Kinh Tập hợp Việc làm Trước kia của Phật
(Phật Bản Hạnh Tập Kinh)
Hán dịch: Tùy Thiên Trúc Tam Tạng Xà Na Quật Đa
Việt dịch: Phật Tử Bùi Đức Huề dịch năm 2012- 2014

 

QUYỂN THỨ HAI MƯƠI MỐT

Phần cuối Phẩm Vua sai khiến tới trở lại

Thời Vua Tịnh Phạn lại nói như thế. Con trai Trí tuệ của Cha ! Con nay tuy ở bên cạnh các thân tộc. Tâm không có yêu quý luyến mộ chỉ lấy ý của Cha. Trở lại hướng về gia đình. Đừng làm cho Cha nay do vì con. Lo buồn khổ não dẫn tới bỏ mệnh. Con trai thiện ! Người bình thường thực hành hạnh Pháp. Đều ở bên cạnh tất cả các chúng sinh. Sinh tâm Từ Bi. Như thế mới được tên là được hạnh Pháp. Cớ sao chỉ đơn độc tự bản thân đi vào trong núi sâu. Mới có tên là hạnh Pháp. Sở dĩ thế nào ? Cha trước kia từng nghe từ xưa tới nay. Hoặc có nhiều người ở gia đình của mình. Không tháo bỏ chuỗi ngọc đủ loại trang nghiêm trên thân. Nuôi tóc râu dài đầy đủ công Đức. Vì cầu Giải thoát ở bên trong gia đình. Cũng có thể được Pháp Giải thoát. Thường tu luyện thực hành Pháp Giải thoát đó. Chỉ cần Trí tuệ cùng với Tinh tiến. Như điều này tức là nguyên nhân chân chính của Giải thoát. Con nay làm trái lời Cha mà đi vào trong núi. Như điều này mới là Pháp sợ hãi tránh xa năm Tham muốn.

Tuy nhiên nếu những người đó ở gia đình. Dùng các chuỗi ngọc trang nghiêm tự bản thân. Được Giải thoát. Nay đang vì Con mà nói sơ qua. Trước kia có người hiền tên là Tùy Thường. Người hiền Lực Kim Cương. Người hiền Đa Hữu. Người hiền Lưu Hạnh. Người hiền Đại Phú. Người hiền Biên Thiên.

Mới lại có Vua Nước Tì Đề Ha. Tên là Năng Sinh Da Da Để Vương (tiếng Tùy là Hành Hạnh). Người hiền là Tịnh Tiên. Lại còn La Ma Vương (tiếng Tùy là Tác Hỉ). Có như thế cùng với vô lượng vô biên các Vua ở gia đình. Đều được Giải thoát.

Con nay nên biết ở trong gia đình cầu Pháp Giải thoát. Cũng có thể giúp cho được, chưa nhất định cần ra khỏi gia đình. Vì thế Con nay cần nhanh trở lại gia đình. Thỏa mãn hai loại mong nguyện.

Một là Con được nhận lấy vui sướng của năm Tham muốn. Hai là giúp cho tâm của Cha thường được vui mừng. Thường người Thế gian. Nhận lấy ngôi vị Vua. Nếu giúp cho tâm được công năng của nguyện. Đó tên là Vua chân chính. Cha nay có thể vì Con thỏa mãn nguyện này. Ngôi vị Vua khó bỏ. Cha do vì Con. Bỏ việc khó này, có thể ban cho Con tưới đỉnh cho Con. Con nếu làm ra Nhân duyên như thế. Chắc là Cha vui mừng liền tức thời từ bỏ thoái lui. Bỏ việc đời rời gia đình đi vào núi cầu Đạo. Mà đọc bài kệ nói rằng :

Ngôi Vua thân mật thực khó rời. Nay đều cắt bỏ giao cho Con.

Thấy Con cố chịu trị Thế gian. Cha sinh vui mừng liền vào núi.

Khi đó đại thần gồm cả Quốc sư Bà La Môn. Nói ra bài kệ được chính miệng của Vua Tịnh Phạn ra lệnh như thế. Đều chứa đầy lời nói quanh co ủy mị báo lên Bồ Tát xong. Lại còn phân biệt dùng ý của ba loại việc. Can gián Bồ Tát nói rằng :

Đức Thánh Trí lớn ! Đây là Tịnh Phạn Vua cha của Đức Thánh rơi lệ than khóc không thành lời. Hướng về chúng thần ra lệnh lời chua xót cấp thiết. Vì thế Đức Thánh nay nghe sắc lệnh đau khổ như thế của Vua cha. Kham chịu nhận cúng dưỡng cung kính. Không được ngược lại lệnh của Cha.

Vua cha của Đức Thánh. Nay do chìm nổi trong biển khổ sâu lớn. Không có người có thể rút ra đưa tới bờ Trí tuệ. Duy chỉ có Đức Thánh có thể làm việc cứu giúp. Kham chịu rút bỏ khổ đó. Giống như đọa xuống nước rất sâu. Chỉ có người lái thuyền lớn mới có thể kéo rút ra. Như thế, đúng như thế. Vua cha của Đức Thánh. Nay do chìm sâu trong biển khổ não lớn. Càng không có người có thể kéo rút ra. Chỉ có Đức Thánh thôi.

Mới lại Đức Thánh khi còn thơ dại. Nuôi dưỡng dạy bảo lớn lên. Chỉ có Kiều Đàm Di kiêm thêm bà lại là em ruột của mẹ Đức Thánh. Đừng làm cho cô quả dẫn tới bỏ mệnh. Nay cố vì nghĩ nhớ tới Đức Thánh nhận lấy khổ não lớn. Ví như trâu mẹ vì mất đứa con một. Bi thương mà than thở kêu gọi. Như thế, đúng như thế ! Kiều Đàm Di đó do mắt không thấy Đức Thánh. Bi thương than thở, than khổ không thành lời, thường kêu khóc mãi. Vì thế Đức Thánh không nên rời bỏ.

Lại do ân nuôi dạy trước kia. Giống như con trâu đó yêu quý con của nó. Gồm cả với quyến thuộc phụ nữ bên trong cung. Cũng nhận khổ như thế. Lại còn tất cả họ Thích ở trong thành Ca Tì La. Nam nữ nhân dân lớn nhỏ. Do vì yêu quý Đức Thánh tâm nung nấu bức bách. Bị lửa của khổ não thiêu đốt như thế. Vì thế Đức Thánh nay cần trở lại gia đình thấy họ. Ví như Thế giới khi bị thiêu đốt. Các Trời ở bên trên giáng mưa mát lành xuống. Diệt mất ngọn lửa bi kịch khổ thiêu đốt đó.

Khi đó Bồ Tát nghe lời nói như thế của người được Vua cha sai tới xong. Thời suy nghĩ đôi chút. Dùng thân tâm điều hòa khí tắc nghẹn trong miệng xong. Trả lời người được sai tới nói rằng : Ta cũng biết từ lâu cha hướng về con. Đều có tâm yêu quý. Ta biết Vua lớn Tịnh Phạn cha của Ta. Hướng về bên Ta. Tâm rất thương xót nhớ quyến luyến giữ ở trong tâm. Ta nay chỉ vì sợ hãi Sinh già bệnh chết của Thế gian. Tự thân thấy chìm xuống. Há có thể cứu giúp trầm luân.

Vì muốn cầu độ thoát. Rời xa các quyến thuộc đó thôi. Ai lại vui vẻ rời bỏ thân ái này. Há sao không muốn được thường gặp nhau. Nếu ở trong Thế gian không có yêu ly biệt. Ai không yêu thích Thế gian. Tuy lại dừng ở lâu dài cùng tụ họp với các thân thích. Đều đang biệt ly. Vì thế Ta nay rời bỏ tất cả thân tộc yêu quý cùng với cha mẹ. Chí tâm cầu Bồ Đề.

Nếu Ta nói là. Nhân do vì yêu quý Ta, đem tới làm cho Vua cha sinh ra khổ não lớn. Ta nghe lời nói này thực không luyến tiếc nương nhờ yêu quý như thế. Sở dĩ thế nào ? Ví như có người ở trong giấc ngủ. Mộng thấy người thân yêu tụ tập hội họp. Tỉnh giấc trở lại ly biệt. Nếu người Phàm trần đó không hiểu Phương tiện. Tâm sinh ra khổ não. Đây là chúng sinh ngu si không có kiến thức.

Nếu người có Trí tuệ có thể tự nghĩ nhớ. Thân yêu hòa hợp. Giống như người đi trên đường. Kết bạn trên đường đi. Cùng nhau cùng đi. Đi theo nhau xa gần. Đến được tới nơi ở. Đều tan ra trở lại trước kia. Do vì việc đó thân yêu quyến thuộc. Tụ tập có ly rời. Sao phải lo buồn ? Lại thời thế trước kia từng vì quyến thuộc. Đã vứt bỏ tới nơi này. Vứt bỏ quyến thuộc của nơi này tới đời sau. Đã vứt bỏ đời sau. Lại tới đời sau. Như thế luân chuyển. Càng hỗ trợ nhau cùng vứt bỏ.

Các quyến thuộc này. Tâm yêu luyến tiếc. Từ nơi nào tới ? Đến tới nơi nào ? Thường người Thế gian.

Từ ban đầu thụ thai tới tất cả nơi. Khoảnh khắc thời gian luôn nghĩ nhớ như thế. Đều cùng có Quỷ lấy mệnh đuổi theo. Như đây là thế nào ? Đúng thời sai thời nay lại bảo Ta. Con của Ta tức thời nay không phải thời vào núi cầu Đạo. Huống chi thời ở gia đình nhận năm Tham muốn.

Nếu cần hỏi Ta. Thời chưa phải thời nay cần sơ lược như thế. Sở dĩ thế nào ? Quỷ lấy mệnh đó ở tất cả thời gian. Hút lấy các chúng sinh. Tất cả thời gian đều hút lấy. Vì thế Ta nay muốn cầu ly rời Sinh già bệnh chết. Do vì như thế không có thời sai thời.

Bồ Tát lại nói rằng : Nếu trực tiếp cha của Ta gọi con trai. Chỉ tới Ta ắt ban cho con tưới đỉnh ngôi vị Vua. Cha của Ta nhất định có tâm nguyện lớn. Việc khó như thế dễ có thể ban cho Ta. Đáng tiếc ở trong Đạo giúp cho Ta không tu hành. Chỉ là Ta không muốn nhận lấy ngôi vị Vua này. Thân yêu ràng buộc, Đạo Giải thoát sai. Ví như người hoạn nạn, không nghĩ tới thức ăn ngon. Vì sao người có Trí tuệ tham vui sướng ở đời đó. Đó là tưởng nhớ không có Trí tuệ, bản thân ngu si. Vì có khổ não lớn. Mới hay nhận lấy ngôi vị Vua này. Đã ở trong ngôi vị Vua tự do phóng túng. Đam mê rượu sắc thân không thể rời bỏ. Ví như nhà bằng vàng lửa mạnh cháy dữ dội. Ví như nước tương ngon hòa với các thuốc độc. Ví như hoa trong ao mà có con thuồng luồng. Như thế, đúng như thế ! Ngôi vị Vua vui sướng ý được vui chơi. Các hoạn nạn đuổi theo, không cảm thấy không biết. Vì Nhân duyên đó Ta nay không vui. Cũng là Pháp sai. Mà đọc bài kệ nói rằng :

Ví như nhà vàng lửa cháy mạnh. Như hòa thuốc độc vào cơm ngon.

Như ao đầy hoa có thuồng luồng. Ngôi Vua nhận sướng sau khổ lớn.

Khi đó Bồ Tát đọc bài kệ như thế xong. Lại làm lời nói như thế. Do vì như thế các Vua từ xa xưa tới nay. Được ngôi Vua rồi. Khi còn ít tuổi cai quản cảm hóa nhận vui sướng. Sau tới lúc tuổi già chán ghét, ly rời năm Tham muốn. Vứt bỏ cung điện liền vào trong rừng núi. Người phàm trần lặng lẽ ở trong núi rừng ăn cỏ nuôi sống mệnh. Không ở trong cung điện nhận vui sướng của năm Tham muốn. Như nuôi con rắn đen sau nhận lấy tai ương của nó. Ban đầu khi nhận vui sướng. Không biết tai hại. Thời sau phát ra thù hận. Liền đầu độc người. Lặng lẽ vứt bỏ ở gia đình. Đi vào trong rừng núi. Không vứt bỏ rừng núi. Trở lại vào ở gia đình. Sở dĩ thế nào ? Do vì nghi ngờ nơi ở của Thánh trước kia. Ta nay đã được sinh trong gia đình thiện. Cần tu Pháp thiện. Không như người ngu si thực hành Pháp không thiện. Tâm tự phóng túng. Đã cắt bỏ râu tóc. Mặc áo Già Sa. Dừng lại ở trong rừng núi học hỏi tu Đạo. Mà sau đó vứt bỏ áo Già Sa. Không nhớ hổ thẹn xấu hổ. Đó tên là người ngu si không có hổ thẹn. Hoặc vì do tham. Hoặc vì do thù hận. Hoặc vì do ngu si. Hoặc vì sợ người khác thoái lui trở lại như thế. Ta nay không thích cung điện của Ngọc Hoàng Đế Thích. Huống chi trở lại muốn đi vào nhà của tự mình. Ví như có người do được thức ăn ngon. Ăn xong sau đó nôn ra thức ăn đó. Vứt ở trên đất. Lại muốn trở lại ăn. Có thể được không ? Như thế, đúng như thế ! Nếu người vứt bỏ năm Tham muốn đó đi Xuất gia. Hoặc vì các duyên trở lại muốn nhập vào gia đình cũng lại như thế. Ví như có người đã ly rời ngôi nhà lửa. Trở lại muốn đi vào. Như thế, đúng như thế ! Đã thấy hoạn nạn của đời tục, vứt bỏ hình áo của người phàm tục. Đi vào núi tu Đạo. Quay trở lại cũng lại như thế. Mà đọc bài kệ nói rằng :

Như người bỏ chạy nơi nhà lửa. Về sau bỗng lại quay trở lại.

Đã thấy nạn tục rời bỏ nhà. Từ rừng trở về cũng như thế.

Khi đó Bồ Tát đọc bài kệ như thế xong. Bảo hai người sai tới nói rằng : Các Ngài trước nói là được Vua cha nói. Trước kia các Vua ở gia đình tu Pháp. Họ được Giải thoát. Việc này không như thế. Có thể vì hai việc này như thế. Nhân duyên cùng trái ngược rất xa xôi ảo tưởng. Sở dĩ thế nào ? Người cầu Giải thoát, tâm của họ Yên định Vắng lặng. Nơi vi diệu mới dừng lại được nơi. Nếu ở trong cung năm Tham muốn, tình phóng đãng. Ra ngoài cai quản dân. Cần thực hành roi đánh, thù hận trách mắng phạt tội. Ở trong tâm đó cầu Giải thoát. Không có nơi đó.

Nếu ý người ham thích Tĩnh lặng Pháp Không có làm. Người đó chắc là không tham ngôi vị Vua của Thế gian. Nếu khi ở trong ngôi vị cần phải rời bỏ. Nếu ham thích ngôi vị Vua. Tâm ý của người đó không thể Tĩnh lặng. Nếu ham thích yên Tĩnh lặng lại tham vụ việc ở đời. Hai việc đó cùng trái ngược. Trời đất xa vắng hão huyền. Ví như lửa nước không được ở cùng một nơi. Như thế, đúng như thế ! Cầu Pháp Giải thoát. Lại nương nhờ năm Tham muốn, cuối cùng không có nơi đó. Vì thế Ta nay biết quyết định.

Các Vua trước kia ở đó đã vứt bỏ ngôi vị Vua. Sau đó mới được Pháp yên Vắng lặng. Nếu ở trong ngôi vị Vua khi giáo hóa. Trí tuệ của họ chưa thành, tâm vừa học ứng dụng quản lý dân ra sao. Không quyết tâm chuyên cầu Pháp Giải thoát. Việc này tuy như thế. Các Vua đó đều tùy theo ý của họ. Hoặc cầu Giải thoát. Hoặc nhận năm Tham muốn. Ta nay không như thế. Không học những người đó. Cũng lại chưa từng phát tâm này như thế. Ta nay đã cắt đứt muốn ở gia đình. Khóa chặt được với Giải thoát.

Không trở lại tham nương nhờ năm Tham muốn của Thế gian. Há sao được trở lại nhà.

Thời hai người được sai tới nghe lời nói không nhiễm nương nhờ, được Bồ Tát nói như thế. Chuyên chính quyết định được lời nói chân thực. Lại càng tỉ mỉ cùng báo cáo Bồ Tát nói rằng : Con Vua Thánh lớn ! Ngày nay thệ nguyện cầu Pháp Bình Đẳng. Đây là chân thực. Tất cả đều là Đạo lý. Chỉ như Hạnh này. Nay chưa tới thời đó. Sở dĩ thế nào ? Vua cha của Đức Thánh nay nhận khổ não lo buồn như thế. Vì thế Đức Thánh phản bội lại tâm này. Không phải là Pháp đúng. Mà đọc bài kệ nói rằng :

Nay cầu Tạng Pháp thực được lợi. Tuy có lý đúng, chưa hợp thời.

Vua cha lo buồn tâm tan nát. Hiếu Đức đã trái là Đạo nào.

Khi đó hai người được sai tới đọc bài kệ này xong. Lại báo cáo Đức Thánh làm lời nói như thế. Con Vua Thánh lớn ! Như Thần thấy được ý này không phải là tinh tế quan sát hạnh Pháp. Tài lợi ở đời cùng với năm Tham muốn. Không phải là Phương tiện hay. Sở dĩ thế nào ? Đức Thánh ngày nay chưa từng thấy nguyên nhân. Vì sao cầu quả báo ? Hiện nay được quả báo. Mà liền quay lưng vứt bỏ. Thẳng cầu Tương lai.

Con Vua Thánh lớn ! Thường thì tất cả sách điển tích của Thế gian. Từng loại đều tự có với hết thảy Bố thí. Hoặc có người nói rằng : Có đời Tương lai. Hoặc có người nói rằng : Không có đời Tương lai. Tuy nhiên ở trong nghĩa này nhiều người có nghi hoặc. Vì thế Đức Thánh đã được quả báo hiện tại cứ nhận. Nếu không có đời Tương lai. Vì sao phải tinh siêng cầu Giải thoát đó ? Lại có người nói rằng : Quyết định Thế gian có thiện có ác. Đời Tương lai nhận lấy. Do vì nghĩa đó tinh siêng tu hành. Cầu Đạo Giải thoát. Đó tên là ngu si.

Nếu sai khiến các Căn quyết định phá hỏng. Thân yêu ly biệt oán ghét tụ hợp. Cảnh giới cùng hòa hợp. Tự nhiên rời bỏ Sinh già bệnh chết. Sao lại phải làm Phương tiện cần cù ? Cần biết nghĩa này cũng không có thực. Lại lúc ở trong bào thai. Tay chân ngực lưng bụng dạ dày tóc móng vuốt. Các chi tiết gân mạch tự nhiên mà thành. Hoặc lại có người được thành thân rồi. Trở lại phá hỏng. Hoặc có người nói rằng : Đã phá hỏng xong trở lại tự nhiên thành. Trong điển tích cổ xưa có lời nói như thế. Đầu đâm của cây gai nhọn. Đó là ai mài tạo ra. Chim thú sắc màu tạp loạn. Đó là ai vẽ ra. Nghĩa này là tự nhiên. Không có người làm. Cũng lại không thể muốn được tức thời thành. Các vật của Thế gian không được tùy theo tâm, tức thời luân hồi sai khiến. Mà có đọc bài kệ.

Cây gai đầu nhọn là ai mài. Chim thú đủ màu lại ai vẽ.

Đều tùy theo Nghiệp biến luân chuyển. Thế gian không có người tạo ra.

Lại có người nói rằng : Tác giả của Thế gian. Tất cả đều do Trời Tự Tại làm ra. Nếu là tự nhiên. Người cũng vì sao phải cần cù tạo ra Nghiệp ? Có thể không phải nguyên nhân lưu chuyển tự tới. Và khi nó tới mới là nguyên nhân đó lưu chuyển tự tới.

Lại có người nói rằng : Do vì phân biệt. Nếu thần cùng sinh cố nhận lấy với Có. Có hết cũng như thế. Khi nếu nhận Có cần cầu thực. Tự nhiên mà nhận. Khi nếu Có hết. Tự nhiên mà hết cũng diệt mất thực.

Lại có người nói rằng : Khi Thế gian muốn nhận thân người. Người cha đó không nhận nợ của người khác. Mặc dù liền được sinh. Sinh lên Trời sinh thành Tiên. Tất cả đều như thế. Nếu ba nơi này không gánh vác nợ. Người này không sử dụng cần cù mà cầu tự nhiên. Mà được nơi đó Giải thoát như thế.

Tiếp theo trong các Kinh điển. Từng loại đều Bố thí tự nói như thế. Đều được Giải thoát. Nếu có người Trí tuệ tinh siêng, khi muốn cầu được nơi tốt. Nhất định hao tổn tâm họ. Vì thế thần biết người Thánh. Nếu muốn cầu Giải thoát. Dựa vào Lý dựa vào Pháp cần như thế, cầu con đường Giải thoát. Như sách điển tích cổ xưa đều nói Bố thí. Nếu như thế nhất định đang được cũng không có nghi.

Cha nhân từ của Đức Thánh Vua lớn Tịnh Phạn. Do vì Đức Thánh nhận tâm yêu khổ. Đang được trừ bỏ nhanh. Đức Thánh nay khi trở lại cung. Trong ý thức nếu thấy cung điện. Chán hoạn nạn việc này cũng lại không cần suy nghĩ. Cớ là sao ? Xưa kia các Vua Tiên vứt bỏ gia đình xong. Tới ở trong rừng núi sau quay trở lại hướng về tự gia đình trong cung nói rằng :

Các Vua đó họ có tên hiệu. Gọi là Vua Am Bà Lê Sa (tiếng Tùy là Hư Không Tiễn). Rời bỏ gia đình xong ở trong rừng núi. Các thần bá quan bắt đầu can gián nói rõ. Tả hữu trước sau vây quanh mà trở lại. Vua Ky La Ma (tiếng Tùy là Năng Hỉ). Đã thấy Thế giới bị các người ác làm hủy hoại. Từng người cùng nhau tước đoạt cùng nhau sát hại. Tâm không nhẫn chịu thấy từ núi đi ra. Như Pháp ủng hộ. Lại còn trước kia thành Tì Da Ly có một Vua lớn. Tên là Đồ Lô Ma (tiếng Tùy là Thụ). Cũng từ núi rừng đi xuống về tới Nước cũ. Giúp giữ Thế gian. Trước kia lại có một Vua Tiên Phạm. Tên là Sa Chỉ Lê Đê (tiếng Tùy là Ly Ngôn). Lại Vua La Chỉ Đề Bà (tiếng Tùy là Hỉ Thiên). Vua Đạt Ma Da Xá (tiếng Tùy là Pháp Xưng). Các bậc như thế cùng với vô lượng vô biên các Vua Tiên Phạm. Đều vứt bỏ rừng núi trở lại cung cũ. Bình yên vỗ về Thế giới. Vì thế Đức Thánh nghe việc trước kia của các Vua xa xưa này. Nay nếu trở lại cung không có khổ hoạn nạn. Mà đọc kệ nói rằng :

Đọc tên các bậc Vua như thế. Đều bỏ cung nữ vào rừng núi.

Sau đều bỏ núi về cung cũ. Đức Thánh nay về có lỗi gì.

Khi đó Bồ Tát nghe lời nói như thế của hai người được sai tới xong. Bảo với đại thần đó gồm cả Quốc sư Bà La Môn nói rằng : Có không có nghĩa, nghi và không có nghi. Ta tự biết rõ. Chỉ vì hai nghĩa này. Tất cả chân lý ẩn núp và hiện ra. Ta nhẫn nhịn nhận lấy. Nếu truyền nhau nghe. Nếu không có Nhân duyên. Do cái gì có thể tin ? Nếu người có Trí tuệ cần không dựa vào lời nói sai trái của người khác mà làm. Giống như người mù muốn đi trên đường. Đã không có người hướng dẫn không thấy chân thực. Làm sao đi được ? Tâm tự không quyết định, nếu thiện thiện sai.

Người ngu mù đó nếu giúp cho Pháp Thanh tịnh, tâm thấy không Thanh tịnh. Do vì không có Trí tuệ. Ta nay yên ổn phát tâm Tinh tiến. Mà tuy chưa được ngon ngọt từ quả báo, lâu dài nhận khổ não. Thực không nhẫn chịu chìm nổi mê muội trong vũng bùn của năm Tham muốn. Bị khiển trách ở nơi các Thánh. Tạm nhận vui sướng. Lại các Ngài nói rằng : Xa xưa đến nay. Vua Hư Không Tiễn và Vua Năng Hỉ. Đều từ rừng núi trở lại nhập vào gia đình. Các bậc Vua đó. Ta không cầm lấy ở trong Pháp Giải thoát, sử dụng làm chứng minh. Cớ là sao ? Các bậc Vua đó vì do học của họ. Vì Thần thông hết, đặc biệt càng không có Pháp Hạnh khổ. Vì thế họ quay trở lại cung.

Các Ngài ngày nay đừng làm ra tâm như thế. Ta đang lập ra thệ nguyện. Nếu như mặt Trời mặt Trăng rơi lạc trên đất. Núi Tuyết lớn này di dời nơi ở cũ. Ta nếu chưa được Pháp báu đúng. Vì tham việc đời dùng thân của người Phàm tục. Trở lại vào cung cũ. Không có nơi đó.

Ta nay thà đi vào đám lửa cháy mạnh, hầm lửa lớn nóng. Không được tự lợi mà trở lại vào cung. Không có nơi đó. Khi đó Bồ Tát làm xong thệ nguyện này. Từ chỗ ngồi mà đứng dậy vứt bỏ rừng này.

Quay lưng lại hai người đó tự một mình mà đi.

Thời hai người sai khiến tới đó, nghe được lời nói như thế của Bồ Tát xong. Lại thấy quyết định rời bỏ các thân tộc. Phát thệ nguyện như thế. Biết nhất định không quay về. Nâng thân tự ngã xuống. Từ đất mà sinh ra nước mắt chảy đầy khuôn mặt. Lớn giọng mà khóc. Đi theo Bồ Tát muốn gần Bồ Tát.

Khi đó uy Đức của Bồ Tát rất lớn. Hai người đó không thể được bức chế. Giống như ánh sáng mặt Trời chói lòa mắt của họ. Không thể trông thấy thân của Bồ Tát. Khi đó người sai khiến tới lại còn hỏi Bồ Tát lời nói như thế. Chỉ nguyện Đức Thánh ! Đừng làm như thế cương quyết ngáng ý chí. Chúng thần nguyện yên định tâm luyến mộ. Tâm chúng thần yêu quý đã chưa cắt bỏ. Không nhẫn chịu rời bỏ Đức Thánh mà đi.

Do hai người sai khiến tới đó yêu quý Bồ Tát. Lại kiêm thêm kính trọng ý hướng về Vua Tịnh Phạn. Vì Nhân duyên đó đi theo sau Bồ Tát. Ngược xuôi mà đi hoặc dừng hoặc xem xét. Hoặc đi hoặc chạy. Thời hai người đó lại đặc biệt bảo bốn người. Ẩn núp thân đi theo sau Bồ Tát. Hai bên phải trái mà đi. Các người các Ngài. Không ly rời Đức Thánh. Xem xét đi tới nơi nào ? Bảo như thế xong.

Thời hai người đó trong tâm sầu độc. Nhận buồn khổ lớn. Khóc lóc kêu gọi. Đều cùng hỏi nhau nói rằng : Chúng ta ngày nay làm sao về tới thành ? Thấy mặt Vua lớn. Tâm tình của Vua lớn do vì Đức Thánh. Nhận buồn khổ lớn. Lời nói này của chúng ta. Được tâu trình lên ra sao ? Nếu tới bên cạnh Vua. Lại làm lời nói ra sao ? Có thể tháo bỏ tâm Vua. Mà có đọc bài kệ.

Hai người sứ đó biết Đức Thánh. Quyết định không về cung của mình.

Sai bốn người khác chạy theo sau. Tự về gặp Vua nói thế nào.

 

Phần đầu thứ hai mươi sáu Phẩm Hỏi A La La

Khi đó Bồ Tát bỏ đại thần được sai khiến tới của Vua cha mình. Gồm cả Quốc sư Bà La Môn. Thời cả hai người đều cùng rơi lệ. Đã phân biệt rồi dần dần tiến lên phía trước. Yên lành mà hướng tới thành Tì Xá Ly. Chưa tới thành đó. Ở giữa đoạn đường đó có nơi tu Đạo của một người Tiên. Tên là A La La họ Ca Lam Thị.

Thời người Tiên đó có một Đệ Tử. Từ xa thấy Bồ Tát đã hướng về mà đi tới. Đã thấy tâm sinh rất hiếm có. Từ khi sinh ra chưa từng gặp thấy việc đó. Đã thấy nhanh chóng chạy hướng về chỗ ngồi nơi ở của Thầy mình. Tới rồi hướng về các bạn học đó cùng với bên Ma Na Bà. Lớn giọng kêu gọi tên họ của các người đó. Từng người tự nói rằng : Người hiền Bạt Già Bà. Người hiền Di Đa La Ma. Người hiền Thiết Ma. Các loại như thế các Ma Na Bà. Đều cùng bảo rằng : Các Ngài hôm nay có thể từng người tâm vui vẻ. Cần rời bỏ Pháp tế lễ. Nay ở nơi này có khách phương xa người khách Đức lớn tới. Cần phải nghênh tiếp. Tuy nhiên người hiền này. Đã có thể chán ly rời các Phiền não kết buộc. Muốn cầu tối cao tới Giải thoát chân thực.

Tức là con trai Vua Tịnh Phạn chúa Thích. Các hình tướng đoan nghiêm giống như cột bằng vàng. Quang sáng của thân chói lọi uy nghi đường hoàng. Cánh tay hạ xuống tay vượt quá đầu gối. Mu bàn chân hạ xuống đạp lên bánh xe nghìn nan hoa. Đi bộ yên lành như thấy Vua trâu. Uy Đức vầng quang sau gáy giống như vòng mặt Trời. Thân như vàng mười mặc áo Già Sa. Phúc lợi của chúng Ta tôn kính cao nhất. Dần dần tự tới hướng về bên cạnh chúng ta. Chúng ta hôm nay cần phải bày biện đầy đủ. Tùy theo lực tất cả vâng theo việc cúng dưỡng. Đừng làm cho giảm bớt cung kính tôn trọng. Đội đầu vâng theo đón tiếp. Khi đó Ma Na Bà kia liền dùng bài kệ ca ngợi. Ca ngợi Bồ Tát nói rằng :

Yên lành tốt đẹp hay đi bộ. Ngắm nhìn giống như Vua trâu lớn.

Các tướng đầy đủ thân trang nghiêm. Tất cả các lông đều cao đẹp.

Bánh xe nghìn đũa ở dưới chân. Giữa mi quang trắng đẹp uyển chuyển.

Tay thẳng hồng hào buông tự do. Đây là Sư Tử lớn giữa Chúng.

Khi đó Ma Na Bà kia miệng đọc bài kệ này. Ca ngợi Bồ Tát xong. Lại bảo các Ma Na Bà đó nói rằng : Tất cả các Ngài các Ma Na Bà. Có thể cùng nhau đi theo. Hướng về nơi ở của Thầy báo cáo việc này. Lúc đó các Ma Na Bà kia. Liền tức thời cùng nhau đi theo. Đi tới bên cạnh Thầy A La La này. Tới rồi nhẹ nhàng báo cáo đầy đủ với Thầy như các việc bên trên. Lời lẽ đã xong.

Khi đó Bồ Tát yên lành mà đi tới. Bỗng nhiên đi tới bên cạnh A La La. Người Tiên A La La này từ xa thấy Bồ Tát. Tới gần thấy xong. Bỗng nhiên lớn giọng bảo nói rằng : Đức Thánh thiện tới ! Bồ Tát tiến lên tới nơi ở của A La La. Hai người đối diện nhau cùng nhau thăm hỏi. Ít bệnh ít Phiền não. Yên ổn phải không ? Cùng nhau thăm hỏi xong. A La La này thỉnh cầu Bồ Tát ngồi trên đệm cỏ. Mà có nói bài kệ.

Hai người cùng gặp rất vui mừng. Từng người thăm hỏi ít Phiền bệnh.

Thời cùng nhau đối đáp chưa nhiều. Tòa cỏ Thanh tịnh liền trải ra.

Khi đó Bồ Tát ngồi lên đệm cỏ xong. A La La này tâm tỉ mỉ quan sát thân của Bồ Tát. Quan sát trên dưới xong sinh ra rất vui mừng việc chưa từng có. Tức thời đối diện với Bồ Tát dùng âm từ tốt đẹp. Qua lại đàm luận ca ngợi Bồ Tát. Làm lời nói như thế. Người hiền Cồ Đàm ! Con nghe từ lâu. Người hiền Đàn ông. Hay bỏ ngôi vị Vua. Vượt qua thành đi Xuất gia. Cắt đứt lưới võng thân ái nhiễm uế. Ví như Voi lớn cắt đứt xiềng xích kiên cố. Hoặc dây da ngáng trở cắt đứt sắp xếp đằng sau. Tự do bỏ ra đi. Được đi theo tâm. Như thế, đúng như thế ! Người hiền hôm nay mới hay tâm dũng mãnh. Vứt bỏ cung điện đi vào núi ở tất cả nơi. Biết đủ ít tham muốn có Trí tuệ lớn. Người hiền Cồ Đàm ! Đã được việc hiếm có như thế. Công năng quả báo phú quý của Thế gian. Được rồi có thể vứt bỏ, cắt tóc rơi xuống núi rừng. Điều này thực khó làm.

Xưa kia các Vua. Tuy được quả báo đầy đủ của ngôi vị Vua. Nhận lấy đầy đủ năm Tham muốn. Tới khi tuổi già gọi con trai trưởng. Phó thác lại ngôi vị Vua, tưới đỉnh làm Vua. Bỏ ở phía sau bên trong cung mà ra ngoài. Tới ở nơi rừng núi thực hành cầu Đạo. Điều đó không là khó. Cũng không phải hiếm có. Như Con do thấy. Người hiền nay mới lớn. Không nhận lấy năm Tham muốn. Vứt bỏ việc công Đức phú quý đó. Hay phân biệt tâm đó. Tới đây cầu Đạo. Đã được như thế không thể nghĩ bàn ngôi vị Vua của Thánh lớn. Cảnh giới cao nhất. Thời năm hưng thịnh tốt đẹp có thể thu góp tâm ý. Không nương nhờ các tham muốn chí cầu Giải thoát. Không bị ràng buộc nương nhờ. Không làm nhiễm uế cảnh giới các Căn. Hay biết tất cả các hoạn nạn trong Có. Không bị quấy nhiễu ràng buộc của các Có. Cớ là sao ?

Trước kia có Vua tên là Đỉnh Sinh. Vua đó đã được thống lĩnh bốn Thiên hạ. Do không biết đủ bay lên Trời Đao Lợi đó. Được với nửa tòa của Ngọc Hoàng Đế Thích mà ngồi. Do vì bên trong tâm của người này không biết đủ. Cảnh giới năm Tham muốn. Liền tức thời mất hết rơi lạc xuống ở trên đất.

Lại có một Vua tên là Na Hầu Sa. Cũng được làm Vua thống lĩnh bốn Thiên hạ. Trở lại lên tới Trời Đao Lợi. Cai quản cảm hóa các Trời do còn chưa đủ. Cũng mất ngôi vị Vua rơi lạc xuống ở trên đất. Các loại như thế. Vua La Ma. Vua Đà Lô Hô Di. Vua A Sa La Tra Ca. Lại có nhiều các Vua Thánh Chuyển Luân. Do vì được ngôi vị Vua không biết đủ. Đều mất cảnh giới ngôi vị Vua phú quý. Đều cùng mất hết. Không có người của Thế gian đã được cảnh giới. Tâm biết đủ. Giống như lửa lớn được củi khô cháy mạnh. A La La này làm lời nói như thế xong.

Bồ Tát trả lời nói rằng : Người hiền Tiên lớn ! Ta đã thấy cảnh tướng như thế của Thế gian. Lại thấy tất cả giống như chuối tiêu. Bên trong tâm không kiên cố sau trở về phá hỏng. Do được cảnh giới sợ hãi không biết đủ. Không cầu tự lợi chán ghét ly rời việc tham muốn. Ta đã biết như thế tìm con đường chân chính. Du hành khắp nơi. Giống như có người đi ở nơi hoang dã. Mất bạn lạc đường tâm hoặc loạn các phương. Không được Thầy hướng dẫn cho nên cầu hướng dẫn. Du hành khắp nơi nay Ta cũng như thế.

Khi đó Bồ Tát làm lời nói như thế xong. Thời A La La lại còn báo cáo Bồ Tát nói rằng : Người hiền Cồ Đàm ! Con lâu dài thấy tâm tướng của Đại Sĩ. Người hiền với Giải thoát kham chịu làm khí cụ lớn.

Khi đó trong chúng có một Ma Na Bà. Đệ Tử của người Tiên A La La này. Chắp tay báo cáo Thầy ca ngợi Bồ Tát. Làm lời nói như thế. Người này hiếm có. Không thể nghĩ bàn có thể phân biệt tâm này. Xưa kia các Vua khi còn ít tuổi. Ngồi ở bên trong cung đang nhận năm Tham muốn. Về sau có tuổi khi già đầu bạc. Đều gọi Thái Tử phó thác ngôi vị Vua. Tưới đỉnh làm Vua về sau vứt bỏ gia đình. Mà đi vào rừng núi, thực hành Đức hạnh tu Đạo. Mà được Vua Tiên. Người này không như thế. Ít tuổi khỏe mạnh trai tráng đúng là lúc ý vui vẻ. Thời nhận lấy năm Tham muốn ít bệnh ít Phiền não. Khí lực đầy đủ tóc đầu đen như quạ. Thân thể mềm mại dũng mãnh đầy đủ. Không có thiếu thốn. Vua cha tuổi cao. Không tham ngôi vị Vua chán ghét ly rời Thế gian. Không tham quả báo mà có thể Xuất gia. Đi vào núi cầu Đạo.

Thời A La La báo cáo Bồ Tát nói rằng : Người hiền phát tâm muốn cầu việc gì ? Muốn phân biệt Đạo nào ? Mới có thể phát tâm tới ở nơi này.

Bồ Tát trả lời nói rằng : Tôn Giả Thầy lớn ! Ta do thấy chúng sinh của Thế gian này. Do bị Sinh già bệnh chết trói buộc. Không thể tự ra ngoài. Nay phát tâm tinh siêng như thế.

Thời A La La lại làm lời nói như thế. Người hiền Cồ Đàm ! Lại hay sinh ra với mắt Trí tuệ như thế. Phát ra tưởng nhớ như thế. Nghĩa này chân thực. Sở dĩ thế nào ? Mà đọc bài kệ nói rằng :

Tất cả Pháp tốt chỉ có hạnh. Định vắng Thanh tịnh không vượt tâm.

Nhiễm nhờ ân ái oan gia lớn. Sợ hãi các Có thì già chết.

Khi đó A Lam nói xong lời như thế. Mà Chúng đó có một Ma Na Bà. Đệ Tử của người Tiên A La La đó. Báo cáo Bồ Tát nói rằng : Người hiền nay rời bỏ thân ái quyến thuộc. Quay lưng lại mà tới đây có tâm ý gì ?

Bồ Tát trả lời nói rằng : Thế giới nếu có tụ tập hội họp. Nhất định có ly biệt. Ta biết như thế có phát ý này. Muốn cầu được chân chính.

Thời người Tiên A La La lại còn báo cáo Bồ Tát nói rằng : Người hiền nay đã được với Giải thoát. Sở dĩ thế nào? Chúng sinh bị chìm, khó vượt qua vũng bùn này. Thế gian bị dây chắc kiên cố này ràng buộc. Người hiền đã có thể một mình tâm phân biệt điều này. Con đang nói môn Pháp Giải thoát này.

Gọi là tâm Yêu thích. Người hiền cần ly rời. Nói tâm Yêu thích. Là Thuồng luồng rất ác ở trong Thế gian. Với tâm dừng ngưng nghỉ sống ở trong nước. Mất tất cả lợi. Do vì như thế. Con nay quan sát biết người Thế gian, không phải là Đức hạnh đúng. Nếu có thể cầm lấy Pháp Đức hạnh đúng. Chỉ người có Trí tuệ ly rời lây nhiễm Yêu thích. Cần phải phát tâm cắt đứt thấy Pháp Có hình. Làm với Không có hình.

Bồ Tát trả lời nói rằng : Tôn Giả Tiên lớn ! Ta nay nhận lời nói đó, như được Tôn Giả nói.

Tiên A La La lại hỏi Bồ Tát. Người hiền nhận ra sao ?

Bồ Tát trả lời nói rằng : Người Thế gian vì làm ra ràng buộc hình tướng. Ràng buộc hình tướng đó thường là Cha mẹ. Sinh con nuôi dạy. Do vì lập gia đình. Nuôi dạy con cháu. Nếu có thể tăng trưởng thành công gia đình của bản thân. Do vì duyên đó cha mẹ nuôi dạy con. Nếu không có Nhân duyên tự hứa hẹn quyến thuộc. Còn không thân thiết. Huống chi người khác. Nếu người thân thiết. Vì tham cầu lợi. Mà thân thiết với người. Cuối cùng tìm không có nơi ở.

Tiên A La La lại còn ca ngợi nói rằng : Thiện thay người hiền ! Người hiền nay đã biết các Pháp của Thế gian. Sa Môn Cồ Đàm ! Lại minh chứng tất cả các Trí tuệ như thế.

Thời Chúng đó có một Ma Na Bà. Cũng là Đệ Tử của người Tiên A La La đó. Báo cáo Bồ Tát nói rằng : Người hiền Cồ Đàm ! Người hiền nay đã được vui vẻ cao nhất đó. Cớ là sao ? Có thể thấm sâu tất cả hình tướng Yêu thích như thế. Tức thời được các Pháp không có Phiền não của Thế gian.

Sở dĩ thế nào ? Con thấy ít có người của Thế gian, có thể không thương xót vợ con. Không cầu tiền vật. Không giơ hai tay khóc ở Thế gian. Đa số thấy có người do không ít tham muốn. Đủ không biết chán. Yêu tiếc tiền vật thường sinh ra tâm tham. Lây nhiễm nương nhờ lợi của Thế gian. Hết cả các nhà đều giơ hai tay khóc lớn. Mà đọc bài kệ nói rằng :

Thế gian ít thấy người biết đủ. Ít tham không cầu không nhận khổ.

Toàn bộ khóc thương người Yêu thích. Nhiều là tham nhờ tích tiền tài.

Thời A La La báo cáo Bồ Tát nói rằng : Hiếm có ! Người hiền Cồ Đàm ! Trí tuệ rộng lớn như thế. Vì thế người hiền nay dũng mãnh phân biệt như thế. Chế phục các Căn. Không làm cho tăng trưởng với lây nhiễm các tham. Đừng để bị dắt đi.

Khi đó Bồ Tát hỏi về Tôn Giả A La La nói rằng : Tôn Giả Tiên lớn ! Các Căn ra sao ? Như thế không yên định. Muốn hàng phục. Phương tiện ra sao ? Mong nguyện Tôn giả. Vì Ta giảng giải.

Người Tiên A La La đó trả lời nói rằng : Sa Môn Đại Sĩ ! Thường người ở đời. Muốn chán ghét ly rời Sinh. Con nay đang vì Đại Sĩ nói sơ qua hình tướng của Phương tiện. Đại Sĩ nghe Tuệ ! Mà có đọc bài kệ.

Người Tiên quý lớn A La La. Phát khiến tâm Thần Trí Bồ Tát.

Tự thân luận đều trong Bố thí. Phân biệt cốt yếu mà đọc nói.

Cồ Đàm Đại Sĩ ! Thường muốn bỏ mất được hình tướng của các Căn. Cùng với cảnh giới của Căn. Cần phải phân biệt suy nghĩ đo lường như thế. Cớ là sao ? Tất cả cảnh giới của các Căn đó. Đã biết phân biệt. Đều cần vứt bỏ. Thậm chí bên trong cảnh giới của các Căn. Có các lây nhiễm Yêu thích. Yêu thích đó bị lây nhiễm. Tức thời có thể làm cho nương nhờ. Do vì nương nhờ này. Chắc làm cho chúng sinh chìm nổi trong Thế gian. Không có thể được ra ngoài các người Phàm trần. Nhận lấy các khổ ràng buộc yêu quý tham muốn. Tất cả đều do vì cảnh giới. Được các việc như thế. Đại Sĩ cần biết ! Nhân duyên nào như thế ? Mà đọc bài kệ nói rằng :

Dê núi bị giết do tạo thanh. Thiêu thân lao đèn do ánh lửa.

Cá bị mắc câu do nuốt mồi. Người đời hướng chết do cảnh dẫn.

Khi đó Bồ Tát nghe bài kệ này xong. Lại còn hỏi nói rằng : Tôn Giả nay nói điều phục tướng mạo Phương tiện của các Căn. Cùng với Nhân duyên Sinh. Tính hình thể trống không. Lừa dối mê hoặc không có thực. Giống như hầm lửa. Giống như ảo hóa. Như sương trên cỏ. Ta nay tâm tưởng nhớ. Do biết như thế.

Thời người Tiên A La La lại hỏi Bồ Tát Đại Sĩ. Người hiền nói vì sao ? Bên trong các cảnh giới tưởng nhớ không có lợi ích.

Bồ Tát trả lời nói rằng : Người Phàm trần muốn dựa vào các cảnh giới, dừng ở nhận lấy quả báo. Giống như có người tạo ra nhà phòng ở. Muốn che chắn ánh mặt Trời. Hoặc tránh mưa gió. Như người bị khát cho nên tìm với nước. Lại như người đói cho nên tìm kiếm thức ăn. Như người cáu bẩn muốn tắm rửa thân thể. Như người ở trần tìm áo che lên thân. Như người mệt mỏi cho nên tìm xe ngồi lên. Muốn được trừ bỏ lạnh cho nên tìm tới nơi nóng. Muốn được trừ bỏ nóng cho nên tìm tới nơi mát. Muốn vứt bỏ mệt nhọc cho nên ngồi trên giường đệm. Như thế cùng với việc cầu các nơi. Đều vì do khổ cho nên tới bức bách thân. Sở dĩ tìm kiếm. Tựa như người bệnh do vì nạn nặng. Tìm kiếm thầy thuốc. Người Thế gian tất cả đều cùng hi vọng như thế.

Thời A La La ca ngợi nói rằng : Cồ Đàm ! Hiếm có tâm này. Đức lớn ! Vì sao ở trong Thế gian có thể làm nhanh chóng như thế ? Tức thời sinh ra tưởng nhớ Biến đổi. Hiếm có, hiếm có ! Có thể thấy chân thực. Đức lớn, Căn lợi thông suốt dễ hiểu. Nếu có thể thấy sáng tỏ như thế. Tên đó là thấy chân chính. Nếu thấy khác lạ. Tên đó là lừa dối mê hoặc. Như được người hiền nói. Vì đói tìm thức ăn. Tránh núp mưa gió. Do nóng lạnh này. Do tạm thời dễ đoạt lấy. Tâm của người Thế gian tức thời sinh tưởng nhớ vui sướng. Lại còn ca ngợi nói rằng :

Người hiền Cồ Đàm ! Đúng là cây cầu Pháp. Đảm nhận giữ khí cụ lớn. Con tuy truyền cho Đệ Tử nghe quan sát trước. Chịu nhận Pháp phải không ? Nếu có thể chịu nhận. Sau đó vì nói đủ các loại luận. Như Con do thấy. Người hiền hôm nay cho dù không lặp lại như thế. Cúi đầu như thế. Sâu được tiến dừng. Cần quan sát chân thực. Như trong luận của Con. Có nghĩa chân thực. Nói hết tận vì người hiền.

Khi đó Bồ Tát nghe lời nói như thế của Tiên A La La xong. Sinh vui mừng lớn. Mà lại hỏi nói rằng : Tôn Giả Tiên lớn ! Hôm nay chưa biết tâm biết ơn của Ta. Đột nhiên vì Ta làm ra giảng giải vi diệu như thế. Ta biết hình tướng đó tuy chưa tức thời ích lợi. Nay đã được lợi. Sở dĩ thế nào ? Ví như có người muốn thấy được sắc. Mà được Quang sáng. Như người đi xa cần được người hướng dẫn tốt. Như vượt tới bờ kia cần được người lái thuyền. Tôn Giả hôm nay hiện ra rõ tâm của bản thân. Cũng lại như thế. Chỉ nguyện Tôn Giả vì Ta nói thêm. Hiểu biết của Tôn giả. Làm sao độ thoát Sinh già bệnh chết.

Kinh Tập hợp Việc làm Trước kia của Phật, quyển thứ hai mươi mốt.