai dù xuất thế dù không xuất thế, pháp tính pháp giới an trụ không biến đổi, đó gọi là pháp nhĩ đạo lý. Sơ lược, rộng, nghĩa là trước nói một câu pháp, sau cứ triển khai vô lượng câu phân biệt hiển rõ cứu cánh.

Tướng tự thể này, nghĩa là năng thủ hoặc hành, hoặc duyên pháp Bồ-đề phần, 4 niệm trụ v.v… đó gọi là tướng tự thể này. Được tướng của quả này, nghĩa là quả đoạn phiền não thế gian hoặc xuất thế gian, và dẫn phát công đức thế gian xuất thế gian, gọi là được tướng của quả này.

Tướng hiển rõ lãnh thụ này, nghĩa là do trí giải thoát nên lãnh thụ quả tướng sở đắc này, và rộng vì người khác nói rõ tướng ấy thì gọi là tướng hiển rõ sự lãnh thụ.

Tướng của pháp chướng ngại đây, nghĩa là nếu khi tu pháp Bồđề phần thì đó là pháp có thể làm chướng ngại sự nhiễm ô, đó gọi là tướng của pháp chướng ngại đây. Tướng của pháp tùy thuận đây, nghĩa là pháp Bồ-đề phần này có thể tùy thuận nhiều pháp sở tác, đó gọi là tướng của pháp tùy thuận đây. Tướng của lỗi lầm đây, nghĩa là có thể chướng ngại các lỗi lầm, đó gọi là tướng lỗi lầm đây.

Tướng ca ngợi đây, nghĩa là công đức của pháp tùy thuận. Đó là tướng ca ngợi đây. Tùy sở hữu xứ, chư Phật Thế Tôn dùng 11 tướng như vậy làm rõ, phân biệt, khai thị các pháp. Đó gọi là Ma-đát-lí-ca.

Lại nữa tụng nói:

Các tướng với đoạn diệt,

Không hoại mất phương tiện.

Kia 2 quả sai biệt,

Lac các kinh lược nghĩa.

Luận nói: Phải biết nghĩa của các kinh lược nói có 5 thứ: 1.Tướng.

2. Đoạn diệt. 3. Không hoại mất phương tiện. 4. Hai quả kia. 5. Tướng v.v… sai biệt. Năm lược nói này, như Kinh Thiện Sinh:” Phật bảo Thiện Sinh: Tộc tính tử ! Có 2 việc đều là mỹ diệu.” Tướng mỹ diệu này có 2 thứ đoạn diệt là muốn thủ đoạn diệt và y sự. Thủ đoạn diệt, là đây nói gồm làm rõ 2 thứ không hoại mất phương tiện. Hai thứ không hoại mất phương tiện, là nếu cạo bỏ râu tóc, cho đến chẳng ở tại gia, nếu hết các lậu cho đến giác thụ: ” Đời ta đã hết, cho đến nói rộng …” Hai quả kia, là quả không hoại mất phương tiện. Tính tịch tĩnh sai biệt, là 5 thứ tịch tĩnh sai biệt: 1. Các triền tịch tĩnh. 2. Thế gian ly dục tịch tĩnh. 3. Thuận hạ phần tịch tĩnh. 4. Thuận thượng phần tịch tĩnh. 5. Y sự tịch tĩnh. Để làm rõ đây, kinh kia có nói Già-tha:

Các Tì-khưu mỹ diệu,

Vắng lặng lìa các lậu.

Lìa dục lìa trói buộc,

Không chấp thụ Niết-bàn.

Tự giữ thân sau cùng,

Dẹp các ma sai khiến.

Lại nữa tụng nói:

Lược nói Du-già đạo,

Duyên chỗ nghi chính pháp.

Xa-ma-tha và quán,

Y ảnh tượng thành tựu.

Luận nói: Nếu lược nói Du-già đạo, phải biết gồm nghe nhiều, chính pháp làm cảnh giới, Xa-ma-tha Tì-bát-xá-na làm tự thể, y chỉ ảnh tượng và y chỉ sự thành tựu. Như Bạc-già-phạm nói có 5 pháp có thể gồm thâu các hành giả Du-già, các địa Du-già, đó là trì, trụ, minh, kính và chuyển y. Phải biết nghe chính pháp là trì, sở duyên là trụ, chỉ quán là minh, ảnh tượng là cảnh, sự thành tựu là chuyển y.

TRỌN BỘ 20 QUYỂN HẾT