Kinh Tập hợp Việc làm Trước kia của Phật
(Phật Bản Hạnh Tập Kinh)
Hán dịch: Tùy Thiên Trúc Tam Tạng Xà Na Quật Đa
Việt dịch: Phật Tử Bùi Đức Huề dịch năm 2012- 2014

 

QUYỂN THỨ HAI MƯƠI HAI

Phần cuối Phẩm Hỏi A La La

Khi đó người Tiên Tôn Giả A La La hay biết Bồ Tát có tâm có Đức lớn. Đã kể thêm luận quyết định đều Bố thí mà đọc bài kệ nói rằng :

Sa Môn Cồ Đàm lắng nghe Tuệ. Trong luận của Con nói đều Cho.

Như nay tuy ở trong Phiền não. Nếu sau tự nhiên về Giải thoát.

Khi đó A La La đọc bài kệ kia xong. Làm lời nói như thế. Bình thường chúng sinh có hai nghĩa này. Một là Tính gốc. Hai là Biến hóa. Hòa hợp hai loại này. Tổng thể tên là chúng sinh. Nói tính gốc. Tức là năm Lớn. Năm lớn đó gọi là Nước đất lửa gió rỗng Lớn. Bản thân cùng với Không có hình tướng. Tên là Tính hình thể gốc. Nói Biến hóa. Cảnh giới của các Căn. Tay chân lời nói. Động chuyển đi đến.

Cùng với biết của tâm. Tên này là Biến hóa. Nếu biết các cảnh giới như thế. Tên là biết cảnh giới. Nói có thể biết các cảnh giới đó. Ta có thể biết. Suy nghĩ về bản thân. Người Trí đó nói. Mà đọc bài kệ nói rằng :

Nếu có thể biết các Căn Trần. Tên đó là hay biết cảnh giới kia.

Nói biết tất cả các cảnh giới. Người Trí tuệ nói biết suy nghĩ.

Khi đó A La La làm lời nói như thế. Suy nghĩ về bản thân. Người này tức là Tiên Ca Tì La. Cùng với Đệ Tử của ông vì tự đo lường ý cảnh giới này. Con của người Tiên Ba Xà Ba Đề. Tên là Thấy được ý sâu cũng như thế. Như người thường Sinh già bệnh chết. Nhận các khổ đau đã biết tỉ mỉ sâu. Vì người khác giải thích. Nhớ rời xa này. Suy nghĩ Lý này. Cần phải biết rõ tất cả Không có hình tướng. Mà lại nói rằng : Do Phiền não gọi là không có Trí tuệ. Yêu thích nương nhờ các Nghiệp. Như thế cùng với Nghiệp. Nguyên nhân của Phiền não vừa gặp. Nguyên nhân của Phiền não này. Chắc có bốn loại. Người này không thể Giải thoát Sinh chết. Do vì họ chưa ly rời các Phiền não. Bốn loại ra sao ? Một là không tin. Hai là nương nhờ bản thân. Ba là có nghi hoặc. Bốn là không yên định.

Do còn sót lại Có khác. Nếu không có Phương tiện. Nương nhờ Thế gian sâu. Thường đọa xuống lâu dài. Do vì như thế. Nhận sinh khắp nơi. Nói người không tin. Thường làm đảo lộn. Cần biết như thế mà không biết ngược lại. Tên đó là không tin. Nói người nương nhờ bản thân. Nói đây là Ta. Nói đó không phải là Ta. Ta nói như thế. Ta nhận lấy như thế. Ta đi Ta dừng ở. Hình tướng của Ta, thân của Ta. Ta tên như thế. Không tự hiểu biết. Tên đó là Nương nhờ bản thân. Nói có nghi hoặc. Đây là do không nghi hoặc tất cả. Dừng lại là một vật. Giống như vũng bùn. Đó tên là nghi hoặc. Nói không yên định. Như thế, đúng như thế ! Đúng như thế cũng như thế. Không phải như thế cũng như thế. Tâm ý tưởng nhớ hiểu tất cả các Nghiệp. Là chúng là Ta. Là đó là đây. Tên đó là không yên định. Lại còn sót lại khác. Chưa biết nơi tốt. Chưa biết bắt đầu biết. Chưa chứng nghiệm tính bản thân. Do bắt đầu chứng biết. Tên đó là còn sót lại khác. Lại còn nói rằng :

Người không có Phương tiện. Tức là không có Trí tuệ. Do vì không có Trí tuệ. Không hiểu Phương tiện. Vì không có Phương tiện. Không thể tỏ ra rõ. Do vì nghĩa đó. Tên là không có Phương tiện. Lại nhiễm nương nhờ. Gọi là người không có Trí tuệ. Nghe thấy biết xúc cảm. Tức thời sinh nhiễm nương nhờ. Hoặc thời nương nhờ ý, nương nhờ bản thân, nương nhờ lời nói. Hoặc nương nhờ tất cả cảnh giới của Nghiệp ý. Nên không nương nhờ nơi ở mà nương nhờ nghi hoặc. Tên đó là nương nhờ. Lại rơi lạc xuống, Ta là nơi đó. Nơi đó là Ta. Nếu có suy nghĩ nhớ như thế. Tên đó là rơi lạc xuống. Do Nhân duyên đó rơi vào Phiền não. Tên đó là không có Đức. Tên đó là không có Trí tuệ. Tên đó là năm nơi. Khổ não không vui sướng. Đây là nơi không vui.

Gọi là ngu si đen tối ngu si lớn. Có hai lẫn lộn dừng ở. Tên đó là năm nơi. Nói là đen tối. Gọi là lười nhác. Nói là ngu si. Gọi là Sinh chết. Nói là ngu si lớn. Gọi là thực hành tham muốn. Sở dĩ thế nào ? Giả sử nơi đây có người Đức lớn. Do còn mê hoặc. Không biết tỉnh ngộ. Cho nên tên là ngu si lớn. Hai lẫn lộn dừng ở. Gọi là thù hận giận. Lại hai lẫn lộn dừng ở. Gọi là lười nhác. Chúng sinh Ngu tối. Tu không như thế. Mê muội chìm đắm nhiễm nương nhờ ở năm nơi này. Ở trong biển khổ Phiền não. Thuận theo giòng Sinh chết. Ta thấy Ta nghe. Ta chứng nghiệm, Ta làm. Ta dạy người khác làm. Ta được như thế.

Do vì tâm như thế, ý như thế. Luân hồi chìm nổi ở trong biển Phiền não. Bốn loại ràng buộc nhiễu loạn bao bọc như thế, kết buộc trong Phiền não. Nói không có Nhân quả. Cồ Đàm Đức lớn ! Người hiền cần phải biết các việc như thế. Mà đọc bài kệ nói rằng :

Nếu người muốn được biết Thấy đúng. Bốn Thiền Thanh tịnh nơi Giải thoát.

Tâm nếu đã hiểu biết Trí đó. Biết các Thánh thực và không thực.

Như trên phân biệt cần phải nói. Vì thế tên là hiểu bốn Thiền.

Hay bỏ các làm và không làm. Đây liền biết không chữ câu tên.

Vì thế nơi đó Trời Phạm lớn. Nói các Hạnh Phạm ở Thế gian.

Nếu hay thực hành Hạnh Phạm này. Liền đang được sinh ở cung Phạm.

Khi đó Bồ Tát nghe lời nói như thế của A La La xong. Lại còn lần nữa hỏi hạnh Phương tiện này. Nếu thực hành Phương tiện được tới nơi ở. Cùng với tu hành Hạnh Phạm. Đang làm nơi làm thực hành Pháp. Tôn Giả vì Ta giảng giải tất cả.

Khi đó A La La đã dựa vào thể loại chính lệ thường nghĩa của tổng luận. Tất cả đều hướng về Bồ Tát mà nói. Người hiền Cồ Đàm ! Nếu muốn tu hành cần vứt bỏ nhà ở cung điện. Dựa vào nghi thức Xuất gia. Xin ăn tự nuôi sống. Phát thệ nguyện to lớn. Tu giữ Giới hạnh. Ở trong biết đủ. Tùy nơi kham chịu sắp sẵn quần áo thức ăn đồ ngủ. Nơi ở vắng lặng. Một mình đi một mình ngồi. Như trong các luận Trí tuệ do Thấy biết. Tham muốn thù giận. Ngu si tội cũ. Thấy rồi rời xa. Chán ghét các tham muốn. Nhận vui sướng cao nhất. Điều hòa các Căn. Nhập vào trong Thiền Định. Đang ở thời đó rời xa các tham muốn. Rời xa  các hoạn nạn. Nơi trống vắng vẻ. Sinh ly rời phân biệt. Liền được Thiền bậc nhất. Được Thiền bậc nhất xong. Lại trở về suy nghĩ phân biệt như thế. Dần dần được vui vẻ. Đã được vui sướng rồi. Ở trong Định Vắng lặng đó. Lại dựa vào do lực của Định Vắng lặng này. Ý lại chán ghét ly rời các tham muốn thù giận. Đã thường chán ghét ly rời. Tâm chuyển sang vui mừng. Đã tăng thêm vui mừng. Tăng trưởng với Trí tuệ.

Lúc đó liền được sinh ở cung Phạm lớn. Đã sinh ở nơi đó. Lại còn suy nghĩ phân biệt như thế. Đây là Trí tuệ của bản thân lẫn lộn. Trở lại lại vứt bỏ. Đã vứt bỏ xong. Được Thiền bậc hai. Sinh vui mừng lớn. Đã được vui mừng. Thấy tâm bị bức bách ở nơi vui mừng lớn. Chuyển sang cầu được cao hơn. Tức thời tới Trời Quang Âm. Được Trời Quang Âm. Thấy nhận lấy nơi vui, đã tới nơi đó. Chán ghét ly rời vui sướng, đã ly rời vui sướng.

Tức thời được Thiền bậc ba. Tới ở trong Thiền bậc ba. Liền chuyển tốt hơn hạ xuống các Trời Biến Tịnh. Một hướng về nhận lấy vui sướng. Nếu có thể như thế được vui sướng rồi vứt bỏ. Không nhận lấy không nương nhờ. Tức thời rời xa, xa các nơi sướng khổ. Được Thiền bậc bốn. Đã ly rời sướng khổ cùng với tâm duyên lôi kéo. Tất cả đều vứt bỏ. Lại có người do vì tâm tự kiêu mạn. Cầu cảnh tướng Giải thoát.

Do muốn được vượt qua quả báo của Thiền bậc bốn. Bên trong suy nghĩ Pháp Thiền bậc bốn này. Do nhận lấy quả báo trong Trời Quảng Quả. Đây là tư duy quan sát Trí tuệ sơ lược. Lại nói như thế. Người đó suy nghĩ việc như thế xong. Thức dậy từ Tam Muội. Thấy thân sắc này có các nạn cũ. Muốn vứt bỏ thân sắc cầu Trí tuệ cao hơn. Cố phát tâm như thế. Người đó đã rời bỏ các Thiền như thế. Tiến lên cầu nơi tốt đẹp mà phát ra tâm này. Vứt bỏ các việc tham muốn như nói ở phần trước. Do rời bỏ thân sắc thô như thế. Tâm phát ra chán ghét ly rời. Lúc đó liền được trong thân toàn bộ trống rỗng vô biên phân biệt. Với tất cả sắc tướng này. Mà bên trong sắc tướng cùng với các cây cối. Toàn bộ các vật đều cùng phân biệt. Khoảng không vô biên được như thế cùng với tất cả nơi sắc. Đã sáng rõ phân biệt vô biên Rỗng. Tức thời chứng được nơi tốt. Mà có đọc bài kệ.

Nơi Phạm lớn vi diệu như thế. Tất cả Không hình thường không nói.

Người Trí nói do Giải thoát đó. Liền tên này là quả Niết Bàn.

Khi đó A La La nói lời như thế xong. Báo cáo Bồ Tát nói rằng : Người hiền Cồ Đàm ! Đây tức là nơi Giải thoát của bản thân. Cùng với Phương tiện này. Con nay vì người hiền đã tỏ ra rõ. Người hiền nếu tâm ý vui sướng Pháp này. Như được Con nói. Người hiền có thể nhận lấy. Mà đọc bài kệ nói rằng :

Pháp Giải thoát Thanh tịnh như thế. Con nay biết đã lại rộng nói.

Tâm ý người hiền nếu vui mừng. Chỉ nguyện nhờ nó thu nhận lấy.

Thời A La La lại còn nói rằng : Lại tới thời xa xưa. Người Tiên Kì Sa (tiếng Tùy là Cầu Thắng). Người Tiên Tì Du Xà Na (tiếng Tùy là Ly Biệt Lão). Người Tiên Ba La Xa La (tiếng Tùy là Tha Tiến). Cùng với các Tiên khác đều cùng đọc nói Pháp Giải thoát đó. Cũng lại cùng nhau dựa vào Pháp Giải thoát này. Mà được Giải thoát. Người hiền đã là Đàn ông Trí tuệ lớn. Kham chịu thực hành Pháp này. Thực hành Pháp này xong. Có thể được quả báo Giải thoát nơi tốt.

Khi đó Bồ Tát nghe được người Tiên A La La nói về Pháp Hạnh Phạm (Hạnh Thanh tịnh). Nhận giữ mà thực hành. Muốn Hạnh Sa Môn. Cầu quả của Sa Môn. Cho nên thực hành Pháp này. Liền tức thời chứng nghiệm biết. Mà Bồ Tát đã nghe được Pháp này từ miệng của A La La nói ra. Tin thực hành Pháp này. Không ngược lại, không quay lưng cũng lại không nói. Ta trước đây tự biết chỉ vì nhận giữ xong. Tăng tiến suy nghĩ Pháp này. Càng phát ra tâm Trí tuệ kiên cố. Cầu được nơi tốt. Đã thấy nơi tốt. Cũng không sinh kiêu mạn nói xấu người Tiên đó. Chỉ tự suy nghĩ. Không phải một mình A La La có Hạnh tin này. Ta nay cũng có Hạnh tin như thế. Không phải một mình A La La có Hạnh Tinh tiến. Tam Muội Nhớ đúng và các loại Trí tuệ. Ta cũng có nó thậm chí các Trí tuệ. Ta nay đã có thể cầu như Pháp chứng biết của A La La. Hướng về người khác nói phân biệt tỏ ra rõ. Cùng làm ra nơi tốt.

Khi đó Bồ Tát với Hạnh Pháp được A La La nói. Đều cùng đã chứng nghiệm, Thấy biết mà làm. Đương nhiên Bồ Tát nghe các loại Pháp đó. Không nhiều lao khổ. Thời gian Giây phút mà đều được nó. Như làm có thể nói đọc thông suốt, tỏ ra rõ một loại không khác. Lúc đó Bồ Tát tức thời lại tiến lên bên cạnh A La La. Làm lời nói như thế. Tôn Giả A La La ! Tôn Giả có thể tự chứng Pháp Tinh tiến như thế. Hướng về người khác nói. Gọi là cầu sinh nơi Không có tưởng nhớ. Làm lời nói như thế xong.

Thời A La La trả lời Bồ Tát nói rằng : Trưởng lão Cồ Đàm ! Pháp Trí tuệ như thế. Con đã tự chứng nghiệm hướng về người khác nói. Đọc thông mở tỏ. Bồ Tát lại nói rằng : Ta từ Tôn Giả nghe Pháp này xong. Như được Tôn Giả nói. Ta tin biết thực hành đã chứng Pháp này. Nếu có Trí tuệ biết thực hành cảnh giới. Cũng cần không vứt bỏ như Pháp này. Chỉ vì Ta do thấy. Pháp này tuy vi diệu. Chưa phải là tới tận cùng. Sở dĩ thế nào ?

Ý Ta suy nghĩ quan sát như thế. Pháp này do khi biến động có. Chỉ vì cảnh giới này. Tính gốc như thế. Đã biết Trí tuệ này. Tuy là không có Trí tuệ. Càng muốn sinh phân biệt các Pháp khác này. Đương nhiên Tôn Giả nói. Tuy nói bản thân được Giải thoát Thanh tịnh. Nếu phân biệt quan sát Pháp Nhân duyên đó. Gặp duyên trở lại sinh, Giải thoát chân thực sai. Giống như hạt giống, sai thời mà gieo. Vùi ở trong đất. Nếu chưa thuận thời. Không có nước mưa. Mầm chắc là không sinh. Nếu dựa vào thời gieo trồng thấm nhuận phù hợp. Các duyên hòa hợp đầy đủ chắc là sinh. Nay việc này cũng như thế. Chỉ vì không có Trí tuệ, nương nhờ với Nghiệp yêu thích. Như thế cùng với Pháp. Đã vứt bỏ phân biệt. Nói Giải thoát bản thân. Chỉ vì có nương nhờ bản thân. Đều cùng cần vứt bỏ. Liền tức thời vứt bỏ yêu thích không có Trí tuệ đó và Nghiệp không có nơi hòa hợp. Đã vứt bỏ các điều này. Tuy được phía trước tốt hơn. Chưa tới nơi chân thực. Chỉ vì thực hành phân biệt có nơi ở của bản thân. Nó cùng với ba việc nhỏ bé. Gặp Có do vì các Phiền não nhỏ bé đó. Lại càng phân biệt có nơi không sử dụng. Thọ mệnh lâu dài cho nên phân biệt. Nói bản thân được Giải thoát. Mà đọc bài kệ nói rằng :

Vì do các nạn cũ nhỏ bé. Sở dĩ nhận không dùng ở thân.

Thọ mệnh số Kiếp đã lâu dài. Liền nhanh nói Thân được Giải thoát.

Bồ Tát lại nói rằng : Như Tôn Giả nói ở phần trước. Ta đã vứt bỏ bản thân. Đã tự nói rằng : Ta đã vứt bỏ bản thân. Đó chắc là không còn tên, chân thực vứt bỏ bản thân. Nếu dựa vào phân biệt, chưa Giải thoát. Nó không thể nói, không có nạn trói buộc. Vì thế nên biết. Có nơi nạn trói buộc. Cũng không thể nói rằng : Được nơi Giải thoát, nơi không có bản thân. Có nạn của bản thân. Không thể làm khác. Như sắc của lửa nóng. Nóng không ly rời sắc. Sắc không ly rời nóng. Hai thể loại đều do trước không có, cho nên hòa hợp. Nếu có, không có nơi đó. Như Ta đã như thế. Tất cả các nạn đều cùng như thế. Giải thoát này xong. Tới được nơi đó. Trở về lại bị ràng buộc. Vì do với Tinh tiến, cho nên cầm lấy cảnh giới. Diệt mất sắc đó xong. Chỉ cần Có được nhận Thức. Người đó biết nhận Thức của bản thân, tức thời tên là Có.

Do vì Có cho nên không tên là Giải thoát. Ta đều Bố thí cảnh giới lớn nhỏ đó. Như thế biết trở lại đó được như thế. Do vì nghĩa đó cầu nơi ở tốt. Cần phân biệt ra sao ? Đây là ta không phải ta. Như gỗ như bức tường. Đủ loại cùng nhau vứt bỏ. Đã đều đủ các loại. Vì có được Trí tuệ. Cho nên Ta suy nghĩ. Đều cần vứt bỏ tất cả cảnh giới. Giúp cho được tự lợi. Mà đọc bài kệ nói rằng :

Đủ loại lần lượt đều cùng bỏ. Mới là tên vì bỏ cảnh giới.

Do tất cả Căn Trần đều bỏ. Tên đó tự lợi và lợi người.

Khi đó trong chúng Đệ Tử của A La La. Có một Đệ Tử báo cáo Bồ Tát nói rằng : Cồ Đàm Đức lớn ! Nay tới nơi này. Nơi dừng ở của chúng con đều thành khí cụ tốt. Lại còn được với tám loại Tự do.

Bồ Tát trả lời nói rằng : Nơi này được có Tự do ra sao ?

Thời Đệ Tử của A La La nói rằng : Ngài nay nếu không suy tính việc này. Sở dĩ thế nào ? Nói người Tự do. Ở trong các việc có thể quyết định làm. Không cùng người khác. Không có cùng với bạn. Do bên trong thân tự chứng Định Vắng lặng vậy. Mới sinh vui mừng.

Bồ Tát trả lời nói rằng : Việc này không như thế.

A La La nói rằng : Nghĩa này ra sao ?

Bồ Tát tức thời nói rằng : Như thế, đúng như thế !

A La La nói rằng : Người hiền chỉ nói. Đừng bí mật lời nói này.

Bồ Tát trả lời nói rằng : Nếu dựa vào Tôn Giả. Nói rằng : Hạnh này cũng không có trở về.

A La La nói rằng : Người hiền cớ gì lập ra với câu hỏi này ? Nơi nào có nghi hoặc ?

Bồ Tát trả lời nói rằng : Ta nay tâm đã chán ghét cho nên ly rời Sinh. Muốn hỏi chân chính.

A La La nói rằng : Người hiền Cồ Đàm ! Muốn được nghe nó. Ta đang vì nói. Thường muốn khai hóa ở Thế gian. Tức thời Ta cũng như thế. Chỉ có tên chữ. Không sinh không già. Không lui không trở lại. Vô biên không có giữa. Không trước không sau. Tên đó là ta. Tự do có thể nhập vào luân chuyển. Ở bên trong sinh chết. Cũng không tạm thời dừng ở. Pháp đó Pháp sai. Trời đó người đó. Cùng với các hướng tới Có. Nó có thể đi xa. Nó có thể làm xe. Ngồi lên xe đó. Có thể vượt qua biển Có sâu. Lưu chuyển qua lại. Có thể làm ra Sinh chết. Cũng có thể biến hóa. Tự do cao nhất. Vi diệu lớn nhất. Có thể làm chủ Thế gian. Hút lấy giáo hóa tất cả.

Bồ Tát hỏi nói rằng : Như giáo hóa này. Đó là Có phải không ? A La La nói rằng : Con quan sát người hiền. Do âm thanh hỏi. Muốn nhất định không nhận như nghĩa này. Hoặc ý của người hiền đang không tham vui sướng.

Bồ Tát trả lời nói rằng :  Ta không có hoạn nạn.

A La La nói rằng : Cồ Đàm Đức lớn ! Đừng làm ra tâm nghi hoặc. Tùy ý được vui sướng. Chỉ tự luận nói được nghĩa hướng về. Nhập vào suy nghĩ tốt. Do tự chiếu sáng. Nếu tự thấy biết. Không bị người khác lừa dối. Không nhận giáo lý của người khác. Không theo nghĩa của người khác. Chứng nghiệm như thế. Tên là được tự lợi. Người khác không thể. Nếu tâm không yên định. Tùy theo các Thầy nói mà cầm lấy ý nghĩa. Trí tuệ này giảm tổn. Người hiền nghe xong chân chính suy nghĩ. Từng loại đọc tụng. Quan sát nghĩa sâu. Tỉ mỉ tự biết chứng nghiệm. Biết rồi có nghi hoặc. Tùy ý hỏi Con. Con đang vì nói.

Bồ Tát lại hỏi. Được Tôn Giả nói. Có thể hóa làm ra Thế gian. Được Tự do. Ở trong nghĩa đó. Tâm Ta có nghi hoặc.

A La La nói rằng : Như ý của người hiền. Nghĩa này không như thế.

Bồ Tát lại nói rằng : Ta thấy như thế. A La La nói rằng : Như thế do cái gì ? Bồ Tát lại nói rằng : Duyên này chỉ có một. Sở dĩ thế nào ? Nếu Tự do hóa làm ra Thế gian này. Cho dù không được dựa vào, lần lượt cùng sinh, hiện ra thấy đi tới. Vòng Phiền não này. Không nên như thế lần lượt mà chuyển vận. Cũng cần tâm của chúng sinh không lợi vui. Mà tự nhiên được. Cần một chúng sinh không được nạn hỗn tạp. Cần các người đời Tự do cúng dưỡng. Như cha như mẹ. Tự như các Trời khác. Không được cúng dưỡng. Người bần cùng này. Cần không nói tất cả Nghiệp thiện ác nhục mạ đó. Đều cần ở nơi đó. Cần các chúng sinh không có nơi dựa nương nhờ. Cần cầu không có nơi. Cần không đâu làm. Người đời cần không như thế, cũng có Tự do suy nghĩ. Cũng Tự do Không có. Người đời phân biệt như thế. Có không cần làm. Không làm các Nghiệp. Cần được quả báo tự nhiên. Trời Tự Tại đó. Nếu thực hành Hạnh khổ được thành tự do Tự tại. Thế gian cũng cần cùng nhau nhận lấy Nghiệp này. Tất cả cũng cần đều tên là Tự do. Nếu không có người đó làm ra Tự do. Không có nơi, không có người. Không Tự do sai. Nó nếu thiết lập Tự do đó sai. Cũng không tên là Có. Há có thể được lời nói được Tự do thiết lập.

A La La này ca ngợi Bồ Tát nói rằng : Cồ Đàm Đức lớn ! Trí tuệ sâu xa. Dễ có thể tỏ ra rõ. Đón nhận các luận thuyết. Tổng hợp nói tổng thể. Đều do lực Trí tuệ. Phân biệt có thể biết. Vì thế Bình đẳng thấy con đường chân thực các Bố thí đầy đủ. Nguyện vì Con nói. Không từ chối mệt mỏi tham tiếc Pháp báu.

Bồ Tát lại nói rằng : Ta nay cần phải cúng dưỡng Tôn Giả.

A La La nói rằng : Thầy có nhiều loại. Người hiền cúng dưỡng. Lần lượt có thể do cái gì ? Tuy nhiên nay người hiền. Đã là đứng hàng đầu. Cũng có thể kham chịu, hay cúng dưỡng những người đó.

Bồ Tát lại nói rằng : Tôn Giả chỉ đang vì Ta giảng giải như nghĩa loại này.

A La La nói rằng : Những cái đó thực tốt ở tất cả Thế gian. Chưa có sinh những cái đó trước tiên. Ý tốt của người hiền tự suy nghĩ sâu. Vì Nghiệp ở phía trước. Vì thân ở phía trước.

Bồ Tát trả lời nói rằng : Nghĩa này ra sao ?

A La La nói rằng : Đây là nạn lớn. Sở dĩ thế nào ? Nếu Nghiệp ở phía trước, không phải thân ở phía trước. Cần không nhận thân. Thân cần không có Nghiệp. Nghiệp tự không sinh. Ai tạo ra Nghiệp này. Nếu thân ở phía trước, không phải Nghiệp ở phía trước. Cần không có Nghiệp. Nếu không có Nghiệp. Cớ sao lại có chúng sinh nhận lấy thân ? Ai lại có thể khai hóa Thế gian. Họ cần không tổn thất. Nhất định thường tồn tại ràng buộc của Ba Cõi. Các chúng sinh đó vốn dĩ sinh. Tự thân cần sinh. Nếu không có thể Tự do. Tất cả người này. Do yêu thích thân. Cần tự làm đầy đủ. Nếu tự đầy đủ. Ở tất cả nơi cần phải tự Có.

Bồ Tát trả lời nói rằng : Ta như người nạn cầu thầy thuốc chữa trị. Ta nay cũng lại không hỏi vặn nghĩa này.

Khi đó trong Chúng có một Hạnh khổ. Đệ Tử của người Tiên A La La đó. Báo cáo Bồ Tát nói rằng : Thiện thay Cồ Đàm ! Lời nói của Thầy tôn kính. Chỉ nguyện người hiền không hỏi vặn nghĩa này. Như nghĩa này tính kế không nên tranh luận. Nếu tranh luận nó. Điều này không phải ích lợi. Người hiền chỉ cần nhận lấy như Thầy tôn kính nói. Bồ Tát trả lời nói rằng : Ta cũng không hỏi vặn. Chỉ vì muốn hỏi điều đó, cùng nhau đón lấy nơi đến, cần biết nghĩa của nó. Người Tiên đó nói rằng : Theo Nhân duyên này. Người hiền nhận giữ. Cầm lấy nghĩa chân thực này. Nếu muốn sinh nghi hoặc tranh luận ở trong tâm. Đó là Pháp sai lớn. Tương lai được tội. Thời Đệ Tử của người Tiên Hạnh khổ đó. Tức thời đọc bài kệ nói rằng :

Người đời nghe nhận thời thưa hỏi. Tâm ý không loạn nghĩa mới yên.

Nếu đang giữ hoài nghi siểm nịnh. Đó là cạnh tranh tìm lỗi người.

Hai đó tìm lỗi tức thành oán. Hai oán cùng tranh miệng nói ác.

Người Trí muốn cắt tội Nghiệp miệng. Nói Lý tâm không làm cạnh tranh.

Luận bàn cầu hơn là tham danh. Tranh danh giấu khác khiến người thẹn.

Nhiều lời rõ lỗi nạn lớn này. Ý nịnh nghe nghĩa thành tự kiêu.

Tâm kiêu thù giận tội họ tăng. Đều nói sai trái cùng phỉ báng.

Cần làm không làm, làm không làm. Hai cố cùng tranh làm oán lớn.

Khi đó Bồ Tát nghe bài kệ đó xong. Bảo với người Tiên đó nói rằng : Thực có như điều này. Tội cùng cạnh tranh. Đạo sai nói không có. Ta chỉ muốn tìm nguồn gốc, cùng nhau đón nhận việc thành công. Không phải cố đến tận cùng. Nói lời đó xong. Thời tâm của người Tiên đó vẫn còn chưa nhẫn chịu.

A La La nói rằng : Cồ Đàm Đức lớn ! Con đường Giải thoát. Người hiền ghét chăng ? Như duyên của việc này. Cũng xưa nay sai.

Bồ Tát trả lời nói rằng : Khi nếu muốn cầu Giải thoát đó. Cần cầu như thế.

Khi đó Đệ Tử của người Tiên A La La. Lại làm lời nói như thế. Sa Môn Cồ Đàm ! Người hiền ly rời cái này. Muốn cầu Giải thoát. Đi bộ tổn thân thôi.

Bồ Tát trả lời nói rằng : Do người cầu vui sướng Biến đổi của Thế gian. Vẫn còn có mệt mỏi. Huống chi lại muốn cầu Giải thoát không trở lại.

Thời Đệ Tử của người Tiên A La La. Lại báo cáo thêm nói rằng : Người hiền nay đã nói không trở lại. Có thể thường bước đi vậy.

Bồ Tát trả lời nói rằng : Nay nơi bước đi. Đã là ý vui sướng. Nay đến nơi đó. Cần lại trở lại ra sao ?

A La La nói rằng : Đừng đi tới nơi đó. Đừng trở lại nơi này. Có thể không được sao ?

Bồ Tát trả lời nói rằng : Hiếm có việc này ! Tôn Giả trước nói sau nhận được Có. Cớ sao lại nói càng không trở lại vậy.

A La La nói rằng : Thực như thế người hiền ! Đây là rất hiếm có. Mà Chân Như đó thể loại Tĩnh lặng.

Không có đầu không có cuối. Không có giới hạn. Không có bắt đầu không có sau. Hạnh của nó không yên định. Hình không thể hết tận. Tuy nhiên Thầy Vô Tướng chủ Thiền Định do thiết lập. Trời Phạm lớn như thế.

Bồ Tát lại nói rằng : Ta nay hỏi thêm Tôn Giả Tiên lớn. Nếu khi Kiếp mất hết. Các Thế giới này. Cùng với rừng rậm. Các núi Tu Di. Cung điện của Ngọc Hoàng Đế Thích. Đều bị lửa Kiếp thiêu đốt. Khi đó Trời kia ở tại nơi nào ? Đó là ai tên là gì ? Lời nói ra sao ? Quả báo công Đức. Làm sao mà dừng ở ? Lại khi Kiếp mất hết. Các vật đều hết. Nơi đó cái gì không cháy ?

Khi đó La La im lặng mỉm cười. Thời Đệ Tử của người Tiên A La La. Báo cáo Bồ Tát nói rằng : Người hiền Trí tuệ ! Nay đã cao nhất. Người hiền có thể chưa tự biết thời Quá khứ tất cả các Tiên cũng được Đạo đúng. Gọi là Tôn Giả người Tiên Ba La Xa La. Người Tiên Pha La Đọa. Người Tiên A Tu Lê Da. Người Tiên Bạt Đà Na. Người Tiên Ca Đố Bà Đà Na. Người Tiên Đà Na Đạt Đa. Người Tiên Đạt Lợi Đa Da Na. Người Tiên Bát Già La Ba Đế. Người Tiên A Sa Đà. Người Tiên Bạt Ma Đạt Đa. Người Tiên Na Hầu Sa Vương Tử Da Da Chì. Người Tiên Thiều Ba Lê. Người Tiên Ba La Bà Già Na. Người Tiên Xà Na Ca. Người Tiên La Đê Đề Bà nước A Bàn Đê. Người Tiên Tì Đề A. Người Tiên Xà Kì Sa Tì Da. Người Tiên Đề Tì La. Người Tiên Tì Đà Ha Tì Da. Người Tiên Bà Nô. Người Tiên Đề Bà Da Na. Người Tiên Nê Sa Đa Na Da. Người Tiên Da Nhã Đa Na. Người Tiên Ni Da Bạc Đô. Người Tiên Ha Lê Đê. Người Tiên Bạt Xà La Bà Hầu. Các loại như thế. Tất cả người Tiên. Đều nhập vào ánh mặt Trời. Mà cầm lấy đường đúng.

Khi đó Bồ Tát trả lời người Tiên kia nói rằng : Hôm nay đã nói là nhập vào ánh mặt Trời cầu Giải thoát. Nghĩa này là thế nào ? Ta nay cần phải lễ các Có đó. Ta thực không dùng Tự do như thế. Lúc đó Bồ Tát đã làm lời nói như thế. Bên trong tự suy nghĩ. Pháp của A La La không phải là cuối cùng. Tâm không vui mừng.

Thời Đệ Tử của người Tiên A La La. Đo lường đã biết tâm của Bồ Tát. Tức thời từ chỗ ngồi đứng dậy. Báo cáo Bồ Tát nói rằng : Người hiền nay đã ra bên ngoài Pháp này. Ý cũng càng muốn cầu Giải thoát tốt hơn.

Bồ Tát trả lời nói rằng : Ý nguyện của Ta cần chứng nghiệm Pháp như thế. Không đất không nước. Không lửa không gió. Cùng với không có khoảng không. Không có Sắc, không có âm Thanh. Không có Hương, không có Vị. Không có Xúc, không có hình tướng. Không có yên, không có sợ. Không có chết, không có bệnh. Không có già, không có sinh. Không có, không có sai. Biến đổi Biến đổi sai. Nói lời nói sai. Không có giới hạn. Mà đọc bài kệ nói rằng :

Hơn vốn không sinh già bệnh chết. Đều bằng nước đất lửa gió Rỗng.

Trong sáng Ba đời không thầy dạy. Thường sạch tự nhiên chứng Giải thoát.

Khi đó người Tiên La La nghe lời nói như thế xong. Báo cáo Bồ Tát nói rằng : Người hiền Cồ Đàm ! Con nay toàn bộ tự chứng Pháp. Vì hướng về người khác đọc nói hiện ra. Người hiền nay cũng tự chứng Pháp này. Hướng về người khác nói Pháp Giải thoát của Con. Người hiền cũng hiểu. Như Con hôm nay làm Thầy của Chúng này. Người hiền cũng kham chịu học như thế. Cồ Đàm nay có thể cùng với Con đồng tâm. Chúng ta hai người. Thống lĩnh Đại chúng này giáo hóa tỏ ra rõ.

Lúc đó La La tuy tên hiệu là Thầy. Chỉ lấy phần thực hành Bình đẳng của Bồ Tát. Tự lấy nửa chỗ ngồi phân chia cho Bồ Tát. Cúng dưỡng Bồ Tát. Tùy theo ý của Bồ Tát nếu kham chịu đầy đủ cúng dưỡng. Sinh vui mừng lớn. Tâm ý vui vẻ cao nhất vi diệu nhất. Tràn khắp cơ thể họ không thể tự hơn được.

Khi đó Bồ Tát suy nghĩ như thế. Pháp này không thể giúp người tới được Niết Bàn. Cũng lại không thể rời xa các tham muốn, vượt qua Phiền não. Không thể yên Định vắng lặng, hết các Phiền não mà được Thần thông. Mới lại không thể tự giác ngộ, giác ngộ người khác, làm Hạnh Sa Môn. Không thể bỏ mất các Phiền não ác. Sở dĩ thế nào ? Thực hành với Pháp này, chỉ sinh tưởng nhớ sai. Mà làm ra các Nghiệp. Cho nên biết Pháp này không phải là cuối cùng, được quả tối cao. Làm suy nghĩ như thế xong. Liền tức thời quay lưng bỏ La La mà ra đi. Mà có đọc bài kệ.

Bồ Tát suy nghĩ các Pháp này. Tâm này không rất vui mừng lớn.

Biết thành quả hay sinh ra sai. Liền bỏ La La mà ra đi.

Khi đó các học trò của người Tiên La La. Liền cùng Bồ Tát phân biệt cùng nhau từ biệt. Làm lời nói như thế. Chỉ nguyện người hiền đi tới nơi Hạnh. Thường được yên lành.

 

Thứ hai mươi bảy Phẩm Trả lời La Ma Tử

Khi đó ở đất Diêm Phù Đề này. Lại còn có một Thầy hướng dẫn lớn khác. Tên là La Ma. Người này đã bỏ mệnh. Con trưởng của La Ma là chủ của các học trò đó. Tên là Ưu Đà La La Ma Tử. Chủ thống lĩnh chúng sinh đó. Ưu Đà La này thường vì chúng sinh đó. Nói sinh Pháp Tưởng nhớ sai, không phải Tưởng nhớ sai. Gần thành Vương Xá trong rừng Nhất A Lan Nhã mà dừng ở.

Lúc đó Bồ Tát từ xa nghe được tên của người này, Pháp được nói hơn La La trước kia. Nghe xong suy nghĩ. Ta nay cần phải tới bên cạnh Ưu Đà La La Ma Tử. Thực hành với Hạnh Thanh tịnh. Lúc đó Bồ Tát từ nơi ở của A La La mà ra đi. Yên lành mà đi. Vượt qua sông Hằng. Thăm hỏi đã biết. Tức thời đi tới nơi ở của họ. Mà báo cáo nói rằng : Người hiền Ưu Đà ! Ta ở bên cạnh người hiền muốn nhận dạy bảo. Thực hành với Hạnh Thanh tịnh.

Thời Ưu Đà La báo cáo với Bồ Tát nói rằng : Cồ Đàm Đức lớn ! Như Con quan sát thấy nơi Cồ Đàm. Đã là người Trí tuệ. Kham chịu nhận Pháp của Con. Mà thực hành Hạnh Thanh tịnh. Nếu muốn nhận Pháp, thực hành Hạnh Thanh tịnh. Thời cần thuận theo quả Nghiệp Thanh tịnh Pháp của Con. Mà được quả báo Hạnh.

Khi đó Bồ Tát ở bên Ưu Đà La La Ma Tử nhận Hạnh Pháp. Cầu Pháp Sa Môn vì việc của Sa Môn. Cung kính chắp tay báo cáo nói rằng : Người hiền chưa xét hỏi kĩ. Pháp thực hành được của người hiền. Được cảnh giới ra sao ? Vì Giải thoát bản thân.

Ưu Đà La đó báo cáo Bồ Tát nói rằng : Cồ Đàm Đức lớn ! Thường nhận lấy với hình tướng cùng với hình tướng sai. Đây là hoạn nạn lớn. Ung nhọt lớn đau thương lớn. Ngu si lớn tối đen lớn. Nếu suy nghĩ tinh tế. Tức thời nhận thể loại Có vi diệu đó. Có thể làm như thế lần lượt tháo bỏ. Tên đó là Định vắng lặng vi diệu tốt đẹp nhất, Giải thoát tối cao. Quả của Giải thoát đó. Gọi là được nơi Tưởng nhớ sai, không phải tưởng nhớ sai. Hạnh của Con với Pháp vi diệu tối cao này. Ưu Đà La này. Lại còn nói rằng : Ở nơi Tưởng nhớ sai, không phải Tưởng nhớ sai này. Đời Quá khứ Định vắng lặng không hơn được. Hiện tại đã không có. Sắp tới cũng không có. Hạnh này cao nhất tốt nhất hay nhất. Con thực hành Hạnh này.

Khi đó Bồ Tát nghe Pháp này xong. Suy nghĩ không lâu. Tức thời chứng nghiệm Pháp này. Lúc đó Bồ Tát từ ở bên cạnh người đó. Được sinh ra từ miệng nghe xong tâm tin. Thuận theo lời nói đó mà làm nghĩ nhớ như thế. Như Pháp này Ta cũng có thể được. Ta cũng có thể biết. Lời nói thực không sai. Ta nay do có thể thấy. Tức thời có thể thấy biết. Tức thời được biết.

Lại bảo với Ưu Đà La đó nói rằng : Không phải chỉ cha La Ma trước kia của người hiền một mình có Hạnh tin. Ta nay cũng có Hạnh tin như thế. Không phải một mình người đó có Trí tuệ Tinh tiến Thiền định Nhớ đúng. Ta nay cũng có thậm chí Trí tuệ. Ta tới nay thực hành Hạnh Pháp đó. Học với La Ma đã tự chứng Pháp. Vì người khác hiện ra nói. Do biết Pháp đó. Do thấy Pháp đó. Càng muốn cầu hơn. Khi đó Bồ Tát chứng nghiệm Pháp như thế xong. Báo cáo Ưu Đà La La Ma Tử nói rằng : Cha của người hiền trước kia ở nơi Tưởng nhớ sai, không phải Tưởng nhớ sai. Tự chứng biết hướng về người khác nói chăng !

Ưu Đà La nói rằng : Cồ Đàm Đức lớn ! Cha của Con như thế.

Bồ Tát trả lời nói rằng : Người hiền Ưu Đà ! Ta nay đã thông suốt chứng biết kính thực hành. Ưu Đà La này báo cáo Bồ Tát nói rằng : Cồ Đàm Đức lớn ! Nếu nó như thế. Người hiền và cha La Ma của Con không khác. Cồ Đàm Đức lớn ! Người hiền nay nếu biết các Pháp loại này đã kính thực hành. Có thể như người Tiên La Ma cha của Con. Nhận Đại chúng này dạy tỏ ra nói thông suốt.

Thời Ưu Đà La đã tự tu hành. Hạnh Thanh tịnh không thiếu sót. Chỉ đón nhận Bồ Tát cùng Bồ Tát thực hành thiết lập. Nếu cùng Trí tuệ Pháp tăng cao cúng dưỡng. Tâm sinh vui mừng cúng dưỡng tốt nhất Bồ Tát. Không thể tự hơn được.

Khi đó Bồ Tát bảo với Ưu Đà La. Làm lời nói như thế. Pháp này của người hiền không thể là cuối cùng. Giải thoát các tham muốn. Diệt mất Phiền não. Nhất tâm Định vắng lặng. Hết các Phiền não Kết buộc. Cùng các Thần thông. Được Hạnh Sa Môn. Tới Niết Bàn lớn. Pháp này lại trở về nhập vào trong sinh chết. Sở dĩ thế nào ? Đã sinh nơi Tưởng nhớ sai, không phải Tưởng nhớ sai. Quả báo hết tận lại trở về nhập vào Phiền não. Làm lời nói như thế xong.

Ưu Đà La này báo cáo Bồ Tát nói rằng : Cồ Đàm Đức lớn ! Có thể chưa nghe biết. La Ma cha của Con tuy chứng Pháp này. Mà không biết không hiểu không biết tất cả nơi. Vì đã sinh Tưởng nhớ sai, không phải Tưởng nhớ sai. Mà lại trở về nhập vào trong sinh chết. Không có nơi đó. Không cầm lấy sinh đời sau cũng lại không thấy nơi sinh. Ưu Đà La này. Tuy được Hạnh Pháp Tĩnh lặng lớn như thế. Mà không làm cầu Pháp cao hơn tốt hơn. Chỉ có miệng đọc nói rằng : La Ma cha của Con làm nói như thế. Bồ Tát suy nghĩ như thế. Pháp này là thành quả sai. Ta nay không nên chuyên nương nhờ Pháp này. Bỏ Ưu Đà La liền tức thời quay lưng ra đi. Mà có nói thêm.

Bồ Tát suy nghĩ xem không này. La Ma trước kia tuy lại làm.

Đã dựa thành quả Giải thoát sai. Tức thời quay lưng mà bỏ đi.

 

Phần đầu thứ hai mươi tám Phẩm Khuyên nhận lợi ở đời

Khi đó Bồ Tát từ nơi ở của Ưu Đà La La Ma Tử. Từ biệt mà đi. Yên lành dần dần tới hướng về núi Bát Trà Bà (tiếng Tùy là Hoàng Bạch Sắc). Tới núi đó rồi. Ở dưới chân núi tìm nơi bằng phẳng. Ở dưới một gốc cây xếp bằng Kết già mà ngồi. Thân đoan nghiêm tâm dừng ở. Nhớ đúng không động. Ví như có người trên đầu lửa cháy. Nhanh chóng diệt mất mà ném xuống đất. Khi đó tâm Bồ Tát cầu cắt bỏ giới hạn của Phiền não. Cũng lại như thế. Khi đó bên trong tâm của Bồ Tát suy nghĩ tính toán như thế. Ta ở thời gian nào sẽ được tan vụn đám Phiền não lớn này ? Ta ở thời gian nào sẽ được phá tan kho tàng ngu si lớn này ? Chứng được Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Lại các chúng sinh chìm ở trong sinh chết. Lại ở thời gian nào đều giúp cho Giải thoát ? Nghĩ như thế xong. Uy Đức nghiễm nhiên.

Thời trong núi đó có nhiều người hoặc lấy cỏ củi đun. Nhặt phân trâu khô. Hoặc lại săn bắt thú. Cày vỡ đất hoang làm ruộng. Hoặc người chăn thả gia súc. Cùng đi trên đường. Những người đó từ xa thấy Bồ Tát ngồi ở dưới cây nơi núi Bát Trà Bà. Giống như ánh quang của tượng vàng vi diệu bằng các loại vật báu. Thấy rồi đều sinh tưởng nhớ hiếm có. Cùng nhau cho nói rằng :

Ngài các người hiền. Đây là người khác thường. Từ phương nào tới ? Tới ở nơi đó. Hoặc nói rằng : Đây là Thần núi Bát Trà. Hoặc nói rằng : Đây là người Tiên sống ở núi Bát Trà. Hoặc nói rằng : Đây là Thần minh nơi nào ? Hoặc nói rằng : Đây là Thần giúp đỡ ở núi Tì Phú La. Hoặc nói rằng : Đây là Thần giúp bảo vệ núi Kì Xà Quật. Hoặc nói rằng : Đây là Thần của Đất lớn. Từ đất bay ra. Hoặc lại có nói rằng : Đây là người Trời bên trên khoảng không tới hạ xuống ở nơi này.

Chúng ta như thế tâm đều hoài nghi. Cớ là sao ? Quang sáng thân thể của Thần này cháy mạnh. Uy Đức cao lớn chiếu khắp núi này. Giống như ánh mặt Trời mặt Trăng chiếu sáng khắp. Hoa của các cây Sa La đều nở rộ. Đây không phải là người. Quang sáng của người không thể hiện ra việc như thế.

Kinh Tập hợp Việc làm Trước kia của Phật, quyển thứ hai mươi hai.