LUẬN A TỲ ĐÀM TỲ BÀ SA
STác giả: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử
Giải thích: Năm trăm A La Hán
Hán dịch: Đời Bắc Lương, Sa môn Phù Đà Bạt Ma, Đạo Thái v.v…
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 33

Chương 2: KIỀN ĐỘ SỬ

Phẩm thứ 2: MỘT HÀNH, phần 3

Thoái chuyển có ba thứ: (1) Đã được, thoái chuyển. (2) Không được, thoái chuyển. (3) Hành không hiện tiền, thoái chuyển.

Đã được, thoái chuyển: Là đã được các công đức thiện mà thoái chuyển.

Không được, thoái chuyển: Là tất cả chúng sinh, nếu siêng năng dùng các phương tiện, đều thích ứng được với mắt tuệ của Thánh. Do tham vướng nơi danh sắc, nên không siêng năng dùng phương tiện. Đó gọi là không được, thoái chuyển. Như kệ nói:

Tất cả trời, người đời

Đều nên được mắt tuệ

Vì tham vướng danh, sắc

Nên không thấy chân đế.

Lại như kệ nói:

Chúng ngu tiểu được kính

Đây tức gọi mất lợi

Mất hết các pháp thiện

Đó gọi là đảnh đọa.

Đức Thế Tôn đã vì Đề-bà-đạt-đa nên nói kệ này. Đề-bà-đạt-đa đã khởi căn thiện Noãn, không lâu sẽ được pháp Đảnh. Trong thời gian ấy, vì tham vướng lợi dưỡng, nên đối với pháp thiện đã thoái mất. Như thế gọi là không được mà thoái chuyển.

Hành không hiện tiền, thoái chuyển: Là đã được pháp thiện, hành không hiện tiền. Như Đức Phật không khởi Bồ-đề của Phật hiện ở trước. Phật-bích-chi không khởi Bồ-đề của Phật-bích-chi hiện ở trước. Thanh văn không khởi Bồ-đề của Thanh văn hiện ở trước. Đó gọi là hành không hiện tiền, thoái chuyển.

Hỏi: Trong ba thứ thoái chuyển này, bao nhiêu thứ là của Phật, bao nhiêu thứ là của Phật-bích-chi, bao nhiêu thứ là của Thanh văn?

Đáp: Phật có một thứ thoái chuyển là hành không hiện tiền, thoái chuyển. Tức vốn được pháp thiện, vì hành không hiện tiền. Không có không được, thoái chuyển. Vì sao? Vì trong tất cả chúng sinh đã được căn tối thắng. Không có được, thoái chuyển. Vì sao? Vì không phải là pháp thoái chuyển.

Phật-bích-chi có hai thứ thoái chuyển: (1) Không được, thoái chuyển. (2) Hành không hiện tiền, thoái chuyển. Không được thoái chuyển: Là không được căn của Phật. Hành không hiện tiền, thoái chuyển: Là vốn được pháp thiện, vì hành không hiện tiền. Không có không được thoái chuyển: Vì không phải là pháp thoái chuyển.

Thanh văn là phi thời giải thoát, có hai thứ thoái chuyển: (1) Không được, thoái chuyển. (2) Hành không hiện tiền, thoái chuyển. Không được, thoái chuyển: Là không được căn của Phật, Phật-bíchchi. Hành không hiện tiền, thoái chuyển: Là vốn được pháp thiện, vì hành không hiện tiền. Không có không được thoái chuyển: Vì không phải là pháp thoái chuyển.

A-la-hán thời giải thoát có ba thứ thoái chuyển: (1) Đã được, thoái chuyển: Là trước đã được pháp thiện mà thoái chuyển. (2) Không được, thoái chuyển: Là không được ba thứ căn. (3) Hành không hiện tiền, thoái chuyển: Là trước đã được pháp thiện, hành không hiện tiền.

Lại có thuyết nói: Phật, Thế Tôn không có ba thứ thoái chuyển: (1) Không có đã được, thoái chuyển: Vì không phải là pháp thoái chuyển. (2) Không có không được thoái chuyển: Vì trụ nơi căn tối thắng trong tất cả chúng sinh. (3) Không có hành không hiện tiền, thoái chuyển. Vì sao? Vì Đức Phật ở trong vô số A tăng kỳ kiếp đã tích tập các khổ hạnh khó làm, đều muốn vì chúng sinh giảng nói pháp, không khi nào là không vì chúng sinh.

Phật-bích-chi có một thứ thoái chuyển: Là trước đã được pháp thiện, vì hành không hiện tiền. Không có đã được, thoái chuyển: Vì không phải là pháp thoái chuyển. Không có không được, thoái chuyển: Là nếu đối với Phật-bích-chi căn đã nhất định, không cầu căn của Phật.

A-la-hán phi thời giải thoát có một thứ thoái chuyển: Là trước đã được pháp thiện, vì hành không hiện tiền. Không có đã được, thoái chuyển: Vì không phải là pháp thoái chuyển. Không có không được, thoái chuyển: Là nếu đối với căn của phi thời giải thoát đã định, không cầu căn của Phật, Phật-bích-chi.

A-la-hán thời giải thoát có hai thứ thoái chuyển: (1) Đã được, thoái chuyển: Là trước đã được pháp thiện mà thoái chuyển. (2) Hành không hiện tiền, thoái chuyển: Là trước được pháp thiện, hành không hiện tiền. Không có không được, thoái chuyển: Là nếu đối với căn của thời giải thoát đã định thì không cầu ba thứ căn trên.

Lời bình: Nên tạo ra thuyết này: Đức Phật, Thế Tôn có một thứ thoái chuyển, nghĩa là hành không hiện tiền, thoái chuyển. Phật-bích-chi có hai thứ thoái chuyển: Hành không hiện tiền, thoái chuyển. Không được, thoái chuyển. A-la-hán phi thời giải thoát cũng như thế. A-la-hán thời giải thoát có ba thứ thoái chuyển: Đã được, thoái chuyển. Hành không hiện tiền, thoái chuyển và không được, thoái chuyển.

Hỏi: Làm sao nhận biết được Đức Phật, Thế Tôn có hành không hiện tiền, thoái chuyển?

Đáp: Vì dựa vào kinh Phật nên nhận biết. Kinh nói: Phật bảo Tôn giả A-nan: Đức Như Lai có bốn thứ tâm tăng thượng, thọ nhận hiện pháp lạc. Nơi bốn tâm này lần lượt có thoái chuyển. Như khi các đệ tử nhóm họp, vì họ giảng nói pháp. Nếu pháp bất động, tâm được giải thoát, thân tác chứng thì không nói có thoái chuyển.

Hỏi: Trong đây là nói hành hiện tiền thoái chuyển hay là nói đã được thoái chuyển?

Nếu nói là hành hiện tiền, thoái chuyển, thì pháp bất động, tâm được giải thoát, cũng nên có thoái chuyển. Vì sao? Vì không thể trong tất cả thời gian đều khiến cho pháp bất động, thường hiện ở trước.

Nếu nói là đã được, thoái chuyển, thì bốn thứ tâm tăng thượng cũng không nên thoái chuyển. Vì sao? Vì Như Lai là pháp bất thoái.

Đáp: Nên tạo ra biện luận này là hành hiện tiền, thoái chuyển.

Hỏi: Nếu như vậy thì pháp bất động, tâm được giải thoát, cũng nên có thoái chuyển chăng?

Đáp: Pháp bất động, tâm được giải thoát, vì chứng đắc là vượt hơn. Nếu chứng đắc pháp kia thì lại không có đối tượng tạo tác. Tâm tăng thượng do hành hiện tiền là hơn, nếu không hiện ở trước nên nói là thoái chuyển.

Lại có thuyết cho: Nếu dựa vào thiền vị chí, là nói pháp bất động. Nếu dựa vào thiền căn bản, là nói tâm tăng thượng. Đức Như Lai dựa vào vị lai, hiện ở trước nhiều. Nếu khi ăn, hoặc sau khi ăn, lúc vì người khác giảng nói pháp, lúc giảng nói pháp xong, muốn nhập định. Đức Như Lai đối với thiền định là nhanh chóng, đối với thiền vị chí là nhanh chóng, hơn là đối với thiền căn bản. Cũng như người đi nhanh luôn hành pháp đi nhanh, nhưng đối với xứ gần thì đi nhanh hơn đối với xứ xa.

Lại nữa, lợi ích cho mình là nói tâm tăng thượng. Đem lại lợi ích cho người khác là nói pháp bất động. Đức Như Lai tạo lợi ích cho người khác nhiều, tạo lợi ích cho mình ít.

Lại nữa, từ bi là nói pháp bất động. Hỷ xả là nói tâm tăng thượng. Đức Như Lai phần nhiều khởi từ bi, ít khởi hỷ xả

Lại nữa, đại bi là nói pháp bất động. Đại xả là nói tâm tăng thượng. Đức Như Lai phần nhiều khởi tâm đại bi, ít khởi đại xả.

Tôn giả Cù-sa nói: Vĩnh viễn đoạn dứt tất cả kiết là nói pháp bất động. Như Lai thì nơi tất cả thời tâm kia luôn hiện ở trước.

Hỏi: Nếu Đức Phật, Thế Tôn có hành hiện tiền thoái chuyển, thì hành thoái chuyển này, Phật là nhiều, Phật-bích-chi nhiều, hay Thanh văn nhiều?

Đáp: Hành hiện tiền của Đức Như Lai thoái chuyển nhiều, không phải là Thanh văn, Phật-bích-chi. Vì sao? Vì nếu Đức Như Lai trong khoảng một sát-na, hành hiện tiền thoái chuyển thì hơn hẳn Phật-bíchchi, Thanh văn suốt đời thoái chuyển. Do Đức Như Lai có pháp u ẩn sáng sạch thâm diệu, rộng lớn vô biên. Ví như Chuyển luân Thánh vương trị vì bốn châu thiên hạ, nếu lìa bỏ quốc độ của mình trong một ngày là hơn hẳn các tiểu vương xa lìa quốc độ của mình suốt cả đời.

Nơi Kiền độ Định nói như thế này: Vì lý do gì quả A-la-hán thoái chuyển, quả A-na-hàm thoái chuyển, quả Tư-đà-hàm thoái chuyển không phải là quả Tu-đà-hoàn?

Đáp: Tức văn của Kiền độ Định kia nói: Pháp do kiến đế đoạn duyên nơi vô sở hữu.

Thế nào là duyên nơi vô sở hữu? Là nhân nơi pháp không khởi.

Thế nào là nhân nơi pháp không khởi? Là nhân nơi ngã khởi. Do trong nghĩa thật không có ngã.

Pháp do tu đạo đoạn duyên nơi pháp có.

Thế nào là duyên nơi pháp có? Là nhân nơi có khởi.

Thế nào là nhân nơi có khởi? Là nhân nơi tịnh, nên tịnh có một ít tịnh. Như tóc, móng tay, răng, môi nơi hình sắc tịnh, quán pháp này, tạo tưởng tịnh, nên đối với pháp bất tịnh thì thoái chuyển. Không có phần ít của pháp là ngã, ngã sở nhưng chấp nơi ngã. Lúc quán pháp này, không có đối với pháp vô ngã, thoái chuyển, thế nên không thoái chuyển.

Lại nữa, đoạn dứt phiền não nơi ba cõi do kiến đạo đoạn gọi là quả Tu-đà-hoàn, nên không thể làm thoái chuyển quả Tu-đà-hoàn.

Lại nữa, đoạn dứt phiền não nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng do kiến đạo đoạn gọi là quả Tu-đà-hoàn, nên không thể làm thoái chuyển sự đoạn trừ này.

Đây là nhân luận sinh luận, vì sao không thể làm thoái chuyển sự đoạn trừ ấy?

Đáp: Vì phiền não của xứ phi tưởng phi phi tưởng rất khó đoạn, khó phá, khó vượt qua. Vì khó đoạn, khó phá, khó vượt qua, nên trở lại khiến chúng nối tiếp cũng rất khó.

Lại nữa, dùng nhẫn tạo ra đối trị, đoạn phiền não duyên nơi vô sở hữu, gọi là quả Tu-đà-hoàn, không có thoái chuyển nhẫn, tạo đối trị đoạn phiền não duyên nơi vô sở hữu.

Lại nữa, do kiến đạo có thể tiến đến quả Tu-đà-hoàn, không người nào có thể làm thoái chuyển kiến đạo.

Như thế, nhân luận sinh luận, vì sao không thể làm thoái chuyển kiến đạo?

Đáp: Kiến đạo là đạo nhanh chóng, là đạo không khởi, không có uy lực để khởi đạo ấy.

Lại nữa, hành giả nhập kiến đạo, gọi là vào trong dòng pháp lớn của sông pháp lớn, cũng còn không thể khởi tâm thiện, tâm vô ký không ẩn mất hiện ở trước, huống chi là tâm nhiễm ô. Ví như có người rơi vào dòng thác trong hang núi, trôi nổi theo làn sóng hãy còn không thể bám víu vào bờ bên kia, bên này, huống chi là có thể ra khỏi. Nhập kiến đạo kia cũng như thế.

Lại nữa, kiến đạo là chủ thể đối trị các pháp nơi ba cõi do kiến đạo đoạn, nên không người nào có thể làm thoái chuyển việc đoạn trừ này.

Lại nữa, kiến đạo là chủ thể đối trị các kiết hiện có nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng do kiến đạo đoạn trừ, nên không có việc thoái chuyển sự đoạn trừ này.

Lại nữa, kiến đạo là nhẫn tạo đối trị, đoạn phiền não duyên nơi vô sở hữu, nên không có thể làm thoái chuyển sự việc này.

Hỏi: Nếu thoái chuyển quả A-la-hán, khi trụ nơi quả Tu-đàhoàn, nên nói là thoái chuyển quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm chăng?

Đáp: Nên nói là thoái chuyển. Ví như có người từ trên ngôi nhà ba tầng rơi xuống đất, nên nói là người này rơi xuống từ ngôi nhà ba tầng. Sự thoái chuyển quả A-la-hán cũng như thế.

Hỏi: Hai quả Sa-môn kia vốn không thành tựu, vì sao nói là thoái chuyển?

Đáp: Do không thành tựu, lại không thành tựu.

Thế nào là không thành tựu, lại không thành tựu? Là xưa đã xa, nay lại càng xa.

Lại nữa, vì đã đoạn dứt từng ấy kiết nên gọi là quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm. Do thoái chuyển kiết nên quả cũng gọi là thoái chuyển.

Lại nữa, các phiền não do quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm làm đối trị. Phiền não kia vốn được tạo thành, vì tạo thành phiền não nên sự đối trị kia gọi là thoái chuyển.

Lại nữa, do đạo vô ngại, đạo giải thoát có thể dẫn đến quả Tưđà-hàm, quả A-na-hàm, nên đối với đạo kia thoái chuyển thì quả cũng gọi là thoái chuyển.

Lại nữa, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm là nhân của quả A-lahán. Quả A-la-hán nếu thoái chuyển thì nhân của quả kia cũng gọi là thoái chuyển.

Hỏi: Quả Tu-đà-hoàn cũng là nhân của quả A-la-hán. Quả A-lahán cũng là quả của quả Tu-đà-hoàn. Vì sao lúc thoái chuyển quả A-la-hán kia không thoái chuyển nhân?

Đáp: Vì trước quả Tu-đà-hoàn không có quả nào nữa. Nếu khi thoái chuyển quả Tu-đà-hoàn thì lại không có trụ xứ. Nếu như thoái chuyển quả Tu-đà-hoàn thì xưa là kiến đế, nay không phải là kiến đế. Xưa là đắc quả, nay không phải là đắc quả. Xưa là quyết định, nay không phải là quyết định. Xưa là Thánh nhân, nay không phải là Thánh nhân.

Vì muốn khiến không có lỗi như thế, nên nói quả Tu-đà-hoàn không thoái chuyển.

Thoái chuyển quả Sa-môn căn bản thì không mạng chung, trung gian của quả thoái chuyển thì mạng chung.

Hỏi: Vì sao thoái chuyển quả Sa-môn căn bản thì mạng chung?

Đáp: Vì dễ trông thấy, dễ thiết lập: Đây là quả Tu-đà-hoàn, cho đến nói đây là quả A-la-hán. Trung gian của quả thì không dễ thấy, không dễ thiết lập.

Lại nữa, hành giả vào lúc ấy, đối với quả sinh khởi vui thích lớn. Ví như nhà nông, trong sáu tháng gieo cấy chăm sóc ruộng lúa, sau đấy thu hoạch hạt thóc chắc, chứa nhóm trong sân, kho, tâm vô cùng vui thích, vừa ý. Quả kia cũng như thế.

Lại nữa, thời gian này có ba sự việc: (1) Được đạo chưa từng được. (2) Bỏ đạo đã từng được. (3) Đoạn dứt phiền não đồng nơi một vị.

Lại nữa, vào thời gian này có năm sự việc: (1) Được đạo chưa từng được. (2) Bỏ đạo đã từng được. (3) Đoạn dứt phiền não đồng nơi một vị. (4) Tức khắc đạt được tám trí. (5) Tu mười sáu hành.

Lại nữa, thời gian này là xứ nghỉ ngơi, là nơi chốn dừng nghỉ tối thắng.

Lại nữa, thời gian này sự việc đoạn trừ kiết đều thành, các phương tiện của đạo đều thành. Sự đoạn trừ kiết nơi trung gian của quả chưa thành, phương tiện của đạo chưa thành.

Lại nữa, thời gian này chấp nhận tu rộng đạo, trung gian của quả không chấp nhận tu rộng đạo.

Lại nữa, hành giả lúc ấy khéo nhận biết về công đức, lỗi lầm xấu ác. Biết công đức là đạo, là quả của đạo. Biết lỗi lầm xấu ác là pháp sinh tử.

Lại nữa, hành giả nơi thời gian này khéo nhận lấy về hình tướng. Như người lúc đi giữa đường, không thể khéo ghi nhận hình tướng của bốn phương. Nếu như ngồi tại một chỗ thì có thể khéo ghi nhận hình tướng của bốn phương. Hành giả kia cũng như thế.

Lại nữa, hành giả vào thời gian này có người tùy tùng thấy biết. Cũng như có người ở nơi khoảng giữa thôn xóm bị cướp giựt, không có người cùng đi theo thấy biết. Nếu ở ngay trong thôn xóm bị cướp giựt thì có nhiều người cùng đi theo thấy biết.

Lại nữa, hành giả vào thời gian này, trước đã tu rộng đạo phương tiện, xứ an lập vững chắc.

Quả Tu-đà-hoàn đã tu rộng đạo phương tiện, trước vì giải thoát nên tu bố thí, giữ giới, văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ, đạt được noãn, đảnh, nhẫn, pháp thế đệ nhất và mười lăm khoảnh tâm trong kiến đạo.

Quả Tư-đà-hàm tu rộng đạo phương tiện, như trên đã nói về các pháp thiện. Lại còn có pháp chưa từng có, nghĩa là khi lìa dục của cõi dục, tu đạo phương tiện, sáu đạo vô ngại, năm đạo giải thoát.

Quả A-na-hàm tu rộng đạo phương tiện, như trên đã nói về các pháp thiện. Lại còn có pháp chưa từng có, nghĩa là khi lìa dục ái, tu đạo phương tiện, ba đạo vô ngại, hai đạo giải thoát.

Quả A-la-hán tu rộng đạo phương tiện, như trên đã nói về các pháp thiện. Lại còn có pháp chưa từng có, nghĩa là khi lìa dục của thiền thứ nhất, tu đạo phương tiện, chín đạo vô ngại, chín đạo giải thoát. Cho đến lìa dục của xứ vô sở hữu nói cũng như thế. Khi lìa dục của xứ phi tưởng phi phi tưởng, là đã tu các đạo phương tiện, chín đạo vô ngại và tám đạo giải thoát.

Lại nữa, hành giả nơi thời gian này đã đoạn dứt tất cả phần sinh, dừng bỏ tất cả phần sinh. Tu-đà-hoàn trừ bảy phần sinh của cõi dục, mỗi mỗi xứ sinh của cõi sắc, vô sắc, trừ một phần sinh. Tất cả phần sinh còn lại đều được phi số diệt. Tư-đà-hàm trừ hai phần sinh của cõi dục, mỗi mỗi xứ sinh của cõi sắc, vô sắc, trừ một phần sinh. Tất cả phần sinh còn lại đều được phi số diệt. Quả A-na-hàm nơi mỗi mỗi xứ sinh của cõi sắc, vô sắc đều trừ một phần sinh. Tất cả phần sinh còn lại đều được phi số diệt. Tất cả phần sinh của A-la-hán đều được phi số diệt.

Lại nữa, hành giả nơi thời gian này đã tức khắc chứng đắc việc đoạn trừ phiền não nơi ba cõi do kiến đạo, tu đạo đoạn. Tu-đà-hoàn tức khắc chứng đắc sự việc đoạn trừ phiền não nơi ba cõi. Tư-đà-hàm tức khắc chứng đắc sự việc đoạn trừ phiền não nơi ba cõi do kiến đạo đoạn, cùng việc đoạn trừ sáu thứ phiền não nơi cõi dục do tu đạo đoạn. A-na-hàm tức khắc chứng đắc sự việc đoạn trừ phiền não nơi ba cõi do kiến đạo đoạn, cùng việc đoạn trừ chín thứ phiền não nơi cõi dục do tu đạo đoạn. A-la-hán tức khắc chứng đắc sự việc đoạn trừ phiền não nơi ba cõi do kiến đạo, tu đạo đoạn.

Do những sự việc v.v… như thế, nên quả Sa-môn căn bản thoái chuyển, không mạng chung, trung gian của quả thì có mạng chung, sau khi đã lìa dục của cõi dục, cho đến lìa dục của xứ vô sở hữu, được chánh quyết định, nếu thoái chuyển là do phiền não của địa trên thoái chuyển.

Hỏi: Vì lý do gì phiền não của địa trên thoái chuyển, không thoái chuyển địa dưới?

Đáp: Vì phiền não của địa dưới đã bị hai thứ đối trị trừ bỏ, nên không thể sinh lại.

Lại nữa, phiền não kia đã đoạn trừ rồi, còn có pháp của kiến đạo lần nữa rơi vào địa trên. Vì còn rơi vào địa trên nên không thể sinh lại. Như người nằm nghỉ dưới đất, núi lớn rơi lên trên, cũng không thể nhúc nhích, huống chi là có thể đứng dậy.

Lại nữa, kiết kia đã đoạn trừ rồi, sinh nhẫn trí. Không có sự việc nhẫn trí bị thoái chuyển.

Lại nữa, kiết kia đã đoạn trừ rồi, sinh ra pháp trí, tỷ trí. Không có sự việc pháp trí, tỷ trí bị thoái chuyển hoàn toàn.

Lại nữa, kiết kia đã đoạn trừ rồi, sinh ra pháp thế đệ nhất. Không có sự việc pháp thế đệ nhất thoái chuyển.

Lại nữa, kiết kia đã đoạn trừ rồi, sinh ra nhẫn tăng thượng. Không có trường hợp nhẫn tăng thượng thoái chuyển.

Lại nữa, người phàm phu đã lìa dục của cõi dục, cho đến lìa dục của xứ vô sở hữu, từ cõi dục cho đến xứ vô sở hữu, phiền não do kiến đạo, tu đạo đoạn trừ đã tập hợp lại, như phương pháp cắt cỏ, tạo ra chín thứ, đoạn trừ trong cùng một lúc. Về sau khi đắc quả, về đối trị thoái chuyển, nên nói là kiết do kiến đạo đoạn là thành tựu chăng? Nếu thành tựu, thì không có Thánh nhân thoái chuyển kiết do kiến đạo đoạn trừ. Nếu không thành tựu, thì làm sao đồng một đối trị đoạn trừ phiền não? Đối với đối trị kia thoái chuyển, hoặc có thành tựu, hoặc không thành tựu. Sự việc này vì sao có thể như vậy?

Hỏi: Như sẽ được quả A-la-hán, lúc trụ nơi định kim cang dụ cũng đã tạo thành phiền não phẩm hạ hạ của xứ phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nếu khi thoái chuyển quả A-la-hán, trở lại tạo thành phiền não phẩm hạ hạ của xứ phi tưởng phi phi tưởng, thì có thành tựu định kim cang dụ chăng?

Đáp: Không thành tựu.

Hỏi: Vì sao lúc đang được quả A-la-hán, trụ nơi định kim cang dụ, là đã tạo thành phiền não phẩm hạ hạ. Nếu khi thoái chuyển quả A-la-hán, thì tạo thành phiền não phẩm hạ hạ mà không thành tựu định kim cang dụ?

Đáp: Định kim cang dụ phải dụng công nhiều, dùng nhiều phương tiện, sau đấy mới được. Còn phiền não phẩm hạ hạ không dụng công nhiều, không dùng nhiều phương tiện nhưng vẫn hiện ở trước.

Lại nữa, định kim cang dụ lúc thắng tấn thì được. Phiền não phẩm hạ hạ khi thoái mất thì được.

Lại nữa, định kim cang dụ không gây trở ngại cho việc tạo thành phiền não phẩm hạ hạ, chỉ tạo trở ngại cho việc hiện hành. Còn phiền não phẩm hạ hạ thì gây trở ngại cho việc thành tựu định kim cang dụ, gây trở ngại cho hành hiện tiền. Như định kim cang dụ không gây trở ngại cho việc tạo thành phiền não phẩm hạ hạ. Như thế, trụ nơi định kim cang dụ cũng tạo thành phiền não phẩm hạ hạ. Như phiền não phẩm hạ hạ gây trở ngại cho việc thành tựu định kim cang dụ, cũng trở ngại cho hành hiện tiền.

Như thế, trụ nơi phiền não phẩm hạ hạ là không thành tựu định kim cang dụ.

Lại nữa, định kim cang dụ là đạo vô ngại. Không có người trụ nơi đạo vô ngại thoái chuyển. Cũng không có người thoái chuyển rồi lại trụ nơi đạo vô ngại. Có trường hợp trụ nơi đạo giải thoát, đạo thắng tấn thoái chuyển. Chứng đắc rồi trở lại trụ nơi đạo giải thoát, đạo thắng tấn.

Hỏi: Ở nơi xứ nào thoái chuyển?

Đáp: Về cõi là ở cõi dục, không phải ở cõi sắc, không phải ở cõi vô sắc. Về nẻo (Thú) là ở nẻo người, không phải là nẻo khác.

Hỏi: Vì sao trong sáu trời thuộc cõi dục không có thoái chuyển?

Đáp: Vì các xứ kia không có đủ sự thoái chuyển.

Hỏi: Các xứ kia chẳng phải là không có đủ sự thoái chuyển chăng?

Đáp: Trong kinh Phật đã nói có đủ năm sự việc thoái chuyển. Nơi sáu trời thuộc cõi dục kia không có đủ các sự việc ấy. Lại nữa, chư thiên đắc quả, đa số là hàng lợi căn. Người lợi căn thì không thoái chuyển.

Hỏi: Nếu người độn căn được quả trong nẻo người, về sau sinh lên sáu trời thuộc cõi dục, ở nơi xứ ấy có thoái chuyển chăng?

Đáp: Không thoái chuyển. Vì sao? Vì Thánh nhân chuyển đổi đời, không thoái, không chuyển căn, không sinh lên cõi sắc, vô sắc. Vì sao? Vì Thánh đạo ở trong thân Thánh nhân kia, trụ xứ cũ là bền chắc.

Hỏi: Những người nào thoái chuyển? Những người nào không thoái chuyển?

Đáp: Hoặc có người tin ở người khác, thuận theo người khác. Hoặc có người tự tin, tự mong muốn. Nếu tin người khác, thuận theo người khác, nhập Thánh đạo thì thoái chuyển. Nếu người tự tin, tự muốn vào Thánh đạo thì không thoái chuyển.

Lại nữa, hoặc có người có sức của nhân rộng, sức của phương tiện rộng, sức không phóng dật rộng. Hoặc có người không như thế. Nếu rộng thì không thoái chuyển. Không như thế thì thoái chuyển.

Lại nữa, hoặc có người do tin nên vào Thánh đạo. Hoặc có người do tuệ nên vào Thánh đạo. Nếu là người do tin nên vào Thánh đạo thì thoái chuyển. Nếu là người do tuệ nên vào Thánh đạo thì không thoái chuyển.

Như do tin, do tuệ, thì do Xa-ma-tha (Chỉ), Tỳ-bà-xá-na (Quán), có thể là định, có thể là tuệ, tu định, tu tuệ, được định, được tuệ, được nội tâm định không được tuệ, được tuệ không được nội tâm định, trụ nơi pháp kiên tín, trụ nơi pháp kiên pháp, độn căn, lợi căn, sức của duyên, sức của nhân, sức của chi nội, sức của chi ngoại, bên trong chánh tư duy, từ người khác nghe pháp, nên biết cũng như thế.

Lại nữa, hoặc có người không tham nhiều. Hoặc có người không ngu nhiều. người không tham nhiều thì thoái chuyển. Người không ngu nhiều thì không thoái chuyển.

Lại nữa, hoặc có người tâm khéo giải thoát, tuệ khéo giải thoát. Hoặc có người tâm khéo giải thoát, tuệ không khéo giải thoát. Nếu là người tâm khéo giải thoát, tuệ khéo giải thoát, thì không thoái chuyển. Nếu là người tâm khéo giải thoát, tuệ không khéo giải thoát, thì thoái chuyển.

Hỏi: Sự thoái chuyển trải qua bao nhiêu thời gian?

Đáp: Trải qua một ít thời gian không lâu, cho đến không tự nhận biết thoái chuyển. Nếu tự nhận biết thoái chuyển thì liền tu đạo thắng tấn, đạo phương tiện.

Lại nữa, lúc phiền não kia hiện ở trước, vì tâm sinh hổ thẹn, nên nhanh chóng tu phương tiện. Như người mắt sáng, ban ngày ở nơi chỗ đất bằng phẳng bị té ngã, lập tức đứng dậy trở lại, ngắm nhìn bốn phía, không có người thấy ta bị ngã chăng? Như thế, lúc hành giả khởi phiền não, tâm sinh hổ thẹn: Hoặc Phật, hoặc đệ tử của Phật, hoặc là các người thiện, không có ai thấy ta chăng?

Lại nữa, lúc phiền não kia hiện ở trước, thân tâm sinh khởi nóng bức. Vì muốn khiến phiền não ấy nhanh chóng diệt trừ, nên lập tức tu phương tiện. Cũng như người thân thể mềm mại, chỉ một tàn lửa nhỏ rơi trúng, lập tức trừ bỏ. Phiền não kia cũng như thế.

Lại nữa, do phiền não xú uế ở nơi thân, không thể chịu nổi, nên lập tức tu phương tiện. Cũng như người ưa sạch, có một ít vật bất tịnh rơi trên thân mình, liền trừ bỏ. Phiền não kia cũng như thế.

Lại có thuyết cho: Sự việc này không nhất định. Hoặc có người lâu, cho đến khiến căn mạnh mẽ, nhạy bén, tín giải thoát là kiến đáo, sau đó được A-la-hán.

Hỏi: Nếu thoái chuyển quả A-la-hán rồi, thì người kia làm lại sự việc đã làm hay là không nên làm? Thoái chuyển quả A-na-hàm, Tư-đà-hàm rồi, những người này cũng như thế chăng?

Đáp: Không thể làm. Vì sao? Vì người đắc quả đã tạo, đã hành khác với phàm phu.

A-la-hán có sáu hạng: (1) Thoái chuyển pháp. (2) Tư duy pháp. (3) Hộ trì pháp. (4) Cùng trụ pháp. (5) Có thể tiến đến pháp. (6) Bất động pháp.

Thoái chuyển pháp: Là A-la-hán thoái chuyển.

Tư duy pháp: Là A-la-hán tư duy tâm sinh chán lìa cầm dao tự hại.

Hộ trì pháp: Là A-la-hán đối với sự giải thoát đã đạt được tâm sinh yêu thích, khéo giữ gìn.

Cùng trụ pháp: Là A-la-hán không thoái chuyển, không thăng tiến.

Có thể tiến đến pháp: Là A-la-hán có thể tiến đến bất động.

Bất động pháp: Là A-la-hán trụ nơi căn bản bất động.

Hỏi: A-la-hán thoái chuyển pháp tất thoái chuyển chăng? Tư duy pháp tất tư duy pháp chăng? Hộ trì pháp tất hộ trì pháp chăng? Cùng trụ pháp tất cùng trụ chăng? Có thể tiến đến pháp tất có thể tiến đến bất động chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Thoái chuyển pháp tất thoái chuyển, cho đến có thể tiến đến pháp tất có thể tiến đến bất động.

Do sự việc này nên gọi là thoái chuyển, cho đến gọi là có thể tiến đến. Nếu tạo ra thuyết này: Thoái chuyển pháp tất thoái chuyển, cho đến có thể tiến đến tất có thể tiến đến. Là do có sáu sự việc nên A-la-hán có sáu. Cõi dục có sáu, cõi sắc, vô sắc có hai, là cùng trụ và bất động. Nếu tạo ra thuyết này: A-la-hán thoái chuyển pháp bất tất phải thoái chuyển, cho đến có thể tiến đến pháp bất tất có thể tiến đến bất động.

Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao gọi là thoái chuyển, cho đến gọi là có thể tiến đến?

Đáp: A-la-hán thoái chuyển bất tất thoái chuyển. Nếu thoái chuyển là thoái chuyển tánh. Cho đến có thể tiến đến bất tất có thể tiến đến. Nếu có thể tiến đến là có thể tiến đến tánh. Nếu tạo ra thuyết này: Thoái chuyển pháp bất tất thoái chuyển, cho đến có thể tiến đến bất tất có thể tiến đến, là do có sáu tánh, nên có sáu hạng A-la-hán. Nói như thế là cõi dục có sáu hạng, cõi sắc, vô sắc cũng có sáu hạng.

Hỏi: Vì sao lập sáu hạng A-la-hán?

Đáp: Là do căn.

Hỏi: Căn có chín loại: Thượng thượng đến hạ hạ. Trước nói A-la-hán có sáu hạng. Vì sao do căn nên nói A-la-hán có chín hạng?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: A-la-hán thoái chuyển pháp thành tựu hai thứ căn là hạ hạ, hạ trung. Tư duy pháp thành tựu căn hạ thượng. Hộ trì pháp thành tựu căn trung hạ. Cùng trụ pháp thành tựu căn trung trung. Có thể tiến đến pháp thành tựu căn trung thượng. Bất động pháp thành tựu căn thượng hạ. Phật-bích-chi thành tựu căn thượng trung. Đức Phật thành tựu căn thượng thượng.

Người kia không nên tạo ra thuyết ấy. Không có một người nào thành tựu hai thứ căn. Người lợi căn hãy còn không thể huống chi là độn căn.

Lời bình: Nên tạo ra thuyết này: A-la-hán thoái chuyển pháp thành tựu căn hạ hạ. Tư duy pháp thành tựu căn hạ trung. Hộ trì pháp thành tựu căn hạ thượng. Cùng trụ pháp thành tựu căn trung hạ. Có thể tiến đến pháp thành tựu căn trung trung.

Bất động có hai hạng: Có hạng từ thời giải thoát đến bất động. Có hạng là tánh bất động. Từ thời giải thoát đến bất động là căn trung thượng. Bản tánh bất động là thượng hạ. Phật-bích-chi là thượng trung. Phật là thượng thượng.

A-la-hán thoái chuyển pháp tạo ra một sự, chỉ là thoái chuyển. A-la-hán tư duy pháp tạo ra hai sự là thoái chuyển pháp và tư duy pháp. A-la-hán hộ trì pháp tạo ra ba sự là thoái chuyển pháp, tư duy pháp, hộ trì pháp. A-la-hán cùng trụ pháp tạo ra bốn sự là thoái chuyển pháp, tư duy pháp, hộ trì pháp, cùng trụ pháp. A-la-hán có thể tiến đến pháp tạo ra năm sự là thoái chuyển pháp, tư duy pháp, hộ trì pháp, cùng trụ pháp, có thể tiến đến pháp.

Lại có thuyết nói: A-la-hán thoái chuyển pháp có ba sự: (1) Thoái chuyển trụ nơi căn học. (2) Chuyển đến căn vượt hơn. (3) Tức trụ nơi bát Niết-bàn.

A-la-hán tư duy pháp có bốn sự: (1) Thoái chuyển trụ nơi căn học. (2) Thoái chuyển trụ nơi căn của pháp thoái chuyển. (3) Chuyển đến căn vượt hơn. (4) Tức trụ nơi bát Niết-bàn.

A-la-hán hộ trì pháp có năm sự: (1) Thoái chuyển trụ nơi căn học. (2) Thoái chuyển trụ nơi căn của pháp thoái chuyển. (3) Thoái chuyển trụ nơi tư duy pháp. (4) Chuyển đến căn vượt hơn. (5) Tức trụ nơi bát Niết-bàn.

A-la-hán cùng trụ pháp có sáu sự: (1) Thoái chuyển trụ nơi căn học. (2) Thoái chuyển trụ nơi căn của pháp thoái chuyển. (3) Thoái chuyển trụ nơi tư duy pháp. (4) Thoái chuyển trụ nơi hộ trì pháp. (5) Chuyển đến căn vượt hơn. (6) Tức trụ nơi bát Niết-bàn.

A-la-hán có thể tiến đến pháp có bảy sự: (1) Thoái chuyển trụ nơi căn học. (2) Thoái chuyển trụ nơi căn của pháp thoái chuyển. (3) Thoái chuyển trụ nơi tư duy pháp. (4) Thoái chuyển trụ nơi hộ trì pháp. (5) Thoái chuyển trụ nơi cùng trụ pháp. (6) Chuyển đến bất động pháp. (7) Tức trụ nơi bát Niết-bàn.

Hỏi: A-la-hán tư duy pháp, thoái chuyển trụ nơi căn học, là được những căn học nào? Là được căn học của thoái chuyển pháp hay là được căn học của tư duy pháp?

Đáp: Là được căn học của thoái chuyển pháp, không phải là căn học của tư duy pháp. Vì sao? Vì A-la-hán kia chưa từng được căn học của tư duy pháp. Nếu được gọi là tiến, không gọi là thoái. Trong kinh Đức Thế Tôn nói: Tôn giả Cù-hê-ca là A-la-hán thời giải thoát đã sáu lần thoái chuyển. Đến lần thứ bảy trở lại được thân tác chứng của thời giải thoát, đã dùng dao tự hại mà chết.

Hỏi: Tôn giả Cù-hê-ca là tánh của thoái chuyển pháp hay là tánh của tư duy pháp? Nếu là tánh của thoái chuyển pháp, thì vì sao dùng dao tự hại? Nếu là tánh của tư duy pháp, thì vì sao phải sáu lần thoái chuyển?

Đáp: Nên tạo ra biện luận này: Là tánh của thoái chuyển pháp.

Hỏi: Vì lý do gì dùng dao tự hại?

Đáp: Vì nhàm chán sự thoái chuyển nên dùng dao tự hại. Nếu không thoái chuyển mà dùng dao tự hại là tư duy pháp.

Hỏi: Đã có thể dùng đạo để đoạn trừ kiết của cõi dục, lúc thoái chuyển đạo kia, trở lại bị kiết kia trói buộc chăng?

Đáp: Trở lại bị kiết kia trói buộc. Các kiết được đoạn khi lìa dục, lúc thoái chuyển, trở lại bị kiết kia trói buộc.

Hỏi: Đã có thể dùng đạo để đoạn trừ kiết của cõi sắc, vô sắc, lúc thoái chuyển đạo kia, trở lại bị kiết kia trói buộc chăng?

Đáp: Trở lại bị kiết kia trói buộc. Các kiết được đoạn khi lìa dục, lúc thoái chuyển, trở lại bị kiết kia trói buộc.

Hỏi: Đã có thể dùng đạo để đoạn trừ kiết, không thoái chuyển đối với đạo kia. Đã có thể dùng đạo thoái chuyển, đạo đó không thể đoạn trừ kiết, đạo vô ngại mới có thể đoạn trừ kiết. Không người nào thoái chuyển nơi đạo vô ngại. Trụ nơi đạo giải thoát thoái chuyển. Không có người dùng đạo giải thoát để đoạn trừ kiết, vì sao tạo ra thuyết này: Đã có thể dùng đạo để đoạn trừ kiết của cõi dục, lúc thoái chuyển đạo kia, trở lại bị kiết kia trói buộc, nói rộng như trên?

Đáp: Đạo vô ngại là nhân của đạo giải thoát. Đạo giải thoát là quả của đạo vô ngại. Nếu khi đối với quả thoái chuyển, thì cũng nên nói là nhân thoái chuyển.

Lại nữa, dùng đạo vô ngại để đối trị phiền não. Nếu khi phiền não kia tạo thành, cũng nên nói là đạo đối trị kia thoái chuyển.

Lại nữa, do phiền não nên lập đạo vô ngại đoạn trừ phiền não. Nếu khi phiền não tạo thành, cũng nên nói là đạo vô ngại kia thoái chuyển.

Tôn giả Tăng-già-bà-tu nói: Trụ nơi đạo vô ngại thoái chuyển, trụ nơi đạo giải thoát cũng thoái chuyển. Vì sao? Vì đoạn trừ năm thứ kiết, khi Tu-đà-hoàn thoái chuyển, điều đó không phải là thoái chuyển năm đạo vô ngại, năm đạo giải thoát chăng?

Lời bình: Nên tạo ra thuyết này: Không có người trụ nơi đạo vô ngại thoái chuyển, thoái chuyển rồi, lại trụ nơi đạo vô ngại. Thoái chuyển đạo giải thoát, trở lại trụ nơi đạo giải thoát.

Chín trí đoạn: Kiết hệ thuộc cõi dục do khổ, tập đoạn trừ là một trí đoạn. Kiết nơi cõi sắc, vô sắc do khổ, tập đoạn trừ là hai trí đoạn. Kiết nơi cõi dục do kiến diệt đoạn trừ là ba trí đoạn. Kiết nơi cõi sắc, vô sắc do kiến diệt đoạn trừ là bốn trí đoạn. Kiết nơi cõi dục do kiến đạo đoạn trừ là năm trí đoạn. Kiết nơi cõi sắc, vô sắc do kiến đạo đoạn trừ là sáu trí đoạn. Năm kiết phần dưới được đoạn là bảy trí đoạn. Sắc ái được đoạn là tám trí đoạn. Tất cả kiết được đoạn trừ là chín trí đoạn.

Chín trí đoạn gồm thâu tất cả trí đoạn. Tất cả trí đoạn gồm thâu chín trí đoạn? Nói rộng như nơi Bản Luận. Đoạn: Là vô vi.

Hỏi: Nếu đoạn là vô vi thì không thể có đối tượng duyên. Vì sao đoạn là trí?

Đáp: Vì đoạn là quả của trí nên nói là trí. Quả của nghiệp nên nói là nghiệp. Như nói: Sáu nhập là nghiệp cũ. Thiên nhãn, thiên nhĩ là quả của thông nên nói là thông. A-la-hán là quả của trí nên nói là trí. Vì quả của trí như thế, nên nói là trí đoạn.

Hỏi: Nếu như vậy thì kiết do tu đạo đoạn, vì trí đoạn, nên là quả của trí, có thể nói là trí đoạn. Kiết do kiến đạo đoạn, vì nhẫn đoạn là quả của nhẫn, vì sao nói là trí đoạn?

Đáp: Vì nhẫn đoạn kia là quả của trí thế tục, nên nói là trí đoạn. Như trước dùng đạo thế tục để lìa dục của cõi dục, cho đến lìa dục của xứ vô sở hữu. Kiết trong tám địa do kiến đạo đoạn đã đoạn là quả của trí thế tục.

Hỏi: Nếu như vậy thì đạo thế tục có thể có xứ của đối tượng tạo tác, tức có thể như thế. Đạo thế tục của xứ phi tưởng phi phi tưởng, không thể có đối tượng tạo tác. Kiết thuộc xứ phi tưởng phi phi tưởng do kiến đạo đoạn là nhẫn, vì sao nói là trí đoạn?

Đáp: Tôn giả Tăng-già-bà-tu nêu: Đây là quả của tuệ nên nói là trí đoạn. Đoạn có hai thứ: (1) Là quả của trí. (2) Là quả của tuệ.

Tôn giả kia không nên tạo ra thuyết ấy. Vì sao? Vì kinh Phật nói: Có hai trí đoạn: (1) Trí nhận biết. (2) Trí đoạn. Không nói tuệ đoạn.

Lời bình: Nên tạo ra thuyết này: Trí của thật nghĩa là định kim cang dụ, đoạn là quả của trí kia. Vì sao? Vì lúc được quả A-la-hán, là đã dùng định kim cang dụ để đoạn trừ kiết nơi ba cõi do kiến đạo, tu đạo đoạn trừ, tức khắc chứng đắc giải thoát.

Lại có thuyết cho: Vì từ trong trí chủng sinh nên gọi là trí đoạn. Như sinh trong họ Cù-đàm nên gọi là Cù-đàm. Sự đoạn trừ kia cũng như thế.

Lại nữa, tánh tướng của đoạn kia là trí đoạn. Đoạn kia tuy không thể có đối tượng duyên, nhưng tánh tướng là trí đoạn, nên gọi là trí đoạn. Như nhãn căn của quá khứ, vị lai, tuy không thể thấy, nhưng tánh tướng là mắt. Trí đoạn kia cũng như thế.

Tôn giả Cù-sa nói: Nên nói chánh đoạn là tối thắng đoạn, tương ưng đoạn và tất cánh đoạn.

Tôn giả Ba-sa nói: Nên nói dứt bỏ đoạn. Vì sao? Vì dứt bỏ tất cả sinh tử, được đoạn này. Đoạn này cũng có thể nói là đoạn. Cũng có thể nói là không có dục. Cũng có thể nói là diệt. Cũng có thể nói là đế. Cũng có thể nói là trí đoạn. Cũng có thể nói là quả Sa-môn. Cũng có thể nói là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư.

Khổ pháp nhẫn diệt, khổ pháp trí sinh, vào lúc này, đoạn kia gọi là đoạn, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế. Không gọi là trí đoạn, không gọi là quả Sa-môn, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư.

Khổ tỷ nhẫn diệt, khổ tỷ trí sinh, vào lúc này, đoạn kia gọi là đoạn, cho đến gọi là đế. Không gọi là trí đoạn, không gọi là quả Samôn, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư.

Tập pháp nhẫn diệt, tập pháp trí sinh, vào thời gian này, đoạn kia gọi là đoạn, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, gọi là trí đoạn. Nghĩa là kiết nơi cõi dục do kiến khổ, kiến tập đoạn trừ đều là trí đoạn. Không gọi là quả Sa-môn, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư.

Tập tỷ nhẫn diệt, tập tỷ trí sinh, vào thời gian này, đoạn kia gọi là đoạn, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, gọi là trí đoạn. Nghĩa là kiết của cõi sắc, vô sắc do kiến khổ, kiến tập đoạn trừ đều là trí đoạn. Không gọi là quả Sa-môn, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư.

Diệt pháp nhẫn diệt, diệt pháp trí sinh, vào thời gian này, đoạn kia gọi là đoạn, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, gọi là trí đoạn. Nghĩa là kiết nơi cõi dục do kiến diệt đoạn trừ đều là trí đoạn. Không gọi là quả Sa-môn, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư.

Diệt tỷ nhẫn diệt, diệt tỷ trí sinh, vào thời gian này, đoạn kia gọi là đoạn, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, gọi là trí đoạn. Nghĩa là kiết nơi cõi sắc, vô sắc do kiến diệt đoạn trừ đều là trí đoạn. Không gọi là quả Sa-môn, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư.

Đạo pháp nhẫn diệt, đạo pháp trí sinh, vào thời gian này, đoạn kia gọi là đoạn, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, gọi là trí đoạn. Nghĩa là kiết nơi cõi dục do kiến đạo đoạn trừ đều là trí đoạn. Không gọi là quả Sa-môn, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư.

Đạo tỷ nhẫn diệt, đạo tỷ trí sinh, vào thời gian này, đoạn kia gọi là đoạn, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, gọi là trí đoạn. Nghĩa là kiết nơi cõi sắc, vô sắc do kiến đạo đoạn trừ đều là trí đoạn. Gọi là quả Sa-môn, nghĩa là quả Tu-đà-hoàn. Không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư.

Vào thời gian này, kiết nơi ba cõi do kiến khổ, kiến tập, kiến diệt đoạn trừ và kiết nơi cõi dục do kiến đạo đoạn trừ đã đồng một vị, tức thì chứng đắc giải thoát. Lúc này, đoạn kia gọi là đoạn, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, gọi là trí đoạn, gọi là quả Sa-môn, nghĩa là quả Tu-đà-hoàn. Không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư.

Tu-đà-hoàn sẽ được quả Tư-đà-hàm, đoạn trừ một thứ kiết, cho đến năm thứ kiết. Vào thời gian này, đoạn kia gọi là đoạn, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, không gọi là trí đoạn, không gọi là quả Sa-môn, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư.

Đạo vô ngại thứ sáu diệt, đạo giải thoát thứ sáu sinh, vào thời gian này, đoạn kia gọi là đoạn, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, không gọi là trí đoạn, gọi là quả Sa-môn, nghĩa là quả Tư-đàhàm. Không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư. Thời gian này, kiết nơi ba cõi do kiến đạo đoạn. Đoạn kia gọi là đoạn, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, gọi là trí đoạn, nghĩa là trí đoạn đã được trước kia. Gọi là quả Sa-môn, nghĩa là quả Tư-đà-hàm. Không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư. Năm thứ kiết nơi cõi dục do tu đạo đoạn là đồng một vị, tức thì chứng đắc giải thoát. Lúc này, đoạn kia gọi là đoạn, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, không gọi là trí đoạn, gọi là quả Sa-môn, nghĩa là quả Tư-đà-hàm. Không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư.

Tư-đà-hàm sẽ được quả A-na-hàm, lúc đoạn trừ kiết thứ bảy, thứ tám, đoạn kia gọi là đoạn, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, không gọi là trí đoạn, không gọi là quả Sa-môn, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư.

Đạo vô ngại thứ chín diệt, đạo giải thoát thứ chín sinh, vào thời gian này, đoạn kia gọi là đoạn, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, gọi là trí đoạn, nghĩa là năm kiết phần dưới được đoạn đều là trí đoạn. Gọi là quả Sa-môn, nghĩa là quả A-na-hàm. Không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư. Tức vào thời gian kia, kiết nơi ba cõi do kiến đạo đoạn và chín phẩm kiết nơi cõi dục do tu đạo đoạn là đồng một vị, tức khắc chứng đắc giải thoát. Lúc này, đoạn kia gọi là đoạn, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, gọi là trí đoạn, nghĩa là vốn được trí đoạn, năm kiết phần dưới đều là trí đoạn. Gọi là quả Sa-môn, nghĩa là quả A-na-hàm. Không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư.

Lìa dục của thiền thứ nhất, đoạn một phẩm kiết, cho đến đoạn chín phẩm kiết, vào thời gian này, đoạn kia gọi là đoạn, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, không gọi là trí đoạn, không gọi là quả Sa-môn, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư. Cho đến lìa dục của thiền thứ tư, đoạn một phẩm kiết, cho đến đoạn tám phẩm kiết, nói cũng như thế.

Đạo vô ngại thứ chín diệt, đạo giải thoát thứ chín sinh, vào thời gian này, đoạn kia gọi là đoạn, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, gọi là trí đoạn, nghĩa là sắc ái đã đoạn là trí đoạn. Không gọi là quả Sa-môn, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư. Lìa dục của xứ không, cho đến lìa dục của xứ phi tưởng phi phi tưởng, đoạn tám phẩm kiết, vào thời gian này, đoạn kia gọi là đoạn, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, không gọi là trí đoạn, không gọi là quả Sa-môn, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư.

Định kim cang dụ diệt, tận trí ban đầu sinh, lúc này, chín phẩm kiết đoạn, đoạn kia được gọi là đoạn, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, gọi là trí đoạn, nghĩa là tất cả kiết đều là trí đoạn. Gọi là quả Sa-môn, nghĩa là quả A-la-hán. Gọi là Niết-bàn hữu dư, không gọi là Niết-bàn vô dư. Tức vào lúc này, kiết nơi ba cõi do kiến đạo đoạn, kiết nơi tám địa do tu đạo đoạn, tám phẩm kiết nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng do tu đạo đoạn đã đồng một vị, tức thì chứng đắc giải thoát. Vào thời gian này, đoạn kia gọi là đoạn, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, gọi là trí đoạn, nghĩa là tất cả kiết đều là trí đoạn. Gọi là quả Sa-môn, nghĩa là quả A-la-hán, gọi là Niết-bàn hữu dư, không gọi là Niết-bàn vô dư. Nếu ấm, giới, nhập của A-la-hán không còn nối tiếp, thì nhập Niết-bàn vô dư. Lúc này, đoạn kia gọi là đoạn, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, gọi là trí đoạn, nghĩa là những thứ đạt được đều là trí đoạn. Gọi là quả Sa-môn, nghĩa là quả A-la-hán. Không gọi là Niết-bàn hữu dư, gọi là Niết-bàn vô dư.

Hỏi: Các đoạn là vô vi, vì sao có lúc gọi là trí đoạn, có lúc không gọi là trí đoạn?

Đáp: Bấy giờ, hoặc có bốn sự, hoặc có năm sự, gọi là trí đoạn.

Những gì là bốn sự? (1) Trừ bỏ hai nhân. (2) Lìa cùng bị trói buộc được giải thoát. (3) Chứng đắc vô lậu được giải thoát. (4) Trừ bỏ sử nhất thiết biến của xứ phi tưởng phi phi tưởng.

Những gì là năm sự? (1) Trừ bỏ hai nhân. (2) Lìa cùng bị trói buộc, được giải thoát. (3) Chứng đắc vô lậu, được giải thoát. (4) Trừ bỏ sử nhất thiết biến của xứ phi tưởng phi phi tưởng. (5) Là vĩnh viễn lìa cõi.

Trong kiến đạo có bốn sự, trong tu đạo có năm sự.

Khổ pháp nhẫn diệt, khổ pháp trí sinh, thời gian này là không trừ bỏ hai nhân. Tuy trừ bỏ nhân do kiến khổ đoạn, nhưng chưa trừ bỏ nhân do kiến tập đoạn, chưa lìa cùng bị trói buộc được giải thoát. Tuy sự trói buộc do kiến khổ đoạn được giải thoát, nhưng sự trói buộc do kiến tập đoạn không được giải thoát. Tuy chứng đắc vô lậu được giải thoát, nhưng không trừ bỏ sử nhất thiết biến của xứ phi tưởng phi phi tưởng. Lúc này chỉ có một sự, không có ba sự, thế nên đoạn kia gọi là đoạn, không gọi là trí đoạn.

Khổ tỷ nhẫn diệt, khổ tỷ trí sinh, thời gian này là không trừ bỏ hai nhân. Tuy trừ bỏ nhân do kiến khổ đoạn, nhưng không trừ bỏ nhân do kiến tập đoạn, không lìa bỏ cùng bị trói buộc. Tuy đã trừ bỏ sự trói buộc do kiến khổ đoạn, nhưng không trừ bỏ sự trói buộc do kiến tập đoạn. Tuy chứng đắc vô lậu được giải thoát, nhưng không hoàn toàn trừ bỏ sử nhất thiết biến của xứ phi tưởng phi phi tưởng. Thời gian này chỉ có hai sự, không có hai sự, nên đoạn kia không gọi là trí đoạn.

Tập pháp nhẫn diệt, tập pháp trí sinh, thời gian này là trừ bỏ hai nhân. Trước là trừ bỏ nhân do kiến khổ đoạn, nay thì trừ bỏ nhân do kiến tập đoạn. Lìa cùng bị trói buộc được giải thoát. Trước đã được giải thoát do kiến khổ đoạn, nay thì được giải thoát do kiến tập đoạn. Chứng đắc vô lậu được giải thoát, cũng trừ bỏ sử nhất thiết biến của xứ phi tưởng phi phi tưởng xứ. Lúc ấy được gọi là trí đoạn.

Tập tỷ nhẫn diệt, tập tỷ trí sinh, thời gian này là trừ bỏ hai nhân. Trước đã trừ bỏ nhân do kiến khổ đoạn, nay trừ bỏ nhân do kiến tập đoạn. Đều cùng lìa bị trói buộc được giải thoát. Trước đã lìa trói buộc do kiến khổ đoạn được giải thoát, nay lìa trói buộc do kiến tập đoạn được giải thoát. Chứng đắc vô lậu được giải thoát, trừ bỏ sử nhất thiết biến của xứ phi tưởng phi phi tưởng. Thời gian này vì có đủ bốn sự, nên đoạn kia được gọi là trí đoạn.

Diệt pháp nhẫn diệt, diệt pháp trí sinh. Lúc này là trừ bỏ hai nhân. Trước đã trừ bỏ nhân do kiến khổ, kiến tập đoạn. Nay thì trừ bỏ nhân do kiến diệt đoạn. Cùng lìa bị trói buộc được giải thoát. Trước đã lìa trói buộc do kiến khổ, kiến tập đoạn được giải thoát. Nay thì lìa trói buộc do kiến diệt đoạn được giải thoát. Chứng đắc vô lậu được giải thoát, trừ bỏ sử nhất thiết biến của xứ phi tưởng phi phi tưởng. Thời gian này vì có đủ bốn sự, nên đoạn kia gọi là trí đoạn.

Diệt tỷ nhẫn diệt, diệt tỷ trí sinh, đạo pháp nhẫn diệt, đạo pháp trí sinh, đạo tỷ nhẫn diệt, đạo tỷ trí sinh, nói cũng như vậy.

Như thế, tức là nói trí đoạn của kiến đạo.

Trong tu đạo có năm sự, gọi là trí đoạn: Lìa một thứ dục của cõi dục, cho đến lìa tám thứ dục, thời gian này không trừ bỏ hai thứ nhân. Tuy đoạn tám thứ nhân, không đoạn nhân phẩm hạ hạ. Vì sao? Vì chín phẩm kiết lần lượt làm nhân. Đều cùng lìa bị trói buộc, không được giải thoát. Tuy tám thứ trói buộc đều được giải thoát, nhưng một thứ trói buộc không được giải thoát. Vì sao? Vì chín phẩm kiết lần lượt cùng tạo trói buộc. Tuy chứng đắc vô lậu được giải thoát, trừ bỏ sử nhất thiết biến của xứ phi tưởng phi phi tưởng, nhưng không vĩnh viễn lìa cõi. Thời gian này chỉ có hai sự, không có ba sự, thế nên đoạn kia không gọi là trí đoạn.

Đoạn trừ kiết loại thứ chín, thời gian này trừ bỏ hai thứ nhân. Trước đã đoạn tám thứ nhân, nay đoạn trừ nhân hạ hạ. Đều cùng lìa bị trói buộc được giải thoát. Trước đã lìa tám thứ trói buộc được giải thoát. Nay lìa trói buộc của phẩm hạ hạ được giải thoát. Chứng đắc vô lậu được giải thoát, trừ bỏ sử nhất thiết biến của xứ phi tưởng phi phi tưởng, hoàn toàn lìa cõi, nghĩa là lìa cõi dục. Thời gian này có năm sự, nên đoạn kia được gọi là trí đoạn.

Lìa dục của thiền thứ nhất, đoạn trừ một phẩm kiết, cho đến đoạn trừ tám phẩm kiết, nói rộng như nơi cõi dục. Khi đoạn trừ kiết loại thứ chín, tức trừ bỏ hai thứ nhân. Trước đã đoạn tám thứ nhân, nay đoạn nhân hạ hạ. Cùng lìa bị trói buộc được giải thoát. Chứng đắc vô lậu được giải thoát, trừ bỏ sử nhất thiết biến của xứ phi tưởng phi phi tưởng, nhưng không hoàn toàn lìa cõi. Thời gian này chỉ có bốn sự, không đủ năm sự, thế nên đoạn kia không gọi là trí đoạn.

Như thiền thứ nhất, thì thiền thứ hai, thiền thứ ba nói cũng như vậy.

Lìa dục của thiền thứ tư, đoạn trừ một phẩm kiết, cho đến đoạn trừ tám phẩm kiết. Không trừ bỏ hai thứ nhân, đều cùng lìa bị trói buộc không được giải thoát. Tuy chứng đắc vô lậu được giải thoát, trừ bỏ sử nhất thiết biến của xứ phi tưởng phi phi tưởng, nhưng không hoàn toàn lìa cõi. Thời gian này chỉ có hai sự, không có ba sự, thế nên đoạn kia không gọi là trí đoạn.

Đoạn trừ kiết loại thứ chín, vào lúc này là trừ bỏ hai thứ nhân, đều cùng lìa bị trói buộc được giải thoát. Chứng đắc vô lậu được giải thoát, trừ bỏ sử nhất thiết biến của xứ phi tưởng phi phi tưởng, vĩnh viễn lìa cõi. Thời gian này vì có đủ năm sự, nên đoạn kia được gọi là trí đoạn, nghĩa là sắc ái đều là trí đoạn.

Như lìa dục của thiền thứ nhất, cho đến lìa dục của ba thiền, lìa dục của xứ không, cho đến lìa dục của xứ vô sở hữu, nói cũng như thế.

Lìa dục của xứ phi tưởng phi phi tưởng, đoạn trừ một phẩm kiết, cho đến khi đoạn trừ tám phẩm kiết, không trừ bỏ hai thứ nhân, cùng lìa bị trói buộc không được giải thoát. Tuy chứng đắc vô lậu được giải thoát, đã trừ bỏ sử nhất thiết biến của xứ phi tưởng phi phi tưởng, nhưng không vĩnh viễn lìa cõi. Thời gian này chỉ có hai sự, không có ba sự, thế nên đoạn kia không gọi là trí đoạn.

Đoạn trừ kiết loại thứ chín, lúc này là trừ bỏ hai thứ nhân, cùng lìa bị trói buộc được giải thoát. Chứng đắc vô lậu được giải thoát, trừ bỏ sử nhất thiết biến của xứ phi tưởng phi phi tưởng, hoàn toàn lìa cõi. Thời gian này có đủ năm sự, nên đoạn kia được gọi là trí đoạn, nghĩa là tất cả kiết đều là trí đoạn.

Hỏi: Vì lìa ái của bốn thiền do tu đạo đoạn, gọi là trí đoạn, hay là chỉ lìa ái của thiền thứ tư do tu đạo đoạn trừ, gọi là trí đoạn?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Lìa ái của bốn thiền, gọi là trí đoạn.

Lại có thuyết nêu: Lìa chín thứ ái của thiền thứ tư, gọi là trí đoạn.

Lại có thuyết cho: Chỉ lìa thứ ái hạ hạ của thiền thứ tư, gọi là trí đoạn.

Lời bình: Nên tạo ra thuyết này: Lìa tất cả ái nơi cõi sắc do tu đạo đoạn, gọi là trí đoạn. Vì sao? Vì nếu lìa ái phẩm hạ hạ của thiền thứ tư, thì tất cả ái nơi cõi sắc do tu đạo đoạn dứt hết, mới được gọi là trí đoạn.

Hỏi: Pháp đoạn là pháp tối thắng, vì sao hai đoạn lại được chứng chung, nghĩa là thời gian của quả A-na-hàm, A-la-hán?

Đáp: Vì thời gian của hai quả này hoàn toàn lìa cõi cũng được quả. Thời gian đắc hai quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm tuy được quả nhưng không hoàn toàn lìa cõi. Lìa dục của thiền thứ tư, tuy vĩnh viễn lìa cõi, nhưng không đắc quả. Lúc đắc quả A-na-hàm là hoàn toàn lìa cõi, nghĩa là lìa cõi dục, được quả là được quả A-na-hàm. Lúc đắc quả A-la-hán là vĩnh viễn lìa cõi, nghĩa là lìa cõi vô sắc, được quả là được quả A-la-hán.

Lại nữa, thời gian này là vĩnh viễn lìa cõi, đoạn trừ kiết phần dưới, phần trên. Lúc được quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm thì không hoàn toàn lìa cõi, không đoạn trừ kiết phần dưới, phần trên. Khi lìa sắc ái, tuy hoàn toàn lìa cõi, nghĩa là lìa cõi sắc, nhưng không hoàn toàn đoạn trừ kiết phần trên. Lúc được quả A-na-hàm thì hoàn toàn lìa cõi, nghĩa là lìa cõi dục, hoàn toàn đoạn trừ kiết phần dưới. Lúc được quả A-la-hán là vĩnh viễn lìa cõi, nghĩa là lìa cõi vô sắc, vĩnh viễn đoạn trừ kiết phần trên.

Lại nữa, thời gian này là hoàn toàn lìa cõi, hoàn toàn đoạn trừ phiền não bất thiện, vô ký. Thời gian được quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm thì không hoàn toàn lìa cõi, cũng không hoàn toàn đoạn trừ phiền não bất thiện. Lúc lìa cõi sắc, tuy hoàn toàn lìa cõi, nhưng không hoàn toàn đoạn trừ phiền não vô ký. Lúc được quả A-na-hàm là vĩnh viễn lìa cõi, nghĩa là lìa cõi dục, cũng vĩnh viễn đoạn trừ phiền não bất thiện. Khi được quả A-la-hán là hoàn toàn lìa cõi, nghĩa là lìa cõi vô sắc, hoàn toàn đoạn trừ phiền não vô ký.

Như bất thiện, vô ký, thì có báo, không báo, sinh hai quả, một quả, tương ưng với không hổ không thẹn, không tương ưng với không hổ không thẹn, nên biết nói cũng như thế.

Hỏi: Chín trí đoạn, những người nào bỏ bao nhiêu, được bao nhiêu?

Đáp: Hoặc có người không bỏ, không được, như hàng phàm phu.

Hỏi: Ở đây không hỏi phàm phu thì không nên đáp phàm phu chăng?

Đáp: Lại có Thánh nhân không bỏ, không được, như người trụ nơi bản tánh. Người thắng tấn cũng như thế.

Khổ pháp nhẫn diệt, khổ tỷ trí sinh, thời gian này là không bỏ, không được. Khổ tỷ nhẫn diệt, khổ tỷ trí sinh, lúc này cũng không bỏ, không được. Tập pháp nhẫn diệt, tập pháp trí sinh, thời gian này là được một, không có bỏ. Tập tỷ nhẫn diệt, tập tỷ trí sinh, lúc này được một, cũng không có bỏ. Diệt pháp nhẫn diệt, diệt pháp trí sinh, thời gian này được một, cũng không có bỏ. Diệt tỷ nhẫn diệt, diệt tỷ trí sinh, lúc này được một, cũng không có bỏ. Đạo pháp nhẫn diệt, đạo pháp trí sinh, thời gian này được một, không có bỏ. Đạo tỷ nhẫn diệt, đạo tỷ trí sinh, nếu không phải là người lìa dục thì được một, không có bỏ. Nếu là người lìa dục thì bỏ năm, được một, nghĩa là thời gian của đạo tỷ trí đã được là trí đoạn, tức năm kiết phần dưới là trí đoạn.

Thánh nhân đã lìa dục của cõi dục, đoạn một phẩm kiết cho đến tám phẩm kiết, không có được, bỏ. Đoạn trừ kiết loại thứ chín, thời gian này là bỏ sáu, được một, nghĩa là năm kiết phần dưới đều là trí đoạn. Lìa dục của thiền thứ nhất, đoạn một phẩm kiết cho đến chín phẩm kiết, không có được, không có bỏ. Thiền thứ hai, thiền thứ ba cũng như thế. Lìa dục của thiền thứ tư, đoạn một phẩm kiết cho đến tám phẩm kiết, không có được, bỏ. Đoạn trừ kiết loại thứ chín, được một, không có bỏ.

Như thiền thứ nhất, thiền thứ hai, thiền thứ ba, thì xứ không, xứ thức, xứ vô sở hữu cũng như thế.

Lìa dục của xứ phi tưởng phi phi tưởng, đoạn một phẩm kiết cho đến tám phẩm kiết, cũng không được, không bỏ. Lúc đoạn trừ kiết thứ chín, là bỏ hai được một. Nghĩa là tất cả kiết đều là trí đoạn.

Đây là nói về thời gian thắng tấn, thời gian thoái chuyển, cũng có bỏ, có được.

A-la-hán lúc khởi phiền não của cõi vô sắc rồi thoái chuyển là bỏ một, được hai. Lúc khởi phiền não của cõi sắc rồi thoái chuyển là bỏ một, được một. Lúc khởi phiền não của cõi dục rồi thoái chuyển là bỏ một, được sáu. A-na-hàm lìa sắc ái, lúc khởi phiền não của cõi sắc rồi thoái chuyển là bỏ một nhưng không được. Lúc khởi phiền não của cõi dục rồi thoái chuyển là bỏ hai, được sáu. A-na-hàm chưa lìa sắc ái, lúc khởi phiền não của cõi dục rồi thoái chuyển là bỏ một, được sáu. Lúc thoái chuyển quả Tư-đà-hàm thì không có bỏ, không có được.

Chín trí đoạn này, bao nhiêu thứ là quả của thiền? Bao nhiêu thứ là quả của định vô sắc? Bao nhiêu thứ là quả của thiền căn bản? Bao nhiêu thứ là quả của thiền biên? Bao nhiêu thứ là quả của định vô sắc căn bản? Bao nhiêu thứ là quả của định vô sắc biên? Bao nhiêu thứ là quả của kiến đạo? Bao nhiêu thứ là quả của tu đạo? Bao nhiêu thứ là quả của nhẫn? Bao nhiêu thứ là quả của trí? Bao nhiêu thứ là quả của pháp trí? Bao nhiêu thứ là quả của tỷ trí? Bao nhiêu thứ là quả của phần pháp trí? Bao nhiêu thứ là quả của phần tỷ trí? Bao nhiêu thứ là quả của đạo thế tục? Bao nhiêu thứ là quả của đạo vô lậu?

Hỏi: Bao nhiêu thứ là quả của quả thiền?

Đáp: Chín thứ là quả của thiền cùng quyến thuộc.

Hỏi: Bao nhiêu thứ là quả của định vô sắc?

Đáp: Hai thứ là quả của định vô sắc và quyến thuộc.

Hỏi: Bao nhiêu thứ là quả của thiền căn bản?

Đáp: Người A-tỳ-đàm đã tạo ra thuyết: Năm thứ là quả của thiền căn bản. Tôn giả Cù-sa nói: Tám thứ là quả của thiền căn bản.

Hỏi: Bao nhiêu thứ là quả của thiền biên?

Đáp: Chín thứ. Nghĩa là dựa nơi vị trí, không phải thiền biên khác.

Hỏi: Bao nhiêu thứ là quả của định vô sắc căn bản?

Đáp: Một.

Hỏi: Bao nhiêu thứ là quả của định vô sắc biên?

Đáp: Một. Nghĩa là biên của xứ không, không phải là biên của định vô sắc nơi xứ khác.

Hỏi: Bao nhiêu thứ là quả của kiến đạo?

Đáp: Bảy.

Hỏi: Bao nhiêu thứ là quả của tu đạo?

Đáp: Ba.

Hỏi: Bao nhiêu thứ là quả của nhẫn?

Đáp: Nên nói như kiến đạo.

Hỏi: Bao nhiêu thứ là quả của trí?

Đáp: Nên nói như tu đạo.

Hỏi: Bao nhiêu thứ là quả của pháp trí?

Đáp: Ba.

Hỏi: Bao nhiêu thứ là quả của tỷ trí?

Đáp: Hai.

Hỏi: Bao nhiêu thứ là quả của phần pháp trí?

Đáp: Sáu.

Hỏi: Bao nhiêu thứ là quả của phần tỷ trí?

Đáp: Năm.

Hỏi: Bao nhiêu thứ là quả của đạo thế tục?

Đáp: Hai.

Hỏi: Bao nhiêu thứ là quả của đạo vô lậu?

Đáp: Chín.

Nếu lìa sắc ái, được chánh quyết định, sắc ái đều là trí đoạn, thì vào thời gian nào được?

Tôn giả Tăng-già-bà-tu nói: Lúc đạo tỷ trí hiện ở trước là được. Vì sao? Vì đạo tỷ trí cũng là hướng đạo, cũng là quả đạo.

Không nên tạo ra thuyết ấy. Vì trụ nơi quả mà nói là hướng. Người kia chưa từng khởi một khoảnh sát-na hướng đạo hiện ở trước, vì sao nói là hướng đạo?

Lại có thuyết cho: Nếu lìa dục của xứ không, thì thời gian này tu thiền vô lậu ở đời vị lai, là thời gian được tức sắc ái đều là trí đoạn.

Thuyết này cũng không nên nêu bày như thế. Vì sao? Vì thời gian này là tu đối trị thiền của cõi vô sắc vị lai, không tu đối trị thiền của cõi sắc.

Lại có thuyết nêu: Tức được quả A-la-hán, trụ nơi định kim cang dụ. Kiết nơi ba cõi do kiến đạo, tu đạo đoạn trừ đều đồng một vị, chứng đắc chung về giải thoát, là thời gian được sắc ái đều là trí đoạn.

Lời bình: Nên tạo ra thuyết này: Người kia từ quả, tất khởi quả thù thắng, đạo hiện ở trước, thời gian này là được sắc ái đều là trí đoạn. Nếu không từ quả, lại khởi quả thù thắng, đạo hiện ở trước. Người lìa dục của ba thiền, dựa vào địa dưới được chánh quyết định. Người kia nếu mạng chung, sinh trong bốn thiền, hoặc trong cõi vô sắc, người kia không nên thành tựu lạc căn.

Nếu như vậy thì cùng với điều nơi phẩm Mười Môn đã nói là trái nhau. Như nói: Ai thành tựu lạc căn? Hoặc sinh nơi cõi Biến tịnh, hoặc Thánh nhân sinh trên cõi Biến tịnh.

Vì muốn khiến không có lỗi như thế, nên từ quả khởi, tất khởi quả thù thắng, đạo hiện ở trước, là thời gian được sắc ái đều do trí đoạn.

Hỏi: Chín trí đoạn gồm thâu tất cả trí đoạn hay là tất cả trí đoạn gồm thâu chín trí đoạn?

Đáp: Tất cả gồm thâu chín, không phải chín gồm thâu tất cả. Chín: Như trong đây nói. Tất cả là chín trí đoạn này và các đoạn khác. Tất cả là nhiều. Chín là ít.

Tất cả trí đoạn gồm thâu chín trí đoạn. Phần còn lại cũng nhiều. Ví như vật chứa lớn úp lên vật chứa nhỏ, phần còn lại cũng nhiều. Tất cả trí đoạn kia cũng như thế.

Những gì là không gồm thâu?

Đáp: Là đệ tử của Đức Thế Tôn kiến đế đầy đủ, chưa lìa dục thì chín trí đoạn thuộc cõi dục do tu đạo đoạn, tức không gồm thâu. Thánh nhân khi lìa dục của cõi dục, là đoạn phẩm kiết ban đầu, cho đến đoạn trừ tám phẩm kiết. Đoạn này không phải thuộc về chín trí đoạn. Đã lìa dục ái, chưa lìa sắc ái. Kiết nơi cõi sắc do tu đạo đoạn đã đoạn trừ, không phải thuộc về chín trí đoạn. Đã đoạn sắc ái, cho đến đoạn tám phẩm kiết của thiền thứ tư, đoạn này không phải thuộc về chín trí đoạn. Đã lìa sắc ái, chưa lìa vô sắc ái. Kiết nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn, đoạn này không phải thuộc về chín trí đoạn. Lìa dục của xứ không, cho đến đoạn tám phẩm kiết của xứ phi tưởng phi phi tưởng, đoạn ấy không phải thuộc về chín trí đoạn.

Hỏi: Khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, kiết nơi ba cõi do kiến khổ đoạn đã đoạn, đoạn này không phải thuộc về chín trí đoạn, vì sao trong đây không nói?

Đáp: Nên nói. Văn ấy nên nói như thế này: Tất cả gồm thâu chín, không phải chín gồm thâu tất cả.

Những gì là không gồm thâu? Đáp: Khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh. Phiền não nơi ba cõi do kiến khổ đoạn đã đoạn, đoạn này không phải thuộc về chín trí đoạn. Phần còn lại nói như trên. Nhưng không nói là có ý gì? Đáp: Trong đây nói đoạn là có trí đoạn, người đoạn. Đoạn kia tuy là đoạn, nhưng không phải là có trí đoạn, người đoạn.

Hỏi: Tuy nêu bày như thế, nhưng về nghĩa thì không tường tận. Vì sao? Vì không nói người phàm phu đoạn?

Đáp: Đây là lược nói, vì hiện bày về nhập môn ban đầu, nên tạo ra thuyết ấy.

* Tám người: Người hướng chứng quả Tu-đà-hoàn. Người trụ nơi quả Tu-đà-hoàn. Người hướng chứng quả Tư-đà-hàm. Người trụ nơi quả Tư-đà-hàm. Người hướng chứng quả A-na-hàm. Người trụ nơi quả A-na-hàm. Người hướng chứng quả A-la-hán. Người trụ nơi quả A-la-hán.

Hỏi: Danh của người có tám, thật thể có bao nhiêu?

Đáp: Người A-tỳ-đàm nêu rõ: Danh của người có tám, thật thể có năm. Người hướng chứng quả Tu-đà-hoàn, người trụ nơi quả A-la-hán, danh có hai, thật thể có hai. Người trụ nơi quả Tu-đà-hoàn, người hướng chứng quả Tư-đà-hàm, danh có hai, thật thể có một. Người trụ nơi quả Tư-đà-hàm, người hướng chứng quả A-na-hàm, danh có hai, thật thể có một. Người trụ nơi quả A-na-hàm, người hướng chứng quả A-la-hán, danh có hai, thật thể có một.

Tôn giả Cù-sa tạo ra thuyết này: Tám người, danh có tám, thật thể có tám.

Vị kia nêu bày: Người Tu-đà-hoàn trụ nơi quả Tu-đà-hoàn, lúc không thắng tấn, gọi là người thành tựu quả Tu-đà-hoàn. Nếu lúc thắng tấn thì gọi là người hướng chứng quả Tu-đà-hoàn, bỏ quả Tuđà-hoàn. Người Tư-đà-hàm trụ nơi quả Tư-đà-hàm, lúc không thắng tắn, gọi là người thành tựu quả Tư-đà-hàm. Nếu lúc thắng tấn thì gọi là người hướng chứng quả A-na-hàm, bỏ quả Tư-đà-hàm. Người A-na-hàm trụ nơi quả A-na-hàm, lúc không thắng tấn, gọi là người thành tựu quả A-na-hàm. Nếu lúc thắng tấn, thì gọi là người hướng chứng quả A-la-hán, bỏ quả A-na-hàm. Vì sao? Là do căn nên nói người có khác biệt. Thế nên Luận Sinh trí tạo ra thuyết này: Người hướng chứng quả Tư-đà-hàm nên nói là thành tựu quả Tu-đà-hoàn chăng? Đáp: Không thành tựu. Cho đến người hướng chứng quả A-la-hán nên nói là thành tựu quả A-na-hàm chăng? Đáp: Không thành tựu.

Lời bình: Danh của tám người có tám, thật thể có năm. Thuyết như thế là tốt. Như danh, thể, thì danh số, thể số, danh sai biệt, thể sai biệt, danh khác, thể khác, danh riêng, thể riêng, nhận biết danh, nhận biết nghĩa, nên biết cũng như thế.

Hỏi: Nếu tám người, danh có tám, thật thể có năm, vì sao nói tám người có sai biệt?

Đáp: Do hành Thánh đạo. Tu-đà-hoàn nếu đối với quả Tu-đàhoàn lúc không thắng tấn, tức đối với danh của quả Tu-đà-hoàn, được danh ở trong thân, danh thành tựu, danh hành hiện tiền. Nếu đối với quả Tu-đà-hoàn được thắng tấn, thì vào thời gian này, trụ, hướng về danh của quả Tu-đà-hoàn, được không ở trong thân, danh thành tựu, hành không hiện tiền. Đối với danh của hướng, được danh ở trong thân, danh thành tựu, danh hành hiện tiền.

Cho đến nếu đối với quả A-na-hàm lúc không thắng tấn, tức đối với danh của quả A-na-hàm, được danh ở trong thân, danh thành tựu, danh hành hiện tiền. Nếu đối với quả A-na-hàm được thắng tấn, thì vào thời gian này, trụ, hướng về danh của quả A-na-hàm, được không ở trong thân, danh thành tựu, hành không hiện tiền. Đối với danh của hướng, được danh ở trong thân, danh thành tựu, danh hành hiện tiền.

Hỏi: Người hướng chứng quả Tu-đà-hoàn đối với chín trí đoạn này, bao nhiêu thứ thành tựu, bao nhiêu thứ không thành tựu? Ở đây, dùng người làm chương, dùng trí đoạn làm môn?

Đáp: Hoặc không thành tựu. Hoặc thành tựu một, hai, ba, bốn, năm thứ, nói rộng như nơi Bản luận.

(Đối chiếu với bản Hán dịch nơi No 1545, quyển 63, thì đoạn này bản Hán dịch hoàn toàn bất thành. ND).

HẾT – QUYỂN 33