Kinh Tập hợp Việc làm Trước kia của Phật
(Phật Bản Hạnh Tập Kinh)
Hán dịch: Tùy Thiên Trúc Tam Tạng Xà Na Quật Đa
Việt dịch: Phật Tử Bùi Đức Huề dịch năm 2012- 2014

 

QUYỂN THỨ HAI MƯƠI

Phần cuối Phẩm Nhóm Xa Nặc trở lại

Thời Vua Tịnh Phạn lại làm lời nói như thế.  Ta nay tâm nguyện tất cả Thần Vua, giúp đỡ Thế gian bốn phương. Giúp đỡ các chúng sinh. Nay do vì con trai của Con được lợi ích. Thường cùng nhau giúp đỡ. Ngọc Hoàng Đế Thích trên Trời chúa Trời nghìn mắt. Bỏ người đàn ông son đỏ. Vua Trời lực lớn và các chúng trên Trời. Vây quanh hai bên phải trái. Nguyện vì con của Con. Nguyện làm giúp đỡ toàn bộ tâm cầu. Lại còn các Thần ở Thế gian Thần gió Thần nước Thần lửa Thần đất. Bốn phương bốn hướng. Họ cùng với các Thần đều làm trợ giúp. Ngài tối cao nhất. Đàn ông Bình Đẳng. Cớ sao vứt bỏ bốn Thiên hạ lớn ? Con trai của Con đó. Nay bỏ nhà ra đi. Chí ngưỡng mộ quả Thánh Bình Đẳng tốt đẹp nhất. Muốn được cầu nó. Nguyện nhanh thành công Đạo Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Khiến cho sớm chứng minh.

Vua Tịnh Phạn này nằm ở trên đất. Dùng đủ loại lời nói trách mắng Kiền Trắc. Làm lời nói như thế.  Ngươi là con ngựa không tốt ! Nhiều lần từ trước đến nay, vì Ta làm được việc yêu thích vui sướng. Hôm nay duyên cớ gì đột nhiên không lợi ích. Như thế tổn hại cho gia đình họ Thích. Thái Tử của Ta thường luôn yêu quý Ngươi. Với Ta tâm hợp thường tạo ra vui vẻ. Ngươi nay như thế. Ngươi cần diệt trừ che phủ. Ngươi có thể đem Ta hướng về nơi ở của Thái Tử. Ta cùng với con trai yêu quý cùng thực hành Hạnh khổ. Ta nay do vì biệt ly con trai yêu quý. Mệnh trong giây phút còn sống không lâu. Mà đọc bài kệ nói rằng :

Ngươi ngựa Kiền Trắc chạy rất nhanh. Đem Ta tới đó quay trở lại.

Vì Ta không con, mệnh khó sống. Như người bệnh nặng không được thuốc.

Thời Vua Tịnh Phạn nói lời như thế xong. Vì do yêu quý con bị khổ đau bức bách. Nằm ở trên đất. Làm ra các việc như thế. Nhận lấy việc khổ não. Cất giọng khóc lớn. Bất chợt ngã xuống bỗng nhiên tỉnh dậy. Lời nói tắc nghẹn trong cổ họng.

Khi đó có một đại thần Trí tuệ gồm cả Quốc sư các Bà La Môn. Thấy Vua Tịnh Phạn lăn quay trên đất. Nghiêng bên trái dìu bên phải tâm rất sầu độc. Bi khổ trói buộc bức bách, ý không tạm thời vui. Thân tâm cùng lúc sinh lo buồn lớn. Ý vì muốn mở hiểu cho Vua này. Cố hiện ra vẻ mặt tự không có lo buồn. Cùng báo cáo Vua nói rằng : Vua lớn ! Ngày nay đáng nên vứt bỏ các lo buồn khổ não. Yên định với tự tâm. Cần tạo ra tưởng nhớ lành mạnh. Không nên mê muội tự ngã như thế. Giống như người đời khóc lóc rơi lệ. Sở dĩ thế nào ? Vua lớn cần biết. Như Quá khứ trước kia có nhiều các Vua. Vứt bỏ ngôi vị Vua. Như tua hoa khô héo quay lưng lại mà nhập vào núi.

Lại còn nữa Vua lớn ! Duyên đời trước của Thái Tử Tất Đạt. Đang nhận Nghiệp báo như thế. Vua lớn ! Ngày nay nên nhớ tới trước kia Tiên A Tư Đà dự tính nhớ truyền cho. Báo cáo Vua lớn nói rằng : Cậu bé đó không thể hạn chế do quả báo của Trời Người. Gồm cả ngôi vị Vua Thánh Chuyển Luân. Mà thời kỳ chờ đợi. Sai khiến giúp cho tham yêu tạm theo hướng ở đời. Vua lớn ! Ngày nay nếu quyết định muốn gọi con lớn trở lại. Chỉ ra lệnh cho chúng Thần hai người vâng lệnh ra đi. Đang tùy theo mệnh lệnh của Vua cuối cùng không dám trái lại.

Thời Vua Tịnh Phạn liền trả lời nói rằng : Các Ngài hai người nếu biết thời. Có thể nhanh tới bên cạnh Thái Tử. Nếu không như thế. Ta nay thân mệnh không có yên lành. Bị các khổ não ràng buộc bức bách. Lúc đó đại thần gồm cả Quốc sư các Bà La Môn. Nghe sắc lệnh như thế của Vua Tịnh Phạn xong. Tức thời cùng xuất phát tới nơi ở của Thái Tử. Mà đọc bài kệ nói rằng :

Thái Tử cần nhận Nghiệp như thế. Vua cần nhớ Tư Đà trước nói.

Nhớ không tham Trời Chuyển Luân đó. Thuận vui năm Tham vui Nhân gian.

Thời các đại thần đó cùng Quốc sư đọc lời nói đó xong. Cùng nhau đều ra đi.

Ngựa Kiền Trắc đó đã nghe khắp nơi với lời trách mắng khổ đau như trên. Ý rất lo buồn sinh nhiệt não lớn. Do vì nhiệt não không tạm thời vui. Tâm đã không vui tức thời liền bỏ mệnh. Sau khi bỏ mệnh. Đúng thời sinh lên Trời Đao Lợi. Đã sinh lên trên Trời đó. Sau khi biết Như Lai đã được thành Đạo. Tức thời vứt bỏ từ Trời đó, tới sinh xuống trung tâm nước Thiên Trúc ở thành Na Ba. Thành này có một họ Bà La Môn. Thực hành đầy đủ sáu Pháp. Tức thời vì gia đình đó mà làm con cháu. Thậm chí dần dần tới rất gần bên cạnh Như Lai.

Như Lai biết người đó thời trước kia làm ở thân ngựa, hết mệnh sinh lên Trời. Thời Phật liền nói Nhân duyên của ngựa đó. Đã nghe Pháp xong Giải thoát hết Phiền não. Liền nhập vào Trí Tuệ Niết Bàn.

 

Thứ hai mươi bốn Phẩm Quan sát các Đạo khác

Khi đó Thái Tử tự tay cầm dao. Cắt búi tóc đầu cắt bỏ râu tóc. Thân mặc áo Già Sa. Tức thời vô lượng trăm nghìn các Trời sinh vui mừng lớn. Tràn khắp thân thể họ không thể tự hơn được. Do tâm vui mừng cùng phát ra tiếng gọi. Ca hát lớn huýt gió lớn, ngắm nhìn quần áo. Miệng kêu to nói rằng : Thái Tử Tất Đạt nay đã Xuất gia. Thái Tử Tất Đạt nay đã Xuất gia. Ngài nhất định sắp được Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Được rồi tất cả Pháp sinh chúng sinh. Đang được Giải thoát với Pháp sinh đó. Thậm chí cần nhận các loại chúng sinh rời bỏ khổ não. Đều được Giải thoát khỏi ràng buộc liên quan này.

Khi đó nơi cắt tóc của Bồ Tát. Sau đó xây dựng Tháp, tên là Tháp cắt tóc. Nơi Thân của Bồ Tát mặc áo Già Sa. Về sau xây dựng Tháp, tên là Tháp nhận áo Già Sa. Nơi Xa Nặc Kiền Trắc từ biệt quay trở lại hướng về cung điện. Về sau xây dựng Tháp, tên là Tháp Xa Nặc, Kiền Trắc từ biệt trở lại.

Bồ Tát đi trên đường, đi bộ xem xét tỉ mỉ. Có người thăm hỏi im lặng không trả lời. Những người dân đó cùng bảo nhau nói rằng : Người Tiên này nhất định là người họ Thích. Nhân do điều này được tên là Thích Ca Mâu Ni.

Khi đó Bồ Tát tự tâm phát sinh suy nghĩ như thế. Ta nay đã vứt bỏ xong với ngôi vị Vua. Tự vứt bỏ quyến thuộc phạm vi Nước thành. Không đáng sinh hối hận. Việc này thành công rồi, là Pháp diệt mất hình tướng. Nghĩ nhớ như thế xong, tâm chuyển thành dũng mãnh. Lúc đó Bồ Tát từ thôn A Ni Di Ca đó. Dần dần muốn hướng về ở giữa Tì Da Ly. Đường đi có nơi ở của một người Tiên. Người Tiên cũ đó được tên là Bạt Già Bà (tiếng Tùy nói là Ngõa Sư). Bồ Tát đi vào nơi ở của người Tiên đó.

Thời Quang sáng chói lọi chiếu sáng rừng núi đó. Bồ Tát đã vứt bỏ các dụng cụ chuỗi ngọc. Gồm cả vứt bỏ tất cả áo Trời. Trực tiếp là uy của thân do còn phát ra Quang sáng. Sáng chói mắt các người Tiên của rừng núi đó. Mà có đọc bài kệ.

Hạnh Sư Tử Vua voi Bồ Tát. Vứt bỏ áo đẹp và chuỗi ngọc.

Mặc ngay áo Pháp thô Già Sa. Thân còn uy sáng các Tiên đó.

Thời bên trong rừng đó tất cả Tiên giữ hạnh Bà La Môn. Đi dừng lại nằm ngồi. Hoặc tay cầm giữ. Tùy theo uy nghi dừng ở. Tất cả họ hướng về phía trước mặt Bồ Tát. Sinh ra tâm cung kính. Yêu thích tôn trọng. Hoặc lại sinh nghi chiêm ngưỡng Bồ Tát. Đương nhiên bên trong rừng đó có các Tiên Bà La Môn kì cựu. Hoặc lấy hoa quả cây thuốc thân cỏ. Người khác này đi chưa tụ tập. Họ đều chưa thấy tâm không sinh nghi. Chỉ vì từ xa nghe tiếng của Bồ Tát. Đã nghe tiếng xong. Tâm sợ hãi nhanh trở lại trong rừng nơi ở cũ. Việc cần làm càng không trở lại làm. Cần cầm lấy cũng lại không cầm lấy. Hoa quả khác và rễ cây của cỏ cây thuốc đó. Nếu đã cầm lấy cũng đều vứt bỏ. Chỉ vì tâm nhanh muốn tới phía trước Bồ Tát.

Thời bên trong rừng đó tất cả các chim. Gọi là cò trắng Thiên nga, vịt Trời chim vẹt chim gáy, uyên ương mệnh mệnh, chim sẻ cùng với Ca lăng già, Câu sí la cùng với tất cả các chim. Các loại chim đó thấy Bồ Tát đi vào trong rừng xong. Từng loại tự phát ra âm thanh hòa nhã. Làm ra âm thanh vi diệu. Lại còn ở trong rừng đó tất cả trùng thú. Tất cả bọn chúng đều vứt bỏ cỏ nước. Không ăn không uống. Vui mừng tới hướng về ở phía trước Bồ Tát. Lúc đó rừng kia các Bà La Môn. Do vì tế lễ nuôi các trâu cái. Cầm lấy sữa nước. Các con trâu cái đó tuy lại vắt xong mà sữa nước của nó. Do còn như ban đầu. Tự nhiên chảy xuống.

Thời tất cả các Bà La Môn đó. Từng người cùng nhau nói rằng : Từng nghe có tám Trời Bà Sa Sa. Người này không phải là một người ở trong số đó. Hoặc lại có nói rằng : Các Trời Lâu Tú. Đây là một người đó. Cớ là sao ? Từ trước tới nay. Vào trong rừng này rừng này phát ánh sáng. Đều cùng sáng rõ. Như mặt Trời mới mọc chiếu sáng ở Thế gian. Mà đọc bài kệ nói rằng :

Hoặc tám Bà Sa đây là một. Hoặc một Trời trong hai sao Lâu.

Nếu không rừng nay sao có quang. Ví như Trời mới chiếu Thế gian.

Khi đó các Bà La Môn kia. Tu luyện Pháp Tiên sống ở rừng đó. Tùy theo rừng có được đồ cúng dưỡng. Đem các loại đồ cúng dưỡng như thế. Thỉnh cầu với Bồ Tát. Từng người nhất tâm như nhau đỉnh lễ chân. Cùng nhau báo cáo nói rằng : Người Thánh thiện tới ! Chúng con các Tiên muốn thỉnh cầu người Thánh dừng ở nơi này. Tất cả hoa quả rừng cây cây thuốc, rễ cây lá khe suối giếng nước lạnh của nơi này. Tùy theo thời gian kham chịu nhận lấy sử dụng đầy đủ. Đây là nơi ở sinh sống của Tiên cổ xưa. Muốn cầu Giải thoát. Dễ được yên tâm. Nơi này trống vắng vẻ đi lại Tĩnh lặng.

Khi đó Bồ Tát dùng lời nói tốt đẹp. Từ ngữ câu cú âm phân biệt đẹp hay đáng quan tâm. Âm thanh rầm rì thâm sâu giống như sấm trống. Tùy theo được kham nhận thăm hỏi cùng chú nguyện. Lúc đó trong số các Tiên có một Tiên Bà La Môn. Pháp Hạnh khổ hay khéo sống ở trong rừng. Thấy uy nghi dung mạo tốt của Bồ Tát xong. Đặc biệt lại bảo một Bà La Môn nói rằng : Người hiền biết không ? Cậu bé Trời này nhận thức thấu suốt tâm người. Phương tiện giảng giải hay. Cớ là sao ? Thường người Thế gian họ cùng nhau nói rằng : Ta sinh ra các con. Cần phải nuôi dưỡng. Các con trưởng thành nếu có thể vì Ta. Tính kế lập gia đình hưng vượng. Buôn bán kiếm tiền. Tạo dựng sinh sống. Ta ở vào thời đó cầu Đạo cầu Trí tuệ. Nếu gánh vác nợ nần khác. Đều đền lại cho rõ ràng. Suy nghĩ như thế vì các ân ái. Nuôi dưỡng các con. Đây chắc là không như thế. Vì người khác cầu Đạo. Không tính kế tự chết. Không cầu lợi bản thân.

Thời trong số chúng đó lại còn đặc biệt có một Bà La Môn. Bảo với Bà La Môn trước đó nói rằng : Người hiền ! Người hiền ! Như thế, đúng như thế ! Như lời nói của Ngài. Người Thế gian không tự hiểu biết. Không tự phân biệt rõ. Thường không biết đủ. Chỉ nói rằng : Ta nay cần làm phân biệt như thế. Ngày mai lại cần làm phân biệt như thế. Khi Ta thực hành Pháp do còn chưa tới. Như thế tất cả các người của Thế gian. Do vì mê hoặc đã không phân biệt ở đời này tự lợi mình. Như thế đời Tương lai cũng lại không được thành công các lợi.

Khi đó Bồ Tát từ Trời Đâu Suất lúc tới hạ xuống. Nhập vào thai họ Thích muốn nhận ngày sinh. Thời đó đầu tiên ở nơi sinh sống trong rừng của người Tiên Bạt Già Bà đó. Tự nhiên sinh ra hai cây màu vàng. Thời hai cây đó cao vót to lớn. Mà hai cây đó đang ở trong đêm Bồ Tát Xuất gia. Đột nhiên chìm trong đất cùng lúc không hiện ra. Người Tiên Bạt Già Bà này. Thấy hai cây đó cùng trong đêm đã chìm xuống mà không xuất hiện. Tâm rất lo buồn ấm ức cúi đầu. Suy nghĩ nhớ nói rằng : Nhất định Ta tới thời suy được tướng mạo đem tới. Hoặc lại còn có cảnh tướng ác tới chăng.

Bồ Tát thấy người Tiên Bạt Già Bà đó lo buồn cúi đầu ấm ức như thế. Tâm không vui vẻ, dần dần đi tới bên cạnh người đó. Mà báo cáo người Tiên nói rằng : Tôn Giả ! Cớ sao nhan sắc lo buồn cúi đầu mà ngồi.

Thời người Tiên đó trả lời Bồ Tát nói rằng : Cậu bé thiện trên Trời ! Nơi ở của Ta đây từ trước tới nay.

Có hai cây vàng. Từ đất sinh ra, cây đó cao vót. Trang nghiêm đẹp đáng quan sát. Ta thấy cây đó. Nay đột nhiên không hiện ra. Do vì nó chìm xuống. Ta nay lo buồn. Tâm ý không vui cúi đầu như thế. Suy nghĩ ngồi đây vậy.

Bồ Tát tức thời hỏi người Tiên đó nói rằng : Tôn Giả ! Hai cây đó sinh ra bao lâu ? Người Tiên trả lời nói rằng : Tới nay đã tới hai mươi chín năm. Bồ Tát lại còn hỏi. Cây đó diệt mất tới nay bao lâu ? Người Tiên đó trả lời nói rằng : Lúc nửa đêm hôm qua, bắt đầu chìm xuống không hiện ra.

Bồ Tát tức thời bảo với người Tiên đó nói rằng : Hai cây đó sinh ra do quả báo lực Phúc của Ta. Nếu Ta sắp làm Vua Thánh Chuyển Luân. Ta với nơi này làm ra được một vườn rừng đất thiện. Ta nay đã rời bỏ nó đi Xuất gia. Do vì nghĩa như thế cây đó đêm qua chìm mất mà không hiện ra. Do Nhân duyên đó. Tôn Giả ! Đừng trở lại tự sinh ra lo buồn.

Khi đó Bồ Tát được tất cả các Tiên kia vây quanh hai bên phải trái. Đi tới nơi sinh sống của họ ở phía trước. Tùy ý đi lại. Xem xét các loại ngồi đứng dậy, yên Thiền Hạnh khổ Tinh tiến nơi cầu Đạo. Thời bên trong rừng đó có một người Tiên. Thường tu Hạnh khổ. Chạy theo ở phía sau Bồ Tát mà đi.

Khi đó Bồ Tát đi vào trong rừng kia. Đã đi tới nơi ngồi ở của người Tiên. Đông Tây Nam Bắc xem xét bên trong đó. Đi dừng ngồi nằm nơi ở Hạnh khổ. Vì muốn cầu các nơi tốt đẹp nhất đó. Hỏi về các người Tiên đó nói rằng : Ta nay bắt đầu vào cầu Đạo chưa lâu. Vì thế Ta muốn xin hỏi các Tiên. Chỉ  nguyện như Pháp vì Ta giảng giải Hạnh Pháp này của Ngài. Ta từng chưa biết. Các Ngài hiện ra bảo rõ. Vì Ta đọc nói. Ta được nghe xong như Pháp thực hành. Nơi này cầu lợi thực hành chân thực. Như với tất cả Hạnh khổ của các Ngài. Ta cũng dựa vào thực hành.

Các Tiên đó trả lời Bồ Tát nói rằng : Ngài hỏi tất cả Hạnh khổ cùng với cầu Đạo Pháp của chúng con. Chúng con vì Ngài lần lượt giải thích. Nếu thực hành Hạnh khổ. Bên trong chúng này. Hoặc định ăn rau. Hoặc định ăn mầm cỏ tranh. Hoặc ăn cành cây Ni câu đà. Hoặc ăn cành cây Đầu câu la. Hoặc ăn cành cây Ca ni ca la. Hoặc lại dừng ăn cành một cây. Hoặc ăn phân bò. Hoặc ăn quả rễ mầm của Ma chỉ tạp. Hoặc ăn các loại cành mềm của cây. Hoặc lại uống nước mà dùng để sống. Hoặc như bọ hung mà tự sống. Hoặc lại sẽ như con chương hươu ăn cỏ mà để sống. Hoặc định đứng trên đất mà dùng tâm tương xứng. Hoặc sẽ ngồi trên đất mà xứng với tiêu trừ thích hợp. Hoặc ăn bốn khẩu ăn mà sống. Hoặc lại sẽ giữ sợi đay làm áo. Hoặc lông của dê đen mà làm áo. Hoặc cỏ làm áo. Hoặc lấy tơ tằm hoang dã làm áo. Hoặc cỏ râu rồng dùng làm áo. Hoặc dùng cỏ sa giữ làm áo. Hoặc làm da hươu. Hoặc dùng da cũ hỏng làm áo. Hoặc tóc rối làm. Hoặc lông khác làm.

Hoặc lấy cờ hiệu của người chết làm áo. Hoặc áo bỏ đi. Hoặc lại cởi trần ngồi trên cây gai. Hoặc nằm trên miếng gỗ. Hoặc nằm trên gốc cây. Hoặc lại dừng ở trong rừng Thi Đà. Hoặc nằm trên cái chày. Hoặc dừng lại trên tổ kiến giống như nơi ở của rắn. Hoặc lại xuống nước. Hoặc lại việc lửa. Hoặc đuổi theo di chuyển của mặt Trời. Hoặc nâng hai tay dừng đứng yên ổn. Hoặc ngồi xổm trên đất. Hoặc không rửa chải thân dính bụi đất. Hoặc lại tết tóc liên miên. Hoặc vuốt tóc đầu. Hoặc vuốt ria mép. Nhóm chúng con như thế. Dùng hạnh như thế. Tự dừng giữ bản thân. Tiếp theo hoặc khi quan sát. Suy nghĩ mà đi. Hoặc lại nguyện muốn sinh lên Trời. Hoặc lại định muốn cầu sinh ở Nhân gian. Do vì Hạnh khổ sau đó thân này. Bắt đầu được yên vui. Sở dĩ thế nào ? Cầu Pháp rất khó chủ yếu tu Hạnh khổ. Dùng làm căn bản. Mà đọc bài kệ nói rằng :

Khi tu luyện Hạnh khổ như thế. Tự có báo ứng Trời Đao Lợi.

Sau Hạnh khổ Tinh tiến được vui. Vì thế khổ là Nhân của vui.

Khi đó Bồ Tát tuy nghe Hạnh khổ như thế của các Tiên. Mà mắt chưa thấy nơi tột cùng của Pháp đó.

Tâm không vui mừng mà hiểu lời nói này chưa là tốt chân thực. Trở lại giọng thư thả trả lời người Tiên đó nói rằng : Ta nay xem xét Pháp của Ngài. Tuy có khổ như thế cần diệt mất mà sau được quả báo. Lại không đâu bỏ đi. Chỉ có sắp sinh lên Trời. Lại còn tất cả các cung điện Trời này. Toàn bộ quả báo. Là Pháp Biến đổi. Vì do hạnh như trên quả báo chút ít. Hạnh khổ như thế. Đã phải vứt bỏ yêu quý thân tộc. Lại bỏ đi tất cả các hạnh vui của Thế gian. Với Hạnh khổ rời xa các vui. Do vì cầu vui, lại còn nhập vào trong lao ngục lớn. Mà đọc bài kệ nói rằng :

Ngài bỏ thân yêu, vui ở đời. Làm với Hạnh khổ muốn lên Trời.

Tuy lại cho rằng bay khỏi này. Không hiểu Tương về vào ngục.

Khi đó Bồ Tát đọc bài kệ này xong. Lại làm lời nói như thế. Nếu đang có người, bị thân bức bách khổ.

Mong cầu nơi tốt muốn sinh lên Trời. Do vì nhận năm Tham muốn vui trên Trời. Không biết chán ghét ly rời. Ở đời Tương lai không miễn khỏi tai họa của Phiền não. Các người Tiên đó do vì Hạnh khổ. Trở lại cầu khổ lớn. Các chúng sinh đó khi bỏ mệnh. Vì thấy sợ hãi lớn cầu đời sau sinh tốt đẹp.

Do vì cầu sinh, trở lại không rời bỏ với Biến đổi đó. Sở dĩ thế nào ? Ở Thế gian ra sao ? Có các hoảng sợ lại trở lại nhiễm nương nhờ nơi đó. Bởi vì ở đời này. Vì khổ đau bức bách cầu muốn sinh lên Trời. Vì nhận lấy vui sướng. Hi vọng khao khát. Nguyện cầu sinh ở đó. Làm được chưa đầy đủ. Trở lại đọa xuống ở nơi không có lợi ích. Mà cũng không cầu chán ghét ly rời Hạnh khổ. Cũng không cầu Pháp ly rời thân khổ. Muốn tìm nơi tốt đẹp vượt hơn vui sướng ở trên Trời. Nếu có người Trí, ly rời năm Tham muốn này. Dần dần nên tìm nơi tốt đẹp hơn. Như chân bước về phía trước do chứng nơi tốt đẹp. Càng nên cầu vượt qua nơi tốt đẹp đó. Nếu thân khổ này do được Pháp. Pháp của thân khổ này, tên nó là Pháp sai. Nếu thân khổ cho nên được vui trên Trời. Đó là nguyên nhân thực hành Pháp được với Pháp sai. Chỉ cần thân này động do tâm cho nên làm. Vì thế cần phải trước tiên điều khiển nơi tâm. Đừng làm khổ thân này. Mà đọc kệ nói rằng :

Khi thân này động do tâm chuyển. Trước cần chỉnh tâm dừng thân khổ.

Thân như gỗ đá không đâu biết. Cớ sao theo tâm mà thân khổ.

Khi đó Bồ Tát lại làm lời nói như thế. Như được nói ở phần trên nhân do với việc cắt bỏ ăn. Đang được Phúc. Các thú hoang dã này cần được Phúc lớn. Lại còn người nghèo do Nghiệp báo trước kia của họ nhỏ cạn. Vì trồng không sâu, tài sản ít thiếu. Giống như người không có công Đức của Thế gian. Thường tìm nước công Đức của tất cả các Thần đất trên đất. Dùng tắm rửa thân hi vọng được như tâm mong nguyện. Việc này không như thế.

Khi đó các Thầy tu các Hạnh khổ kia báo cáo Bồ Tát nói rằng : Người Trí tuệ hiền sáng. Người hiền ở nơi này. Thấy các hoạn nạn gì ? Bồ Tát trả lời Thầy Hạnh khổ đó nói rằng : Ngài nay thực hành việc của Hạnh khổ này. Ngày sau tới trở lại nhập vào nơi Có này. Thầy Hạnh khổ này lại còn tỉ mỉ cùng hỏi Bồ Tát nói rằng : Nơi này của Con có hạnh Pháp như thế.

Bồ Tát trả lời nói rằng : Vì sao biết được như Hạnh khổ này. Trở lại nhập vào nơi Có. Hạnh này của các Ngài không phải là cuối cùng, nhập vào nơi không sợ sai.

Thời Thầy Hạnh khổ lại còn báo cáo với Bồ Tát nói rằng : Người hiền Đức lớn ! Chỉ nguyện người hiền đừng làm lời nói như thế. Con nay nơi này làm được con đường đi. Nơi không sợ đó có công Đức lớn. Nếu người dựa vào đi con đường này. Vứt bỏ thân hình ác này được thân tốt đẹp hơn. Bồ Tát trả lời nói rằng : Tuy vứt bỏ thân hình ác này sau được thân tốt đẹp. Mà thực chưa được Pháp ly rời Có. Do nay thân khổ được thân đời sau. Như thế thân đời sau đó cũng chưa ly rời khổ. Sở dĩ thế nào ? Tuy lại thực hành với nhiều loại Hạnh khổ. Hi vọng muốn cầu vui sướng mà không ly rời khổ.

Thầy Hạnh khổ này lại còn cầm lấy lý. Báo cáo Bồ Tát nói rằng : Người hiền ! Không như thế. Không do Hạnh khổ, sau trở lại được khổ. Vì chỉ do chúng ta thân này khổ. Đời sau quyết định được với vui sướng. Bồ Tát lại trả lời như lời nói này. Cũng là không có Trí tuệ. Cớ là sao ? Ví như có người muốn cầu được lợi. Không biết bên trong nó mà có mất lớn. Do vì biết mất. Người muốn cầu lợi. Đây là người Trí tuệ sai.

Khi đó có một Bà La Môn kia ở trong Chúng. Cao giọng kêu lên nói rằng : Hiếm có, hiếm có ! Con trai Vua này là người Trí tuệ chân thực. Ví như có người được ăn uống ngon. Mà hòa lẫn các loại độc.

Ai vui sướng muốn ăn. Như thế sau việc này tuy được vui sướng. Mà chưa ly rời bỏ với Pháp Có làm, sinh già bệnh chết. Đây không phải là trở lại cầu sinh đời sau sao.

Khi đó Bồ Tát lại làm lời nói như thế. Thế gian khổ khổ, ghét Quỷ mệnh chết. Lại cầu Sinh đời sau. Đây là rất ngu si.

Thầy tu Hạnh khổ nói rằng : Thiện thay Con trai Vua ! Người Hiền cẩn thận đừng quan sát sâu tỉ mỉ hạnh này. Hạnh này Quá khứ rất nhiều người Đức lớn. Cùng nhau thực hành hạnh này. Nơi ở này xa xưa vô lượng các bậc Vua Tiên. Trăm nghìn vạn trăm triệu thực hành Hạnh khổ này. Mà cùng nhau cầu vui sướng ở đời sau.

Bồ Tát lại nói rằng : Như Ngài nay nói nghìn vạn năm. Hiếm có ! Rất ngu si ! Chao ôi lời nói ngông cuồng. Đức lớn của nơi này do vì Hạnh khổ. Phân biệt cảnh giới cầu vui sướng ở đời sau. Ở đời Tương lai. Nhận lấy Có Sinh Chết. Chưa từng biết đủ ở trong Phiền não. Không làm, làm được trăn trở trong đó. Do vì cầu được vui sướng của Thế gian này. Trái lại đa phần được khổ.

Thời Thầy tu Hạnh khổ lại làm lời nói như thế. Người hiền Con trai Vua. Đây là chủ của cảnh giới. Thành Mị Di La Vua này muốn làm hội Bố thí. Giết hại chúng sinh tế lễ các Trời. Số này không ít cầu nhận vui sướng về sau.

Bồ Tát lại nói rằng : Thường do sát hại mà được Pháp. Đáng tên là Đức Hạnh sao !

Thầy tu Hạnh khổ này lại báo các nói rằng : Con cùng nhau vâng theo tới. Pháp sử dụng như thế tế lễ các Trời.

Bồ Tát trả lời nói rằng : Vì sao có khổ khác cũng tên là Pháp. Có Thân bụi bẩn. Trở lại đem bụi lau chùi. Có thể được Thanh tịnh chăng ! Có máu bôi lên thân, trở lại dùng máu tẩy rửa. Có thể được Thanh tịnh chăng. Có thực hành Pháp sai đang được với Pháp. Không có nơi đó.

Thầy tu Hạnh khổ nói rằng : Thực có nơi đó. Bồ Tát lại nói rằng : Có Nhân duyên ra sao ? Thầy tu Hạnh khổ nói rằng : Dựa vào luận Vi Đà. Được Tiên trước kia nói.

Bồ Tát lại nói rằng : Đây là nghĩa gì ?

Thầy tu Hạnh khổ nói rằng : Nếu có những người tế lễ các Trời. Tên đó là Pháp.

Bồ Tát lại nói rằng : Ta vừa hỏi Ngài Pháp gần Thế gian. Nếu người giết dê. Tế lễ Trời xong. Được Pháp như thế. Cớ sao không sát hại thân tộc yêu quý mà tế lễ các Trời ? Bởi vì Ta biết giết hại dê tế lễ. Không có công Đức. Ngài thực hành Pháp tạp loạn ý muốn như thế.

Khi đó Bồ Tát từ xa thấy tới nơi ngồi này không xa. Có một cây rậm rạp. Như rừng Thi Đà. Bồ Tát thấy rồi. Bảo các Thầy tu Hạnh khổ đó nói rằng : Tôn Giả chỉ vì nhìn ở nơi đất đó. Tên là Hạnh khổ gì ? Mà dưới rừng đó hoặc có xác chết. Bị các chim ăn. Hoặc có xác chết xương trắng mà tụ lại. Ngày nay hiện ra thấy. Hoặc có xác chết. Do lửa thiêu cháy thành một đống xương. Hoặc có xác chết treo buộc trên cây. Hoặc có xác chết bị quyến thuộc của họ sát hại. Trang nghiêm nơi ngồi này. Dựa theo Pháp mà an táng. Sau sinh hổ thẹn xấu hổ. Hoặc có xác chết quyến thuộc vây quanh. Cùng nhau đưa tiễn đưa hướng về trong rừng Thi Đà. Ổn định ở trong đất xong quay trở lại nơi ở.

Thầy tu Hạnh khổ đó lại còn nói rằng : Người Hiền Con trai Vua ! Như vậy nơi đây rừng Thi Đà đó. Bốn nhóm cùng như nhau, không có kén chọn. Bình đẳng Bố thí thân. Đất Phúc Đức tên là hoang dã. Địa phương nơi này. Người Bố thí thân. Không sử dụng lực khổ. Nhanh sinh lên Trời. Cầu được nơi tốt đẹp. Nhanh được nhận vui sướng. Hoặc có người Hiền. Thân rơi xuống vách núi. Hoặc thiêu hoặc ban cho. Mà sinh trên Trời.

Bồ Tát lại nói rằng : Nếu đang như thế. Người tu hành Hạnh. Sau cầu phú quý. Chao ôi rất ngu si. Chao ôi Biến đổi ! Mà cầu đời sau có nhiều oán thù. Cầu về sau phú quý. Chao ôi khổ lớn. Trở lại cầu khổ lớn. Các loại ngu si đó người không có Trí tuệ. Bước vào đống lửa lớn nhập vào miệng rắn lớn. Lưỡi tài hùng biện như thế của Bồ Tát. Hướng về các người Tiên. Nói lời Giải thoát. Làm lời nói vi diệu. Khi nói như thế. Mặt Trời sắp hướng tới lặn xuống.

Lúc đó Bồ Tát trở lại nơi ở của người Tiên kia. Một đêm dừng lại qua đêm. Ngày hôm sau Trời sáng.

Đi thêm tới nơi khác. Các bậc Tiên đó đi theo sau Bồ Tát. Lần lượt mà đi.

Khi đó Bồ Tát đã đi qua chút ít thời gian. Thấy các Tiên đó theo sau mà đi. Bồ Tát thấy rồi. Tức thời liền dựa vào dưới một cây mà ngồi. Các bậc Tiên đó vây quanh Bồ Tát. Hoặc ngồi hoặc đứng.

Lúc đó trong các chúng Tiên kia. Người Tiên già nhất hướng về phía Bồ Tát. Tâm sinh hiếm có mà báo cáo nói rằng : Người hiền Con trai Vua ! Tự Ngài đi tới nơi ở của Con. Thời địa phương đó mà tự trang nghiêm. Người hiền ra đi rồi nơi đó như nay tức thời thành hoang dã. Do vì nghĩa đó. Chỉ nguyện người hiền. Đừng bỏ nơi ngồi của Con. Cớ là sao ? Thường người muốn được nhanh sinh lên Trời. Ở đất Phúc này mà tu hành. Không lâu tức thời sinh hướng lên trên Trời. Vì thế người hiền !

Không nên bỏ nơi ở của Thánh trước kia như thế này. Nơi thực hành Thanh tịnh mà đi nơi khác. Mà đọc bài kệ nói rằng :

Ngài tới nghiêm uy Đức rừng con. Nay đi đột nhiên thành hoang dã.

Vì thế không nên cùng quay đi. Như người yêu mệnh, không bỏ thân.

Khi đó các Tiên đọc bài kệ đó xong. Liền lại báo cáo nói rằng : Người hiền Con trai Vua ! Nay ở nơi này được không thấy với người ác thô bỉ không có ân nghĩa chăng ! Hoặc thấy rơi xuống với người thực hành tạp loạn. Hoặc thấy với người hạnh không Thanh tịnh. Nếu không như thế. Người Hiền cớ sao không vui với nơi dừng lại ở của Con. Chúng con các Tiên. Muốn đi theo người hiền tạo thành được bạn thiện. Thuận theo không ngược lại vâng theo dạy bảo thực hành đi theo. Muốn cùng người hiền cầu được nơi tốt đẹp vi diệu. Giả sử sao Mộc cùng với nơi ở của người hiền. Vẫn còn được nơi tốt đẹp. Huống chi chúng con các Tiên tu Hạnh khổ.

Khi đó Bồ Tát được người Tiên đứng hàng đầu đó. Thỉnh cầu muốn cùng nhau cầu Giải thoát. Biết ý của họ rồi. Tức thời nói thệ nguyện trước kia của tự tâm. Lại kiêm ca ngợi tất cả các Tiên tu các Hạnh khổ đó. Mà bảo nói rằng : Các Tiên người hiền ! Ngày nay đã được lời nói không có trở ngại. Mà thân lâu dài tới nay học tập thực hành như Pháp. Do bên trong tâm Thanh tịnh. Có thể ở bên cạnh người chưa từng nhận thức được. Tâm sinh ân trọng lớn nghĩ nhớ cung kính. Nay nếu muốn vứt bỏ giống như yêu mến. Lại sinh lo buồn lớn. Việc này tuy như thế. Chỉ có các người hiền cầu được Pháp. Vì sinh quả báo lên Trời. Ta cũng không như vậy. Ta nay lại muốn chí cầu Giải thoát. Ý của Ta không muốn cầm lấy Có. Nguyện quyết định như thế. Tâm Ta đã quan sát cảnh tướng như thế rồi. Thấy ở nơi ở của các Ngài. Tâm không ngưỡng mộ vui sướng. Một muốn cầu trở lại. Một muốn cầu ra đi. Đây là hai việc rất xa. Như vậy Ta cũng không phải không thích nơi này. Lại cũng không trở lại yêu ghét người khác. Cũng không phải thấy với tội cũ của người khác. Mà dừng lại nơi này, quay lưng vứt bỏ đi vậy. Như vậy các Ngài đều dừng ở Pháp. Đi theo tất cả lời nói của Tiên Thánh trước kia. Các Ngài tất cả đều cùng đã được Pháp của Tiên lớn.

Lúc đó các người Tiên kia. Thấy cầu Giải thoát của Bồ Tát cao thượng tốt đẹp. Ở nơi ở của Bồ Tát càng sinh tâm tưởng nhớ ân trọng kính mến.

Khi đó trong chúng đó có một người Tiên Phạm chí. Thường nằm trong than bụi hoặc biên chế trên cây rui của mái nhà. Thân nương nhờ xác chết. Quần áo của người bỏ đi. Mũi mắt xanh vàng. Mũi dài thân trắng. Tay cầm giữ quân. Nghe Bồ Tát nói lời như thế xong. Hướng về phía Bồ Tát vui mừng dùng ca ngợi trả lời Bồ Tát nói rằng : Lời nói của người hiền vi diệu lớn nhất. Thệ nguyện tối cao. Ngài nay mới thuận theo thời trai trẻ. Chưa nhận năm Tham muốn. Thấy các nạn cũ. Nếu không khao khát sinh lên Trời. Sao có thể biết được hậu hoạn ở trên Trời. Đã quan sát như thế mà cầu Giải thoát.

Người đó không lâu liền được Giải thoát. Nếu như người hiền có ý như thế. Quyết định muốn cầu Giải thoát đó. Ngài nay nên cần nhanh mà thực hành. Tới đây không xa. Có nơi dừng ở của một người Tiên. Tên là Nhật Xuyên Tạng. Nơi đó có một người Tiên tên là A La La. Tiên đó đã được quyết định mắt Thanh tịnh Trí tuệ đúng. Người hiền có thể tới bên cạnh người đó thăm hỏi. Cần nghe được đường đi Phương tiện chân chính. Người hiền nếu nghe Phương tiện này. Nhất định được chân chính đó. Như ý Con quan sát thấy được của người hiền. Nhất định vượt qua được điều đó. Như nay người hiền. Tâm tưởng nhớ cùng với thân, tất cả tướng mạo. Quyết định đang vượt qua các Trí tuệ Niết Bàn. Tốt hơn với các người Tiên trước kia. Người chưa từng chứng. Nay đều được chứng.

Khi đó Bồ Tát trả lời các người Tiên Phạm chí đó nói rằng : Nguyện như lời kể của người hiền có thể như vậy. Khi đó Bồ Tát bỏ qua lời khuyên cầu ân cần của người Tiên đó. Quay lưng mà ra đi. Ý muốn hướng về nơi ở của A La La. Mà có đọc bài kệ.

Con Vua Thánh của họ Thích lớn. Lời hay khéo an ủi các Tiên.

Quyết muốn tiến về bên La la. Toàn bộ các Tiên tự dừng lại.

 

Phần đầu thứ hai mươi lăm Phẩm Vua sai khiến người tới trở lại

Khi đó Quốc sư Bà La Môn lớn cùng với một đại thần. Hai người đã cùng nhau nhận sắc lệnh của Vua Tịnh Phạn bi thương kêu khóc rơi lệ. Tức thời liền chuẩn bị sửa sang xe ngựa hiền tốt mà đứng. Kính dựa thế lực uy Đức của Vua lớn. Từ nơi ở thành Ca Tì La ra ngoài. Đã ra ngoài tìm đuổi theo vết chân của Bồ Tát. Nhanh chóng mà đi. Dần dần đi tới nơi ở của người Tiên Bạt Già Bà đó.

Bạt Già Bà này từ xa thấy người sai khiến đi tới, dần sắp hướng tới gần. Tức thời đứng dậy tiến tới nghênh đón mà miệng kêu lên nói rằng : Người hiền thiện tới ! Vì sao đột nhiên hạ cố đi tới nơi này ? Nguyện tạm ngừng lại chút ít thời gian nghỉ ngơi. Tạm ngồi nghỉ ngơi trên giường cỏ này. Ta đang chuẩn bị đủ quả ngọt nước lạnh. Tùy ý ăn uống.

Thời hai người sai khiến liền nhanh đỉnh lễ chân của người Tiên Bạt Già Bà đó. Lễ xong lùi ngồi ở một bên. Ngồi yên ổn xong. Bạt Già Bà đó thăm hỏi đủ loại hai người sai khiến của Vua.

Khi đó đại thần liền nhanh dừng lại Bạt Già Bà. Nói và hỏi nói rằng : Tiên lớn Thầy tôn kính !  Chúng con nay được mệnh lệnh của Vua lớn Tịnh Phạn giòng tộc Cam Giá đó mà tới. Thân con tức là đại thần của Vua đó, chỉ tay về Quốc sư giới thiệu. Đây là Thầy tôn kính Bà La Môn lớn của Vua Nước đó.

Vua Cam Giá đó có một Thái Tử tên chữ là Tất Đạt Đa. Do vì sợ sinh già bệnh chết. Muốn cầu Giải thoát. Vứt bỏ cung điện vào trong núi. Tin đồn trên đường Ngài đã tới nơi này. Chúng con vì tìm người đó tới được nơi này. Làm lời nói như thế xong.

Tiên Bạt Già Bà tức thời liền trả lời hai người sai khiến đó nói rằng : Thực có việc này. Tuy nhiên đó là người đàn ông tốt đẹp nhất, cánh tay tốt công Đức đầy đủ. Từng đến nơi này. Tới nơi này xong. Mà hỏi về Pháp tu hành của Ta. Ta dựa vào nói thực. Người đó đã biết rồi tức thời nói là. Cái này tuy tốt đẹp ở Thế gian. Sau đó tới trở lại nhập vào trong sinh chết. Không phải là nơi Giải thoát cuối cùng.

Không thích cho nên bỏ ra đi. Muốn cầu rời ra ngoài, Giải thoát sinh chết. Ngày nay tiến hướng về nơi ở của người Tiên A La La. Mà đọc bài kệ nói rằng :

Đàn ông tay tốt đủ công Đức. Tới đây nghe Pháp Ta chưa thực.

Muốn cầu được Niết Bàn rất lớn. Bỏ Ta nay về nơi A Lam.

Khi đó hai người sai khiến đại thần Quốc sư Bà La Môn. Nghe lời nói của người Tiên Bạt Già Bà xong. Do vì tâm biết ơn lớn đối với sự ân cần kính trọng của Vua Tịnh Phạn. Không cảm thấy mệt mỏi, không có lười nhác. Không ăn quả ngọt không uống nước sữa đậu lành. Dựa vào lời nói của người Tiên Bạt Già Bà. Tức thời cùng nhau tìm hướng về nơi ở của Bồ Tát.

Họ dần dần tới nơi bên cạnh Bồ Tát. Từ xa thấy Bồ Tát ở trong rừng ở bên dưới một cây. Giường cỏ mà ngồi vứt bỏ tất cả các chuỗi ngọc quý đó. Thân thể phóng quang uy nghi sáng lạn. Mà tự trang nghiêm. Ví như ở giữa các tầng mây đột nhiên mặt Trời xuất hiện. Chiếu sáng Thiên hạ. Tràn đầy giữa các cây rừng. Thấy rồi cùng nhau từ trên xe mà bước xuống. Yên lành từ từ đi bộ hướng về bên cạnh Bồ Tát. Đến nơi rồi đỉnh lễ nơi chân của Bồ Tát. Miệng cùng nhau kêu lên nói rằng : Chỉ nguyện Đức Thánh ! Tất cả thường tốt đẹp, liền tự đứng ở phía trước. Gần bên cạnh Bồ Tát.

Khi đó Bồ Tát thăm hỏi họ. Tùy theo khả năng của họ mà kham chịu nhận. Nói lời cảm ơn và thăm hỏi xong. Bồ Tát ra lệnh cho cùng nhau tới gần mà ngồi. Hai người sai khiến ngồi xong báo cáo Bồ Tát nói rằng :

Thái Tử Trí lớn ! Vua lớn Tịnh Phạn cha của Đức Thánh. Do vì tâm yêu kính với Đức Thánh. Nhận khổ não lớn. Sở dĩ thế nào ? Đang ở trong ngày Đức Thánh ra khỏi cung. Vua lớn nghe xong. Đứng trên đất tự ngã xuống mê muội mà im lặng. Hoàn toàn không tỉnh giấc. Dùng nước vảy phun rất lâu mới tỉnh lại. Đã trở lại tâm vốn có, nước mắt chảy đầy khuôn mặt. Tưởng nhớ Đức Thánh. Tình trạng của Vua như thế. Nay sai khiến chúng thần tới bên cạnh Đức Thánh. Chỉ nguyện Đức Thánh ! Tâm đoan chính chuyên nghe lệnh đó của Vua.

Cha do biết ý chính của Con ham thích Pháp. Cha do biết Con không ở trong cung của Cha. Nhất định Xuất gia cầu Đạo Bình Đẳng. Lý đó tuy như thế. Chỉ vì nay chưa phải thời Con vào trong núi. Cha đã thấy Con chưa phải thời vào trong núi. Vì thế Cha nay lo buồn khổ độc. Toàn thân bị lửa đốt. Giống như lửa mạnh đốt thiêu rừng lớn. Con nay tạm có thể cắt bỏ ý. Trở lại đi vào cung của Cha. Tạm thời vứt bỏ tâm yêu Pháp của Con. Nhận lấy yêu thương trân trọng của Cha nếu như thế. Đó là hạnh Pháp của Con. Nếu Con không trở lại tới dưới con mắt của Cha. Nay Cha nhận khổ như thế tăng thêm. Ví như sông lớn giòng nước chảy xa dài. Với một khoảnh khắc hai bờ đổ sụt. Nước đó liền lấp đầy đột nhiên cắt đứt. Lại như gió mạnh thổi đám mây lớn. Ví như nóng ban ngày lửa đốt cháy cỏ khô. Ví như tháng khô hạn các giếng nước khô cạn. Ví như mưa đá bẻ gãy lúa non mùa xuân sinh lớn. Con trai tốt ! Cha nay tâm cũng như thế.

Do vì tưởng nhớ yêu thương Con. Tâm rất Phiền não đốt cháy phá tan. Vì thế Con tạm trở lại hướng về cung. Hưởng thụ ngôi vị Vua cai quản cảm hóa Thiên hạ. Về sau nếu thấy có việc thiện ác. Tâm của Con đang chịu đựng đi vào núi cầu Pháp.

Kinh Tập hợp Việc làm Trước kia của Phật, quyển thứ hai mươi.