LUẬN A TỲ ĐÀM TỲ BÀ SA
STác giả: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử
Giải thích: Năm trăm A La Hán
Hán dịch: Đời Bắc Lương, Sa môn Phù Đà Bạt Ma, Đạo Thái v.v…
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 4

Chương 1: KIỀN ĐỘ TẠP

Phẩm thứ 1: PHÁP THẾ ĐỆ NHẤT, phần 4

* Trong hai mươi thứ thân kiến này, có bao nhiêu thứ là ngã kiến, bao nhiêu thứ là ngã sở kiến, cho đến nói rộng?

Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?

Đáp: Trong kinh, Đức Thế Tôn qua rất nhiều xứ đã nói đến hai mươi thứ thân kiến, nhưng không phân biệt rộng, chỉ Tôn giả Xálợi-phất có phân biệt một xứ trong kinh. Tôn giả ấy tuy có phân biệt, nhưng không nói là hai mươi thứ thân kiến này, có bao nhiêu thứ là ngã kiến, bao nhiêu thứ là ngã sở kiến? Do các kinh kia không phân biệt, nay vì muốn phân biệt nên tạo ra phần Luận này.

Lại nữa, Tỳ-bà Xà-bà-đề (Luận Phân Biệt) đã tạo ra thuyết như vầy: Thân kiến không có đối tượng duyên. Như thân kiến duyên nơi ngã, nhưng trong nghĩa thật là không có ngã. Vậy đối tượng duyên của thân kiến là gì? Như người trông thấy sợi dây cho là con rắn, thoáng thấy gốc cây trụi cho là con người. Vì nhằm ngăn trừ ý nghĩ như thế của người kia, lại cũng muốn hiển bày thân kiến có đối tượng duyên. Thân kiến duyên nơi năm ấm, chỉ sự việc của đối tượng được trông thấy là có khác, không phải là không có đối tượng duyên. Như thí dụ về người kia thấy sợi dây cho là rắn, xa trông gốc cây trụi cho là người. Ở đây cũng là những việc của đối tượng được trông thấy có khác, chẳng phải là không có đối tượng duyên. Thế nên, vì nhằm ngăn trừ ý của người khác, muốn nêu rõ về nghĩa của mình, cũng muốn chỉ bày pháp tướng quyết định nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Trong hai mươi thứ thân kiến ấy, có bao nhiêu thứ là ngã kiến, bao nhiêu thứ là ngã sở kiến?

Đáp: Năm thứ là ngã kiến, mười lăm thứ là ngã sở kiến.

Hỏi: Nếu ngã kiến có năm thứ thì ngã sở kiến cũng nên có năm, vì sao nói là mười lăm thứ ngã sở kiến?

Đáp: Vì duyên nơi hành nên nói năm thứ ngã kiến. Vì nêu đủ nên nói mười lăm thứ ngã sở kiến. Vì sao? Vì mười lăm thứ ngã sở kiến này, do gồm đủ nên sinh. Nên nói một ngã kiến, đó là ngã kiến trong năm kiến. Nên nói có hai, như ngã kiến và ngã sở kiến. Nên nói có ba, tức ngã kiến nơi cõi dục, cõi sắc, vô sắc. Nên nói có sáu, như trong cõi dục có ngã kiến và ngã sở kiến, cõi sắc, vô sắc cũng như thế. Nên nói có chín, như ngã kiến của địa cõi dục, cho đến ngã kiến của địa Phi tưởng phi phi tưởng. Nên nói có mười tám, như ngã kiến, ngã sở kiến của địa cõi dục, cho đến ngã kiến, ngã sở kiến của địa Phi tưởng phi phi tưởng.

Nếu như phân biệt hành duyên nơi ấm, nên nói hai mươi, không phân biệt nơi chốn dấy khởi. Thấy sắc là ngã, sắc khác với ngã, sắc thuộc về ngã, ngã ở trong sắc. Như sắc có bốn thứ thì thọ, tưởng, hành thức cũng như thế. Như vậy, năm lần bốn có hai mươi.

Dùng hành duyên phân biệt mười hai nhập, tức có bốn mươi tám, không phân biệt nơi chốn dấy khởi. Như thấy nhãn nhập là ngã, nhãn nhập khác với ngã, nhãn nhập thuộc về ngã, ngã ở trong nhãn nhập. Như nhãn nhập có bốn, cho đến pháp nhập cũng có bốn. Như thế, mười hai lần bốn tức có bốn mươi tám.

Dùng hành duyên phân biệt giới thì có bảy mươi hai, không phân biệt nơi chốn dấy khởi. Như nhãn giới là ngã, nhãn giới khác với ngã, nhãn giới thuộc về ngã, ngã ở trong nhãn giới. Như nhãn giới có bốn, cho đến pháp giới cũng có bốn. Như thế, mười tám lần bốn tức có bảy mươi hai.

Nếu phân biệt duyên nơi ấm, phân biệt nơi chốn dấy khởi thì có sáu mươi lăm. Như nói sắc là ngã, thọ là chuỗi ngọc của ngã, thọ là tôi tớ của ngã, thọ là đồ đựng của ngã. Như thọ có ba thì tưởng, hành, thức cũng có ba. Như thế, bốn lần ba là mười hai, cùng với sắc là có mười ba. Như thế, năm lần mười ba tức có sáu mươi lăm.

Nếu phân biệt duyên nơi nhập, phân biệt nơi chốn dấy khởi thì có bốn trăm lẻ tám. Nhãn nhập là ngã, sắc nhập là chuỗi ngọc của ngã, là tôi tớ của ngã, là đồ đựng của ngã. Như nhãn nhập có ba mươi bốn, cho đến pháp nhập cũng có ba mươi bốn, mười hai lần ba bốn là bốn trăm lẻ tám.

Nếu phân biệt duyên nơi giới, phân biệt nơi chốn dấy khởi thì có chín trăm ba mươi sáu. Nhãn giới là ngã, sắc giới là chuỗi ngọc của ngã, là tôi tớ của ngã, là đồ đựng của ngã. Như nhãn giới có năm mươi hai, cho đến pháp giới cũng có năm mươi hai, như thế, mười tám lần năm mươi hai là chín trăm ba mươi sáu.

Vô số thứ thân như thế, các sát-na nối tiếp, tức có vô lượng ngã kiến và ngã sở kiến. Xứ ấy phân biệt hành duyên nơi ấm, không phân biệt nơi chốn dấy khởi thì có hai mươi.

Hỏi: Vì sao thân kiến này được nói là chủng loại?

Đáp: Vì hai mươi thứ thân kiến này đều có khác biệt nên nói là chủng loại.

Hỏi: Vì sao nhân nơi ấm nói hai mươi ngã kiến, không phải là nhân nơi giới, nhập?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vì người tạo ra Kinh (Luận) đã có ý nghĩ như thế, mong muốn như thế, để có thể tùy thuận như thế. Ý của người tạo Kinh (Luận) kia là không trái với pháp tướng.

Lại có thuyết cho: Vì hiện khởi ban đầu, phương tiện đầu tiên là pháp nhập. Như nhân nơi ấm nói kiến, nhân nơi giới, nhập cũng nên nói như thế. Nhưng không nói thì nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Lại có thuyết nêu: Ấm này nói về kiến, chính là nơi kinh Phật đã nói. Kinh Phật đã nhân nơi ấm nói hai mươi thứ ngã kiến. Người tạo ra Luận kia (Tức chỉ cho Tôn giả Ca Đa Diễn Ni Tử, tác giả Luận A Tỳ Đạt Ma Phát Trí. Luận N0 1546 này là giải thích Luận kia – ND) dựa vào kinh Phật để tạo luận nên cũng nói hai mươi thứ ngã kiến.

Hỏi: Gác qua việc của người tạo luận. Vì sao Đức Thế Tôn nhân nơi ấm nói hai mươi thứ ngã kiến?

Đáp: Vì hóa độ chúng sinh, nên Đức Phật nhân nơi ấm nói hai mươi thứ ngã kiến. Nếu người thọ nhận Phật hóa độ, nên nghe giới, nhập mà được độ, thì Đức Thế Tôn cũng nhân nơi giới, nhập để nói về ngã kiến, nhưng vì chúng sinh không ưng nghe nên Đức Phật không nói.

Lại có thuyết nói: Lúc các kiến sinh khởi, phần nhiều đều dựa vào ấm, chỉ một ít dựa nơi giới, nhập. Thế nên, Đức Thế Tôn nhân nơi ấm nói kiến, không nhân nơi giới, nhập.

Sắc là ngã: Thế nào là các sở hữu của sắc? Sắc đều là bốn đại, đối tượng được tạo của bốn đại, quyết định các sở hữu, có hai thứ: (1) Các sở hữu có tận. (2) Các sở hữu không tận. Nói không tận: Như cầu mong một ít vật có được như trấu cám v.v… cũng gọi là các sở hữu. Nói tận: Như cầu tất cả vật cùng trấu cám v.v… cũng là các sở hữu. Trong đây chỉ nói tận là sắc của các sở hữu.

Hỏi: Như ngã kiến là duyên nơi tự giới, không phải duyên nơi tha giới, vì sao người kia có thể thấy tất cả sắc là ngã?

Đáp: Vì các sắc là đối tượng hành tác của người kia, là cảnh giới của họ, cho đó là ngã, chẳng phải là tất cả sắc.

Sắc khác với ngã: Thế nào là sắc khác với ngã? Đối với bốn ấm đó lần lượt cho là khác với ngã. Người kia khởi suy nghĩ: Sắc này là ngã. Ví như người có của cải gọi là có của cải.

Sắc hệ thuộc ngã: Thế nào là sắc hệ thuộc ngã? Đối với bốn ấm này lần lượt chấp là thuộc ngã. Ví như người có tôi tớ, nói tôi tớ là thuộc nơi ngã

Ngã ở trong sắc: Thế nào là ngã ở trong sắc? Đối với bốn ấm này lần lượt cho là ngã trong sắc. Người kia suy nghĩ thế này: Sắc là đồ đựng của ngã, như dầu ở trong hạt mè, cấu bẩn trong sự đọng lại, như tô ở trong lạc, như con dao ở trong bao da, con rắn ở trong cái tráp nhỏ, như máu ở trong thân.

Hỏi: Như thọ là ngã, sắc là vật dụng tức có thể như thế, vì sắc thô, thọ tế. Như nói sắc là ngã, thọ là vật dụng, làm sao thấy sắc thô vào trong thọ tế được?

Đáp: Tôn giả Ba-xa nói: Không nên trách người mù ngã xuống hầm hố. Cũng không nên hỏi vì sao vô minh là ngu tối.

Lại có thuyết nói: Người kia thấy sắc là ngã, thọ là vật dụng, nghĩa là người kia thấy thọ thô, sắc tế, vì thế nên họ thấy sắc ở trong thọ.

Tôn giả Hòa-tu-mật nói: Trong thân bốn đại này đều có thể nhận biết rõ về xúc, có nơi chốn cho đối tượng của xúc, tức có thể sinh thọ. Do thọ sinh ở mọi nơi chốn, nên nói sắc bao gồm trong thọ.

Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Người kia thấy thọ ở khắp trong thân, từ chân đến đầu, không nơi nào là không có thọ. Nhưng chấp sắc là ngã thì không hiện hữu khắp thân. Thế nên người kia thấy sắc cư trú ở trong thọ.

Hỏi: Vì sao nói ngã kiến có hai mươi thứ? Các thứ kiến khác thì không nói?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vì đó là ý của người tạo luận muốn thế, cho đến nói rộng.

Lại có thuyết cho: Đây là hiện khởi trước hết, là phương tiện đầu tiên, là pháp nhập đầu tiên. Như nói: Thân kiến có hai mươi thứ, giới thủ nên có bốn mươi thứ. Tà kiến, kiến thủ, mỗi thứ nên có tám mươi thứ. Nên nói nhưng không nói, phải biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Lại có thuyết nêu: Vì nhằm đối trị với ngã kiến, nên Đức Phật nói mười thứ không, đó là: Nội không, ngoại không, nội ngoại không, hữu vi không, vô vi không, đệ nhất nghĩa không, vô sở hành không, vô thủy không, tánh không và không không.

Hỏi: Mười thứ không này cùng đối với pháp nào?

Đáp: Cùng đối với ngã kiến. Do không với ngã kiến cùng đối, nên có hai mươi thứ ngã kiến. Các kiến khác thì không như vậy, thế nên không nói.

Hỏi: Từng có đối với một ấm khởi ngã kiến, ngã sở kiến chăng?

Đáp: Khởi. Như nơi nhãn nhập khởi ngã kiến, ngoài ra, các sắc thì khởi ngã sở kiến. Bốn ấm còn lại cũng như thế.

Hỏi: Từng có ngã kiến cùng một lúc đối với năm ấm đều chấp là ngã chăng?

Nếu có, làm sao thông suốt như nơi sách Sóc-ca đã nói: Chỉ có một ngã kiến, không có năm ngã kiến. Đáp: Không có năm ngã kiến, nghĩa là không cho năm ấm là ngã. Vì sao? Vì chấp ngã kiến chỉ chấp có một pháp, còn năm ấm là pháp dị biệt. Chấp nhà ngã kiến thì nói một ngã, một nhân, không phân, không hoại, không biến đổi là thường.

Nếu không có, làm sao thông suốt như nơi Kinh Tát Già Ni Kiền Tử đã nói: Sa-môn Cù-đàm! Sắc là ngã, thọ, tưởng, hành, thức là ngã.

Đáp: Không có cùng một lúc chấp năm ấm là ngã.

Hỏi: Nếu như vậy Kinh Tát Già Ni Kiền Tử nói làm sao thông suốt?

Đáp: Vì người kia tâm tự đại rất nặng nên nói như thế.

Lại có thuyết nói: Người kia không tin Phật, bên trong có tri kiến, nên muốn thử Đức Như Lai. Người kia vì không biết nên đã tạo ra thuyết không thuận lý. Kế đến, thấy Đức Như Lai có các tướng được luận bàn: Cằm như cằm sư tử, răng kết đều bén, nhọn, miệng có bốn mươi chiếc răng, phát ra tiếng Phạm âm. Người kia nghe xong, tâm khởi kinh sợ, nên tạo ra thuyết không thuận lý.

Lại có thuyết nêu: Người kia nhận thấy uy đức của Đức Như Lai vượt hơn Phạm vương, Đế thích, khó gần khó thân. Đối với bậc có uy đức như thế nên người kia đã tạo ra thuyết không thuận lý.

Lại có thuyết cho: Vì uy lực bức bách của thiên thần đã khiến cho người kia tạo ra thuyết không thuận lý. Lại có thiên thần tin Phật, suy nghĩ như thế này: Người xấu ác kia vì sao đã gây buồn phiền cho Đức Như Lai? Nên đã dùng uy lực bức bách khiến người kia tạo ra thuyết không thuận lý.

Lại có thuyết nói: Hoặc có một thời gian chấp năm ấm là ngã.

Hỏi: Nếu như vậy thì thuyết của sách Sóc-ca làm sao thông suốt?

Đáp: Người kia đối với năm ấm này dốc sức tạo một tụ tướng gồm đủ.

Hỏi: Nếu như vậy thì lấy gì làm đủ?

Đáp: Nếu chấp nội nhập là ngã tức sẽ dùng ngoại nhập làm đủ. Nếu chấp ngoại nhập là ngã thì sẽ dùng nội nhập làm đủ.

Hỏi: Từng có kiến vi trần chấp cho là ngã chăng? Nếu có, tức là không có ngã kiến, chẳng phải là ngã kiến. Nếu không có, thì như sách Sóc-ca nói làm sao thông? Như nói: Năm đại vi trần tuy mỗi đại đều là tướng khác, là ngã, là thường. Nếu nói vô thường tức là vô lý. Sách kia nói làm sao thông ngã kiến, kiến vi trần?

Đáp: Sách này nói biên kiến duyên nơi vi trần, nghĩa ấy đã lập. Hỏi: Nên biết ngã kiến duyên nơi vi trần, nghĩa ấy cũng lập chăng?

Đáp: Không có kiến vi trần chấp cho là ngã.

Hỏi: Nếu như vậy thì nơi sách Sóc-ca nói làm sao thông?

Đáp: Sách này đã nêu bày là không thuận với chánh lý.

Lại có thuyết nói: Có kiến vi trần, chấp cho là ngã. Có người suy tìm lý, thấy nghĩa không thật nên thấy nghĩa lúc sinh.

Lời bình: Không nên tạo ra thuyết này. Như thuyết trước là tốt.

Hỏi: Ngoài năm ấm là có người khởi ngã kiến chăng? Nếu có thì làm sao thuông nơi kinh này? Như nói: Nếu có Sa-môn, Bà-lamôn khởi lên ngã kiến đều chấp năm thọ ấm. Nếu không có thì nói ngã kiến thứ sáu làm sao có?

Đáp: Không có dấy khởi ngã kiến ngoài năm ấm.

Hỏi: Nếu như vậy thì ngã kiến thứ sáu làm sao có?

Đáp: Tư là hành ấm đối với tư khởi ngã kiến. Ngoài ra, hành ấm khởi ngã sở kiến, tức là ngã kiến thứ sáu. Kinh Phật nói thân kiến là căn bản của sáu mươi hai kiến. Kinh khác lại nói: Nếu có Sa-môn Bà-la-môn đã khởi các kiến đều dựa vào hai biên: Hoặc đoạn, hoặc thường.

Hỏi: Hai kinh này có gì khác biệt?

Đáp: Vì có thể sinh ra các kiến, nên nói thân kiến là căn bản. Vì các kiến được bảo vệ, nuôi lớn nên nói là biên kiến.

Lại có thuyết nói: Có thể sinh các kiến, tức nói thân kiến là căn bản, khiến các kiến chuyển hành, là nói về biên kiến.

Lại có kinh nói: Nếu nhập địa định nhất thiết xứ, hành giả khởi suy nghĩ thế này: Địa tức là ngã, ngã tức là địa, không lìa, không khác. Tất cả xứ còn lại cũng đều như thế.

Hỏi: Những người được định nhất thiết xứ, tất đều lìa dục của thiền thứ ba. Nếu người kia chấp địa là ngã, nên biết là thân kiến của địa thiền thứ tư, chấp địa trong thiền thứ tư là ngã, pháp của định nhất thiết xứ duyên nơi cõi dục. Sao người kia không mâu thuẫn?

Đáp: Trong đây, không định nói định, như không phải Sa-môn nói là Sa-môn.

Lại có thuyết nói: Do vốn có tên như vậy nên nói. Ví như vua đã mất ngôi cũng gọi là vua. Hành giả vốn đã từng được định này, về sau, tuy lúc đã mất cũng còn gọi là được định.

Lại có thuyết cho: Vì hành giả ở định nhanh chóng nên mất. Nơi định kia khởi thân kiến của cõi dục, bỏ thân kiến trở lại được định ấy. Như Đề-bà-đạt-đa ở định nhanh chóng, dùng sức của thần túc tự hóa thân mình thành hình dáng thái tử, ôm vua A-xà-thế quay vòng đùa cợt, lại hiện ra tướng mạo để vua A-xà-thế biết là Tôn giả Đề-bà-đạt-đa. Ngay khi làm hình dáng thái tử, vua A-xàthế ôm lấy đùa cợt gọi ngay tên rồi nhổ nước bọt vào miệng Đề-bàđạt-đa. Do tham lợi dưỡng nên Đề-bà-đạt-đa bèn nuốt nước dãi. Vì vậy nên Đức Thế Tôn nói với Đề-bà-đạt-đa: Ông là tử thi, ăn đàm dãi của người khác. Khi nuốt đàm dãi, Đề-bà-đạt-đa chẳng thể lìa dục. Khi giả làm thái tử, được vua A-xà-thế ôm lấy, đùa cợt, bấy giờ là lìa dục.

Lại có thuyết nêu: Thân kiến chấp địa trong thiền thứ tư là ngã, định nhất thiết xứ cũng duyên nơi địa trong thiền thứ tư.

Hỏi: Nếu như vậy định nhất thiết xứ không duyên nơi cõi dục chăng?

Đáp: Định nhất thiết xứ cũng duyên nơi cõi dục, cũng duyên nơi địa trong thiền thứ tư.

Hỏi: Như chư thiên nơi cõi sắc, tất cả đều trắng, làm sao họ nhận thấy sự khác biệt giữa các màu sắc: Xanh, vàng, đỏ v.v…

Đáp: Vì số chúng sinh đó, sắc của họ đều trắng, không phải là số chúng sinh có sắc xanh, vàng, đỏ v.v…

Lời bình: Không nên nói như thế. Vì sao? Vì nếu ngã kiến cùng với định nhất thiết xứ là pháp tương ưng, cùng có, nên có lỗi này. Thế nào là tất cả pháp tương ưng, cùng có? Duyên một ít nơi cõi dục, duyên một ít nơi cõi sắc, thân kiến cùng với định nhất thiết xứ tuy chẳng phải là pháp tương ưng, cùng có, nhưng một người cũng có thể mang hai tên. Vì do chấp ngã, nên gọi là thân kiến. Vì do được định, nên gọi là người đắc định. Thân kiến duyên với địa trong thiền thứ tư. Định nhất thiết xứ duyên nơi cõi dục không cùng một thời. Thế nên, Luận này đã khéo thông suốt.

* Vô thường chấp là thường, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?

Đáp: Các tà kiến ấy ở trong sinh tử đã tạo cho chúng sinh những trói buộc lớn, nhiều tai hại suy vi, nhiều sự che giấu lớn. Cũng như thế gian đã trói buộc, gây tai hại suy vi, che giấu con người. Nếu không thấy rõ tà kiến thì sẽ không thể tránh xa. Nếu lúc nào thấy rõ thì có thể tránh xa các tà kiến ấy, cho đến nói rộng cũng lại như thế.

Ở đây, nên dùng hai sự việc để suy tìm tà kiến: (1) Dùng thể tánh. (2) Dùng đối trị.

Như nơi Kiền Độ Trí, Kiền Độ Kiến, như Luận Tăng Ích Trí, trong đó cũng dùng hai sự việc để suy tìm tà kiến: (1) Thể tánh. (2) Đối trị.

Như trong Luận Tăng Ích Trí đã nói: “Sa-môn Cù-đàm! Ông là huyễn”. Đạo của Đức Thế Tôn đã vượt qua huyễn hóa. Tà kiến này hủy báng đạo là thể tánh của nó. Kiến đạo đoạn là đối trị tà kiến ấy.

Lại tạo ra thuyết này: “Đây là A-la-hán, vì sao ông lại tỏ ra keo kiệt đối với danh hiệu A-la-hán?”. Đạo của Đức Thế Tôn đã vượt qua sự keo kiệt. Tà kiến này hủy báng đạo là thể tánh của nó. Kiến đạo đoạn là đối trị tà kiến ấy.

Như Luận Kệ Vấn, như Kinh Phạm Võng nói: Nên lấy xứ dấy khởi để suy tìm tà kiến, tức có ba sự việc, đó là xứ dấy khởi, thể tánh và đối trị.

Lại có thuyết nói: Không nên suy tìm ba sự của tà kiến là xứ dấy khởi, thể tánh và đối trị. Nếu suy tìm tà kiến thì cũng như trách cứ vô minh: Vì sao ông ngu tối?

Lại có thuyết nói: Nên dùng ba sự việc để suy tìm tà kiến, là xứ dấy khởi, thể tánh và đối trị. Nếu có thể dùng ba sự việc để suy tìm tà kiến, thì tuy là phàm phu bị trói buộc đủ, nhưng những lỗi lầm tai hại của tà kiến không hiện ở trước, cũng như Thánh nhân đã dùng đạo vô lậu đoạn trừ các tà kiến, vĩnh viễn không khởi nữa. Như Pháp sư Đà Bà, xưa ở Kế Tân, cùng với nhiều Tỳ-kheo tu hành, cùng hội họp một chỗ, biện luận và nói về các kiến. Có người nói thế này: Chư Đại đức! Thánh nhân có thể đoạn trừ nhiều lỗi lầm tai hại, mọi hành ác và tà kiến vĩnh viễn không còn hiện tiền, thật là hy hữu! Bấy giờ, Pháp sư Đà Bà ở trong hội ấy, bày tỏ thế này: Thánh nhân đã dùng đạo vô lậu đoạn trừ các tà kiến, vĩnh viễn không cho chúng hiện tiền, thì đâu có là chuyện lạ. Như hiện nay tôi đang ở nơi địa phàm phu, dùng hai sự việc này để suy tìm tà kiến, nếu còn ở lâu trong sinh tử thì không có điều này.

Nếu như ở lâu trong sinh tử, lại không hiện tiền. Vì do duyên này nên dùng ba sự việc để suy tìm tà kiến.

Vô thường có thường kiến:

Hỏi: Thế nào là vô thường?

Đáp: Tất cả pháp hữu vi.

Hỏi: Các ngoại đạo kia đã lấy sự việc gì để nói là thường?

Đáp: Họ thấy sắc tương tợ nối tiếp. Các tâm pháp nhớ lại những việc xưa kia đã làm có thể trì tụng Kinh, Luận.

Thế nào là thấy sắc tương tợ nối tiếp? Như sắc đã trông thấy vào ngày hôm qua, ngày nay thấy tương tợ, người kia khởi suy nghĩ: Sắc của thời kỳ ấu thơ tức là sắc của thời kỳ già nua. Thế nào là tâm pháp có thể hồi ức về những việc xưa kia đã làm? Như công việc mình đã làm vừa qua, ngày nay cố nhớ lại.

Như thế, các việc đã làm trước đây, đến thời gian sau đều nhớ hết. Như có thể trì tụng Kinh, Luận, nghĩa là như lúc trẻ đã đọc tụng, đến khi già vẫn có thể đọc tụng. Người kia khởi suy nghĩ: Ngày nay, tâm tụng chính là tâm đã đọc tụng nơi ngày hôm trước. Họ lấy cớ này để cho là thường. Vô thường cho là thường, đó là biên kiến. Biên kiến có hai thứ: Có đoạn và có thường, là nói về thể tánh của biên kiến. Do kiến khổ đoạn là nói về đối trị của biên kiến đó. Vì kiến này duyên nơi khổ sinh, nên do kiến khổ đoạn. Như hạt sương đọng trên ngọn cỏ, khi ánh nắng mặt trời rọi đếnlà tan ngay. Biên kiến kia cũng như thế. Nếu khi kiến khổ thì biên kiến ấy sẽ được đoạn trừ ngay.

Lại có thuyết nói: Khổ pháp nhẫn, khổ pháp trí là đối trị của biên kiến kia. Lúc khổ pháp nhẫn, khổ pháp trí sinh sẽ đoạn dứt đoạn kiến hiểm ác điên đảo, phân biệt hư vọng này.

Hỏi: Như trong pháp giảng nói về thiện, cũng nói các pháp có tự thể, tánh tướng, thường trụ nhưng không là tà kiến. Vì sao trong pháp giảng nói về ác, nếu nói về tướng này tức là tà kiến?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Pháp giảng nói thiện tuy nói có tự thể, tánh tướng, thường trụ, nhưng không có sự tạo tác. Trong pháp giảng nói ác, thì nơi tất cả thời gian luôn có sự tạo tác.

Lại có thuyết cho: Trong pháp giảng nói về thiện, nói về pháp tánh nhưng không thường xuyên hành tác. Trong pháp giảng nói về ác, nói pháp tánh tức thường xuyên hành tác.

Lại có thuyết nêu: Trong pháp giảng nói về thiện, nói tánh pháp, vì sinh nên đã sinh, vì già nên đã già, vì vô thường nên hư hoại. Trong pháp giảng nói về ác thì không vì sinh nên đã sinh, cho đến nói rộng.

Lại có thuyết nói: Trong pháp giảng nói về thiện, nói pháp tánh thuộc về các nhân duyên. Còn pháp đã nói kia không thuộc về nhân duyên.

Lại có thuyết nêu: Pháp giảng nói về thiện, pháp đã nói là tương ưng với sinh diệt. Pháp giảng nói về ác thì không như thế.

Lại có thuyết cho: Trong pháp giảng nói về thiện, nói pháp tức từ nhân sinh, có thể có sự tạo tác, thuộc về các duyên.

Vì do các nhân duyên này, nên nói là pháp giảng nói về thiện. Tuy nói về thể tánh, thường trụ, nhưng không rơi vào tà kiến. Pháp giảng nói về ác thì rơi vào tà kiến.

Hỏi: Biên kiến là nghĩa gì?

Đáp: Chấp giữ lấy nơi biên đoạn, chấp giữ lấy nơi biên thường, là nghĩa của biên kiến. Như kinh nói: Phật nói với Tôn giả Ca Chiên Diên: Nếu dùng chánh trí quán đời là tập, nói đời là vô sở hữu, tức lại chẳng hành. Vô sở hữu tức là đoạn kiến. Thấy đời này có diệt, thân vị lai sinh, có suy nghĩ: Chúng sinh ấy chết nơi này, sinh nơi kia, không phải là đoạn. Lại nữa, này Ca Chiên Diên! Nếu dùng chánh trí quán đời là diệt, nói đời là có sở hữu, tức lại không hành. Nói đời có sở hữu, tức là thường kiến. Nhận biết ấm, giới, các nhập này lần lượt nối tiếp, người kia khởi suy nghĩ thế này: Các pháp này có sinh, có diệt, không phải là thường. Lại nữa, người khởi ngã kiến cũng là biện hẹp, thấp kém, bị đời quở trách, huống chi là đối với ngã chấp có đoạn, thường!

Lại có thuyết nói: Kiến này là xứ hành biên, nên có hai thứ nghĩa, gọi là xứ hành biên: (1) Hành biên thường. (2) Hành biên đoạn.

Do các nghĩa này nên gọi là biên kiến.

Hỏi: Nghĩa thật nơi thường là Niết-bàn diệt tận. Vì sao vô thường cho là thường không gọi là tà kiến?

Đáp: Những lời nói vô sở hữu đó gọi là tà kiến. Ở đây không nói vô sở hữu, lại tăng ích sở hữu, thế nên chẳng phải là tà kiến.

Thường chấp vô thường:

Hỏi: Thế nào là thường?

Đáp: Là Niết-bàn diệt tận.

Hỏi: Các ngoại đạo kia lấy sự việc gì để nói Niết-bàn là vô thường?

Đáp: Ngoại đạo kia lấy bốn định vô sắc làm Niết-bàn giải thoát:

(1) Không thân. (2) Vô biên ý. (3) Tụ tịnh. (4) Tháp đời.

Không thân: Là định không xứ.

Vô biên ý: Là định thức xứ.

Tụ tịnh: Là định vô sở hữu xứ.

Tháp đời: Là định phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Ngoại đạo kia lập ra thuyết này: Như Niết-bàn này tuy trụ lâu nhưng sẽ trở lại. Nên biết Niết-bàn do họ Thích đã nói cũng sẽ trở lại.

Vì thế nên nói Niết-bàn là vô thường.

Thường kia cho là vô thường: Đó là tà kiến, là tự tánh của nó. Do kiến diệt đoạn, là đối trị tà kiến ấy. Kiến này nhân nơi diệt sinh, nên do kiến diệt đoạn. Ví như hạt sương đọng trên đầu ngọn cỏ, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì có tà kiến có thể quán, là hành vô thường chăng? Nếu có làm sao thông đối với kinh Ba-già-la-na? Như nói: Thế nào là sử tà kiến sai khiến?

Đáp: Mọi hủy báng cho là không có nhân, không có tạo tác. Đây gọi là sử của tà kiến.

Hỏi: Vì sao trong đây không nói? Nếu không nói làm sao thông được văn này? Như nói: Thường cho là vô thường. Đây là tà kiến, do kiến diệt đoạn?

Đáp: Có tà kiến này: Thường cho là vô thường.

Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao Kinh Ba-già-la-na không nói?

Đáp: Vì kinh kia nói về hành tướng của tà kiến không hết. Tự có hành tướng của các kiết, trong đó không nói hết.

Lại có thuyết nói: Tuy có kiến này, nhưng đều nhập trong thuyết đã nói kia. Như hủy báng cho là không có nhân, nên biết là hủy báng tập. Như hủy báng cho là không có tạo tác, nên biết là hủy báng đối với ba đế.

Lại có thuyết nói: Hủy báng cho là không có nhân là hủy báng về ba đế, hủy báng cho không có tạo tác là hủy báng về diệt đế.

Lại có thuyết cho: Tà kiến về không, có, có thể hủy báng thường nói là vô thường.

Hỏi: Nếu như vậy thì văn này làm sao thông?

Đáp: Niết-bàn có tướng thường. Nếu nói không có Niết-bàn thì cũng là hủy báng tướng thường. Cũng như có người chê bai người không có ngón tay, cũng là chê bai về sắc, hương, vị, xúc là đối tượng nương dựa của ngón tay. Niết-bàn kia cũng như thế.

Lại có thuyết nêu: Ngoại đạo kia nói năm ấm là thường. Họ Thích nói Niết-bàn là thường, chẳng phải là ấm. Người ngoại đạo kia lập ra thuyết này: Ngoại trừ ấm lại không có thường. Do nghĩa này há không phải là hủy báng Niết-bàn sao?

Khổ tạo ra kiến chấp vui, cho đến nói rộng.

Hỏi: Thế nào là khổ?

Đáp: Năm thọ ấm là khổ thật.

Hỏi: Các ngoại đạo kia vì sao nói khổ là vui?

Đáp: Vì do lúc có được ít vui nên nói là vui. Như người hết giờ làm việc được nghỉ ngơi là vui. Lúc nóng nực được gió mát là vui. Khi lạnh gặp ấm là vui. Trong lúc đói khát được ăn uống là vui. Do sự việc này nên nói ấm là vui.

Như nói: Dùng pháp thấp kém cho là tối thượng, gọi là kiến thủ. Tự tánh của kiến thủ ấy do kiến khổ đoạn, là đối trị của kiến thủ.

Hỏi: Khổ có kiến chấp vui gọi là kiến thủ. Vì sao vô thường thấy là thường không gọi là kiến thủ?

Đáp: Vô thường thấy là thường kia, là pháp hơn, không hơn, đồng là một thể. Tự có pháp, tuy nói thường, nhưng không hơn. Như chấp hư không phi số duyên diệt. Khổ có kiến chấp vui, dùng pháp thấp kém làm tối thượng, gọi là kiến thủ. Vô thường thấy là thường không gọi là kiến thủ.

Lại có thuyết nói: Vì trong ấm có khổ lớn, nên lấy khổ nhỏ làm vui. Do vui nhỏ này đồng với Niết-bàn, nên gọi là kiến thủ.

Vô thường thấy là thường: Trong ấm không có một ít thường đồng với thường. Vì sao? Vì trong khoảng một sát-na, lại không có dừng trụ, là pháp tán diệt. Như nói: Thế nào là pháp lúc diệt? Đáp: Là pháp hiện tại. Do sự việc này nên vô thường thấy là thường, gọi là biên kiến, không gọi là kiến thủ.

Vui có kiến chấp khổ, cho đến nói rộng.

Hỏi: Thế nào là nghĩa thật của vui?

Đáp: Vui nghĩa là Niết-bàn diệt tận.

Hỏi: Vì sao các ngoại đạo kia cho Niết-bàn là khổ?

Đáp: Như người khi hư hoại một căn, bèn cho là khổ. Người kia khởi suy nghĩ: Nếu hư hoại một căn cũng đã là khổ huống chi là nhiều căn. Do sự việc này nên cho pháp vui là khổ.

Tôn giả Hòa-tu-mật nói: Nếu một căn tồn tại cũng là nhân của khổ, huống chi là nhiều căn tồn, sao không là nhân của khổ. Nếu các căn diệt tức là giải thoát. Vui của Niết-bàn có kiến chấp khổ, đó gọi là tà kiến, là thể tánh của tà kiến. Do kiến diệt đoạn, là đối trị với tà kiến ấy. Kiến này dựa vào diệt sinh, trở lại do kiến diệt đoạn. Như hạt sương đọng lại trên ngọn cỏ, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao kiến chấp Niết-bàn là khổ, gọi là tà kiến, không phải là kiến đạo đế? Như nói đạo đế cũng là vui, vì có thể tiến đến an vui.

Đáp: Đạo có hai phần: Phần khổ, phần vui. Vì do đạo có thể dẫn đến chốn an vui, nên gọi là phần vui. Vì vô thường nên khổ, gọi là phần khổ. Niết-bàn không có hai phần, chỉ thuần là vui. Người hủy báng tức là tà kiến. Đạo đế thì không như vậy.

Lại có thuyết nói: Như nơi Kiền Độ Kiến nói: Có hai thứ vui: (1) Vui của danh số. (2) Vui của nghĩa thật. Trên nói có thể dẫn đến chốn an vui, đó gọi là vui của danh số, không phải là vui của nghĩa thật. Lại nữa, do vui Niết-bàn nên đạo được gọi là vui.

Hỏi: Vì có tà kiến có thể duyên nơi Niết-bàn là khổ chăng? Nếu có thì như nơi Kinh Ba Già La Na làm sao thông? Như nói: Thế nào là sử của tà kiến sai khiến?

Đáp: Các thứ hủy báng cho là không có nhân, không có tạo tác, cho đến nói rộng. Nên như đã nói trong trường hợp thường chấp là vô thường ở trên.

Bất tịnh chấp là tịnh:

Hỏi: Thế nào là bất tịnh?

Đáp: Tất cả pháp hữu lậu có hai sự việc nên là bất tịnh: (1) Do phiền não. (2) Do cảnh giới. Các ngoại đạo kia do sự việc gì nên bất tịnh thấy là tịnh?

Đáp: Vì ngu tối đối với việc mình đã làm. Vì có một ít thời gian được tịnh, như cắt móng tay, đánh răng, chải tóc, xoa bóp thân, tắm gội v.v… Do những sự việc này, nên người kia thấy là tịnh. Nếu trong pháp ấy có một ít tánh tịnh, thì lối chấp kia tức không phải là tà kiến. Vì tưởng điên đảo, nên đã chấp tiểu tiện, đại tiện, ruột, bao tử v.v… là tịnh, nên gọi là kiến thủ.

Lại nên dùng hai sự việc để nhận biết hành hữu lậu là pháp bất tịnh: (1) Từ phiền não sinh. (2) Từ dâm dục sinh.

Như nói: Dùng pháp phẩm hạ làm pháp tối cao, đấy gọi là kiến thủ, là tự tánh của kiến thủ, do kiến khổ đoạn, là đối trị kiến thủ đó, cho đến nói rộng.

Hỏi: Hiện thấy nước tiểu, đại tiện, mũi dãi chảy ra trước mắt, vì sao ngoại đạo kia cho là tịnh?

Đáp: Ngoại đạo kia nói thế này: Chất chảy ra tuy là bất tịnh, nhưng nơi chốn chảy ra là tịnh. Cũng như hoa của cây Khẩn-thủ-ca, màu sắc của nó giống miếng thịt. Khi hoa nở rộ, loài dã can trông thấy bèn nghĩ thầm: Như ta hôm nay nhất định sẽ được ăn thịt. Đứng chờ lâu bên cội cây, khi có hoa rụng xuống đất, Dã can vội chạy đến ngửi mới biết không phải là thịt. Nó lại nghĩ: Hoa rụng tuy không phải là thịt, nhưng những hoa khác còn ở trên cành tất nên là thịt. Các ngoại đạo kia cũng lại như thế. Các chất từ thân chảy ra tuy không phải là tịnh, nhưng nơi chốn chảy ra tất phải là tịnh.

Hỏi: Như trong pháp giảng nói thiện, cũng nói về hành thiện hữu lậu là tịnh nhưng chẳng phải là tà kiến. Còn thuyết của ngoại đạo kia là tà kiến chăng?

Đáp: Có một ít tướng tịnh bèn thấy là ít tịnh.

Hỏi: Những gì là tướng tịnh?

Đáp: Phiền não không xen tạp, lại mâu thuẫn với phiền não, thế nên không phải là tà kiến. Trong pháp giảng nói ác kia, cho pháp bất tịnh đồng với nghĩa thật của pháp thanh tịnh. Đó gọi là tà kiến.

Lại có thuyết nói: Như trong pháp giảng nói thiện, vì cho hành thiện là tịnh, nên không phải là tà kiến. Ngoại đạo kia vì cho hành thiện, bất thiện, căn bất thiện, phiền não, tà kiến điên đảo là tịnh, nên gọi là tà kiến.

Hỏi: Như pháp hữu lậu, phiền não xen tạp, nên biết là bất tịnh, vì sao nói là ba tịnh?

Đáp: Nghĩa như thật: Tất cả pháp hữu lậu đều là bất tịnh, vì do giả danh nên nói tịnh. Thế nào là giả danh? Từ căn thiện không tham, không giận, không si sinh ra, cũng có thể đối trị pháp tham dục v.v…, nên gọi là giả danh.

Tịnh chấp là bất tịnh, kiến này có hai thứ, cho đến nói rộng.

Hỏi: Thế nào là tịnh?

Đáp: Là đạo và quả của đạo.

Hỏi: Các ngoại đạo kia do sự việc gì nên nói Diệt, Đạo là bất tịnh?

Đáp: Ngoại đạo kia tạo ra thuyết thế này: Như thật nghĩa nơi các phiền não là pháp bất tịnh. Đạo có thể đoạn trừ bất tịnh đó. Do đạo có thể đoạn trừ các phiền não, nên đạo cũng bất tịnh. Do Niếtbàn từ đạo bất tịnh sinh, nên cũng là bất tịnh. Cũng như dùng dao để cắt vật bất tịnh, thì dao tức là bất tịnh. Do dao bất tịnh lại cắt vật khác, nên có thể khiến vật khác bất tịnh.

Lại như dùng nước rửa vật bất tịnh, thì nước là bất tịnh. Nếu dùng nước bất tịnh này lại rửa vật khác, thì vật khác ấy cũng bất tịnh. Như thế, dùng đạo đoạn các phiền não, đạo tức bất tịnh. Nếu dùng đạo này để sinh vào Niết-bàn, thì Niết-bàn cũng là bất tịnh.

Nói Đạo là bất tịnh, kiến chấp này gọi là tà kiến, là tự tánh của nó. Do kiến đạo đoạn, là đối trị tà kiến ấy.

Nếu nói Diệt là bất tịnh, thì kiến chấp này gọi là tà kiến, là tự tánh của nó. Do kiến diệt đoạn là đối trị tà kiến ấy. Kiến đạo đoạn tà kiến, duyên nơi đạo sinh. Nếu lúc đạo trí đạo nhẫn sinh, đoạn kiến diệt đoạn tà kiến cũng như thế.

Vô ngã chấp là ngã, cho đến nói rộng.

Hỏi: Thế nào là vô ngã?

Đáp: Tất cả pháp là vô ngã.

Hỏi: Các ngoại đạo kia do sự việc gì nên chấp ngã?

Đáp: Vì ngu tối đối với pháp oai nghi đến đi, nên ngoại đạo kia tạo ra thuyết này: Nếu không có ngã thì ai đến – ai đi, ai đứng – ai ngồi, ai co vào – ai duỗi ra? Vì có ngã nên mới có thể đến, đi, đứng, ngồi, co, duỗi. Lại nữa, nếu không có ngã, thì không có những sự việc thấy, nghe, ngửi mùi hương, biết vị, nhận rõ xúc và nhớ nghĩ. Vì những sự việc này, tất biết là có ngã. Ngoại đạo kia không có ngã chấp có ngã, đó gọi là thân kiến, là tự tánh của thân kiến. Do kiến khổ đoạn là đối trị thân kiến kia.

Kiến này duyên nơi khổ sinh, cho đến nói rộng. Ngã có hai thứ: (1) Ngã giả danh. (2) Ngã chấp nhân. Nếu chấp ngã giả danh tức chẳng phải là tà kiến. Nếu là ngã chấp nhân, thì đó là tà kiến.

Hỏi: Trong đây chỉ nói ngã kiến, vì sao không nói ngã sở kiến?

Đáp: Vì ngã kiến là tánh điên đảo, ngã sở kiến chẳng phải là tánh điên đảo.

Lại có thuyết nói: Ngã kiến là căn bản, nếu nói ngã kiến nên biết là cũng nói ngã sở kiến.

Lại có thuyết cho: Do có ngã kiến, nên có ngã sở kiến. Nếu nói ngã kiến, nên biết là cũng nói ngã sở kiến. Kiến chấp của mình thì đối tượng được kiến chấp của mình cũng như thế.

Hỏi: Vì sao không nói ngã kiến là vô ngã mà gọi là tà kiến?

Đáp: Vì do không có ngã.

Lại có thuyết nói: Nếu ngã kiến không có ngã, tức là chánh kiến, không gọi là tà kiến.

Chẳng phải nhân chấp là nhân, cho đến nói rộng.

Hỏi: Ngoại đạo kia vì sao chẳng phải nhân chấp là nhân?

Đáp: Vì chấp sai lầm về nhân. Như nhà nông gieo trồng vào mùa thu, sẽ thu hoạch nhiều lúa thóc. Ngoại đạo kia nói thế này: Đó đều là sự ban ân của trời Thi Lợi Dạ, trời Tư Đà Dạ, và trời Xá Ma Dạ. Nếu sinh con trai, con gái, ngoại đạo kia nói thế này: Đây đều là sự ban cho của trời Nan Đà, trời Nan Đà Bà La. Nếu là người giàu sang, sinh con trai, con gái, ngoại đạo kia nói thế này: Kết quả này đều là do trời Tỳ Nữu, trời Ma Hê Thủ La đã ban cho. Ngoại đạo kia đã tạo kiến chấp sai lầm như thế đối với nhân. Chẳng phải nhân chấp là nhân. Đây gọi là giới thủ, là tự tánh của giới thủ. Do kiến khổ đoạn là đối trị giới thủ đó. Giới thủ này, vì duyên với khổ sinh, nên trở lại do kiến khổ đoạn trừ.

Hỏi: Không có nhân chấp là nhân cũng gọi là hủy báng nhân, vì sao không phải là tà kiến?

Đáp: Tôn giả Hòa-tu-mật nói: Nếu hủy báng cho là không có nhân thì gọi là tà kiến. Ngoại đạo kia không nói là không nhân, chỉ chẳng phải nhân chấp là nhân, nên chẳng phải là tà kiến.

Có nhân chấp không nhân, cho đến nói rộng.

Hỏi: Các ngoại đạo kia do sự việc gì nên nói là không nhân?

Đáp: Vì thấy các vật trong ngoài hiện có, có đủ các thứ tướng, ngoại đạo kia nói thế này: Ai đào sông? Ai đắp núi? Ai đan thêu? Ai vẽ hình cầm thú? Nên nói kệ:

Ai hay tạo thêu dệt

Vẽ hình các cầm thú? Đó đều không nhân tạo Đời không có tự tại.

Ngoại đạo kia có nhân, chấp không nhân, đây gọi là tà kiến, là tự tánh của tà kiến. Do kiến tập đoạn là đối trị của tà kiến. Kiến này duyên với tập sinh, trở lại do kiến tập đoạn, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao ở đây nói tà kiến hủy báng nhân do kiến tập đoạn, còn trong Kiền Độ Kiến nói tà kiến hủy báng nhân, nên nói là do kiến tập, kiến đạo đoạn?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Đây là ý của người tạo luận muốn như thế, cho đến nói rộng.

Lại có thuyết cho: Trong đây không nói nghĩa của tất cả nhân. Còn phần luận kia thì nói nghĩa của tất cả nhân.

Lại có thuyết nêu: Trong đây chỉ hủy báng nhân sinh quả, còn trong phần luận kia nói hủy báng cả nhân sinh quả và nhân không sinh quả. Nếu nói Niết-bàn không có nhân, thì đó há không phải là chánh kiến?

Lại có thuyết nói: Ở đây nói hủy báng về nhân của khổ, còn trong phần luận kia nói hủy báng về nhân của khổ và nhân của không khổ.

Lại có thuyết cho: Ở đây không có hủy báng nghĩa nhân của đạo, thế nên không nói là tà kiến hủy báng đạo, chỉ có hủy báng nghĩa nhân của tập, vì thế nên nói là tà kiến hủy báng tập.

Có tạo kiến chấp không, cho đến nói rộng.

Hỏi: Thế nào là có?

Đáp: Là bốn đế.

Hỏi: Các ngoại đạo kia do sự việc gì nên nói không có đế?

Đáp: Do có ngã kiến, nên nói không có đế. Ngoại đạo kia nói thế này: Ngã không có khổ, tức là hủy báng khổ. Ngã không có nhân, tức là hủy báng tập. Ngã nếu không có diệt, tức là hủy báng diệt, vì nếu không có diệt thì không có đối trị. Như trong pháp thiện, nói thế này: Ấm ấy là khổ, không ngã, sinh tin. Tâm khổ nói có khổ đế, khổ này có nhân, sinh tin. Tâm tập nói có tập đế. Nếu khổ có diệt, sinh tin. Tâm diệt nói có diệt đế. Diệt nếu có đối trị sinh tin. Tâm đạo nói có đạo đế.

Ngoại đạo kia tạo kiến chấp không đó gọi là tà kiến, là tự tánh của tà kiến. Do kiến khổ tập diệt đạo đoạn là đối trị tà kiến kia. Kiến này duyên nơi bốn đế sinh, trở lại do kiến bốn đế đoạn, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tà kiến không duyên với hư không phi số duyên diệt?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nếu pháp là ấm, là nhân của ấm, là diệt của ấm, là đối trị của ấm, thì tà kiến tức duyên nơi hư không phi số duyên diệt. Vì không phải là nhân của ấm, diệt của ấm, đối trị ấm, thế nên tà kiến không duyên.

Lại có thuyết cho: Nếu pháp là khổ, là nhân của khổ, là diệt của khổ, là đối trị của khổ, tức tà kiến duyên nơi hư không phi số duyên diệt. Vì trái với trên, thế nên tà kiến không duyên.

Lại có thuyết nêu: Nếu pháp là phiền não, là xuất yếu, tức tà kiến duyên nơi hư không phi số duyên diệt, do trái với trên, thế nên tà kiến không duyên.

Lại có thuyết nói: Nếu pháp là đối tượng duyên của chánh kiến vô lậu, cũng là đối tượng duyên của tà kiến, thì tà kiến duyên nơi hư không phi số duyên diệt. Vì không là đối tượng duyên của chánh kiến, nên tà kiến không duyên. Như tà kiến – chánh kiến, thì sáng suốt – không sáng suốt, trí – không phải trí, quyết định – nghi ngờ, tin tưởng – hủy báng, nên biết cũng như thế.

Hỏi: Nếu nói không Hư không phi số duyên diệt thì tâm này là đối tượng duyên nào?

Đáp: Tức duyên nơi danh hư không phi số duyên diệt. Vì sao? Vì ở đây không có tâm sâu nặng, như phiền não hủy báng pháp xuất yếu.

Hỏi: Vì là trí nào?

Đáp: Đây là tà trí vô ký không ẩn mất, do tư duy đoạn (do tu đạo đoạn).

Có, tạo kiến chấp không. Về có, có ba thứ: (1) Có cùng đối đãi. (2) Có của xứ sở. (3) Có thật. Có cùng đối đãi: Nghĩa là nhân có nên có, không. Nhân không nên có, có. Có của xứ sở: Nghĩa là như xứ này có, xứ kia không có. Có thật: Nghĩa là đây là có thật, đây là không có thật. (Như khổ là có thật. Ngã là không có thật)

Lại có thuyết nói: Về có, có hai thứ: (1) Có của vật thể. (2) Có của nêu đặt. Có của vật thể: Nghĩa là năm ấm. Có của nêu đặt: Nghĩa là nam, nữ v.v… Hủy báng khổ có hai thứ: (1) Hủy báng vật thể. (2) Hủy báng quả. Nếu hủy báng tập là hủy báng vật thể, hủy báng nhân. Nếu hủy báng diệt là hủy báng vật thể, không hủy báng quả. Nếu hủy báng đạo là hủy báng vật thể, không hủy báng nhân.

Hoặc có thuyết cho: Cũng hủy báng nhân.

Không tạo kiến chấp có, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nên tạo ra thuyết như vầy: Nếu không tạo kiến chấp có, nên nói là thân kiến, do kiến khổ đoạn.

Lại có thuyết nêu: Nên lập ra thuyết này: Không cho là có là tuệ. Vì sao? Vì đó không phải tánh của kiến.

Lại có thuyết cho: Nên lập ra thuyết như vầy: Đây không phải là kiến. Vì sao? Vì nơi năm kiến không nói đến. Nhưng không nói thì việc nêu kia có ý gì? Đáp: Vì ý muốn tạo sự hỏi đáp. Như nói: Không tạo ra kiến chấp có, đó là kiến gì? Như vậy gọi là hỏi. Đây không phải là kiến. Đó gọi là đáp.

Tự có, tuy không có sự việc này, nhưng vẫn có hỏi, đáp. Như trong phẩm Mười Môn nói về vị tri dục tri căn, tri căn, tri dĩ căn, pháp vô lậu, vô vi, cũng là hỏi. Có bao nhiêu sử sai khiến, đó cũng là hỏi? Đáp: Không bị sử sai khiến, đấy cũng là đáp. Như người kia tuy không có việc này mà vẫn có hỏi, đáp. Đây cũng như thế, không có sự việc này màvẫn lập ra hỏi đáp.

Hỏi: Không tạo kiến chấp có, đây là kiến gì?

Đáp: Đây không phải là kiến mà là tà trí.

Hỏi: Thế nào là tà trí?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Là pháp vô ký không ẩn mất (vô ký vô phú) do tư duy đoạn. Như đang đi trên đường chánh mà khởi tưởng là đi trên đường không đúng. Như đang đi trên đường không đúng mà khởi tưởng là đi trên đường chánh. Như người nam khởi tưởng là nữ. Người nữ khởi tưởng là nam. Có những tưởng như thế v.v… gọi là tà trí.

Lại có thuyết cho: Trí này cũng là vô ký có ẩn mất (vô ký hữu phú), đó là tương ưng với mạn. Như Phạm thiên kia đã nói thế này: Ta là Đại Phạm, tôn quý nhất trong các Phạm thiên. Ta có thể tạo tác biến hóa v.v… Đó là tà trí. Vì sao? Vì không có trụ nơi kiến đế, tâm đã đoạn, lại có thể nói lời ấy.

Nên tạo ra thuyết này: Như thuyết trước nói là tốt: Là pháp vô ký không ẩn mất, do tư duy đoạn.

Hỏi: Nếu như vậy thì trái với phần Kiền Độ Trí đã nói. Như nói: Thế nào là tà trí? Đó là tuệ nhiễm ô.

Đáp: Không trái với Kiền Độ Trí kia. Vì sao? Vì vô tri có hai thứ: Đó là nghĩa thật và giả danh. Nghĩa thật là tương ưng với sử vô minh, các A-la-hán đã đoạn hết. Giả danh nghĩa là như thoáng trông thấy gốc cây trụi cho là con người v.v…, các bậc A-la-hán, Phật-bíchchi cũng có. Chỉ có Đức Như Lai Đẳng Chánh Giác là dứt trừ hết hai thứ này.

Có bốn điên đảo, đó là thường, lạc, tịnh, ngã. Vì bị pháp tương tợ che lấp, nên không biết vô thường. Vì bị pháp oai nghi vừa ý che lấp, nên không biết là khổ. Vì bị da thịt che lấp, nên không biết bất tịnh. Vì bị việc mình đã làm che lấp, nên không biết vô ngã.

Hỏi: Tánh của bốn điên đảo này là gì?

Đáp: Là tánh của tuệ.

Hỏi: Nếu là tuệ thì trong năm kiến này, có bao nhiêu là điên đảo, bao nhiêu là không điên đảo?

Đáp: Có hai kiến rưỡi là điên đảo, hai kiến rưỡi không phải là điên đảo. Hai kiến rưỡi là điên đảo, đó là thân kiến, kiến thủ và thường kiến thuộc về biên kiến. Hai kiến rưỡi không phải là điên đảo, đó là tà kiến, giới thủ và đoạn kiến thuộc về biên kiến.

Hỏi: Vì sao hai kiến rưỡi là điên đảo, còn hai kiến rưỡi thì không phải là điên đảo?

Đáp: Vì ba sự việc, nên gọi là điên đảo: (1) Chuyển hành. (2) Tăng ích. (3) Tánh điên đảo. Tà kiến, đoạn kiến tuy là chuyển hành, tánh điên đảo, nhưng không phải là tăng ích. Vì sao? Vì là tánh của vật hư hoại. Giới thủ tuy là chuyển hành, tuy là tánh tăng ích, nhưng không phải là điên đảo. Vì sao? Vì có một ít pháp tương tợ, cũng nói là có đạo của cõi sắc, có thể lìa dục của cõi dục. Có đạo của cõi vô sắc, có thể lìa dục của cõi sắc. Đó là tự thể của điên đảo, là ngã, là vật, là tướng, là phần, là tánh.

Đã nói về tự thể, nay sẽ nói về lý do.

Hỏi: Vì lý do gì gọi là điên đảo?

Đáp: Vì điên đảo có đối tượng tăng nên gọi là điên đảo. Bốn điên đảo này chỉ do kiến khổ đoạn. Vì sao? Vì chúng duyên nơi khổ sinh, nên trở lại do kiến khổ đoạn.

Lại nữa, điên đảo này duyên nơi quả sinh, trở lại dùng tuệ của kiến quả đoạn.

Lại nữa, thân kiến do kiến khổ đoạn, tánh là điên đảo. Nếu thân kiến đã đoạn thì khổ cũng đoạn.

Lại nữa, khổ thì thô, nếu có kẻ nhận lầm về khổ thô thì sẽ bị các Hiền Thánh quở trách. Như người nơi ban ngày có mặt trời mà đi lạc sẽ bị nhiều người chê trách. Ba đế thì vi tế, nếu có người nhận lầm về vi tế, thì không bị quở trách nặng. Như có kẻ đi lạc giữa ban đêm, thì người đời không chê trách nặng.

Lại nữa, hành giả đã kiến khổ, vĩnh viễn không có tâm điên đảo. Nếu đúng hành giả kiến khổ rồi mà không kiến tập, thì không có điều đó. Vì để phân biệt, nên giả thiết kiến khổ rồi, lại không kiến những đế còn lại. Nếu hỏi người kia: Ấm này là thường hay là vô thường? Người kia nhất định đáp: Là vô thường, cho đến không có một sát-na dừng lại. Nếu hỏi: Là khổ hay là vui? Người kia nhất định đáp: Là khổ, cũng như viên sắt nóng. Nếu hỏi: Là tịnh hay là bất tịnh? Người kia nhất định đáp: Là bất tịnh, như đống phân. Nếu hỏi: Là có ngã hay không có ngã? Người kia nhất định đáp: Không có ngã, vì không người tạo tác. Không có người tạo tác nên không có kẻ thọ nhận, như cỏ cây, y phấn tảo v.v…

HẾT – QUYỂN 4