Kinh Tập hợp Việc làm Trước kia của Phật
(Phật Bản Hạnh Tập Kinh)
Hán dịch: Tùy Thiên Trúc Tam Tạng Xà Na Quật Đa
Việt dịch: Phật Tử Bùi Đức Huề dịch năm 2012- 2014

 

QUYỂN THỨ NĂM MƯƠI SÁU

Phần cuối Phẩm Nhân duyên của La Hầu La

Khi đó Phật bảo các Tì Kheo nói rằng : Ngài các Tì Kheo ! Ta nhớ lại thời Quá khứ xa xưa lâu dài. Ở Nước Ca Thi nơi làng xóm đó. Gần bên có một núi. Tên là Uất Chưng Già. Phía Nam núi này. Có một vườn rừng. Rừng này cây hỗn tạp. Số lượng hơn mười vạn. Hoa quả tươi tốt. Cành lá xum xuê. Từ xa quan sát. Như đám mây xanh. Ở bên trong vườn đó. Khắp nơi đều có ao đầm hoa Sen. Số lượng đó nhiều loại. Trang nghiêm vườn rừng. Rừng đó cao to Tĩnh lặng trống vắng (hoặc có Thầy nói núi Uất Chưng Già gần thành Ba La Nại).

Lúc đó núi kia có các đàn Voi. Bên trong đàn voi đó có một voi mẹ. Sinh nuôi một con trai. Hình thể đoan chính. Người xem không chán. Như thế con voi đó. Thân nó trắng tinh khiết. Đầy đủ sáu sừng. Đầu nó hoàn toàn màu đen. Như đầu của chim Nhân đà la cồ ba. Bảy chân đứng trên đất. Như con voi đó nuôi dưỡng không lâu. Thành Voi Rồng lớn. Như Pháp tu hành. Hiếu thuận cha mẹ. Khi làm cúng dưỡng. Có tâm kính trọng. Như thế con voi đó. Có các thức ăn. Các rễ cỏ quả. Trước tiên dâng lên cha mẹ. Giúp cho họ no đủ. Sau đó tự ăn.

Khi đó Voi Rồng. Lại ở một thời. Nhân do tìm cỏ quả các thức ăn đó. Đi tìm khắp nơi. Có các thợ săn. Đột nhiên thấy voi này. Tức thời làm nghĩ nhớ đó. Con Voi Rồng này. Không phải người khác kham chịu cưỡi được. Chỉ Vua Phạm Đức. Có thể kham chịu cưỡi thôi. Làm nghĩ nhớ đó rồi. Bèn tức thời đi tới bên Vua Phạm Đức. Tới rồi báo cáo nói rằng : Vua lớn cần biết ! Bên trong rừng nơi đó. Có một Voi Rồng. Đoan chính đáng vui mừng. Thân nó trắng tinh khiết. Có đầy đủ sáu sừng. Voi đó đầu màu đen. Như chim Nhân đà la cồ ba. Bảy chân đứng trên đất. Như Thần do thấy. Voi đó đang kham chịu Vua lớn cưỡi nó. Nếu như ý của Vua lớn do vui thích. Có thể sai người bắt giữ voi đó. Bắt đem tới cho Vua.

Thời Vua Phạm Đức. Lại tức thời kêu gọi người có thể bắt giữ voi. Ra lệnh bảo với họ nói rằng : Ta nghe người khác nói. Có một Voi Rồng. Voi này sáu sừng. Đoan chính đáng vui mừng. Người xem xét nó. Đủ không có chán. Thậm chí bảy chân. Đều cùng đứng trên đất. Các Khanh nhất định cần nhanh tới nơi đó. Bắt con Voi Rồng đó. Đem tới chỗ ở của Ta. Đừng để chậm trễ làm cho có thoát mất.

Lúc đó tất cả các người bắt voi. Nghe Vua Phạm Đức có lệnh như thế. Mà trả lời nói rằng : Như lệnh của Vua. Không dám trái lời dạy. Tức thời làm dây mềm chắc các dây to bằng da. Đi tới bên cạnh voi. Dùng chú gọi nó. Voi đó tự tới chạy về nơi ở của người. Bèn tức thời bắt lấy. Do dây da đó đã buộc chặt voi. Dắt đi đem tới bên Vua Phạm Đức. Thời Vua Phạm Đức từ xa thấy những người kia. Đem Voi Rồng này lúc muốn tới nơi. Tức thời đi ra đón tiếp. Do vì vui mừng. Làm lời nói như thế. Vui sướng được cỗ xe lớn tốt đẹp như thế. Vui sướng được cỗ xe lớn tốt đẹp như thế.

Thời Vua Phạm Đức. Thân tự nuôi dưỡng. Chỉ vì voi đó kham chịu thức ăn. Đều cùng cho nó. Tất cả thức ăn. Tự tiếp đãi tự ban cho. Tuy lại như thế. Mà Voi Rồng đó. Ngược lại càng gầy yếu. Thường rên rỉ lớn. To tiếng kêu lớn. Thương khóc rơi nước mắt. Không có thời gian tạm nghỉ.

Thời Vua Phạm Đức thấy Voi Rồng đó. Gầy yếu khốn khổ. Thậm chí thương khóc rơi nước mắt như thế. Tới ở trước voi chắp mười ngón tay. Bảo với voi Rồng nói rằng : Ta đem tất cả các thức ăn uống tốt. Cúng dưỡng cho ngươi. Ngươi lại gầy yếu. Không đưa vào da thân thể. Sắc lực giảm tổn. Thân thêm mệt mỏi. Như thế Ta quan sát ngươi. Tâm không vui thích. Không nhận vui sướng. Tâm Ta quý mến ngươi. Cung cấp xem xét nuôi dưỡng. Chưa từng tạm bỏ. Ngươi cần việc gì ? Ta nay đều làm cho ngươi vui mừng. Ngươi do duyên gì ? Không vui không sướng.

Khi đó Voi Rồng báo cáo Vua Phạm Đức. Làm lời nói như thế. Thần nay mới báo cáo Vua lớn một câu. Giúp Vua lớn vui mừng.

Thời Vua Phạm Đức nghe Voi Rồng đó. Làm lời nói như thế. Sinh tâm vui mừng hiếm có lớn. Lại làm nghĩ nhớ đó. Việc này hiếm có. Đây là Vua Voi Rồng. Có thể làm lời nói của người. Làm nghĩ nhớ đó xong. Trả lời Voi Rồng đó. Làm lời nói như thế. Ngươi Vua Voi Rồng ! Sinh ra lời nói như thế. Giúp cho Ta vui mừng.

Lúc đó Voi Rồng báo cáo Vua Phạm Đức. Làm lời nói như thế. Vua lớn cần biết. Bên trong rừng đó. Thần có cha mẹ. Tuổi cao sức yếu. Dừng ở bên trong rừng đó. Thần nhớ lúc chưa bị Vua bắt. Trước kia đã tự như thế. Chưa từng có nghĩ, tự ăn thức ăn trước. Mới đưa cho cha mẹ. Nước tương cũng như thế. Trước tiên đưa cho cha mẹ. Sau đó tự ăn. Thần nay suy nghĩ so lường. Nhận cung cấp của Vua. Tất cả vật chất cần, không có thiếu thốn. Nuôi dưỡng cho Thần. Như thế cha mẹ của Thần ở trong rừng đó. Lại thành cô độc. Nhận khổ cay lớn. Thần nay chính vì không thấy cha mẹ. Vì thế ưu sầu không vui như thế này.

Thời Vua Phạm Đức nghe lời nói này xong. Sinh tâm đặc biệt chưa từng có. Làm nghĩ nhớ như thế. Việc này hiếm có. Không thể nghĩ bàn. Trong loài người do còn khó có Pháp này. Vì sao Voi Rồng ?

Lại như thế này vậy. Làm nghĩ nhớ đó xong. Bảo Voi Rồng đó. Như thế nói rằng : Vua Voi Rồng lớn ! Ta nay thà tự đem thân mệnh này. Nhốt vào trong lao ngục. Không đem hạnh Pháp như thế. Giữ Giới hạnh vi diệu. Hiếu dưỡng cha mẹ. Với như việc này không dám nhiễu loạn.

Khi đó Phạm Đức lại bảo với Voi Rồng. Làm lời nói như thế. Ngươi Vua Voi Rồng ! Ta nay thả ngươi về bên cha mẹ. Cùng với cha mẹ tự cùng nhau cúng dưỡng. Tùy ý nhận vui sướng. Như thế khi Vua Phạm Đức thả Voi Rồng. Tức thời đọc bài kệ nói rằng :

Ngươi Vua Voi Rồng nay thích đi. Đang hiếu thuận cúng dưỡng cha mẹ.

Ta thà tự bỏ Căn mệnh này. Với ngươi càng không cùng nhiễu loạn.

Lúc đó Phạm Đức thả Voi Rồng đó. Vua Voi Rồng đó đã được thoát khỏi rồi. Dần tới rừng đó. Mẹ của Voi Rồng đó. Khi đó chính do vì không thấy con. Buồn rầu ảo não. Kêu khóc thương rơi lệ. Hai mắt mất ánh sáng. Do vì mắt mờ. Chạy khắp Đông Tây. Từ nơi ở trước kia. Đi tới nơi ở khác. Voi Rồng khi mới trở lại tới rừng đó. Tìm kiếm mẹ của mình. Đã không biết nơi ở. Do vì không thấy. Phát ra tiếng gọi lớn.

Lúc đó voi mẹ nghe tiếng kêu đó. Tức thời biết tiếng đó đúng là con của mình. Mẹ nó khi đó cũng tức thời phát ra tiếng. Kêu gọi bi thương. Vua Voi Rồng đó nghe tiếng gọi của mẹ nó. Nó bèn tìm theo tiếng gọi đi tới nơi ở của mẹ. Vua Voi Rồng đó đã thấy mẹ của nó. Ở gần một ao nước dừng nghỉ mà ở. Ổn định mẹ của nó ở lại trên bờ.

Khi đó Voi Rồng lội vào ao nước kia. Hút nước đầy vòi. Đã vui mừng phun ra. Thân tâm dũng mãnh. Tràn khắp thân thể nó. Không thể tự hơn được. Tới bên mẹ của nó. Dùng nước tưới khắp mà tắm rửa thân. Lúc đó mẹ của nó khi được con lấy nước tắm rửa thân. Mắt trở lại Thanh tịnh. Hơn cả mắt trước kia. Mà voi mẹ đó đã thấy con của mình. Mà hỏi con nói rằng : Con ở nơi nào tới ? Hôm nay mới trở về. Làm cho Mẹ nhiều khi không được thấy Con.

Thời Voi Rồng đó hướng về mẹ nói đầy đủ. Như Vua Phạm Đức sai người bắt được. Đem về cung của Vua. Nhân duyên cúng dưỡng. Kể cả việc thả ra được thoát quay trở lại. Tất cả toàn bộ đều hướng về mẹ của mình nói. Khi đó voi mẹ nghe lời nói này xong. Vui mừng dũng mãnh. Tràn khắp thân thể của nó. Không thể tự hơn được. Kêu lên nói rằng : Con trai con trai ! Như Ta hôm nay mà được cùng Con.

Cùng nhau nuôi sống. Vui vẻ như thế. Nguyện cho Vua Phạm Đức cùng với cha mẹ của người này. Vợ con nam nữ các vị quyến thuộc. Cùng với người thân quen biết đại thần bá quan tất cả trợ giúp. Cùng nhau nuôi sống. Như Ta hôm nay nhận vui sướng này.

Khi đó Phật bảo các Tì Kheo. Làm lời nói như thế. Ngài các Tì Kheo ! Nếu có tâm nghi. Vua Voi Rồng đó. Đây là người nào vậy. Liền là thân Ta. Ngài các Tì Kheo ! Nếu có tâm nghi. Lúc đó voi mẹ. Đây là người nào vậy. Đừng làm thấy khác. Đây tức là Ma Ha Ba Xà Ba Đề Kiều Đàm Di. Đang vào thời đó. Vì Ta kêu khóc. Bi thương rơi nước mắt. Nhận lấy khổ não. Hai mắt mất ánh sáng. Do nhân Ta trở lại. Mà được Thanh tịnh. Nay cũng như thế. Ma Ha Ba Xà Ba Đề Kiều Đàm Di. Vì không thấy Ta. Bi thương kêu khóc. Buồn rầu khổ não. Hai mắt mất ánh sáng. Do nay Ta trở lại. Mà được Thanh tịnh.

Ngài các Tì Kheo ! Như Lai trước kia khi ở Trí tuệ đó. Chưa được thành Phật. Còn vì chúng sinh làm lợi ích đó. Huống chi ngày hôm nay. Đã được thành công Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Vì thế các Tì Kheo. Nếu người có Trí tuệ. Thường ở nơi ở của Phật. Sinh tâm kính trọng tâm hiếm có. Ở bên Pháp Tăng cũng phải sinh với tâm kính trọng. Các Ngài Tì Kheo cần học như thế.

 

Phần đầu thứ năm mươi bảy Phẩm Nhân duyên Xuất gia của Nan Đà

Khi đó Thế Tôn giáo hóa con trai họ Thích Nan Đà. Bỏ nhà đi Xuất gia. Luôn thường vì nói Nhân duyên Xuất gia. Cũng lại ca ngợi Nhân duyên Xuất gia. Mà làm lời nói đó. Nan Đà Ngài tới ! Đang theo Xuất gia. Làm lời nói đó xong. Con trai Thích Nan Đà báo cáo nói rằng : Thế Tôn ! Con không Xuất gia. Sở dĩ thế nào ? Con dùng bốn việc cúng dưỡng Thế Tôn và Tì Kheo Tăng. Thậm chí hết đời của mình. Cúng dưỡng quần áo đồ ngủ thức ăn thuốc uống. Như vậy Thế Tôn lần thứ hai, lần thứ ba giáo hóa Nan Đà. Ca ngợi công Đức của việc bỏ nhà đi Xuất gia. Thậm chí thường luôn nói việc của Nhân duyên Xuất gia đó. Cùng với ca ngợi khuyên người này Xuất gia. Mà Nan Đà đó không định Xuất gia. Còn nói cầu dùng quần áo đồ ngủ thức ăn thuốc uống. Hết cả cuộc đời việc Nhân duyên cúng dưỡng Phật và chúng Tăng.

Lúc đó Thế Tôn trải qua ít thời gian. Ăn cơm đã xong đem theo một người trợ giúp. Chậm bước hướng về nhà của cậu bé Nan Đà họ Thích đó. Như thế cậu bé Nan Đà họ Thích đó. Đang vào lúc đó ở trên gác cao cùng Tôn Đà Lợi. Lên lầu cao quan sát. Ngao du mà ngồi.

Khi đó Nan Đà ở trên lầu gác. Từ xa thấy Thế Tôn sắp tới nơi ở của mình. Sợ hãi nhanh đứng dậy. Xuống dưới tầng đất. Đi tới bên Phật. Đỉnh lễ chân Phật. Lui đứng một bên. Nhân đó báo cáo Phật nói rằng : Thiện tới ! Thế Tôn ! Sao từ xa tới ? Chỉ nguyện chiếu cố. Vào trong phòng lớn nhà của Con. Lên tòa cao mà ngồi.

Lúc đó Thế Tôn vào trong phòng lớn đó. Ngồi lên tòa cao xong thăm hỏi Nan Đà. Thăm hỏi đã xong im lặng mà ngồi. Khi đó Nan Đà báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Chỉ nguyện hôm nay ở đây nhận cúng dưỡng. Con sai khiến làm đầy đủ thức ăn. Phật bảo Nan Đà. Ta đã ăn rồi. Không cần bày biện. Lúc đó cậu bé Nan Đà họ Thích. Lại báo cáo Phật nói rằng : Nay có tương ngọt. Không phải thời uống phải không ? Phật bảo Nan Đà. Ta theo ý Ngài.

Khi đó Nan Đà lại báo cáo Phật nói rằng : Như thế ! Thế Tôn ! Lúc đó Nan Đà cầm lấy bát của Phật.

Đầy ắp tương không phải thời. Dâng lên Thế Tôn. Khi đó Thế Tôn chưa vì nhận lấy. Lúc đó cậu bé Nan Đà họ Thích. Tức thời cầm bát đó đưa cho người trợ giúp. Mà người trợ giúp đó lại không nhận lấy.

Khi đó Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy. Cùng với người trợ giúp đi theo nhau mà trở lại. Muốn hướng về nơi ở của mình. Cậu bé họ Thích đó cũng từ tầng đất. Giữ bát tương ngọt đó. Muốn đi theo Phật.

Lúc đó Tôn Đà Lợi cô gái họ Thích. Thấy Thích Nan Đà cầm bát đầy tương ngọt không phải thời đó.

Đi theo Thế Tôn. Tôn Đà Lợi đó chải tóc chưa xong. Liền tức thời lớn tiếng gọi Nan Đà nói rằng : Người Thánh Nan Đà ! Muốn đi đâu vậy ? Khi đó Nan Đà chỉ vào bát đó nói rằng : Muốn đem bát này dâng lên Như Lai. Tới đó tức thời trở về. Tôn Đà Lợi nói rằng : Người Thánh tới nhanh ! Đừng ở đó lâu.

Lúc đó Thế Tôn ra khỏi nhà Nan Đà. Cố vì Nan Đà đi bộ khắp nơi. Ở trong ngõ phố. Muốn làm cho tất cả nhân dân bên trong thành. Thấy Nan Đà cầm tương không phải thời đi theo với Phật. Khi đó nhân dân thấy việc này rồi. Đều cùng bảo nhau nói rằng : Hôm nay Thế Tôn. Nhất định giúp cho Nan Đà bỏ nhà đi Xuất gia.

Lúc đó Thế Tôn tới Tăng Già Lam. Gọi một Tì Kheo. Bí mật dùng ngón tay. Làm ra tướng mạo đó. Giúp lấy bát mật trong tay của Nan Đà. Thời Tì Kheo đó. Hiểu biết ý Phật. Từ bên Nan Đà tức thời lấy bát đó. Lúc đó Nan Đà đỉnh lễ chân Phật. Báo cáo nói rằng : Thế Tôn ! Con nay từ biệt Phật. Muốn trở về nhà. Phật bảo Nan Đà. Ngài đừng đi về ! Khi đó Nan Đà lại báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Con nay suy nghĩ. Không muốn Xuất gia. Sở dĩ thế nào ? Con muốn bốn việc. Hết cả cuộc đời. Vì cúng dưỡng Như Lai và chúng Tăng.

Lúc đó Thế Tôn lại bảo Nan Đà. Làm lời nói như thế. Thế giới Diêm Phù Đề này. Dài rộng ước chừng bảy nghìn Do tuần (một trăm bảy mươi lăm nghìn cây số). Phía Bắc rộng rãi. Phía Nam nhỏ hẹp. Giống như cái hòm xe. La Hán đầy bên trong. Nhiều như mía tre, lau lúa, cây đay. Nếu có người nam thiện người nữ thiện. Cúng dưỡng các A La Hán đó. Hết cả cuộc đời. Bốn việc đó không thiếu sót. Các La Hán đó sau khi nhập vào Niết Bàn. Lại thêm cúng dưỡng. Xây dựng Tháp Xá Lợi. Ở trên Tháp này. Đều làm các cờ lọng cùng với cờ linh báu. Lại dùng hương hoa cùng các đèn dầu. Đủ loại cúng dưỡng. Với Ngài ý thế nào ? Các người nam thiện nữ thiện đó. Công Đức nhiều phải không ? Nan Đà báo cáo nói rằng : Được Phúc rất nhiều. Có người hết cả cuộc đời. Bốn việc cúng dưỡng. Thậm chí hương hoa, đốt các đèn dầu. Nếu lại có người cúng dưỡng một Phật. Quả báo Công Đức hơn gấp bội so với nó.

Lại nữa Nan Đà ! Nếu người có thể nhập vào trong giáo Pháp của Phật. Thậm chí Xuất gia. Một ngày một đêm thực hành với Pháp Hạnh Phạm Thanh tịnh. Quả báo này gấp nhiều lần so với nó. Vì thế Nan Đà nhất định Xuất gia. Lại đừng tham nhận vui năm Tham muốn vậy. Lại nữa Nan Đà ! Các tham muốn vị ít. Khổ nạn có nhiều. Các tham muốn Biến đổi. Đáng chán ghét rời bỏ. Vốn là khổ lớn. Là ung nhọt lớn. Là gai ác lớn. Là ách ràng buộc lớn. Là khổ não lớn. Tổn giảm hình tướng. Là phá hỏng hình tướng. Biến đổi không dừng ở. Không thời gian tạm ngừng. Là không kiên cố. Giòn dễ tan vỡ.  Có nhiều hoảng sợ. Khổ Rỗng Không có bản thân. Ngài nay nhất định cần quan sát đúng tội nạn như thế của các tham muốn. Nan Đà ! Ngài nay cần thiện suy nghĩ tội nạn của năm Tham muốn. Đừng tham nương nhờ vậy.

Khi đó Thế Tôn tuy hướng về Nan Đà nói tội nạn này. Như thế Nan Đà này. Tâm cố chấp không muốn nguyện thích Xuất gia. Chỉ vì kính Phật. Cúi đầu gắng ngửa mặt. Báo cáo nói rằng : Thế Tôn ! Con đang Xuất gia. Lúc đó Thế Tôn lại nhân do đi lại. Dùng ngón tay làm các hình tướng. Vẫy một Tì Kheo. Tới dạy nói rằng : Ngài cần gọi một thợ cắt tóc tới. Thời Tì Kheo đó. Tức thời gọi một thợ cắt tóc trong chúng. Ở trước Nan Đà tay cầm dao cạo. Muốn vì Nan Đà cắt râu tóc đó. Khi đó Nan Đà nắm tay hướng về thợ cắt tóc đó. Làm lời nói như thế. Ngài có lực gì dám cạo đầu Ta.

Lúc đó Thế Tôn Nhớ đúng Ý đúng. Bảo Nan Đà nói rằng : Ngài tới đây Tì Kheo ! Nhập vào trong Pháp của Ta thực hành với Hạnh Phạm. Vì hết các khổ. Khi đó Như Lai làm lời nói đó xong. Râu tóc của Nan Đà tức thời tự rơi xuống. Giống như Tì Kheo cắt râu tóc của mình. Mới trải qua bảy ngày. Tự nhiên thân thể áo sắc Già Sa. Tay cầm bát chén như khí cụ của Pháp.

Mà Trưởng Lão đó liền thành Xuất gia. Nhận mười Giới thiện. Lúc đó Nan Đà đoan chính đáng vui mừng. Mọi người thích nhìn. Có ba mươi tướng mạo. Đầy đủ không thiếu. Thân thể màu vàng. Chiều cao kém hơn bốn ngón tay. Không bằng như Lai. Già Sa được làm cùng với quần áo của Phật. Bằng nhau không có khác. Làm xong nhận giữ. Hoặc các Tì Kheo từ xa thấy đi tới. Đều cho Nan Đà tức là Thế Tôn. Muốn đứng dậy đi tới nghênh đón. Và đi tới biết không phải. Mới trở lại nơi ngồi của mình. Vì Nhân duyên đó. Mà các Tì Kheo so lường không thích. Mà làm lời nói đó. Trưởng Lão Nan Đà. Vì sao cùng một loại quần áo với Phật ? Mà dùng nhận giữ. Thời các Tì Kheo liền đi tới báo cáo Phật.

Khi đó Thế Tôn vì Nhân duyên này. Thời lại tập hợp các chúng Tì Kheo. Hỏi Nan Đà nói rằng : Ngài làm các quần áo Già Sa. Cùng một loại với Phật. Mà nhận giữ phải không ? Lúc đó Nan Đà báo cáo nói rằng : Thế Tôn ! Việc này đúng như thế. Phật nói rằng : Nan Đà ! Đây là không như Pháp. Ngài nay làm sao như Phật Thế Tôn. Cùng loại nhận giữ Già Sa vậy.

Khi đó Thế Tôn trách cứ Nan Đà. Dạy như thế xong. Bảo các Tì Kheo. Từ nay về sau. Đều cùng không được dựa vào làm các quần áo cùng loại với Thế Tôn. Mà nhận giữ vậy. Nếu có người làm trái. Như Pháp trị tội.

Khi đó Nan Đà làm nghĩ nhớ như thế. Thế Tôn đã cắt bỏ. Không trở lại được phép dựa vào nhận giữ quần áo cùng loại với Thế Tôn. Nay áo được làm. Nhất định phải sửa làm phát ra sáng bóng mà nhận giữ vậy. Lúc đó Nan Đà lại tức thời làm áo phát ra sáng bóng mà mặc. Cầm giữ bình bát. Mắt bôi son phấn. Trang nghiêm thân đó. Chân đi giày da. Tay trái cầm ô. Tay phải cầm bình bát. Đi tới về nơi ở của Phật báo cáo nói rằng : Thế Tôn ! Con muốn đi vào làng xóm xin ăn.

Khi đó Phật bảo Trưởng Lão Nan Đà. Làm lời nói như thế. Ngài nay há sao không phải người nam thiện vậy. Tâm tin bỏ nhà mà Xuất gia chăng. Nan Đà trả lời nói rằng : Đúng vậy Thế Tôn ! Việc thực cũng như thế. Lúc đó Thế Tôn lại bảo Nan Đà. Làm lời nói như thế. Ngài đã là người nam thiện tâm tin. Bỏ nhà đi Xuất gia. Quần áo được giữ. Cớ sao sửa làm sinh ra sáng bóng ? Lại vì Nhân duyên gì ? Trang nghiêm thân thể. Mắt bôi son phấn. Chân đi giày da. Một tay cầm ô. Một tay cầm bình bát. Muốn xin ăn vậy. Lại nữa Nan Đà. Ngài nếu ở nơi Rừng núi vắng. Xin ăn nuôi mệnh. Mặc áo bỏ đi. Đây mới là thiện. Khi đó Thế Tôn vì Nhân duyên này. Mà đọc bài kệ nói rằng :

Khi nào đang được thấy Nan Đà. Ở nơi trống vắng thường xin ăn.

Tham ít biết đủ bỏ dư thừa. Lại thích rời xa các nhớ tham.

Khi đó Thế Tôn vì Nhân duyên này. Vì cảnh việc này. Tập hợp các Tì Kheo. Mà bảo họ nói rằng : Các vị Tì Kheo từ nay về sau. Lại không được mặc áo phát ra quang sáng bóng. Nếu có người nhận giữ áo phát ra sáng bóng. Trị tội như Pháp. Cũng lại không được bôi son mắt. Cùng với đi giày da đẹp. Cũng lại không được cầm bát đẹp nhẹ. Cũng lại không được cầm ô. Đi vào thành làng xóm xin ăn. Nếu người như thế. Đều trị tội như Pháp.

Lúc đó Nan Đà tuy bị Thế Tôn cắt bỏ áo phát ra quang sáng bóng này. Kể cả không được bôi son lên mắt. Cắt bỏ giày da đẹp. Kể cả giữ bát nhẹ. Và dùng ô dù. Do còn tưởng nhớ ham thế lực của Vua. Không khẳng định cắt đứt dựa theo. Lại nhớ cô gái họ Thích Tôn Đà Lợi đó. Nhớ tham sắc đó không thực hành Hạnh Phạm. Muốn bỏ Giới này. Về nhà của mình trước kia. Vì Nhân duyên đó. Thường vẽ hình cô gái Tôn Đà Lợi đó. Sau cùng một thời tới nơi Rừng núi vắng nhàn rỗi. Hoặc lấy gạch ngói. Hoặc lấy miếng gỗ. Vẽ hình cô gái họ Thích Tôn Đà Lợi này. Quan sát như thế. Liền qua một ngày. Mà các Tì Kheo. Họ có thấy nó. Tâm sinh ghét không thích. Mà cùng nhau nói rằng : Trưởng Lão Nan Đà. Vì sao ở nơi Rừng núi vắng. Hoặc lấy gạch ngói. Hoặc lấy miếng gỗ. Vẽ hình phụ nữ. Quan sát hết cả ngày. Thời các Tì Kheo liền đem việc này. Đi tới báo cáo Phật.

Khi đó Thế Tôn vì Nhân duyên này. Tập hợp các Tì Kheo ở bên trong Chúng. Hỏi Nan Đà nói rằng : Ngài thực ở nơi Rừng núi vắng. Hoặc lấy gạch ngói. Hoặc lấy miếng gỗ. Vẽ hình phụ nữ. Xem hết cả ngày phải không ? Nan Đà báo cáo Phật. Thế Tôn thực như thế. Lúc đó Phật bảo Trưởng Lão Nan Đà. Làm lời nói như thế. Ngài làm việc này. Thực không thiện vậy. Tì Kheo Xuất gia. Há được vẽ hình phụ nữ đó mà quan sát sao.

Khi đó Thế Tôn bảo các Tì Kheo. Làm lời nói như thế. Ngài các Tì Kheo ! Từ nay không được vẽ hình phụ nữ. Hoặc đúng hoặc sai. Vì tâm nương nhờ tham muốn. Vẽ xong quan sát. Nếu có người cố vẽ quan sát như thế. Được trái lại tội Giới. Lại với một thời. Trưởng Lão Nan Đà. Lần lượt đang trực tiếp giúp bảo vệ nơi ở trong chùa.

Lúc đó Nan Đà làm nghĩ nhớ như thế. Như Lai không lâu đang vào làng xóm xin ăn. Ta ngày hôm nay sắp được về nhà. Khi đó Thế Tôn biết Nan Đà kia làm nghĩ nhớ như thế. Biết rồi bảo nói rằng : Trưởng Lão Nan Đà ! Ngài nếu muốn đi. Khép các cửa phòng. Sau đó trở lại.

Lúc đó Thế Tôn làm lời nói đó xong. Liền tức thời đi vào làng xóm xin ăn. Trưởng Lão Nan Đà làm nghĩ nhớ đó. Thế Tôn đã vào làng xóm xin ăn. Ta nay đang được trở về bên trong nhà mình. Khi đó Nan Đà bèn thấy cửa phòng của Thế Tôn không khép. Làm lời nói như thế. Ta nay khép cửa sau đó đi về. Tức thời khép cửa đó. Thấy cửa phòng của Xá Lợi Phất lại không khép. Tức thời đi tới khép cửa phòng của Xá lợi Phất. Đã khép cửa đó. Cửa phòng của Mục Kiền Liên này lại mở. Lại tức thời khép cửa phòng của Mục Kiền Liên đó. Đã khép cửa đó. Thấy cửa phòng của Ca Diệp lớn lại mở. Lại tức thời tới khép cửa phòng của Ca Diệp lớn. Đã khép cửa đó. Lại thấy cửa phòng của Ma Ha Ca Chiên Diên. Cửa này lại mở. Lại đi tới khép cửa phòng của Ca Chiên Diên. Đã khép cửa đó. Lại thấy cửa phòng của Ưu Lâu Tần Loa Ca Diệp lại mở. Lại tức thời tới khép cửa phòng của Ưu Lâu Tần Loa Ca Diệp. Đã khép cửa đó. Cửa phòng của Na Đề Ca Diệp lại mở. Lại đi tới khép cửa phòng của Na Đề. Đã khép cửa đó. Cửa phòng của Già Da Ca Diệp lại mở. Lúc đó Nan Đà lại đi tới khép cửa phòng của Già Da đó. Đã khép cửa đó. Cửa phòng của Ưu Ba Tư Na lại mở. Khép cửa đó xong. Thấy cửa phòng của Câu Hi La lại mở. Đã khép cửa đó xong. Lại thấy cửa phòng của Ma Ha Chuyên Đà mở. Khép cửa đó xong. Thấy cửa phòng của Lợi Bà Đa lại mở. Khép cửa đó xong. Thấy cửa phòng của Ưu Ba Ly Ba Đa lại mở. Như thế lần lượt khép cửa thứ nhất xong. Cửa thứ hai mở. Khép cửa thứ ba xong. Cửa thứ tư lại mở. Nan Đà thấy cửa đó một đóng một mở. Bèn làm nghĩ nhớ đó. Các Tì Kheo đó đang bắt Ta làm qua việc gì ? Nếu mở hay khép. Ta đang ra về. Sợ Thế Tôn không lâu trở lại. Làm nghĩ nhớ đó xong. Từ bên trong rừng cây Ni Câu Đà. Khi sắp muốn ra đi.

Thế Tôn lại dùng mắt Trời. Quan sát Nan Đà đó. Đã thấy Nan Đà sắp muốn ra khỏi vùng Ni Câu Đà. Như Lai thấy rồi. Từ thành Ca Tì La Bà Tô Đô. Ẩn nấp thân đó liền tức thời tới rừng Ni Câu Đà này. Xuất hiện ở nơi đó.

Khi đó Nan Đà đã thấy Phật ở trong rừng đó đi ra. Lại tức thời dựa vào một cây Ni Câu Đà. Ẩn thân mà ngồi.

Lúc đó Thế Tôn dùng lực Thần thông. Nâng cây lớn đó đặt ở trong khoảng không. Thấy Nan Đà đó ẩn thân mà ngồi. Làm lời nói như thế. Nan Đà Ngài nay muốn đi nơi nào ? Thời Nan Đà đó trả lời nói rằng : Thế Tôn ! Con ngày hôm nay. Trở về nghĩ về việc Tự do vui sướng của ngôi vị Vua đó. Kiêm lại nghĩ về Thích Tôn Đà Lợi đó. Vì thế không thích làm với Hạnh Phạm. Ý muốn bỏ Giới trở về nhà của mình. Phật nhân do việc này. Mà đọc bài kệ nói rằng :

Muốn rời rừng rậm đã được rời. Từ rừng được ra về vào rừng.

Ngài chúng sinh lớn xem việc này. Từ buộc được thoát, về bị buộc.

Khi đó Thế Tôn vì Nan Đà đó. Đọc câu Pháp xong lại càng khuyên nói rằng : Trưởng Lão Nan Đà ! Ngài cần tâm Tinh tiến. Ở trong giáo Pháp Tự do của Ta. Vì hết các khổ. Siêng thực hành Hạnh Phạm. Thế Tôn dùng Pháp giáo hóa Nan Đà. Do vì Nan Đà còn không quên việc vui năm Tham muốn trước kia. Và ý ham thích ở ngôi vị Vua. Lại còn tưởng nhớ Thích Tôn Đà Lợi. Không thích Pháp đúng thực hành với Hạnh Phạm. Tâm muốn bỏ Giới về nhà ở của mình. Lúc đó lại có một Trưởng Giả lớn. Muốn mời Thế Tôn làm cung cấp thức ăn uống.

Khi đó Nan Đà tiếp theo đang bảo vệ Chùa. Lúc đó Nan Đà lại làm nghĩ nhớ đó. Thế Tôn hôm nay khi sắp đi vào làng xóm, nhận lời mời ăn cơm của Trưởng Giả đó. Ta cần về nhà.

Lúc đó Thế Tôn dự tính biết Nan Đà làm tưởng nhớ này. Biết rồi liền tức thời bảo Nan Đà nói rằng :

Nan Đà Ngài hôm nay nhất định cần biết thời quét rửa đất Chùa. Tất cả chậu đựng nước tắm đều lấy cho đầy nước. Làm lời nói đó xong tức thời đi tới làng xóm. Đi tới nơi được mời đó.

Trưởng Lão Nan Đà ở thời gian đó. Tức thời làm nghĩ nhớ như thế. Thế Tôn hôm nay đã tới chỗ mời của người khác. Đi tới làng xóm. Ta nay có thể được tự đi về nhà. Làm nghĩ nhớ đó xong. Ngắm thấy phòng ở của Như Lai. Có nhiều bụi đất. Thấy rồi làm nghĩ nhớ. Ta nay trước tiên tới quét bụi bẩn đó. Sau đó về nhà. Làm nghĩ nhớ đó xong. Tay cầm chổi quét đi tới quét phòng đó. Quét gọn chúng vào một bên. Gió tới thổi trở lại. Bụi cỏ đầy trên đất. Lại phải quét lại. Khi đó Nan Đà lại làm nghĩ nhớ đó. Quét đất tạm dừng. Ta nay trước tiên cần lấy các chậu đựng nước tắm của tất cả chúng Tăng. Trước tiên chứa đầy nước. Sau đó về nhà. Làm nghĩ nhớ đó rồi. Lấy chậu đựng nước tắm đó. Đem tới nơi có nước. Đều chứa đầy nước. Đồ đựng đó được tràn đầy. Tràn đầy rồi đem trở lại.

Lúc đó Nan Đà làm nghĩ nhớ như thế. Ta nay cớ sao quét đất đầy nước. Như Lai hôm nay không lâu trở về. Ta nay cũng có thể nhanh tới nhà của mình. Làm nghĩ nhớ đó xong. Tức thời lại từ rừng Ni Câu Đà đó. Muốn đi về nhà.

Khi đó Thế Tôn ở nhà của Trưởng Giả được mời đó. Dùng mắt Trời Thanh tịnh vượt hơn mắt người. Thấy Nan Đà đó đã từ nơi bên kia rừng Ni Câu Đà đó. Muốn đi ra hướng về nhà. Đã thấy như thế rồi. Tức thời hóa ra thân khác. Ẩn nấp không hiện. Lại một giây phút nghĩ nhớ. Tới bên trong rừng cây Ni Câu Đà. Hiện ra ở trước Trưởng Lão Nan Đà đó.

Lúc đó Nan Đà đã từ xa thấy Thế Tôn muốn đi tới. Tức thời lên một bờ đất rất cao lớn. Từ bờ đó đi xuống tới nơi che lấp. Tựa thân mà ngồi.

Khi đó Thế Tôn dùng lực Thần thông. Làm cho bờ đất cao đó. Đất bằng như lòng bàn tay. Lúc đó Thế Tôn thấy nơi ngồi kia thời bảo nói rằng : Nan Đà ! Ngài nay ở nơi này muốn làm việc gì ?

Khi đó Nan Đà mà lại báo cáo Phật nói rằng : Phật Thế Tôn ! Con đã hứa nói cùng với Tôn Đà Lợi làm kỳ hẹn về nhà. Nay làm nghĩ nhớ đó. Đừng làm cho Con thành lời nói dối này. Vì thế Con nay muốn đi về nơi đó.

Lúc đó Phật bảo Trưởng Lão Nan Đà. Ngài nay vì sao phải gặp Tôn Đà Lợi. Thân đó gân cốt bên trong da như thế. Bên trong có tủy não máu mủ, phân nước tiểu, đều cùng tràn đầy. Bẩn đáng chán ghét nhất. Giống như nhà xí. Như thế Nan Đà. Ta nay nói sơ qua. Mỗi một chúng sinh hòa đồng cùng với phụ nữ. Được sinh ra không sạch. Với biển lớn nhiều cũng không biết đủ.

Khi đó Thế Tôn vì Nhân duyên này. Mà đọc bài kệ đó.

Muốn rời rừng rậm đã được rời. Từ rừng được ra, về vào rừng.

Ngài Chúng sinh lớn xem việc này. Từ buộc được thoát, về bị buộc.

Lúc đó Thế Tôn giáo hóa Nan Đà. Đọc giáo Pháp nói rằng : Nay Ngài Nan Đà. Ở trong giáo Pháp Tự do được Ta nói. Vui chơi thực hành với Hạnh Phạm Thanh tịnh. Do vì muốn diệt mất tất cả các khổ.

Khi đó Nan Đà tuy được Thế Tôn làm ra các Phương tiện giáo hóa như thế. Do cố tình không thích thực hành với Hạnh Phạm. Lại cùng với sáu nhóm các Tì Kheo đó. Dùng làm băng đảng. Thường tới bên họ. Nói năng bàn luận. Từ sáng đến tối. Chỉ bàn về mệnh sai trái các việc ác đó.

Lúc đó Thế Tôn quan sát biết Hạnh của người này. Làm nghĩ nhớ như thế. Nan Đà này nay đã học sáu nhóm Tì Kheo đó. Lo sợ tổn hại Hạnh Nghiệp công Đức của người này. Ta cần cắt bỏ người này cùng với những người đó dùng làm băng đảng. Làm nghĩ nhớ đó xong. Liền tức thời  bảo Trưởng Lão Nan Đà đó. Làm lời nói như thế. Nan Đà Ngài tới đây ! Ta muốn cùng Ngài vào thành Ca Tì La Bà Tô Đô. Nan Đà báo cáo nói rằng : Vâng như Thế Tôn dạy.

Khi đó Thế Tôn cùng với Nan Đà kia. Vào thành Ca Tì La Bà Tô Đô. Vào thành rồi dần đi tới một cửa hàng bán cá. Lúc đó Thế Tôn thấy bên trong cửa hàng kia. Có một trăm đầu cá chết thối rữa trên đống cỏ tranh. Xếp đặt trên cỏ đó. Thấy rồi bảo với Trưởng Lão Nan Đà đó. Làm lời nói như thế. Nan Đà Ngài tới đây ! Lấy cá này đặt lên một nắm cỏ tranh. Nan Đà này mà còn báo cáo Phật nói rằng : Như Thế Tôn dạy. Làm lời nói đó xong. Tức thời ở cửa hàng đó. Còn cá đặt xuống nệm. Lấy ra một nắm cỏ tranh hôi bẩn. Đã cầm lấy rồi. Phật lại bảo rằng : Trưởng Lão Nan Đà nắm giữ lại một chút thời gian. Lại vứt xuống đất. Nan Đà báo cáo Phật nói rằng : Như Thế Tôn dạy. Tức thời còn lại nắm cỏ. Lúc đó Nan Đà nắm giữ cỏ kia. Trải qua một chút thời gian liền quăng xuống đất. Khi đó Phật lại bảo Nan Đà nói rằng : Ngài tự ngửi tay. Lúc đó Nan Đà tức thời ngửi tay của mình. Khi đó Phật lại hỏi Nan Đà nói rằng : Tay Ngài mùi thế nào ? Trưởng Lão Nan Đà trả lời nói rằng : Thế Tôn ! Chỉ có mùi hôi tanh không sạch vậy.

Kinh Tập hợp Việc làm Trước kia của Phật, quyển thứ năm mươi sáu.