LUẬN A TỲ ĐÀM TỲ BÀ SA
STác giả: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử
Giải thích: Năm trăm A La Hán
Hán dịch: Đời Bắc Lương, Sa môn Phù Đà Bạt Ma, Đạo Thái v.v…
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 3

Chương 1: KIỀN ĐỘ TẠP

Phẩm thứ 1: PHÁP THẾ ĐỆ NHẤT, phần 3

* Thế nào là pháp Đảnh? Thế nào là pháp Đảnh thoái chuyển? Thế nào là pháp Noãn? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Ở đây nếu nói ngược về pháp đã đạt được của hàng phàm phu, tức nói Pháp thế đệ nhất xong, vì sao không tiếp theo nói về Nhẫn?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vì ý của người tạo Kinh (Luận) kia muốn như thế, cho đến nói rộng.

Lại có thuyết nói: Nên nói: Thế nào là Nhẫn? Vì lý do gì gọi là Nhẫn? Nên hệ thuộc như thế nào, cho đến nói rộng. Nhưng không nói là có ý gì? Đáp: Đó là nghĩa giản lược vì nêu bày chưa trọn vẹn.

Lại có thuyết cho: Trước đã nói Nhẫn nhưng không làm sáng tỏ. Như trước đã nói: Nếu tâm tâm số pháp xuất hiện sau là hơn hẳn trước, tức chẳng phải Pháp thế đệ nhất. Vậy là pháp nào? Đáp: Là nhẫn tăng thượng. Đó là nói về nhẫn.

Lại có thuyết nêu: Nếu nơi kinh Phật nói thì ở đây nên nói. Nếu nơi kinh không nói thì ở đây không nên nói. Vì kinh Phật không nói về xứ nhẫn thế nên ở đây không nói.

Lại có thuyết nói: Như trong Kinh Tăng Nhất A Hàm nói: Nếu không thành tựu sáu pháp thì không thể xa trần lìa cấu, đạt được pháp nhãn thanh tịnh. Sáu pháp đó là: (1) Không ưa thích nghe pháp. (2) Tuy nghe pháp nhưng không lắng tai để nghe. (3) Không vì sự hiểu biết. (4) Đối với pháp chưa được, không dùng phương tiện để siêng năng cầu đạt. (5) Đối với pháp đã được, không khéo giữ gìn. (6) Không thành tựu thuận nhẫn. Nếu thành tựu sáu pháp thì có thể xa lìa trần cấu, đạt được pháp nhãn thanh tịnh. Những gì là sáu? Là ưa thích nghe pháp, cho đến thành tựu Thuận nhẫn.

Hỏi: Kinh kia tuy nói thuận nhẫn nhưng không nói là thuận đế nhẫn?

Đáp: Thuận nhẫn, thuận đế nhẫn đâu có khác biệt gì. Nhân luận sinh luận, vì sao Nhẫn nói Thuận đế nhẫn, còn Noãn, Đảnh thì không?

Hoặc có thuyết cho: Như nói Nhẫn là nói Thuận đế. Noãn, Đảnh cũng nên nói, nhưng không nói phải biết đều là thuyết chưa trọn vẹn.

Lại có thuyết nêu: Thuận là nói tùy thuận. Nhẫn kia khéo tùy thuận. Còn Noãn, Đảnh thì không như thế.

Lại có thuyết nói: Pháp Noãn có thể ngăn chận phần ngu tăng thượng khi duyên nơi đế. Đảnh ngăn chận phần ngu trung. Nhẫn ngăn chận phần ngu hạ. Vì do ngăn chận phần ngu trong thân, nên sinh Pháp thế đệ nhất.

Lại có thuyết cho: Pháp Noãn có thể sinh ra ánh sáng phẩm hạ của duyên nơi đế. Đảnh sinh ra ánh sáng phẩm trung. Nhẫn sinh khởi ánh sáng phẩm thượng. Vì do trong thân này có ánh sáng của duyên nơi đế nên có thể sinh ra Pháp thế đệ nhất.

Lại có thuyết nêu: Pháp Noãn vui thích đối với ấm. Pháp Đảnh vui thích đối với vật báu. Pháp Nhẫn vui thích đối với đế. Vì do quán Thánh đế được vui thích trong thân nên có thể sinh ra Pháp thế đệ nhất.

Lại có thuyết nói: Nhẫn đối với tất cả thời gian cùng tương tợ với kiến đạo. Như tất cả thời gian của kiến đạo, chỉ pháp niệm xứ hiện ở trước, Nhẫn kia cũng thế. Noãn, Đảnh thì không như vậy. Vì sao? Vì trước tu pháp niệm xứ, sau thì ba niệm xứ tăng trưởng, lần lượt hiện ở trước, thế nên không tương tợ. Nhẫn tu tập pháp niệm xứ, chỉ tăng trưởng pháp niệm xứ, do tương tợ với kiến đạo, nên gọi là Thuận đế nhẫn. Noãn, Đảnh thì không như vậy, nên không gọi là Thuận đế.

Lại có thuyết nêu: Pháp Nhẫn nghiêng về một bên gần với kiến đạo. Noãn, Đảnh thì không như thế.

Lại có thuyết cho: Pháp nhẫn cũng nối tiếp nhiều, cũng một sát-na hiện ở trước. Noãn, Đảnh chỉ có nhiều nối tiếp hiện ở trước.

Lại có thuyết nói: Pháp Nhẫn chỉ một định ý. Noãn, Đảnh thì không như thế.

Lại có thuyết cho: Pháp Nhẫn là chánh quán không xen tạp, Noãn, Đảnh thì có xen tạp, hoặc có khi khởi căn thiện của cõi dục.

Lại có thuyết nêu: Pháp Nhẫn là chánh quán không nhiều, không rộng, nhưng có thể tùy thuận hướng đến Niết-bàn. Chánh quán của Noãn, Đảnh cũng nhiều, cũng rộng, cũng có thể tùy thuận hướng đến Niết-bàn. Ở đây, nên nói về dụ chuyển mua ngọc báu ma ni.

Do các nhân duyên như thế v.v…, nên Nhẫn được gọi là Thuận đế, còn Noãn, Đảnh không được gọi là Thuận đế.

Noãn, Đảnh này và nhẫn hạ trung hành mười sáu hành, duyên nơi bốn chân đế. Nhẫn tăng thượng hành bốn hành, duyên nơi khổ đế.

Lại có thuyết nói: Nhẫn tăng thượng duyên nơi đạo đế.

Hỏi: Nhẫn vì duyên với pháp nào đạt được chánh quyết định?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Duyên với đạo đế.

Hỏi: Nếu như vậy vì sao không duyên nơi hành trái ngược, sai lầm? Nếu duyên nơi hành trái ngược, sai lầm, thì vì sao không tạo trở ngại đối với việc đạt được chánh quyết định?

Đáp: Giả sử khiến duyên nơi hành trái ngược, sai lầm, thì đối với chánh quyết định không tạo trở ngại. Vì sao? Vì đối với căn thiện ấy tu tập duyên nơi hành, trước có đường thẳng, do đó khi nhập Thánh đạo, đối với duyên nơi hành này tự tại có thể thọ dụng. Như trong kiến đạo, trước khởi đạo nhẫn trí của cõi dục, tiếp theo sinh đạo nhẫn trí của Hữu đảnh. Đạo nhẫn trí của Hữu đảnh này, về sau lại sinh trở lại đạo nhẫn trí của cõi dục, quán hành khổ. Sau lại sinh quán hành tập, cho đến nói rộng. Như thế đều gọi là duyên với hành trái ngược, sai lầm, không do duyên nơi hành ấy mà đối với kiến đạo tạo ra trở ngại. Vì sao? Vì đối với kiến đạo, tu tập duyên nơi hành, trước đã có đường thẳng. Nhẫn cũng như thế, đối với việc đạt được chánh quyết định, không tạo ra trở ngại. Những người tạo ra thuyết này đều cho Nhẫn tăng thượng duyên nơi đạo đế, về sau đạt được chánh quyết định. Nhẫn tăng thượng kia có ba tâm nên đồng một duyên, một hành, đó là Pháp thế đệ nhất. Hai tâm khổ pháp nhẫn, khổ pháp trí nên đồng một hành, không đồng một duyên. Đó là hai tâm khổ tỷ nhẫn, khổ tỷ trí, đều đồng một duyên, không đồng một hành, đó là tập pháp nhẫn, tập pháp trí.

Lời bình: Nên lập ra thuyết này: Nhẫn tăng thượng nên duyên nơi khổ đế, về sau đạt được chánh quyết định. Kiến đạo kia là căn thiện mãnh liệt, tráng kiện, tuy duyên với hành trái ngược, sai lầm, nhưng đối với chánh quyết định không tạo ra trở ngại.

Nhẫn kia là căn thiện hữu lậu của thế tục, tánh yếu kém. Nếu duyên nơi hành trái ngược, sai lầm, tức tạo trở ngại cho kiến đạo.

Nghĩa như thật, là Nhẫn tăng thượng nên quán nơi khổ, về sau đạt được chánh quyết định. Không phải trước nhẫn quán đạo đế, sau đạt được chánh quyết định. Nhẫn tăng thượng hành nơi hành khổ duyên với khổ, nhưng đạo phương tiện của nhẫn hành rộng mười sáu hành, duyên với bốn chân đế. Hành giả kia chánh quán khổ của cõi dục, quán khổ của cõi sắc, vô sắc, hành tập của cõi dục, hành tập của cõi sắc, vô sắc, hành diệt của cõi dục, hành diệt của cõi sắc, vô sắc, hành đạo đoạn trừ cõi dục, hành đạo đoạn trừ cõi sắc, vô sắc.

Ba mươi hai tâm như thế, gọi là hạ nhẫn. Hành giả vào thời gian sau dần dần giảm bớt hành và duyên.

Lại nữa, chánh quán khổ của cõi dục, khổ của cõi sắc, vô sắc, cho đến quán hành đạo đoạn cõi dục, trừ quán hành đạo đoạn cõi sắc, vô sắc. Từ đó gọi là trung nhẫn.

Lại nữa, chánh quán khổ của cõi dục, quán khổ của cõi sắc, vô sắc, cho đến quán hành diệt của cõi sắc, vô sắc, trừ giảm tất cả đạo.

Lại nữa, chánh quán khổ của cõi dục, khổ của cõi sắc, vô sắc, cho đến quán hành diệt của cõi dục, trừ hành diệt của cõi sắc, vô sắc.

Lại nữa, chánh quán khổ của cõi dục, cho đến quán hành tập của cõi sắc, vô sắc, trừ tất cả diệt.

Lại nữa, chánh quán khổ của cõi dục, cho đến quán hành tập của cõi dục, trừ hành tập của cõi sắc, vô sắc.

Lại nữa, chánh quán khổ của cõi dục, khổ của cõi sắc, vô sắc, trừ tất cả tập.

Lại nữa, chánh quán khổ của cõi dục, trừ khổ của cõi sắc, vô sắc.

Lại nữa, chánh quán khổ của cõi dục, thường nối tiếp không dứt, không xa lìa.

Lúc quán như thế, sẽ sinh nhàm chán sâu xa về những lỗi lầm tai hại.

Lại nữa, nên giảm bớt, chỉ tạo hai tâm, quán nơi một hành, như tợ khổ pháp nhẫn, khổ pháp trí.

Chánh quán như thế, đó gọi là trung nhẫn.

Người kia lại dùng một tâm quán khổ của cõi dục. Đó gọi là thượng nhẫn. Tiếp sau, sinh Pháp thế đệ nhất. Tiếp sau Pháp thế đệ nhất sinh khổ pháp nhẫn. Ví như có người muốn từ nước mình đi đến nước khác, có nhiều của báu và các vật dụng của nghề nghiệp sinh sống không thể mang theo, nên đem của cải vật dụng này đổi ra tiền đồng, cũng còn e là nhiều không thể đem đi. Lại dùng tiền đồng đổi ra vàng, cũng còn ngại là nhiều không thể mang theo, nên lại đem vàng đổi ra những châu báu có giá trị, rồi mang số châu báu này theo để được an toàn đến nước khác.

Người tu hành cũng như thế, cho đến bỏ dần, nối tiếp không lìa, sinh ra thượng nhẫn. Tiếp sau nhẫn sinh Pháp thế đệ nhất. Sau Pháp thế đệ nhất sinh khổ pháp nhẫn.

Luận nói sau khi duyên nơi khổ nhẫn đạt được chánh quyết định, bốn tâm kia cần đồng một hành, một duyên, đó là Nhẫn tăng thượng Pháp thế đệ nhất, hai tâm khổ pháp nhẫn, khổ pháp trí. Đồng một hành, không đồng một duyên, đó là hai tâm khổ tỷ nhẫn, khổ tỷ trí. Đồng một duyên, không đồng một hành, đó là tập pháp nhẫn, tập pháp trí. Thế nên, như thuyết này nói là tốt.

Hỏi: Pháp thế đệ nhất có phẩm thượng, trung, hạ không?

Đáp: Không có. Vì không thể có trong tâm của một người, trong tâm của nhiều người mới có. Như Tôn giả Xá-lợi-phất là thượng, Tôn giả Mục-liên là trung, các Thanh văn còn lại là hạ. Về phần tánh cũng có thượng, trung, hạ. Đức Phật là thượng, Duyên giác là trung, Thanh văn là hạ.

Thế nào gọi là Đảnh? Vì sao gọi là Đảnh?

Tôn giả Cù-sa nói: Có hai thứ căn thiện của phần đạt được: (1) Nơi cõi dục, đó là Noãn, Đảnh. (2) Ở cõi sắc, đó là Nhẫn và Pháp thế đệ nhất. Trong cõi dục phần hạ gọi là Noãn, phần thượng gọi là đảnh. Trong cõi sắc phần hạ gọi là Nhẫn, phần thượng gọi là Pháp thế đệ nhất.

Lời bình: Vị kia không nên nói như thế. Do đây đều là pháp của cõi sắc, là pháp tu, là pháp trụ nơi địa định, là pháp có thể hành Thánh hạnh. Nói như thế là tốt.

Hỏi: Do đâu nói là pháp Đảnh?

Đáp: Là căn thiện của cõi sắc, có động, không động, có trụ, không trụ, có nạn, không nạn, có dứt bỏ, không dứt bỏ, có thoái chuyển, không thoái chuyển. Những thứ động kia, những thứ không trụ, có nạn, có dứt bỏ, có thoái chuyển ấy có hai: Hạ là Noãn, thượng là Đảnh. Những thứ không động, trụ, không nạn, không dứt bỏ, không thoái chuyển ấy cũng có hai: Hạ là Nhẫn, thượng là Pháp thế đệ nhất.

Lại có thuyết nói: Nên nói hạ là Đảnh. Vì sao? Vì ở dưới pháp Noãn là Đảnh.

Lại có thuyết cho: Cũng như đỉnh núi, nên gọi là Đảnh. Như đường đi qua đỉnh núi, người không trú lâu, nếu không có các hiểm nạn, tất con người sẽ đi qua núi này để đến núi kia. Nếu gặp các nạn thì lui trở lại. Người tu hành cũng như thế, trụ nơi Đảnh thì không trụ lâu. Nếu không có các nạn, tất đến với Nhẫn. Nếu có các nạn sẽ thoái chuyển trở lại nơi Noãn. Do đấy cũng như đỉnh núi, nên gọi là Đảnh.

Lại có thuyết nêu: Vì vượt hơn pháp Noãn, nên gọi là Đảnh.

Thế nào là Đảnh? Là hoan hỷ đối với Phật, Pháp, Tăng, sinh niềm tin nhỏ, thấp, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao nói sự tin này là nhỏ, thấp?

Đáp: Như Tôn giả Cù-sa nói: Hai căn thiện của phần đạt là Noãn, Đảnh này, vì là pháp của cõi dục, nên nói là nhỏ, thấp.

Lại có thuyết cho: Vì dừng trụ không lâu, nên gọi là nhỏ, thấp.

Lại có thuyết nói: Sự tin này nên nói là tin khác biệt. Vì sao? Vì khác với việc hành pháp Noãn của Thánh hạnh nơi địa tu, địa định của cõi sắc, nên gọi là khác biệt. Đối với Phật, Tăng, sinh sự tin nhỏ, thấp, là duyên với sự tin nơi đạo đế. Đối với pháp, sinh niềm tin nhỏ, thấp là duyên với sự tin về diệt đế.

Hỏi: Như Đảnh có thể duyên với bốn đế. Vì sao trong đây chỉ nói duyên với sự tin nơi hai đế, không nói duyên với sự tin nơi khổ, tập?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vì ở đây nói về danh nghĩa nơi pháp tối thắng nên đối với bốn đế này, đế nào là tối thắng? Đó là diệt đế, đạo đế. Vì sao? Vì hai đế này thanh tịnh, không có lỗi.

Lại có thuyết cho: Hai đế này là diệu, là lìa.

Lại có thuyết nêu: Hai đế này có thể sinh ra nơi chốn tin tưởng.

Lại có thuyết nói: Hai đế này có hai nghĩa: (1) Đáng tin. (2) Đáng cầu.

Lại có thuyết nêu: Vì chúng sinh thọ nhận sự hóa độ của Phật khởi tâm tin ưa, nên nếu Đức Thế Tôn nói khổ, tập là đáng kính tin, tức không có người thọ nhận sự hóa độ. Vì sao? Vì người nhận lấy sự hóa độ kia sẽ khởi suy nghĩ: Đây là phiền não, hành ác, tà kiến, điên đảo, sao có thể kính tin? Chúng ta thường bị khổ này bức bách. Nếu Đức Thế Tôn giảng nói về diệt, đạo, thì đó mới là điều đáng kính tin. Do kẻ thọ nhận sự hóa độ của Phật tâm sinh vui thích, thế nên diệt, đạo là tối thắng, đáng kính tin.

Lại có thuyết cho: Diệt, đạo này có hai sự việc đáng kính, tin:

(1) Ưa thích quán ở trước. (2) Không có tâm lìa bỏ.

Lại có thuyết nói: Tin Phật, tin Tăng, là nói duyên nơi sự tin của Đạo đế. Tin Pháp là nói duyên nơi sự tin của ba đế. Nếu như thế tức nói đều duyên nơi sự tin của bốn đế. Như nói: Ma-nạp-bà Ba-la-diên v.v… có thể khởi sự đối với Phật, Pháp, Tăng sinh tin nhỏ, thấp. Đó gọi là pháp Đảnh.

Người tạo ra Kinh (Luận) kia, nêu dẫn kinh để chứng minh.

Hỏi: Như lúc trụ nơi Đảnh, cũng tin ấm, cũng tin Tam bảo, cũng tin đế. Vì sao Đức Thế Tôn đã vì Ma-nạp-bà v.v… chỉ nói tin Tam bảo, không nói tin ấm, đế?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Các Ma-nạp-bà v.v… kia chẳng phải là không tin nơi khổ, tập đế, chỉ không tin Tam bảo. Do không tin Tam bảo, nên Đức Phật đã vì họ giảng nói.

Lại có thuyết nêu: Các Ma-nạp-bà v.v… kia vì bị khổ giày vò, muốn cầu lìa khổ nên đã đến chỗ Đức Phật, như kệ nói:

Các chúng sinh bị khổ bức bách

Không biết lìa khổ, nên đến Phật

Xin chỉ bày pháp yếu, trừ họa

Cũng như lúc nóng vào ao mát.

Thật sự có thể lìa khổ thì chỉ có Diệt, Đạo. Người kia có hai nghĩa đáng tin: (1) Luôn ưa thích quán. (2) Thường vui mừng, mong cầu.

Lại có thuyết cho: Tin Phật là nói duyên với sự tin nơi hai đế. Tin Tăng là nói duyên với sự tin nơi đạo đế. Tin Pháp là nói duyên với sự tin nơi diệt đế.

Lại có thuyết nói: Tin Phật là nói duyên với sự tin nơi bốn đế. Tin Tăng là nói duyên với sự tin nơi đạo đế. Tin Pháp là nói duyên với sự tin nơi ba đế.

Lại có thuyết nêu: Tam bảo là nơi chốn sinh khởi tin, kính, vì thế nên nói.

Lại có thuyết nói: Tùy theo ý vui thích của người tu hành nên nói. Nếu đối với ấm, sinh vui thích, thì đó gọi là Noãn. Đối với Tam bảo sinh khởi vui thích thì gọi là Đảnh. Đối với đế thì gọi là Nhẫn.

Hỏi: Như thể tánh của Đảnh là năm ấm. Vì sao Đức Thế Tôn đối với Ba-la-diên v.v… dùng tin để nói, đối với các Tỳ-kheo mới học dùng tuệ để nói?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Chỉ Đức Phật, Thế Tôn mới quyết định giải thích nói rõ về pháp tướng, cũng nhận biết việc nào nên làm, không phải người khác có thể theo kịp. Tức Đức Thế Tôn vì chúng sinh nên giảng nói pháp nào liền giảng nói pháp đó.

Lại có thuyết nói: Do Ba-la-diên v.v… chưa trụ nơi địa hành tác, chưa nhập trong pháp Phật, chưa được Xa-ma-tha, chưa lần lượt được nghe các vị trời khác nói để sinh tin kính, nên đã đến chỗ Đức Phật. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nhân nơi căn thiện của ông ta, muốn khiến tăng trưởng, nên đã dùng tin để nói. Còn các Tỳ-kheo mới tu học, không phải như trường hợp trên nên dùng tuệ để nói.

Lại có thuyết nêu: Đức Phật tùy theo sự thiếu thốn của người khác để đem lại lợi ích cho họ: Như Ba-la-diên v.v… vì thiếu thốn về kính tin, Tỳ-kheo dòng họ Thích thì thiếu thốn về tuệ. Thế nên đối với Ba-la-diên v.v… thì nói về tin kính để tạo lợi ích. Đối với các Tỳ-kheo dòng họ Thích, Đức Phật nói về tuệ nhằm đem lại lợi ích cho họ.

Lại có thuyết cho: Vì để ngăn chận ý ngu si, dua nịnh, quanh co, nên đối với Ba-la-diên, tuy rất thông sáng, nhưng thiếu kính tin. Tuệ không có tin kính, tức có thể làm tăng trưởng tính dua nịnh quanh co, nên Đức Phật đã vì Ba-la-diên v.v… giảng nói về tin kính để ngăn chận tâm dua nịnh quanh co. Các Tỳ-kheo dòng họ Thích mới xuất gia, tuy đã có một ít tin kính, nhưng thiếu về tuệ. Tin không có tuệ, tất sẽ tăng trưởng tâm ngu. Thế nên Đức Phật đã vì các Tỳ-kheo mới học nói về tuệ để ngăn chận tâm ngu.

Lại có thuyết nói: Đức Thế Tôn giảng nói pháp, người nhận sự hóa độ có hai hạng là hàng lợi căn và hàng độn căn. Vì người lợi căn thì nói về tin kính. Vì người độn căn thì nói về tuệ. Do Ba-la-diên v.v… là hàng lợi căn nên nói về tin. Vì các Tỳ-kheo mới học là hàng độn căn nên nói về tuệ.

Như lợi căn, độn căn, sức của nhân bên trong, sức của duyên bên ngoài, sức của phần bên trong, sức của phần bên ngoài, nội chánh quán tư duy tăng ích, ngoại từ người khác nghe pháp nội tăng ích, không ngu, không tham, tu, không tu, tổn giảm tụ xứ của thân kiến, không tổn giảm tụ xứ của thân kiến, nên biết cũng như thế.

Thế nào là pháp Đảnh thoái chuyển, cho đến nói rộng?

Hỏi: Vì sao nói Đảnh có thoái chuyển mà không nói Noãn có thoái chuyển?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Như nói Đảnh thoái chuyển, tức cũng nên nói Noãn thoái chuyển, nhưng không nói, nên biết đều là nêu bày chưa trọn vẹn.

Lại có thuyết nói: Hành giả khi ở nơi Đảnh có nhiều các thứ trở ngại. Có ba thời gian, nghiệp của các phiền não phần nhiều tạo ra các thứ trở ngại. Như từ Đảnh đến Nhẫn, bấy giờ các nghiệp của phiền não nơi nẻo ác đã tạo ra nhiều trở ngại. Vì sao? Vì các phiền não kia khởi niệm: Nếu người tu hành ấy đã đến nơi Nhẫn thì ta lại ở trong thân ai để sinh quả báo? Khi lìa dục của cõi dục, các nghiệp phiền não của cõi dục kia, đa số tạo ra trở ngại. Vì sao? Vì các nghiệp của phiền não khởi niệm: Nếu Hành giả kia đã ra khỏi cõi dục, thì ta còn ở trong thân ai để sinh quả báo? Lúc đã lìa dục của phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhận lấy hữu vị lai, các nghiệp phiền não phần nhiều tạo ra trở ngại. Vì sao? Vì các nghiệp phiền não khởi niệm: Nếu người tu hành kia đã lìa dục rồi, người ấy không còn nhận lấy thân, thì ta ở trong thân ai để sinh quả báo? Hành giả trong ba thời gian này có nhiều các thứ trở ngại, thế nên nói Đảnh có thoái chuyển mà không nói Noãn có thoái chuyển.

Lại có thuyết nêu: Bấy giờ hành giả sinh khởi rất lo âu, buồn phiền. Cũng như có người trông thấy kho châu báu, thấy xong hoan hỷ, có suy nghĩ: Nay ta vĩnh viễn dứt trừ gốc rễ của sự nghèo cùng. Về sau, khi người kia có ý định nhặt lấy vật báu, bỗng nhiên kho báu biến mất. Lúc ấy, người này đối với kho báu kia sinh khởi lo lắng, buồn sầu vô hạn. Cũng như thế, lúc hành giả trụ nơi pháp Đảnh, tự nghĩ không lâu mình sẽ chứng được Nhẫn, vĩnh viễn đoạn dứt nẻo ác, tâm vô cùng hoan hỷ. Về sau, trở lại thoái chuyển, tâm sinh lo buồn nhiều.

Lại có thuyết cho: Nếu nói Đảnh có thoái chuyển, nên biết là cũng nói Noãn có thoái chuyển.

Lại có thuyết nêu: Do pháp Đảnh trụ không lâu nên có thoái chuyển.

Lại có thuyết nói: Khi sắp được Nhẫn, được nhiều thứ lợi lớn. Cũng như Thánh nhân không rơi vào nẻo ác, lúc đạt được Nhẫn cũng lại như thế. Như Sa-môn trải qua hai mươi ức chín mươi mốt kiếp không bị đọa vào nẻo ác, trái với trên gọi là mất lợi lớn.

Hỏi: Thế nào là Đảnh thoái chuyển?

Đáp: Cũng như có người gần gũi với bậc thiện tri thức, theo vị ấy nghe giảng nói pháp, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?

Đáp: Trước tuy đã nói về thể tướng của Đảnh, nhưng chưa nói thế nào là được Đảnh? Thế nào là mất Đảnh? Nay vì muốn nói đến điều ấy nên tạo ra phần Luận này.

Cũng như có người gần gũi với bậc thiện tri thức: Nghĩa là nói gần gũi bạn lành.

Theo vị ấy nghe pháp: Nghĩa là nghe pháp tùy thuận nơi phương tiện.

Nội chánh quán tư duy: Nghĩa là tự thân tu hành hạnh chánh, tin Bồ-đề của Phật, tin pháp được giảng nói là thiện, tin công đức thanh tịnh của Tăng, đó là nói tin Tam bảo. Nói Sắc vô thường, cho đến nói Thức vô thường, đó là nói tin nơi ấm. Nhận biết có khổ, tập, diệt, đạo, đó là nói tin nơi đế.

Vào thời gian khác, người kia không gần gũi với bậc thiện tri thức: Là gần gũi bạn xấu ác.

Không từ người khác nghe pháp: Là không nghe pháp tùy thuận nơi phương tiện.

Không chánh quán tư duy: Là tự thân hành hạnh tà, làm mất pháp tin này.

Đó gọi là Đảnh thoái chuyển.

Hỏi: Thể tướng của Đảnh thoái chuyển là gì?

Đáp: Là tánh không thành tựu, là tâm bất tương ưng hành vô ký không ẩn mất, thuộc về hành ấm.

Lại có thuyết nói: Thể tánh là không tin. Vì sao? Vì có tin tức là được, không tin tức là mất.

Lại có thuyết cho: Do Sử nào trói buộc khiến thoái chuyển pháp Đảnh? Tức là tánh trói buộc của sử kia. Nói như thế cũng là tánh nhiễm ô.

Lại có thuyết nêu: Nếu pháp tùy thuận pháp thoái chuyển, tức là tánh của pháp thoái chuyển đó. Nếu như vậy thì tất cả các pháp đều là tánh thoái chuyển. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều cùng hợp với duyên oai thế (Duyên tăng thượng).

Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Tánh không thật có là tánh thoái chuyển. Mạnh mẽ sinh khởi sự phân biệt, không có cùng đối, căn thiện kia hợp tập gọi là Đảnh, căn thiện lìa tan gọi là thoái chuyển. Lại đâu có tánh gì? Cũng như có người, có nhiều của cải vật dụng bị kẻ khác cướp đi hết, sau đấy trở thành kẻ nghèo cùng. Có người hỏi: Nay ông nghèo là vì tánh gì? Ông ta đáp: Tôi vốn có của cải bị người khác cướp đi, nay chỉ là kẻ nghèo cùng, đâu có tánh gì? Lại như có người mặc áo rách, kẻ khác hỏi: Ông nay mặc áo rách là có tánh gì? Người ấy đáp: Áo tôi trước đây vốn lành, chắc, nay bị xé rách đâu có tánh gì? Lại như có người, thân vốn mặc y phục, vì bị người khác đoạt mất, có người hỏi: Nay ông khỏa thân không có y phục là tánh gì? Người ấy đáp: Trước tôi vẫn mặc y phục, vì bị người ta đoạt mất, nay phải chịu cảnh không có y phục, đâu có tánh gì? Như thế, căn thiện của người tu hành, lúc hợp tập gọi là Đảnh, về sau, nếu ly tán gọi là thoái chuyển, đâu có tánh gì? Thế nên, tánh không thật có là tánh thoái chuyển.

Lời bình: Không nên nói lời này. Nói như thuyết trước là tốt: Đảnh thoái chuyển là tánh không thành tựu, là tâm bất tương ưng hành, vô ký không ẩn mất, thuộc về hành ấm.

Hỏi: Như nói tin Bồ-đề của Phật, đó gọi là tin Phật, cho đến nói rộng. Vì sao Đức Thế Tôn hoặc nói tin Tam bảo, hoặc nói tin ấm, hoặc nói tin đế?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Phật đối với pháp là rất phân minh, cho đến nói rộng.

Lại có thuyết nói: Tùy chỗ ngu của chúng sinh, nghĩa là Đức Phật tùy theo chỗ ngu tối của chúng sinh để giải nói.

Lại có thuyết cho: Người nhận sự hóa độ của Phật có ba hạng: (1) Hạng người tâm có nhiều nghi. (2) Nhiễm chấp sâu nơi ngã. (3) Bị kiến che lấp. Vì người có nhiều nghi nên giảng nói về Tam bảo. Vì kẻ nhiễm chấp sâu nơi ngã, giảng nói về ấm. Vì người bị kiến chấp che lấp, giảng nói về đế.

Thế nào là pháp Noãn, cho đến nói rộng?

Hỏi: Vì sao gọi là Noãn?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Trí duyên nơi cảnh giới có thể sinh ra Noãn, thiêu đốt củi phiền não. Cũng như dùi lửa trên dưới dựa vào nhau sinh ra lửa đốt cháy củi.

Lại có thuyết nói: Vì có trí nhận biết có khả năng sinh ra trí Noãn khiến hữu bị khô héo. Giống như vào mùa hè, gôm hoa chất thành đống, hoa xông ra khí ấm trở lại làm khô héo hoa.

Lại có thuyết nêu: Trí sinh dựa vào ấm, lửa trí ở nơi ấm, trở lại thiêu đốt ấm. Cũng như dùng hai thanh tre cọ xát vào nhau sinh ra lửa, lửa đó trở lại đốt cả rừng tre.

Tôn giả Cù-sa nói: Cầu lửa trí giải thoát, quan trọng nhất là ở ban đầu. Như lửa lấy khói nơi ban đầu làm tướng. Lửa trí vô lậu cũng dùng pháp Noãn trước tiên làm tướng. Như tướng ánh sáng của mặt trời nơi ban đầu làm tướng. Mặt trời của trí vô lậu cũng dùng Noãn nơi ban đầu làm tướng. Vì thế nên gọi là Noãn.

Thế nào là Noãn? Trong chánh pháp Tỳ-ni, sinh tin ái kính, cho đến nói rộng.

Hỏi: Nếu như vậy thì ở trong chánh pháp Tỳ-ni sinh khởi tin tưởng ái kính đều được gọi là Noãn chăng?

Đáp: Không phải. Vì sao? Vì Noãn chính là pháp của địa định địa tu ở cõi sắc có thể hành trì, thuộc về Thánh hạnh, là người ở trong chánh pháp Tỳ-ni sinh tin tưởng ái kính. Chánh pháp kia là nói duyên với sự tin của đạo đế. Tỳ-ni là nói duyên với sự tin của diệt đế.

Hỏi: Noãn có thể duyên với bốn đế. Vì sao chỉ nói duyên với sự tin của Diệt, Đạo đế?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vì diệt, đạo là tối thắng trong các Đế, nên như trước trong phần Đảnh đã giải đáp rộng.

Lại có thuyết nói: Diệt, Đạo là nơi chốn có thể quy y, vì thế nên nói.

Lại có thuyết cho: Chánh pháp là nói duyên với sự tin kính của ba đế. Tỳ-ni là nói duyên nơi sự tin kính của diệt đế, thì cũng gọi là Noãn có thể duyên nơi bốn đế.

Người tạo ra Kinh (Luận) kia đã dẫn kinh làm chứng. Như nói: Đức Phật nói với Tỳ-kheo Mã Sư, Mãn Túc: Ta có pháp bốn câu sẽ vì các ông giảng nói. Vì muốn nhận biết không phải là ý riêng của hai ông. Hai người thưa: Chúng con hiện nay thật sự không phải là pháp khí, đâu cần biết làm gì, cho đến nói rộng.

Hỏi: Đức Phật đã biết rõ người kia không thể thọ nhận pháp vì sao lại bảo: Nên như ý riêng của ông?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Người, nghĩa là người kia không có người giáo hóa, do đấy đã tạo các thứ ác để tự hủy hoại. Thế nên Đức Như Lai đưa tay lên và nói: Những gì nên làm nay Ta đã làm xong, nhưng ông đã tự hành hạnh tà để tự hủy hoại, không phải là lỗi không giáo hóa của Ta.

Lại có thuyết cho: Vì nhằm ngăn chận ngoại đạo hủy báng, nên Đức Như Lai mới bảo: Nên lấy ý riêng của ông. Nếu chính Đức Như Lai không bảo Tỳ-kheo kia, thì các ngoại đạo sẽ khởi hủy báng: Vì sao là bậc Đại Bi, nhưng đối với chúng đệ tử, có người tùy thuận thì giảng nói pháp giáo hóa, còn có người không tùy thuận thì không thuyết pháp giáo hóa? Nếu chính Đức Như Lai đã bảo Tỳ-kheo kia, thì các ngoại đạo không sinh hủy báng.

Lại có thuyết nêu: Vì nhằm ngăn chận các vị trong dòng họ Thích có tâm không tin. Nếu chính Đức Như Lai không bảo người kia, thì bấy giờ các vị trong dòng họ Thích sẽ sinh tâm không tin: Vì sao Tất Đạt không vì các thân tộc giảng nói pháp, giáo hóa? Rồi mang tâm ganh ghét, lo nghĩ người kia cùng giống với mình. Nếu Đức Như Lai đã nói với người kia, thì các người trong dòng họ Thích lúc ấy không sinh tâm không tin.

Lại có thuyết nói: Người kia tự hành hạnh tà, Đức Như Lai đã vì người kia, tức là người chứng, bảo họ: Ông xưa là tại gia, nay đã xuất gia lại tự hành hạnh tà, không phải là lỗi ở Ta. Bấy giờ, Đức Như Lai liền dùng ngôn ngữ dịu dàng, quở trách trước mặt hai người kia. Thế nên mới bảo: Nên như ý riêng của ông.

Lại có thuyết cho: Vì muốn cho người kia sinh căn thiện trong vị lai, nên Đức Phật đã biết rõ về họ, hiện nay tuy không thể nhận lấy sự giáo hóa, nhưng trong vị lai tất sinh căn thiện hối tiếc. Vì sao? Vì người kia sẽ suy nghĩ: Bậc Đại bi đã tùy thuận ý của ta, nhưng ta không nhận, thì không phải là lỗi của Như Lai. Tức có thể sinh ra căn thiện hối tiếc như thế. Do duyên này tất sẽ ra khỏi nẻo ác.

Lại có thuyết nêu: Đức Phật biết rõ hai người kia, sau khi mạng chung ở cõi này sẽ sinh trong loài rồng, thọ nhận thống khổ lớn và khởi suy nghĩ: Ta vốn từ đâu đến sinh ở chốn này? Tự biết vốn đã xuất gia ở trong pháp Phật. Tiếp theo lại suy nghĩ: Đức Phật đã không giáo hóa ta. Nay ta nên đến chỗ Phật tạo ra các sự việc không lợi ích: Phá hoại tháp Phật và các Tinh xá, sát hại các Tỳ-kheo. Ngay lúc ấy, do thần lực của Phật, nên có tượng Như Lai lập tức hiện ra đứng sững trước mặt hai người đó và bảo: Mã Sư, Mãn Túc! Ta có pháp bốn câu, các ông có muốn biết hay không cần biết! Khổ hiện nay là lỗi của các ông, không phải là lỗi của Ta. Những điều Ta nên làm đều đã làm xong. Hôm nay, ông tự làm những hạnh tà. Vì muốn đoạn trừ triền giận dữ của loài rồng, khiến pháp Phật được bảo vệ, vì thế nên Đức Như Lai mới bảo: Nên như ý riêng của ông.

Hỏi: Thế nào gọi là pháp bốn câu?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Là pháp bốn đế. Vì sao? Vì hai người kia do không kiến đế nên tạo ra hành ác này.

Lại có thuyết cho: Là bốn niệm xứ. Vì sao? Vì hai người kia do điên đảo nên tạo ra hành ác này.

Lại có thuyết nói: Là bốn chánh cần. Vì sao? Vì hai người kia do biếng nhác nhiều nên tạo ra hành ác này.

Lại có thuyết nêu: Là bốn như ý túc. Vì sao? Vì hai người kia không thể tích tập các việc thiện, nên tạo ra hành ác này.

Lại có thuyết cho: Là bốn Thánh chủng. Vì sao? Vì hai người kia tham vướng nơi lợi dưỡng, nên gây ra hành ác này.

Lại có thuyết nói: Là bốn quả Sa-môn. Vì sao? Vì hai người kia thật sự không được quả Sa-môn, nhưng tự nói là ta đã chứng được bốn quả Sa-môn, nên tạo ra hành ác này.

Lại có thuyết nêu: Là bốn thiện: (1) Khéo nhận biết về giới. (2) Khéo nhận biết về nhập. (3) Khéo nhận biết về duyên khởi. (4) Khéo nhận biết về xứ, phi xứ. Vì sao? Vì hai người kia ngu tối về nhân quả, nên đã tạo ra hành ác này.

Lại có thuyết cho: Như trong Kinh Tạp A Hàm đã nói kệ:

Trong pháp Hiền Thánh thiện hơn hết

Hai thường nói ái, xa không ái

Ba thường nói thật, lìa hư vọng

Bốn thường nói pháp, xa phi pháp.

Đó gọi là bốn.

Lại có thuyết nói: Như trong Kinh Tăng Nhất A Hàm đã nói: Không tham, không giận, chánh niệm, chánh định, đó gọi là bốn.

Hai người kia nói thế này: Nay tôi đâu cần biết pháp này làm gì. Đức Thế Tôn đã bảo: Ông là người ngu si, xa lìa pháp của Ta, cho đến không nhận được một ít pháp Noãn.

Hỏi: Vì sao hai người kia lại nói như thế này: Tôi nay đâu cần biết pháp này làm gì?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Người kia tự biết mình không phải là pháp khí, dốc hướng tới đường thiện cũng là không phải pháp khí, huống chi hướng đến Niết-bàn tức phải là pháp khí.

Lại có thuyết cho: Các hành tà ác hiện có trong thân người kia là thường thường vi phạm giới cấm, tự biết thân này không phải là pháp khí. Ngói đá còn có thể khiến mọc mầm, nhưng nay thân này của tôi trọn không thể sinh phần pháp giải thoát.

Lại có thuyết nêu: Vì người kia đã tạo nghiệp quyết định.

Lại có thuyết cho: Vì người kia đã gần kề với pháp quả báo, nên tướng báo nơi nẻo ác của người kia đã hiện ở trước, cho đến mười ngón tay đều có nước phát ra.

Lại có thuyết nói: Đức Phật ghi nhận người kia sẽ thành tựu Bồ-đề của Phật-bích-chi. Người kia suy nghĩ: Đâu dám phiền Đức Như Lai vì ta giảng nói pháp. Ở đời hiện tại, ta chung quy không thể nhập đạt được chánh quyết định. Do các nhân duyên ấy, nên người kia đã nói: Nay tôi đâu cần biết pháp này làm gì! Vì vậy Đức Thế Tôn đã bảo: Là người ngu si xa lìa pháp của Ta, ở trong chánh pháp Tỳ-ni của Ta, cho đến không có được một chút pháp Noãn.

Hỏi: Có nhiều thứ Tỳ-ni: Có Tỳ-ni thời, có Tỳ-ni phương, có Tỳ-ni chủng tánh, có Tỳ-ni gia pháp, có Tỳ-ni phạt tội, có Tỳ-ni phạm, có Tỳ-ni minh, có Tỳ-ni Thánh, có Tỳ-ni dục sân si. Vậy trong đây là nói Tỳ-ni nào?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Trong đây nói là Tỳ-ni Thánh.

Lại có thuyết nói: Trong đây là nói Tỳ-ni dục sân si.

Hỏi: Những người không được pháp Noãn, tất cả đều đồng như Mã Sư, Mãn Túc chăng?

Đáp: Không phải tất cả, vì chúng sinh gồm có ba hạng: (1) Có tâm trông mong. (2) Trừ bỏ tâm trông mong. (3) Đoạn dứt tâm trông mong.

Hạng người có tâm trông mong: Là người giữ giới thanh tịnh.

Hạng người trừ bỏ tâm trông mong: Là A-la-hán việc làm đã xong.

Hạng người đoạn dứt tâm trông mong: Là kẻ phạm giới.

Do hai người kia không có tâm trông mong, không có trừ bỏ tâm trông mong, chỉ có đoạn dứt tâm trông mong, cho nên Đức Thế Tôn mới quở trách. Ngoài ra, hạng chúng sinh đoạn dứt tâm trông mong thì cũng đồng với hai người kia. Như nói: Cho đến không có được một chút pháp Noãn.

Hỏi: Căn thiện Noãn này là tối thắng, vi diệu, trụ nơi địa tịch tĩnh. Nay vì sao lại nói một chút?

Đáp: Do ở trong căn thiện của phần đạt là hết sức nhỏ nên nói là chút ít.

Lại có thuyết nói: Vì là căn thiện của tụ kiến và do sinh ở biên sau, nên nói chừng một ít. (Căn thiện của tụ kiến là An ban, – quán sổ tức – quán bất tịnh, bốn niệm xứ)

Bốn thứ căn thiện này là pháp Noãn, pháp Đảnh, pháp Nhẫn và Pháp thế đệ nhất, gọi là phần đạt, cũng gọi là quán đế, cũng gọi là tu trị, cũng gọi là căn thiện.

Nói phần đạt: Nghĩa là Thánh đạo vô lậu, là đạt căn thiện này, là tùy thuận pháp kia, giúp đỡ cho pháp kia, là phần tánh của pháp kia, nên nói là phần đạt.

Quán đế: Nghĩa là dùng các hành như vô thường v.v… để quán sát đế, nên gọi là quán đế.

Tu trị: Vì mong cầu Thánh đạo và tu trị quả, nên thân này trừ bỏ mọi cấu uế, xấu ác, muốn được làm pháp khí. Cũng như nông phu, vì mong cầu được hạt lúa chắc, nên phải chăm lo sửa sang ruộng nương, nhổ bỏ những loại cỏ dại. Người tu hành kia cũng như thế, nên gọi là tu trị.

Nói căn thiện: Nghĩa là Thánh đạo nói là thiện, Niết-bàn nói là quả. Các pháp này là cơ sở đầu tiên của người tu hành kia, vì là gốc mới lập, nên gọi là căn thiện.

Hỏi: Căn thiện cùng với Noãn v.v… này có gì khác biệt?

Đáp: Pháp Noãn có thể ngăn trừ ngu tăng thượng của duyên nơi đế, cho đến có thể ngăn trừ ngu trong thân, nên sinh Pháp thế đệ nhất.

Lại có thuyết cho: Pháp Noãn có thể sinh ra ánh sáng thấp duyên nơi đế, cho đến trong thân có ánh sáng duyên nơi đế, nên sinh ra Pháp thế đệ nhất. Lại nữa, pháp Noãn có thể sinh khởi sự tin kính bậc hạ duyên nơi đế. Pháp Đảnh sinh sự tin kính bậc trung. Pháp Nhẫn sinh sự tin kính bậc thượng. Do trong thân có các sự tin kính này, nên có thể sinh ra Pháp thế đệ nhất. Lại nữa, pháp Noãn vui thích đối với ấm, cho đến vui thích trong thân, nên sinh Pháp thế đệ nhất.

Lại có thuyết nói: Noãn là nơi chốn nhập của niệm xứ. Đảnh là nơi chốn nhập của pháp Noãn. Nhẫn là nơi chốn nhập của pháp Đảnh. Pháp thế đệ nhất là nơi chốn nhập của Nhẫn. Như vậy, theo thứ lớp không gián đoạn cũng đều như thế.

Tôn giả Cù-sa nói: Cả hai căn thiện này là thuộc cõi dục, đó là Noãn, Đảnh. Hai căn thiện thuộc cõi sắc, đó là Nhẫn, Pháp thế đệ nhất.

Lời bình: Không nên nói như vậy. Đây là địa tu, địa định của cõi sắc, có thể hành pháp thuộc về Thánh hạnh, thuyết nêu như thế là tốt.

Hỏi: Pháp Noãn có bao nhiêu thứ? Cho đến Pháp thế đệ nhất có bao nhiêu thứ?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Pháp Noãn có ba thứ: Hạ hạ, hạ trung, hạ thượng. Pháp Đảnh có ba thứ: Trung hạ, trung trung, trung thượng. Pháp Nhẫn có hai thứ: Thượng hạ, thượng trung. Pháp thế đệ nhất có một thứ: Thượng thượng. Bốn căn thiện này dùng ba câu để nói: Noãn là hạ. Đảnh là trung. Nhẫn và Pháp thế đệ nhất là thượng.

Lại có thuyết nói: Noãn có hai thứ: Là hạ hạ, hạ trung. Đảnh có ba thứ: Hạ thượng, trung hạ, trung trung. Pháp Nhẫn có ba thứ: Trung thượng, thượng hạ, thượng trung. Pháp thế đệ nhất có một thứ: Thượng thượng. Căn thiện này dùng ba câu để nói: Noãn là hạ. Đảnh là hạ trung. Nhẫn là trung thượng. Pháp thế đệ nhất là thượng.

Tôn giả Cù-sa nói: Noãn có ba thứ: Hạ hạ, hạ trung, hạ thượng. Đảnh có sáu thứ: Hạ hạ cho đến trung thượng. Nhẫn có tám thứ: Hạ hạ cho đến thượng trung. Pháp thế đệ nhất có một thứ: Thượng thượng. Nếu dùng ba câu để nói, thì pháp Noãn có một thứ là hạ. Đảnh có hai thứ là hạ, trung. Nhẫn có ba thứ là hạ, trung, thượng. Pháp thế đệ nhất có một thứ là thượng. Được pháp Noãn cũng xả. Xả có hai thứ: Lúc lìa giới, địa và lúc thoái chuyển. Xả lúc thoái chuyển, nghĩa là tạo nghiệp vô gián, có thể đoạn dứt căn thiện, cũng đọa vào nẻo ác. Lại có được lợi tốt nào? Tức đã vì Niết-bàn tạo nhân quyết định, như phương pháp câu cá nuốt mồi. Được pháp Đảnh cũng xả. Xả có hai thứ: Lúc lìa giới, địa và lúc thoái chuyển. Xả lúc thoái chuyển, nghĩa là tạo nghiệp vô gián, cũng đọa vào nẻo ác. Lại có lợi tốt gì? Là không đoạn dứt căn thiện.

Nếu như vậy thì Đề-bà-đạt-đa không được pháp Đảnh chăng? Như kệ nói:

Không đức, nhận cúng dường

Đó gọi là phàm, nhỏ

Có thiện đều quên mất

Đó gọi là đảnh thoái.

Kệ này làm sao thông suốt?

Đáp: Kệ này nói về bị thoái chuyển.

Lại có thuyết nói: Đức Thế Tôn như Đảnh. Người kia đã dùng tâm ác hướng về Phật, bị đọa nơi nẻo ác, nên nói là Đảnh đọa. Được Nhẫn cũng xả. Xả có một thứ, là khi lìa giới địa thì xả, căn thiện kia không có thoái chuyển, không tạo nghiệp vô gián, không đoạn dứt căn thiện. Lại có lợi tốt nào? Là không bị đọa vào đường ác. Được Pháp thế đệ nhất cũng xả. Xả có một thứ là túc lìa giới địa, thì xả, không có thoái chuyển. Vì sao? Vì tánh của căn thiện này là không thoái chuyển, không tạo nghiệp vô gián, không đoạn dứt căn thiện, không đọa vào nẻo ác. Lại có lợi tốt nào? Tức người kia theo thứ lớp đạt được chánh quyết định.

Lại có thuyết cho: Được pháp Noãn cũng xả. Xả có hai thứ: Khi lìa địa giới và lúc thoái chuyển.

Xả khi thoái chuyển, nghĩa là tạo nghiệp vô gián, cũng bị đọa vào nẻo ác. Lại có lợi tốt nào? Tức chỉ không đoạn dứt căn thiện.

Nếu như vậy thì Đề-bà-đạt-đa không được pháp Noãn. Vì sao? Vì ông ta đã đoạn dứt căn thiện.

Được pháp Đảnh cũng xả. Xả có hai thứ: Khi lìa địa giới và lúc thoái chuyển. Xả khi thoái chuyển, nghĩa là đọa nơi nẻo ác. Lại có lợi tốt nào? Là không tạo nghiệp vô gián, không đoạn dứt căn thiện.

Được Nhẫn cũng xả. Xả có một thứ, là khi lìa giới địa, căn thiện ấy không có thoái chuyển, không tạo nghiệp vô gián, không đoạn dứt căn thiện, không đọa vào đường ác. Lại có lợi tốt nào? Là không nhiễm vướng nơi ngã.

Hỏi: Nếu như vậy thì Thi-lợi-quật-đa, An-cừu-lợi, Ma-la-tát-già, Ni-kiền-tử là không được Nhẫn. Vì sao? Vì nhiễm vướng nơi ngã.

Đáp: Những người kia không nhiễm vướng nơi ngã. Vì do biện luận về nghĩa nên nói có ngã.

Hỏi: Những người ấy cùng với Đức Như Lai tranh luận về ngã, sao lại nói không nhiễm vướng nơi ngã?

Đáp: Vì họ không đoạn dứt ngã kiến, tạm thời hiện ở trước, không phải nhiễm vướng.

Pháp thế đệ nhất được cũng xả: Xả khi lìa giới địa, ngoài ra như trước đã nói.

Người phương Tây tạo ra biện luận này, nói căn thiện Noãn có ý nghĩa sâu xa gì? Là đối tượng nương dựa nào? Có nhân duyên gì? Pháp gì? Quả gì? Có nhờ dựa vào đâu? Có báo nào? Có lợi tốt nào? Là hành bao nhiêu hành? Là duyên nơi danh sinh hay duyên nơi nghĩa khởi? Là văn tuệ, là tư tuệ, hay là tu tuệ? Là hệ thuộc cõi dục hay hệ thuộc cõi sắc, vô sắc? Là có giác có quán, không giác có quán, hay không giác không quán? Là tương ưng với lạc căn hay tương ưng với hỷ căn, xả căn? Là một tâm hay nhiều tâm? Là thoái chuyển hay không thoái chuyển? Cho đến Pháp thế đệ nhất cũng đều như thế.

Hỏi: Noãn có ý nghĩa sâu xa gì?

Đáp: Hiện có bố thí, trì giới, cho đến căn thiện Nhẫn thượng, đều đem hồi hướng về giải thoát. Đó là ý nghĩa sâu xa của Noãn.

Là đối tượng nương dựa nào? Nghĩa là dựa vào định của cõi sắc khởi.

Có nhân gì? Nghĩa là căn thiện của đời trước nơi địa mình, là nhân tương tợ.

Duyên nơi pháp nào? Nghĩa là duyên với bốn chân đế.

Có quả gì? Đó là Đảnh tiếp cận với Noãn, là quả công dụng.

Có nhờ dựa vào đâu? Là tương tợ với địa mình, về sau sinh pháp thiện, là nhờ dựa vào quả.

Có báo nào? Là năm ấm của cõi sắc.

Có lợi tốt nào? Có thuyết nói: Là nhân quyết định của Niết-bàn.

Lại có thuyết nói: Không đoạn dứt căn thiện.

Là hành bao nhiêu hành? Nghĩa là hành mười sáu hành.

Là duyên nơi danh sinh hay duyên nơi nghĩa khởi? Nên nói là duyên nơi nghĩa khởi.

Là văn, tư, tu tuệ? Nên nói là tu tuệ.

Là hệ thuộc cõi dục, cõi sắc, vô sắc? Nên nói là hệ thuộc cõi sắc.

Là có giác có quán, không giác có quán, không giác không quán? Nên nói là có cả ba hành.

Là tương ưng với căn nào? Nên nói là ba, tùy chỗ tương ưng mà nêu.

Là một tâm hay nhiều tâm? Nên nói là nhiều tâm.

Là thoái chuyển hay không thoái chuyển? Nên nói là thoái chuyển.

Nhẫn tiếp cận với Đảnh, đó là quả công dụng.

Đảnh có lợi tốt nào? Có thuyết nói: Không đoạn căn thiện. Hoặc có thuyết nói: Không tạo nghiệp vô gián. Ngoài ra, như nói về Noãn.

Pháp thế đệ nhất tiếp cận với Nhẫn, là quả công dụng.

Nhẫn có lợi tốt nào? Có lợi tốt là không đọa nơi nẻo ác.

Lại có thuyết nói: Không nhiễm vướng nơi ngã, cũng không thoái chuyển. Ngoài ra, như Đảnh.

Pháp thế đệ nhất duyên nơi khổ, khổ pháp nhẫn, là quả công dụng.

Pháp thế đệ nhất có lợi tốt nào? Theo thứ lớp đạt được chánh quyết định. Hành bốn hành. Nên nói là một tâm, không thoái chuyển. Ngoài ra, như Nhẫn.

Khi sinh pháp Noãn, nếu duyên nơi Khổ, Tập, Đạo đế, hiện tại tu một pháp niệm xứ, vị lai tu bốn niệm xứ. Hiện tại hành một hành, vị lai tu bốn hành. Nhận lấy tánh đồng kia, chẳng phải là tánh không đồng.

Nếu duyên nơi Diệt đế, hiện tại tu một pháp niệm xứ, vị lai cũng tu một pháp niệm xứ. Hiện tại hành một hành, vị lai tu bốn hành.

Tăng trưởng pháp Noãn, là khi dùng hạ tăng trưởng trung, dùng trung tăng trưởng thượng.

Nếu duyên nơi Khổ, Tập, Đạo đế, hiện tại bốn niệm xứ lần lượt hiện ở trước, vị lai cũng bốn. Hiện tại một hành, vị lai mười sáu hành. Nếu duyên nơi Diệt đế, thì hiện tại là pháp niệm xứ, vị lai là bốn. Hiện tại một hành, vị lai mười sáu hành.

Hỏi: Vì sao lúc pháp Noãn mới sinh, vị lai đồng tánh, tu chẳng phải không đồng tánh. Lúc tăng trưởng Noãn, vị lai đồng tánh, tu không đồng tánh?

Đáp: Lúc mới sinh, do hành quán đế, là chưa từng được chủng tử Noãn kia mà được. Lúc tăng trưởng, do hành quán đế, là đã từng được chủng tử Noãn kia mà được. Vì thế nên tu đủ.

Lúc mới sinh Đảnh, duyên nơi khổ, tập, diệt, đạo, là hiện tại một pháp niệm xứ, vị lai bốn, hiện tại một hành, vị lai mười sáu hành. Lúc tăng trưởng Đảnh, hạ tăng trưởng trung, trung tăng trưởng thượng. Nếu duyên nơi khổ, tập, đạo đế, bốn niệm xứ lần lượt hiện ở trước, vị lai bốn, hiện tại một hành, vị lai mười sáu. Nếu duyên nơi diệt đế, thì hiện tại là một pháp niệm xứ, vị lai bốn, hiện tại một hành, vị lai mười sáu.

Đầu tiên sinh Nhẫn và lúc tăng trưởng, hiện tại là một pháp niệm xứ, vị lai bốn, hiện tại một hành, vị lai mười sáu.

Tôn giả Cù-sa nói: Lúc Nhẫn đầu tiên, nếu duyên nơi khổ, tập, đạo đế, thì hiện tại là một pháp niệm xứ, vị lai bốn, hiện tại một hành, vị lai bốn, tu đồng tánh, không khác tánh. Nếu duyên nơi diệt đế, hiện tại là một pháp niệm xứ, vị lai cũng một pháp niệm xứ, hiện tại một hành, vị lai bốn, tu đồng tánh, không khác tánh.

Nếu lúc tăng trưởng, duyên nơi khổ, tập, đạo đế, bốn niệm xứ lần lượt hiện ở trước, vị lai bốn, hiện tại một hành, vị lai mười sáu. Nếu duyên nơi diệt đế, hiện tại là một pháp niệm xứ, vị lai bốn, hiện tại một hành, vị lai mười sáu.

Lời bình: Vị kia không nên nói như thế. Nói như thuyết trước là tốt. Hỏi: Vì sao Nhẫn nơi tất cả thời, pháp niệm xứ đều hiện ở trước?

Đáp: Như đạo kiến đế nơi tất cả thời, pháp niệm xứ đều hiện ở trước. Nhẫn cũng tương tợ.

Hỏi: Như lúc tăng trưởng Nhẫn đều tu mười sáu hành chăng?

Đáp: Không phải. Như bỏ dần đối tượng duyên, hành cũng như thế. Nếu duyên nơi bốn đế thì có mười sáu hành. Nếu duyên nơi ba đế thì có mười hai hành. Nếu duyên nơi hai đế thì có tám hành. Nếu duyên nơi một đế thì có bốn hành. Chung với uy lực sinh của một nhẫn thì có mười sáu.

Hỏi: Vì sao khi tăng trưởng Nhẫn, hoặc tu có mười sáu, hoặc mười hai, hoặc tám, hoặc bốn hành?

Đáp: Loại trừ dần đối tượng duyên, bỏ dần đối tượng hành, chuyển biến gần được chánh quyết định. Vì thế, nên hoặc khi tu mười sáu hành cho đến bốn hành. Lúc sinh Pháp thế đệ nhất, hiện tại có một pháp niệm xứ, vị lai bốn, hiện tại một hành, vị lai bốn.

Hỏi: Như pháp thế đệ nhất từng được chủng tánh kia là do hành quán đế. Vì sao tu hành đồng tánh, không tu khác tánh?

Đáp: Vì tùy nơi pháp người kia đạt được, tức theo pháp này tu. Như người lõa hình, không có y phục để có thể bị cướp đoạt, pháp kia cũng thế.

Lại có thuyết nói: Pháp thế đệ nhất rất gần với kiến đạo. Như trong kiến đạo không tu hành khác, chỉ tu đồng tánh, nên Pháp thế đệ nhất cũng lại như thế.

Hỏi: Nếu lúc sinh Noãn cho đến Nhẫn là thường xuyên nối tiếp hay là không nối tiếp?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nói thường xuyên nối tiếp duyên nơi bốn đế, như mười lăm tâm trong kiến đạo, thường nối tiếp hiện ở trước. Lúc pháp Noãn kia sinh, thường nối tiếp duyên nơi bốn chân đế.

Lại có thuyết cho: Về nghĩa này không nhất định: Hoặc nối tiếp, hoặc không nối tiếp. Hoặc có Noãn duyên nơi khổ rồi dừng, hoặc duyên nơi tập, diệt, đạo rồi dừng.

Hỏi: Vì chánh quán tư duy, pháp nào tiếp theo có thể sinh Noãn?

Đáp: Là nơi cõi sắc tu địa tâm, địa định, có chán lìa, có xấu kém, có khát ngưỡng, có uy lực không tùy thuận sinh, không ưa thích. Lúc có chánh tư duy như thế, tiếp theo có thể sinh Noãn. Tiếp theo Noãn sinh Đảnh. Tiếp theo Đảnh sinh Nhẫn. Tiếp theo Nhẫn sinh Pháp thế đệ nhất và tiếp theo Pháp thế đệ nhất được chánh quyết định.

Hỏi: Nếu người lìa dục thì có thể như thế. Người không lìa dục thì thế nào?

Đáp: Người không lìa dục, họ cũng có thể như thế. Có tư tuệ của cõi dục, chánh quán tư duy duyên nơi hành khổ, theo thứ lớp hành khổ sinh pháp Noãn. Ngoài ra, như trên đã nói.

Hỏi: Các thân trước đã sinh pháp Noãn, chưa sinh pháp Đảnh, người ấy bèn mạng chung. Trong đời này, muốn sinh pháp Đảnh là sinh pháp Đảnh ngay hay là trở lại khởi pháp Noãn?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nếu theo thầy, thuận với thứ lớp nghe pháp Đảnh, tức từ Đảnh đi. Nếu thầy không giảng nói thì phải trở lại khởi từ căn bản.

Hỏi: Nếu như vậy vì sao nói: Tiếp theo Noãn sinh Đảnh. Tiếp theo Đảnh sinh Nhẫn. Tiếp theo Nhẫn sinh Pháp thế đệ nhất?

Đáp: Nói như thế là theo thứ lớp sinh trong một thân: Nếu trong thân trước đã từng được pháp Noãn thì người đó là từ căn bản khởi.

Hỏi: Nếu thân trước đã từng được pháp Noãn, ở trong đời này muốn sinh pháp Đảnh phải khởi chánh quán tư duy nào?

Đáp: Như chánh quán tư duy của Noãn, Đảnh cũng lại như thế. Như sinh Đảnh, sinh Nhẫn cũng thế.

Hỏi: Nếu sinh pháp Noãn là lìa dục chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Không là lìa dục. Vì sao? Vì hành giả kia yêu thích, thà sinh pháp Đảnh, không khởi Nhẫn trong Hữu Đảnh.

Lại có thuyết cho: Nếu hành giả kia tự biết mình có năng lực, có thể sinh ra Đảnh, tức liền sinh Đảnh. Tự biết không có năng lực, không thể sinh Đảnh nhưng muốn được lìa dục. Vì sao? Vì nếu được lìa dục, thì xứ sinh của mình tức chuyển hơn.

Hỏi: Nếu dựa vào địa căn bản sinh căn thiện của phần đạt (Phần quyết định lựa chọn) thì có thoái chuyển không?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Noãn, Đảnh có thoái chuyển. Nhẫn thì không thoái chuyển. Vì sao? Vì căn thiện này là pháp không thoái chuyển.

Lời bình: Người kia không nên nói như thế. Vì sao? Vì nếu dựa vào địa căn bản sinh căn thiện của phần đạt, thì ngay nơi hiện thân đạt được chánh quyết định. Vì sao? Vì các căn thiện này đều sinh Thánh đạo. Nếu dựa vào địa vị chí thì không nhất định.

Hỏi: Nếu dựa vào thiền vị chí sinh pháp Noãn, thì cũng sinh Đảnh, Nhẫn, Pháp thế đệ nhất, đạt được chánh quyết định chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nếu dựa vào thiền vị chí sinh pháp Noãn, cho đến sinh Pháp thế đệ nhất đạt được chánh quyết định, thì thiền thứ nhất cho đến thiền thứ tư cũng như thế.

Lại có thuyết cho: Nếu dựa vào thiền vị chí sinh pháp Noãn, tiếp theo sinh Noãn nơi thiền thứ nhất, Đảnh, Nhẫn, Pháp thế đệ nhất, đạt được chánh quyết định, thì thiền trung gian, thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư cũng đều như thế.

Lại có thuyết nêu: Nếu dựa vào thiền vị chí sinh pháp Noãn, Đảnh, tiếp theo sinh Đảnh của thiền thứ nhất, Nhẫn, Pháp thế đệ nhất, đạt được chánh quyết định, thì thiền trung gian, thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư cũng đều như thế.

Lại có thuyết cho: Nếu dựa vào thiền vị chí sinh Noãn, Đảnh, Nhẫn, tiếp theo sinh Nhẫn của thiền thứ nhất, sinh Pháp thế đệ nhất, đạt được chánh quyết định, cho đến thiền thứ tư cũng như thế. Đây là nói pháp thứ lớp của hàng Thanh văn.

Hỏi: Bồ-tát thì thế nào?

Đáp: Bồ-tát dựa vào thiền thứ tư sinh pháp Noãn, cho đến sinh Pháp thế đệ nhất, đạt được chánh quyết định.

Lại có thuyết nói: Bồ-tát dựa vào thiền thứ nhất sinh pháp Noãn, pháp Đảnh, pháp Nhẫn. Thiền thứ hai, thứ ba cũng như thế. Trong thiền thứ tư sinh Noãn, Đảnh, Nhẫn, Pháp thế đệ nhất, đạt được chánh quyết định.

Hỏi: Như trong căn thiện của phần đạt, tiếp theo không nên sinh phẩm hạ, thượng, tiếp theo không nên sinh phẩm trung, hạ. Vì sao Bồ-tát có thể sinh?

Đáp: Địa mình không thể. Địa người khác có thể.

Lại có thuyết nói: Muốn lìa lỗi như thế nên tạo ra thuyết này: Hoặc dựa vào thiền thứ nhất sinh pháp Noãn, cho đến thiền thứ tư.

Hoặc dựa vào thiền thứ nhất sinh pháp Đảnh, cho đến thiền thứ tư.

Hoặc dựa vào thiền thứ nhất sinh pháp Nhẫn, cho đến thiền thứ tư.

Tiếp theo sinh Pháp thế đệ nhất, được chánh quyết định.

Lời bình: Không nên tạo ra thuyết này, như thuyết trước nói là tốt. Vì sao? Vì tất cả Bồ-tát đều dựa vào thiền thứ tư sinh pháp Noãn, cho đến sinh Pháp Thế Đệ Nhứ, được chánh quyết định.

Hỏi: Còn Phật-bích-chi thì thế nào?

Đáp: Phật-bích-chi ra đời một mình, nên biết như Phật. Nếu có nhiều vị xuất thế, thì vị Phật này không nhất định, đồng với Thanh văn. Như loài thú Khát Già chỉ sinh một sừng. Vị Phật kia cũng như thế. Riêng một mình xuất thế, nên biết là như Phật.

Hỏi: Tiền thân của Bồ-tát là đã từng sinh căn thiện của phần đạt chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Từng sinh vì để ngăn chận nẻo ác, nên suốt chín mươi mốt kiếp, Bồ-tát không bị đọa vào nẻo ác, đó là sức của căn thiện nơi phần đạt. Đó là căn thiện nơi phần đạt thuộc tánh của người khác, không phải là tánh của mình.

Lời bình: Không nên nói như thế. Nên nói như vầy: Bồ-tát không từng sinh căn thiện của phần đạt. Vì sao? Vì tất cả căn thiện hiện có của Bồ-tát không trải qua cả đời chỉ một lần ngồi kiết già bên cội Bồ-đề, là sinh quán bất tịnh, cho đến tận trí.

Hỏi: Bồ-tát đã chín mươi mốt kiếp không đọa vào đường ác, sự việc này há không phải là sức của Nhẫn sao?

Đáp: Không nhất thiết phải do căn thiện nơi phần đạt Bồ-tát mới có thể ngăn chận nẻo ác. Hoặc có thể dùng diệu lực của bố thí, giữ giới, hoặc dùng quán bất tịnh, an ban (quán sổ tức), hoặc dùng văn tuệ, tư tuệ, hoặc dùng Noãn, Đảnh, sau mới dùng Nhẫn.

Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Ngăn chận nẻo ác, chẳng phải là không nhân nơi việc nhận biết pháp duyên khởi. Nghĩa ấy là thế nào? Vị kia nói thế này: Nhận biết pháp duyên khởi tức là đạo vô lậu. Nếu chẳng phải là diệu lực của đạo vô lậu, tất không thể ngăn chận đường ác.

Lời bình: Không nên nói như thế. Như thuyết trước đã nói là tốt. Vì sao? Vì nếu Bồ-tát hành bố thí, thì cũng dùng giới, dùng tuệ. Nếu khi hành giữ giới, tức cũng dùng bố thí, dùng tuệ. Nếu lúc hành tuệ, thì cũng dùng thí, dùng giới. Do nhân duyên này, có thể ngăn lấp na-do-tha đường ác, huống là mười xứ đường ác. Noãn, Đảnh của Thanh văn, Phật-bích-chi hiện có, Bồ-tát đều có thể khởi để ngăn chận đường ác, chỉ không khởi Nhẫn. Vì sao? Vì Nhẫn cùng với nẻo ác trở ngại nhau. Bồ-tát đã ở trong sinh tử suốt ba A-tăng-kỳ kiếp, do nguyện lực nên sinh trong nẻo ác. Ở đây, nên nói dụ về nhân duyên con cá (Đối chiếu nơi bản dịch của Pháp sư Huyền Tráng không có điều này – ND).

Lại có thuyết nói: Khởi Nhẫn của Thanh văn, của Phật-bích-chi là để ngăn chận nẻo ác, không khởi Nhẫn của Bồ-tát. Vì sao? Vì đối với thân đắc đạo là rất lớn, là rất sâu xa, nên người cầu Phật-bích-chi sinh Nhẫn của Phật-bích-chi, không thể sinh Nhẫn của Phật chủng. Vì gần với đạo của Phật-bích-chi.

Lại có thuyết cho: Người cầu Phật-bích-chi có thể khởi Nhẫn của Phật chủng.

Lời bình: Không nên nói như vậy. Nên nói thế này: Người cầu Phật-bích-chi không thể khởi Nhẫn của Phật chủng.

Hỏi: Phàm phu chứng đắc Nhẫn, lúc mạng chung có xả bỏ nhẫn không? Nếu xả bỏ thì vì sao không sinh nơi nẻo ác? Nếu xả bỏ thì vì sao phàm phu xả bỏ, Thánh nhân không xả bỏ? Nếu không xả bỏ, thì nơi phần Kiền Độ Hành (Uẩn Nghiệp), Kiền Độ Bốn Đại (Uẩn Đại Chủng) vì sao không nói? Như nói: Nếu thành tựu thân thì người kia cũng thành tựu thân nghiệp, cho đến nói rộng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Xả bỏ.

Hỏi: Nếu xả bỏ thì vì sao không sinh nơi nẻo ác?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Do uy lực của căn thiện nơi người kia nên có thể như thế, tuy xả bỏ nhưng không bị đọa nơi đường ác. Tự có căn thiện, tuy thành tựu nhưng không ngăn chận nẻo ác, huống chi là không thành tựu, đó là xứ sinh được thiện. Tự có căn thiện, tuy không thành tựu, nhưng có thể ngăn chận nẻo ác, huống chi là lại thành tựu, đó là Nhẫn. Vì thế, do uy lực của căn thiện kia, nên có thể ngăn chận nẻo ác.

Lại có thuyết cho: Uy lực của căn thiện nơi người kia, nếu nghiệp phiền não có thể khiến cho thân bị đọa vào nẻo ác, thì ở trong thân ấy, uy lực kia khiến hoàn toàn xa lìa, lại không còn hiện hành nữa. Nếu nghiệp phiền não ấy không hiện hành thì do đâu bị đọa vào nẻo ác? Như vào mùa thu, người kia uống thuốc, thuốc cũng có thể không đọng lại trong thân của họ, hoặc có khi cùng thoát ra với chứng bệnh, hoặc nó tự tiêu ngay trong thân để có thể trừ bỏ được bệnh hoạn, vĩnh viễn khiến cho không khởi. Như thế, do uy lực của căn thiện kia, có thể làm cho các nghiệp phiền não khiến bị đọa vào nẻo ác, vĩnh viễn không khởi lại nữa.

Lại có thuyết nêu: Căn thiện này đã từng ở trong thân người kia, như chỗ ở của sư tử, nó tồn tại trong thân người kia, tuy không thành tựu, nhưng sức huân tập gắn bó có thể làm cho các nghiệp phiền não của nẻo ác kia không còn hiện hành nữa, huống gì là bị đọa vào đấy. Cũng như chốn cư trú của sư tử, nếu sư tử đã bỏ đi, không ở, thì các loài thú nhỏ khác đều không thể tìm đến, huống chi là lúc sư tử còn ở.

Lại có thuyết nói: Căn thiện kia ở trong thân này, cũng như chủ đã ở lâu. Các nghiệp phiền não của nẻo ác ở trong thân ấy cũng như khách. Sức của chủ đã ở lâu rất mạnh, khách thì không bằng.

Lại có thuyết nêu: Người tu hành có hai thứ tâm trông mong: (1) Tâm trông mong xa lìa các điều ác. (2) Tâm trông mong gắn bó sâu vào pháp thiện. Do có hai tâm trông mong này, nên không bị đọa vào nẻo ác. Vì thế, nên Tôn giả Cù-sa nói: Người tu hành kia đã có tâm trông mong như thế tức có mong muốn như thế, Nhẫn như thế, khả năng như thế, ý như thế, kính như thế, ái như thế và ưa thích như thế.

Lại có thuyết cho: Nẻo ác kia đã được phi số duyên diệt. Các pháp cũng đã được phi số duyên diệt, nên cuối cùng không hiện ở trước.

Lại có thuyết nói: Hành giả kia rơi vào trận mưa pháp, trôi chảy nhanh trong sông, không chấp nhận tạo nghiệp của nẻo ác. Vì thế nên không bị đọa vào nẻo ác.

Lại có thuyết nêu: Vì nương dựa vào Thánh đạo. Người tu hành kia do nương dựa vào Thánh đạo đã khiến cho nghiệp phiền não của nẻo ác trong thân ấy không hiện ra trước, huống chi là bị đọa vào nẻo ác. Cũng như có người, vì sợ kẻ thù oán nên đã nương dựa vào vua, khiến kẻ thù oán kia hãy còn không thể nhìn thẳng vào mặt, huống chi là gia hại.

Lại có thuyết nói: Hành giả kia dùng căn thiện này ở trong tự thân nhằm gìn giữ chỗ ở của Thánh đạo. Cũng như người của vua, trước hết là gìn giữ địa điểm cư trú của vua, tất cả dân chúng không dám đến ở.

Lại có thuyết cho: Căn thiện kia đã quyết định tạo ra xứ sở của hàng người, trời. Nếu đã tạo nghiệp của xứ quyết định, tất sẽ sinh vào xứ đó. Cũng như vị trí của tòa ngồi tôn quý đã được định, thì không nên ngồi vào chỗ ngồi khác. Như thế, chỗ ở của căn thiện kia đã định cũng lại như thế.

Lại có thuyết nêu: Hành giả kia đã dùng phương tiện chính đáng khiến cho các nghiệp phiền não của nẻo ác kia không còn hiện hành nữa, huống chi là sinh vào nẻo đấy.

Lại có thuyết nói: Hành giả kia đã nhận thấy lỗi lầm tai hại của hành ác, thấy được lợi ích của hành thiện. Thế nên không tạo hành ác để phải bị đọa vào nẻo ác.

Lại có thuyết cho: Có tâm trông mong thiện tốt, ở trong thân này tất không tạo ra hành ác để phải bị đọa nơi nẻo ác.

Lại có thuyết nói: Vì dùng tâm nhu hòa tùy thuận hướng đến Niết-bàn và do tín căn bền chắc, sâu xa, nên đã không tạo hành ác để bị đọa vào nẻo ác.

Hỏi: Nếu xả bỏ thì vì sao phàm phu xả bỏ, Thánh nhân không xả bỏ?

Đáp: Vì phàm phu kia không có sức đối trị của Thánh đạo để tự mình gìn giữ, chế ngự. Hoặc tuy có đạo đối trị để tự gìn giữ, chế ngự, nhưng vì đạo này yếu kém, không vững chắc, trụ lâu, nên đến khi mạng chung thì xả bỏ. Trong thân Thánh nhân, có đạo đối trị vô lậu để tự gìn giữ, chế ngự. Do sức của định vô lậu kiên cố, trụ lâu, nên bậc Thánh kia khi mạng chung không xả bỏ. Ở đây, nên nói về dụ hợp các thứ ánh sáng rực rỡ.

Lại có thuyết nói: Không xả bỏ.

Hỏi: Nếu không xả bỏ, thì Kiền Độ Nghiệp, Kiền Độ Bốn Đại vì sao không nói?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Trong Kiền Độ Nghiệp, đáng lẽ nên nói nhưng không nói, phải biết là nghĩa này thuyết giảng chưa trọn vẹn.

Lại có thuyết nói: Trong Kiền Độ Nghiệp cũng đã nói đến nơi trường hợp thứ ba, là nói trường hợp Thánh nhân ở trong thai. Thánh nhân có hai hạng: (1) Thánh nhân danh số. (2) Thánh nhân thật nghĩa. Người được căn thiện của phần đạt gọi là Thánh nhân danh số. Được chánh quyết định (Nhập chánh tánh ly sinh) đó là Thánh nhân thật nghĩa. Vì thế, nên nơi Kiền Độ Nghiệp cũng đã nói đến. Nếu người có nhất tâm xuất gia, cũng được gọi là đệ tử của Thánh, huống chi là người được căn thiện của phần đạt.

Lại có thuyết nêu: Hoặc có người xả bỏ, có người không xả bỏ. Ai không xả bỏ? Đối với căn thiện này thường ân cần dùng phương tiện tạo phương tiện, trong tất cả thời tạo ra phương tiện. Nên người khéo thọ trì, khéo tu tập thì không xả bỏ, trái với trên là xả bỏ. Như trước đã nghe nói: Nếu đối với căn thiện thường ân cần dùng phương tiện, cho đến người khéo tu tập, tuy trải qua trong sinh tử, nhưng thường không xả bỏ. Như Di-đa-la-đạt-tử, lúc mới sinh đã nói lên lời này: Kiết có hai thứ, cho đến nói rộng. Như trước đã nghe, nếu đối với căn thiện, người không ân cần dùng phương tiện, cho đến không khéo tu tập, thì ở trong thân này có thể xả bỏ nhanh chóng. Như thế nên biết là có xả bỏ, không xả bỏ.

Lời bình: Nghĩa như thật, là người phàm phu dựa vào địa kia sinh căn thiện của phần đạt, cũng có người xả bỏ, huống chi là sinh vào địa khác.

Hỏi: Căn thiện của phần đạt nói là được báo, đó là năm ấm của cõi sắc, có phải tạo nghiệp đầu tiên của thân kia không?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Không tạo nghiệp đầu tiên. Vì sao? Vì thân của cõi sắc kia giống với đạo vô lậu, vì chán ghét sự thọ sinh nên nghiệp khác tạo ra nghiệp đầu tiên. Căn thiện của phần đạt kia chỉ tạo ra nghiệp mãn, sau đấy nhận lấy báo.

Lại có thuyết cho: Cũng tạo ra nghiệp đầu tiên, do được thân báo tốt đẹp, tùy thuận hành đạo. Căn thiện Noãn v.v… này có bảy mươi ba thứ, việc ấy là thế nào? Cõi dục có mười thứ: Một là phàm phu bị trói buộc đủ. Hai là trừ một phẩm kiết, cho đến trừ hết chín phẩm kiết. Thiền thứ nhất có chín, hoặc có trừ một phẩm kiết, cho đến chín phẩm. Thiền thứ nhất không có người bị trói buộc đủ. Tức nói về cõi dục, như thế cho đến vô sở hữu xứ có chín thứ. Đảnh, Nhẫn, Pháp thế đệ nhất cũng đều như thế.

Hỏi: Phàm phu bị trói buộc đủ đã được pháp Noãn, trừ một phẩm kiết, cho đến chín phẩm, là một loại chăng?

Đáp: Không phải. Phàm phu bị trói buộc đủ khác, trừ một phẩm kiết khác, cho đến chín phẩm khác.

Hỏi: Nếu thoái chuyển pháp Noãn, trở lại sinh pháp Noãn, có phải là vốn được mà được chăng?

Đáp: Không phải. Vì sao? Vì người kia không thường xuyên có thể dùng công sức mà được, do trước sau không giống nhau. Như xả giới Ba-la-đề-mộc-xoa rồi, về sau thọ lại, thì không phải là vốn được mà được. Người kia cũng như thế. Như Noãn, Đảnh cũng như vậy.

Hỏi: Lúc Noãn tăng trưởng, tăng trưởng Noãn xong, có khởi lại ngay từ đầu không?

Đáp: Không. Vì sao? Vì đã được căn thiện thắng tấn, căn thiện đã được trước kia không đáng ưa chuộng. Đảnh, Nhẫn cũng như thế.

Hỏi: Ở xứ nào sinh căn thiện này?

Đáp: Trong loài người nơi cõi dục. Nghĩa là ba châu thiên hạ, không phải châu Uất-đơn-việt.

Hỏi: Sáu trời thuộc cõi dục không thể sinh căn thiện ấy chăng?

Đáp: Không thể. Vì người mới sinh đã từng sinh đều có thể khởi hiện ở trước. Vì sao? Vì nếu có thân tốt đẹp, cũng có người tùy thuận sự nhàm chán tai họa, chánh quán xứ kia, tức có thể sinh Noãn. Trong ba thiện hạ này có đủ hai thứ ấy.

Hỏi: Nếu có thân tốt đẹp, thì chư thiên vượt hơn con người. Nếu nhận lấy chánh quán, tùy thuận nhàm chán tai họa, thì nẻo ác là hơn hết chăng ?

Đáp: Như trước đã nói về đều cùng có. Nghĩa là có thể nẻo trời với nẻo ác không cùng có, vì thế nên không thể.

Hỏi: Pháp Noãn cũng dựa vào thân nam, cũng dựa vào thân nữ. Nếu dựa vào thân nữ đạt được pháp Noãn, lại được pháp Noãn, thuộc đối tượng nương dựa của người nam trong thân mình chăng?

Đáp: Được. Như thế nên biết Đảnh, Nhẫn cũng vậy.

Hỏi: Nếu dựa vào thân nam đạt được pháp Noãn thì lại được pháp Noãn thuộc đối tượng nương dựa của người nữ trong thân mình chăng?

Đáp: Không được. Đảnh, Nhẫn cũng như thế. Huỳnh môn, Ban trá (có hình nam nhưng không thể là nam), không hình, hai hình, không thể sinh bốn pháp phương tiện thiện như Noãn v.v…

Tuệ có ba thứ: Văn tuệ, Tư tuệ, Tu tuệ.

Đáp: Hoặc có Sư lược nói mười tám giới, mười hai nhập và năm ấm. Lại có người khéo đọc tụng Tu-đa-la, Tỳ-ni, A-tỳ-đàm, sinh tâm nhàm chán, nói thế này: Chỗ trọng yếu nơi ba Tạng đã nói, chính là mười tám giới, mười hai nhập và năm ấm. Người kia liền quán xét giới. Quán xét giới xong, lại tạo ra ba thứ, đó là: Danh, Thể tánh tướng chung. Danh nghĩa là nhãn giới, cho đến pháp giới. Thể tánh nghĩa là tướng riêng. Tướng chung nghĩa là vô thường, khổ, không, vô ngã. Lúc quán như thế, lại tu tập trí này, chuyển đạt được định ý, sinh tưởng chán ngán ở trong giới ấy.

Lại lược quán mười hai nhập: Nhãn giới tức là nhãn nhập, cho đến xúc giới tức là xúc nhập. Bảy thức giới tức là ý nhập, pháp giới tức là pháp nhập.

Lại lược nhập quán ấm. Người kia quán mười sắc nhập và sắc tạo trong pháp nhập, tức là sắc ấm, ý nhập tức là thức ấm, pháp nhập tức là ba ấm.

Lại lược nói về ấm, tức là bốn niệm xứ. Sắc ấm tức là thân niệm xứ. Thọ ấm tức là thọ niệm xứ. Thức ấm tức là tâm niệm xứ. Tưởng ấm, hành ấm tức là pháp niệm xứ.

Lại lược ấm quán đế: Các quả của năm ấm là khổ đế. Các nhân của năm ấm là tập đế. Năm ấm diệt là diệt đế. Pháp học, vô học là đạo đế.

Đế kia lại được tạo ra ba thứ: Danh, thể tánh tướng chung. Danh nghĩa là khổ đế cho đến đạo đế. Thể tánh nghĩa là tướng riêng. Tướng riêng: Nghĩa là hành bức bách là nghĩa của khổ, cho đến nghĩa hành xuất yếu là nghĩa của đạo. Về tướng chung: Khổ có bốn hành: Vô thường, khổ, không, vô ngã. Tập có bốn hành: Nhân, tập, hữu, duyên. Diệt có bốn hành: Diệt, chỉ, diệu và lìa. Đạo có bốn hành: Đạo, như, tích, thừa.

Hành giả kia tu tập trí này, khi chuyển đạt được định ý, như lúc kiến đế, người kia cũng theo thứ lớp quán riêng, về khổ của cõi dục, tạo tướng riêng khác. Quán khổ của cõi sắc, vô sắc, cho đến đoạn riêng, hành đạo của cõi dục cũng riêng, cho đến hành đạo của cõi sắc, vô sắc, ngay lúc ấy quán đế, giống như xem tấm thảm lông là vật bên ngoài. Lúc khởi quán như vậy, gọi là văn tuệ đầy đủ.

Lần lượt tu tập như vậy, tiếp theo sinh tư tuệ, chuyển biến tinh tấn tu tập, tiếp theo sinh tu tuệ, có thể hành hạnh Thánh.

Khi quán như thế, đó gọi là pháp Noãn. Lần lượt tăng trưởng như thế, tiếp theo sinh Đảnh. Tiếp theo Đảnh sinh Nhẫn. Tiếp theo Nhẫn sinh Pháp thế đệ nhất. Tiếp theo sinh khổ pháp nhẫn, đoạn mười sử do kiến khổ đoạn. Theo thứ lớp sinh khổ pháp trí. Theo thứ lớp như thế sinh đạo tỷ trí, được quả Tu-đà-hoàn, theo thứ lớp, cho đến tận trí. Đó gọi là các pháp sinh căn thiện, sinh theo thứ lớp.

Căn thiện có ba thứ: (1) Căn thiện của phần phước. (2) Căn thiện của phần giải thoát. (3) Căn thiện của phần đạt.

Căn thiện của phần phước: Nghĩa là có thể tạo ra chủng tử sinh nơi nẻo trời. Nếu ở trong nẻo người sẽ được sinh vào nhà giàu sang, có uy thế lớn, nhiều của báu, quyến thuộc thành tựu, dung mạo đoan nghiêm, có thể tạo chủng tử của Chuyển luân Thánh vương, Đế thích, Ma vương, Phạm vương.

Căn thiện của phần giải thoát: Nghĩa là có thể tạo ra chủng tử giải thoát, làm nhân quyết định không thoái chuyển, tất tiến đến Niết-bàn.

Căn thiện của phần đạt: Đó là pháp Noãn cho đến Pháp thế đệ nhất.

Hỏi: Căn thiện của phần giải thoát được gieo trồng ở xứ nào?

Đáp: Ở trong cõi dục, không phải cõi sắc. Là nẻo người trong cõi dục, không phải nẻo khác. Nẻo người có trong ba châu thiên hạ, không phải ở châu Uất-đơn-việt. Thời Phật xuất thế, chẳng phải là thời không có Phật.

Lại có thuyết nói: Nếu ở vào thời không có Phật, gặp Phật-bíchchi, cũng gieo trồng căn thiện của phần giải thoát.

Hỏi: Vậy thể tánh là gì?

Đáp: Hoặc là thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp.

Hỏi: Song ý nghiệp là riêng nhiều, là năm thức thân hay là địa ý?

Đáp: Là địa ý, không phải là năm thức thân.

Hỏi: Là thiện phương tiện hay là thiện sinh đắc?

Đáp: Cũng là thiện phương tiện, cũng là thiện sinh đắc.

Hỏi: Là văn tuệ, là tư tuệ, hay là tu tuệ?

Đáp: Là văn tuệ, tư tuệ, không phải tu tuệ.

Hỏi: Lấy việc gì để gieo trồng căn thiện này?

Đáp: Hoặc lấy bố thí, hoặc dùng trì giới, hoặc dùng đa văn không nhất định. Vì sao? Vì có người chỉ dùng một nắm thức ăn để bố thí đã có thể gieo trồng căn thiện của phần giải thoát. Còn như tự có năng lực tạo ra trường trai, Ban Già Vu Sắt (Hội thí lớn, năm năm một lần) nhưng vẫn không thể gieo trồng căn thiện của phần giải thoát. Hoặc chỉ giữ một ngày trai đã có thể gieo trồng căn thiện của phần giải thoát. Còn tự có suốt đời giữ giới nhưng không thể gieo trồng căn thiện của phần giải thoát. Hoặc chỉ trì tụng một bài kệ đã có thể gieo trồng căn thiện của phần giải thoát. Còn tự khéo thông suốt về văn nghĩa của ba tạng nhưng vẫn không thể gieo trồng căn thiện của phần giải thoát. Thế nên, không nhất định. Vì sao? Vì hoặc có sự gieo trồng, hoặc không có sự gieo trồng, nếu đem việc này hồi hướng về giải thoát, Niết-bàn, thì người muốn vĩnh viễn lìa sinh tử, có tâm dũng mãnh như thế, tức là có thể gieo trồng căn thiện. Nếu không hồi hướng về giải thoát, Niết-bàn, để vĩnh viễn lìa sinh tử, thì tuy bố thí nhiều, hay trọn đời giữ giới, học rộng nghe nhiều, nhưng vẫn không thể gieo trồng căn thiện của phần giải thoát. Có gần, có xa. Gần, nghĩa là gieo trồng căn thiện trong thân trước, thân này thành thục, thân sau giải thoát. Xa, nghĩa là đã từng gieo trồng căn thiện của phần giải thoát, trải qua na-do-tha đời thọ thân nhưng không thể phát sinh căn thiện của phần đạt. Căn thiện của phần giải thoát do hàng Thanh văn đã được, có thể hồi hướng đến Phật-bích-chi. Căn thiện của phần giải thoát do Phật-bích-chi đã được, cũng có thể hồi hướng đến Phật. Căn thiện của phần giải thoát do Phật đã gieo trồng thì không thể hồi chuyển.

Hỏi: Có quán sinh diệt, hành giả kia lấy gì làm phương tiện?

Đáp: Hành giả kia, vào mùa xuân, trông thấy cỏ cây mang màu sắc xanh tươi, trong trẻo như ngọc lưu ly, ngắm nhìn dòng sông chảy xiết, làm bọt nước nổi trôi, tấp vào ven bờ. Thấy rồi khởi suy nghĩ: Các pháp bên ngoài này nay đã lại sinh.

Nếu đi vào thành ấp, xóm làng, thấy các nam nữ ca múa, vui đùa, rồi hỏi chúng: Vì sao vui mừng thế? Chúng đáp: Ở đây vừa sinh nam, sinh nữ. Hành giả kia lại tư duy: Như vậy là pháp bên trong này nay đã lại sinh.

Hành giả kia, đến mùa thu sau, nhìn thấy các cây cỏ phơi mình trong ánh nắng gắt lại xuôi theo gió lạnh thổi, bao phủ do sương mù, cành lá rơi rụng, nước sông khô cạn, lại tư duy: như pháp bên ngoài này nay đã lại diệt.

Nếu vào thành ấp, thôn xóm, trông thấy các nam nữ đầu bù tóc rối, múa tay, quơ chân, khóc than, kể lể. Hỏi vì sao? Trả lời: Nơi đây có nam, nữ vừa mới qua đời. Hành giả kia lại tư duy: Pháp bên trong nay đã lại diệt.

Hành giả kia nhận thấy sâu xa về các tướng như thế rồi, trở lại trụ xứ, tự quán xét thân mình cũng có tướng vô thường của tuổi trẻ, tráng niên và già nua, theo thứ lớp quán về năm, tháng, ngày, giờ, ngày đêm nối tiếp, đó gọi là phương tiện. Nơi các thời gian này lần lượt trừ giảm, cho đến quán ấm có hai sát-na một sinh, một diệt. Đó gọi là quán sinh diệt đầy đủ.

Hỏi: Quán sinh diệt này là quán tưởng giả hay là quán thật? Nếu là quán tưởng giả thì kệ này làm sao thông suốt? Như nói:

Nếu có tri kiến dứt hết lậu

Nếu không tri kiến làm sao dứt?

Nếu người khéo quán ấm sinh, diệt

Tức là tâm giải thoát phiền não.

Chẳng phải dùng quán tưởng giả mà có thể dứt trừ phiền não. Nếu chẳng thể quán thật, tức nên thấy các hành có tướng đến đi. Nhưng các hành thật sự không có đến, đi.

Hoặc có người tạo luận nói là quán tưởng giả.

Hỏi: Nếu như vậy làm sao thông suốt kệ này?

Đáp: Vì có nhân chuyển của chuyển, thế nên nói chuyển của chuyển kia cùng sinh, cũng như pháp con cháu. Sự việc ấy là thế nào? Quán tưởng giả có thể sinh quán tưởng thật. Quán tưởng thật có thể đoạn dứt phiền não. Thế nên nói là nhân chuyển của chuyển, như pháp con cháu.

Lại có thuyết nói: Là quán tưởng thật.

Hỏi: Nếu như vậy thì các hành không có đến, đi. Nhưng hành giả kia lại thấy có đến, đi?

Đáp: Nếu quán sinh diệt, khi chưa đầy đủ, nên thấy các hành có tướng đến, đi. Nếu quán kia đầy đủ, tức thấy các hành không có tướng đến, đi. Cũng như trẻ con ưa vui đùa một mình bằng cách quay vòng tròn. Hễ quay nhanh thì thấy mình như dừng lại. Nếu quay chậm thì thấy có đến, đi. Thí dụ về bánh xe quay của thợ gốm cũng lại như thế.

Hỏi: Dùng một tâm thấy sinh diệt, hay là hai tâm một thấy sinh, một thấy diệt? Nếu dùng một tâm thấy sinh diệt, thì vì sao một tâm mà có hai sự lo nghĩ? Nếu có hai sự lo nghĩ để phá nghĩa một tâm thì lại làm sao thấy? Là do thấy sinh lúc sinh lại thấy diệt chăng? Thấy diệt lúc diệt là lại thấy sinh chăng? Nếu thấy sinh lúc sinh, chỉ thấy người sinh thì đó là chánh. Nếu thấy sinh lúc sinh lại thấy người diệt thì đó là tà. Nếu thấy diệt lúc diệt, chỉ thấy người diệt, thì đó là chánh. Nếu thấy diệt lúc diệt, lại thấy người sinh thì đó là tà. Nếu phải một tâm thấy sinh, một tâm thấy diệt, thì không có quán sinh diệt?

Đáp: Nên nói như thế này: Một tâm thấy sinh, một tâm thấy diệt.

Hỏi: Nếu như vậy thì không có quán sinh diệt chăng?

Đáp: Ở đây nói thông suốt nơi quán sinh diệt, nối tiếp trong một sự sinh, không phải cho là một sát-na.

HẾT – QUYỂN 3